Biển Đông: Tàu Trung Quốc xâm phạm các lô dầu khí của Việt Nam ở Bãi Tư Chính
Trung Quốc điều tàu hải cảnh lớn nhất vào bãi Tư Chính của Việt Nam
Tàu hải cảnh Trung Quốc ‘tuần tra’ trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Biển Đông sẽ còn nóng hơn trong năm 2024: Việt Nam cần một chiến lược dài hạn
Mục đích các tàu khảo sát của Trung Quốc: vẽ chữ “Trung” trên vùng biển Việt Nam
Trung Quốc có thể “chiếm hữu theo thời hiệu” đối với Hoàng Sa và một phần Trường Sa không?
Việt Nam sinh tồn ra sao khi Trung Quốc muốn khóa đường ra biển?
Sao những sự kiện liên quan Trung Quốc bị loại khỏi chương trình kỷ niệm?
Cùng bị Trung Quốc cưỡng bách trên Biển Đông, Philippines công khai thông tin, Việt Nam kín tiếng
Nhạc sĩ Tuấn Khanh: Thay vì “Đào, phở và piano” hãy làm phim về Gạc Ma 1988!
19-02-2024
Ngày 18/2/2024, tàu Hải cảnh Trung Quốc 5402 tuần tra xâm nhập các mỏ dầu khí của Việt Nam gần Bãi Tư Chính. Tàu Kiểm ngư 261 đi theo giám sát tàu Hải cảnh Trung Quốc. Raymond Powell / SeaLight Project
Trung Quốc hôm 18 tháng 2 đã điều tàu hải cảnh đi vào khu vực các lô dầu khí của Việt Nam ở vùng biển Bãi Tư Chính, theo ghi nhận của SeaLight Project, một tổ chức chuyên theo dõi tình hình Biển Đông có trụ sở ở Hoa Kỳ.
Động thái này diễn ra chỉ một tháng sau khi lực lượng hải cảnh của Trung Quốc điều tàu lớn nhất của họ, với lượng giãn nước 12.000 tấn, tiến vào cùng biển xung quanh bãi đá ngầm này.
Dài 63km và rộng 11km, Bãi Tư Chính cách bờ biển tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu 160 hải lý, tức là nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Những động thái gần đây của Trung Quốc biến khu vực này trở thành tâm điểm của sự đối đầu giữa nước này với Việt Nam trên khu vực Biển Đông.
Việt Nam là nước duy nhất có sự hiện diện ở khu vực bãi ngầm Tư Chính thông qua hệ thống năm nhà giàn, được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1989 đến năm 1995, trong số đó, ba nhà giàn vẫn được vận hành ở thời điểm hiện tại.
Ngoài xây nhà giàn để khẳng định chủ quyền, Việt Nam cũng bắt đầu các hoạt động thăm dò dầu khí ở đây từ khá sớm, với việc dầu mỏ được tìm thấy lần đầu tiên ở Bãi Tư Chính vào năm 1994.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã liên tiếp tìm cách cản trở các hoạt động khai thắc và thăm dò dầu khí của Việt Nam ở khu vực này. Khiến cho quốc gia Đông Nam Á phải huỷ các hợp đồng thăm dò với các công ty nước ngoài, và chịu thiệt hại về tài chính.
Đơn cử như trong năm 2020, Việt Nam đã phải huỷ các hợp đồng thăm dò với hai công ty nước ngoài là Repsol và Noble, dẫn đến việc hai công ty này đệ đơn kiện đòi bồi thường.
Mục đích của Trung Quốc, theo các chuyên gia nghiên cứu tình hình Biển Đông, là ngăn không cho Việt Nam mở rộng phạm vi thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực Bãi Tư Chính, và cho đến nay, chiến lược này tỏ ra khá hiệu quả.
Trao đổi với đài Á châu Tự do, ông Ray Powell, Giám đốc Trung tâm SeaLight Gordian Knot for National Security Innovation, của trường Đại học Stanford, cho biết nhận định:
“Tôi cho rằng Trung Quốc đã khá thành công, một phần là vì họ đã thành công trong việc ngăn cản các công ty thương mại hợp tác với phía Việt Nam, đơn cử như trường hợp của công ty Repsol của Tây Ban Nha một vài năm trước.
Bằng việc khiến cho các hoạt động thăm dò mới trở nên quá tốn kém và rủi ro, Trung Quốc đã thành công ngăn chặn Việt Nam mở rộng hoạt động.”
Từ trước đến nay, Việt Nam vẫn phụ thuộc vào các công ty nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, điển hình là các công ty của Nga. Liên doanh dầu khí Việt - Nga Vietsovpetro cũng là công ty duy nhất đang thực hiện khai thác ở Bãi Tư Chính.
Với việc quan hệ Nga - Trung Quốc trở nên khăng khít hơn kể từ khi Nga xâm lược Ukraine và hứng chịu các đòn cấm vận từ Phương tây, thì có lo ngại cho rằng Trung Quốc sẽ thuyết phục Nga từ bỏ hợp tác với Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn của đài RFA, giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia nghiên cứu quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, cho biết đến cả Nga cũng sẽ khó có thể giúp Việt Nam:
“Trước khi Nga xâm lược Ukraine, tập đoàn dầu khí Gasprom là cổ đông lớn nhất của mỏ Natuna, thuộc Indonesia. Họ muốn xây đường ống kết nối Natuna với Bãi Tư Chính, rồi dẫn lên bờ ở Việt Nam để phát triển. Nhưng dự án đó đã bị huỷ bỏ.
Nếu tiến hành thì dự án đó sẽ khiến Trung Quốc phản ứng, còn Nga thì quá yếu để kháng cự.
Tôi cho rằng Nga sẽ phải nằm im thở khẽ để tránh khiêu khích Trung Quốc, bởi vì họ cần sự ủng hộ của Trung Quốc trong cuộc chiến với Ukraine.
Và đây sẽ là một dạng bình thường mới.”
Bằng việc ép các công ty nước ngoài từ bỏ hợp tác với Việt Nam, Trung Quốc hy vọng sẽ buộc Việt Nam phải hợp tác với chính Trung Quốc nếu muốn tiếp tục thăm dò và khai thác dầu khí ở Bãi Tư Chính, và các khu vực khác trên Biển Đông.
Và điều đó có nghĩa là công nhận các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với khu vực này.
Hẳn nhiên, đây là viễn cảnh rất khó chấp nhận đối với Việt Nam, tuy nhiên, cái giá của việc từ chối hợp tác với Trung Quốc, cũng không phải nhỏ. Theo ông Ray Powell:
“Chúng ta có thể nhìn vào trường hợp của Philippines, nước này gần đây không phát triển được bất cứ mỏ khí đốt mới nào ở khu vực Biển Đông, trong bối cảnh các mỏ hiện tại đang dần cạn trữ lượng thì Philippines sẽ phải đối diện với tình trạng an ninh năng lượng bị đe doạ. Do vậy nước này đang ở trong thế khó trong việc ứng xử với Trung Quốc, mà đối với Trung Quốc thì họ chỉ chấp nhận phương án phát triển chung.”
Còn giáo sư Carlyle Thayer thì cho rằng ‘chi phí cơ hội’ là thứ mà Việt Nam đang phải gánh chịu trước chiến lược của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính:
“Trong kinh tế tồn tại khái niệm chi phí cơ hội, Việt Nam đang không thể khai thác tài nguyên mà họ cần, trong trường hợp này là nguồn cung năng lượng, và khí đốt là một trong số đó, mà nguyên nhân chính là sức ép từ Trung Quốc.”
2024.02.22
Tàu hải cảnh lớn nhất thế giới của Trung Quốc mang số hiệu CCG 5901. The South China Sea Chronicle Initiative
Tàu hải cảnh lớn nhất thế giới của Trung Quốc mang số hiệu CCG 5901 nặng 12.000 tấn vừa quay trở lại bãi Tư Chính nơi Việt Nam có các giàn khoan dầu khí.
Tàu này đã bật tín hiệu theo dõi tàu biển tự động AIS vào hôm 20/2 vừa qua gần bãi Tư Chính nơi Trung Quốc liên tục điều các tàu hải cảnh vào quấy nhiễu hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam thời gian qua.
Theo dữ liệu từ Marine Traffic có sử dụng tín hiệu AIS, một tàu kiểm ngư của Việt Nam là Kiem Ngu 261 đã theo đuôi tàu hải cảnh của Trung Quốc ở khu vực này, ông Raymond Powell - Giám đốc dự án SeaLight của Mỹ cho biết.
Tàu CCG 5901 trước đó rời cảng Tam Á ở đảo Hải Nam vào ngày 14/2/2024.
Đường đi của tàu hải cảnh Trung Quốc CCG 5901 (Zhong Guo Hai Jing 3901) tại bải Tư Chính ngày 21/2/2024. Hình: Marine Traffic
Trước đó, tàu này đã đi tuần trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong gần một tháng trời từ hồi cuối năm 2023 và sau đó một tàu hải cảnh khác là CCG 5402 đã thay thế tàu này hôm 10/1.
Hải cảnh CCG 5402 cũng đi tuần trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia và Malaysia trong vòng sáu tuần qua, theo ông Raymond Powell.
“Những cuộc tuần tra như thế này là một phần quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc nhằm củng cố đòi hỏi chủ quyền trên biển của mình nơi đang có các tranh chấp” - chuyên gia phân tích Gaute Friis thuộc dự án SeaLight thuộc Đại học Stanford cho biết.
“Bằng cách này, Trung Quốc nhắm tới việc thiết lập một sự hiện diện thường xuyên của mình và dần tiến tới bình thường hoá các hoạt động trên biển ở các khu vực này” - chuyên gia của SeaLight viết.
Tàu hải cảnh khổng lồ của Trung Quốc có trang bị súng hạng nặng và một nơi đáp máy bay trực thăng và một nhà chứa máy bay đủ lớn để chứa máy bay cánh quay cỡ lớn hơn.
23/02/2024
Ảnh tư liệu về tàu hải cảnh Trung Quốc và bản đồ khu vực Bãi Tư Chính trên Biển Đông. (Ảnh chụp màn hình Thanh Niên)
Tàu hải cảnh Trung Quốc số hiệu 5901 tái thâm nhập vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam hôm 21/2 để “tuần tra” gần Bãi Tư Chính, hai trang tin tiếng Anh Atlas News và BNN mới đưa tin.
Theo Atlas News và BNN, con tàu khổng lồ thuộc lớp Triệu Đà - có lượng choán nước gần 11.000 tấn và là tàu hải cảnh lớn nhất thế giới - đã đi tuần quanh các lô dầu khí gần Bãi Tư Chính. Bãi này cách thành phố Vũng Tàu của Việt Nam hơn 400 km về phía đông nam và có các giàn khoan dầu khí của Việt Nam.
Một tàu kiểm ngư của Việt Nam, số hiệu 261, bám theo tàu hải cảnh của Trung Quốc, tin cho hay. Tàu của Trung Quốc đã đi trong khu vực vài giờ rồi rời khỏi nơi đó, vẫn theo Atlas News và BNN.
Cách đây chưa lâu, chính con tàu này của Trung Quốc đã hoạt động trong cùng khu vực thuộc vùng EEZ của Việt Nam từ đầu tháng 12/2023 đến đầu tháng 1/2024, sau đó quay về cảng ở Hải Nam.
Một tàu hải cảnh khác, số hiệu 5402, đã thay thế tàu 5901 thực hiện các cuộc “tuần tra” trong các vùng EEZ của cả Việt Nam lẫn của Indonesia và Malaysia cho đến đầu tháng 2/2024, tin của Atlas News cho biết thêm.
Tàu 5901 trang bị 1 pháo lớn 76 ly, 2 pháo 30 ly và 2 súng máy phòng không hạng nặng. Nó có tầm hoạt động trong khoảng giữa 10.000 và 15.000 hải lý (18.500 và 27.700 km), với tốc độ tối đa lên đến 25 hải lý/h (46 km/h). Tàu cũng có bãi đáp trực thăng.
BNN dẫn phân tích của Dự án SeaLight thuộc Đại học Stanford ở Mỹ nhận xét rằng việc Trung Quốc tiến hành các cuộc tuần tra có tính xâm phạm vào các vùng EEZ không chỉ của Việt Nam mà của cả Indonesia lẫn Malaysia là động thái có tính toán để thể hiện yêu sách của Bắc Kinh về lãnh hải, cho thấy họ sẵn sàng bảo vệ ranh giới mà họ đặt ra hoặc thậm chí là mở rộng thêm nữa.
Việc Trung Quốc tung ra những con tàu lớn, có giá trị cao ở Bãi Tư Chính và những vùng biển mà một số nước khác cũng tuyên bố chủ quyền, theo phân tích của đại học Mỹ được BNN dẫn lại, là một nỗ lực của Bắc Kinh nhằm xác định quyền kiểm soát trên thực tế đối với các tuyến hàng hải chiến lược bằng cách “bình thường hóa” sự hiện diện liên tục của Trung Quốc.
Dự án SeaLight thuộc Đại học Stanford cho rằng việc tàu kiểm ngư của Việt Nam bám theo tàu hải cảnh Trung Quốc thể hiện tư thế đối phó của các nước nhỏ hơn, ở vào thế khó phải cân bằng giữa một bên là chủ quyền còn bên kia là ngoại giao.
Trang BNN đưa ra quan sát rằng việc tàu 5901 của Trung Quốc quay lại “tuần tra” ở Bãi Tư Chính là lời nhắc nhở rằng các tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc nói riêng và các tranh chấp trên bình diện rộng hơn lâu nay vẫn phủ bóng đen lên khu vực.
Không những thế, các tranh chấp đó thu hút cả các cường quốc bên ngoài và làm phức tạp thêm nỗ lực mang lại ổn định và an ninh ở nơi này, vẫn theo BNN. Trang này viết thêm rằng Mỹ và một số nước đã chống đối các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời giúp đỡ các đối tác ở Đông Nam Á củng cố các năng lực an ninh hàng hải của họ.
2024.02.23
Không ảnh đảo Song Tử Tây chụp ngày 21/4/2017, một trong 21 thực thể Việt Nam đang kiểm soát ở Trường Sa. (Ảnh minh họa). Reuters
RFA: Năm 2023 là năm cả Philippines và Việt Nam đều chịu áp lực căng thẳng trên Biển Đông từ phía Trung Quốc. Tuy nhiên, Philippines bị áp lực lớn hơn và công bố trên truyền thông rộng rãi hơn. Việt Nam gánh áp lực nhẹ hơn và không phổ biến rộng rãi các hành vi của Trung Quốc. Tuy nhiên, sang đầu năm 2024, Việt Nam lại chịu áp lực nhiều hơn từ Trung Quốc. Việt Nam vẫn chọn cách giảm nhẹ tiếng nói trên truyền thông. Vậy với những diễn biến xung quanh khu vực như kết quả bầu cử Đài Loan, Philippines muốn giành lại bãi cạn Scacobough, xây đảo trên bãi Cỏ Mây, liệu Biển Đông năm 2024 sẽ ra sao? RFA phỏng vấn nhà nghiên cứu Hoàng Việt về vấn đề này.
RFA. Dư luận trong nước có ý kiến nói Việt Nam quản lý xung đột với Trung Quốc trên Biển Đông tốt hơn Philippines. Ông đánh giá như thế nào về vấn đề này?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt
Đối với câu hỏi Việt Nam và Philippines ai quản lý xung đột với Trung Quốc tốt hơn thì cho đến nay thì chưa thể nói được. Vâng nếu mà chỉ tính trong năm 2023 thì chưa thể nói được về quản lý xung đột. Xét lâu dài hơn thì rõ ràng Philippines đã bộc lộ một số thiếu sót. Đối với bãi cạn Scaborough, trong khi Philippines đang kiểm soát ở trên thực tế thì năm 2012, Trung Quốc đã thay thế Philippines giành được quyền kiểm soát này thì đó là một thất bại của Philippines. Điều này không thể chối cãi được. Thứ hai là với con tàu trên bãi Cỏ Mây thì Philippines đã cắm nó trên đó từ năm 1999 mà không tìm cách để xây dựng một chỗ đứng bền vững thì đó cũng là một cái thất bại. Để đến bây giờ, Philippines muốn làm thì khó khăn hơn nhiều so với nếu nước này làm từ khoảng 20 năm trước. Tóm lại nếu xét lâu dài thì rõ ràng Philippines có nhiều hạn chế.
Nếu chỉ đánh giá trong năm 2023 thì nó chưa đầy đủ, chưa thể nói được là Việt Nam hay là Philippines đã giành được ưu thế hơn. Vì sao? Vì chúng ta sẽ thấy rằng là Philippines và Việt Nam mỗi quốc gia có một cái phương cách khác nhau.
Philippines thì sẽ dựa vào đồng minh của mình và Hoa Kỳ. Còn với Việt Nam thì khác. Thứ nhất là Việt Nam không phải là đồng minh của Hoa Kỳ. Và Việt Nam cũng không phải là đồng minh quân sự của Hoa Kỳ. Việt Nam có chính sách bốn không trong quốc phòng cho nên Việt Nam không thể liên minh được với Hoa Kỳ. Và vì thế Việt Nam cũng không trông cậy được vào đồng minh Hoa Kỳ. Và Việt Nam chọn cái cách là balance, tức là cấn bằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Năm 2023 chúng ta còn nhớ là tháng 9 thì tổng thống Biden đã sang Việt Nam và hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện. Nhưng mà tháng 12 thì Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng sang thăm Việt Nam và hai bên cũng nâng cấp mức độ quan hệ cao hơn. Đấy là cách của Việt Nam làm là cân bằng giữa hai cường quốc Trung Quốc và Mỹ.
Philippines trong nhiệm kỳ của tổng thống Marcus đang chọn cách dựa vào đồng minh Hoa Kỳ nhiều hơn. Nhưng cho đến nay thì cũng chưa nói được là Việt Nam và Philippines, rồi đây bên nào sẽ sẽ có ưu thế hơn.
Chúng ta phải đợi tiếp xem là liệu Philippines có rất là dành lại được quyền kiểm soát trên bãi cạn Scaborough hay không, có xây dựng được đảo trên bãi Cỏ Mây hay không. Nếu làm được thì Philippines thành công.
Rõ ràng là Việt Nam sử dụng chính sách âm thầm hành động đúng thời điểm, ví dụ như xây dựng đảo và tăng cường lực lượng ở Trường Sa, rồi dùng chính sách cân bằng thì khiến cho Trung Quốc cũng không có những thay đổi quá căng thẳng với Việt Nam. Mặc dù không phải là Việt Nam không có căng thẳng. Ví dụ như năm 2023, khi Trung Quốc tăng cường sức ép với Việt Nam, trong suốt một thời gian đầu, báo chí Việt Nam không hề nói tới. Nhưng nếu một lúc mà phía Việt Nam chịu không nổi thì Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao đã phải nâng tiếng yêu cầu là tàu thăm dò của Trung Quốc phải rời khỏi cái vùng đặc quyền kinh tế của mình. Đến tháng 6, sau 28 ngày thì cái tàu này của Trung Quốc mới rời khỏi khu vực.
Nói chung, chưa thể nói được là quốc gia nào sẽ thành công hơn quốc gia nào. Chúng ta phải chờ đợi, phải xem các bên có đạt được mục đích của mình hay không. Bên nào đạt được mục đích thì bên đó thành công. Mà có sự thành công thì mới so sánh được bên nào đúng.
RFA. Có ý kiến cho rằng việc ông Lại Thanh Đức, một người có xu hướng độc lập với Trung Quốc, đắc cử tổng thống Đài Loan có thể khiến tình hình eo biển Đài Loan căng thẳng hơn trong năm 2024. Theo ông, nếu eo biển Đài Loan căng thẳng hơn thì Biển Đông sẽ dịu bớt hay căng thẳng hơn? Tại sao Trung Quốc lại tăng cường áp lực lên Philippines năm 2023 trên Biển Đông? Hai điểm nóng này có gì khác nhau không?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt
Theo tôi thì trong năm 2024 cả eo biển Đài Loan và Biển Đông đều căng thẳng. Rõ ràng việc ông Lại Thanh Đức, vốn là phó tổng thống của bà Thái Văn Anh lên làm tổng thống thì đó là điều Trung Quốc không mong muốn. Các chuyên gia đều dự báo tình hình eo biển Đài Loan sẽ tiếp tục căng thẳng.
Câu chuyện căng thẳng trên eo biển Đài Loan thì nó có liên quan gì đến Biển Đông hay không thì chúng ta biết là cả Đài Loan và Biển Đông đều là nằm trong khu vực cạnh tranh quyết liệt của hai cường quốc, Mỹ và Trung Quốc. Nếu không có Mỹ thì Đài Loan khó tồn tại trước sức đe dọa của Trung Quốc. Đối với câu chuyện của Biển Đông thì đặc biệt là căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc sẽ tiếp tục trong năm 2024 khi mà Philippines tìm cách giành lại quyền kiểm soát đối với bãi cạn Scaborough và xây đảo trên bãi Cỏ Mây. Philippines dựa vào đồng minh Hoa Kỳ cho nên là đây cũng là một chiến trường cho cuộc cạnh tranh giữa hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc. Vì thế, trong năm 2024, cả khu vực Biển Đông và Đài Loan sẽ tiếp tục căng thẳng.
Còn trong năm 2023, quan hệ Philippines và Trung Quốc trở nên rất căng thẳng trên biển Đông và cho đến nay vẫn chưa chấm dứt, đặc biệt là khu vực bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough. Đó là hai địa điểm căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc.
Nguyên do thứ nhất là Philippines đã đặt một con tàu cũ trên bãi Cỏ Mây từ năm 1999. Con tàu này càng ngày càng cũ đi, có khả năng sụp đổ bất cứ lúc nào. Vì vậy, Philippines một mặt vừa muốn tiếp tế cho những binh sĩ ở trên con tàu đó và mặt khác muốn gia cố lại nó. Thậm chí Philippines tuyên bố là sẽ tìm cách xây đảo ở trên bãi Cỏ May này. Điều này thì chắc chắn là Trung Quốc sẽ không muốn.
Năm 2012, Trung Quốc đã giành quyền kiểm soát trên thực tế bãi cạn Scaborough từ tay của Philippines. Còn bãi Cỏ Mây là một thực thể lúc nổi lúc chìm. Cho nên là phía Philippines năm 1999 đã cho một tàu cũ đậu ở đó, tên là BRP Sierra Madre. Con tàu này trên đó có một số binh sĩ của Philippines đồn trú.
Con tàu càng ngày càng xuống cấp và nó có thể bị sụp được bất cứ lúc nào cho nên Philippines một mặt là muốn cung cấp những nguồn thực phẩm và nước uống cho các binh sĩ đồn trú, giữ quyền kiểm soát ở trên khu vực này. Trung Quốc cũng biết được điều đó cho nên họ ngăn cản cung cấp hậu cần cho các binh sĩ.
Trung Quốc muốn để cho con tàu này sụp đổ để họ kiểm soát bãi Cỏ Mây như năm 2012 với bãi Scaborough. Đó là nguyên do thứ nhất khiến cho hai bên Philippines và Trung Quốc căng thẳng.
Nguyên do thứ hai là sau khi Tổng thống Philippines Duterte đã xoay trục sang Trung Quốc, hướng về Trung Quốc nhưng mà không thành công, Tổng thống Marcus cũng vậy. Chúng ta nhớ là năm 2023 Philippines trao thêm cho Hoa Kỳ quyền kiểm soát 4 căn cứ quân sự, tổng cộng là 9 cái. Một số nguồn tin Trung Quốc cho rằng có tới 10 quân sự tại Philippines cho quân đội Mỹ có thể sử dụng. Điều này khiến cho Trung Quốc cảm thấy bất bình và họ đã phải tìm cách để phải trừng phạt Philippines.
Thậm chí Philippines gần đây còn chơi mạnh tay hơn, tuyên bố là muốn xây dựng đảo trên bãi Cỏ Mây. Philippines muốn là dựa vào sức mạnh của Mỹ để giành lại bãi cạn Scaborough.
Thế cho nên là đấy là 3 cái lý do lớn để khiến cho Philippines và Trung Quốc đã căng thẳng trên Biển Đông suốt thời gian vừa qua.
RFA. Philippines đang muốn cùng Việt Nam và một số nước khác xây dựng bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông riêng mà không cần có Trung Quốc. Điều này có khiến cho Biển Đông căng thẳng hơn hay dịu lại trong năm 2024? Liệu ý tưởng của Philippines có thành hiện thực?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt
Theo tôi thì cái mục tiêu này nó chưa khả thi đâu. Thứ nhất là phía Philippines là quốc gia rất mạnh mẽ trong việc đưa ra sáng kiến. Từ những năm 1990, đặc biệt sau năm 1995, khi mà Trung Quốc đã giành quyền kiểm soát bãi Vành Khăn từ tay Quân đội Philippines, thì nước này đã luôn đưa ra ý tưởng là sẽ có một Quy tắc ứng xử trên Biển Đông.
Sau này thì phía Philippines cũng là bên rất năng nổ trong việc đưa ra những sáng kiến và ý tưởng mới. Nhưng Philippines có vấn đề là quốc gia đa đảng. Tổng thống mới có thể xoay chiều 180 độ so với tổng thống trước. Nếu như cựu Tổng thống Benigno “Noynoy” Aquino là người đã khởi kiện Trung Quốc năm 2016 thì ông Duterte sau đó đảo ngược chính sách. Sau đó ông Marcus lên tổng thống, ban đầu định vẫn tiếp tục chính sách xoay trục sang Trung Quốc nhưng thấy không ổn nên lại xoay trục sang Mỹ. Nhiều quốc gia Đông Nam Á đều thấy sự thiếu ổn định, thiếu nhất quán trong chính sách của Philippines. Hơn nữa Philippines lại làm quá ồn ào. Nếu cứ tuyên bố công khai như vậy thì Trung Quốc sẽ tìm cách phá. Và họ đã phá rồi. Các bài báo trên Hoàn cầu Thời báo đã đe dọa Việt Nam và Philippines. Ngoài ra Trung Quốc cũng sẽ sử dụng những cái biện pháp như áp lực về kinh tế đối với Việt Nam và Philippines cũng như là với các quốc gia khác như Malaysia để ngăn chặn các quốc gia này có thể sẽ tạo thành mặt trận đoàn kết để có một bộ quy tắc ứng xử mới.
Thứ hai nữa là nhìn từ kinh nghiệm quá khứ, ta thấy 10 quốc gia Đông Nam Á đã từng thông qua một dự thảo về Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông do Indonesia khởi thảo. Khi đó cả 10 quốc gia đã đồng ý rồi, nhưng khi mời Trung Quốc tham gia, thì Trung Quốc đã từ chối cho nên phải bàn thảo lại, tức bắt đầu lại từ đầu.
Từ những kinh nghiệm đó, tôi cho rằng ý tưởng đó không khả thi.
RFA. Mới đây, báo chí trong nước đưa tin Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn đề nghị Trung Quốc tôn trọng lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển Đông, nhân dịp hai nước họp “Ủy ban Chỉ đạo song phương về quan hệ Việt Trung”. Báo chí Việt Nam chỉ tường thuật yêu cầu của phía Việt Nam đối với Trung Quốc mà không cho biết Trung Quốc phản hồi ra sao. Ông nhìn nhận ra sao về vấn đề này?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt
Cái bạn vừa nói chính là câu trả lời. Anh cho biết là báo chí Việt Nam tường thuật là Việt Nam yêu cầu tôn trọng chủ quyền của mình nhưng không thấy câu trả lời từ phía Trung Quốc.
Theo tôi biết nhiều lần Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền thì ngược lại Trung Quốc cũng yêu cầu Việt Nam tôn trọng chủ quyền của họ. Họ nhiều lần nói chủ quyền của họ đối với Biển Đông là bất khả tranh nghị.
Điều đó cho thấy là phía Việt Nam đương nhiên vẫn phải đưa ra quan điểm của mình một cách rõ ràng là Trung Quốc phải tôn trọng chủ quyền của Việt Nam. Nhưng Trung Quốc có chấp nhận điều đó hay không là việc khác. Bởi vì nếu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam thì tình hình Biển Đông đã không căng thẳng như cả mười mấy năm qua.
Kể những lần trước đó thì mỗi lần giới chức cao cấp của Việt Nam gặp Trung Quốc thì luôn yêu cầu điều nhưng Trung Quốc có bao giờ làm đâu.
Với chính sách ngoại giao chiến lang của Trung Quốc thì họ không bao giờ im tiếng trong chuyện đó. Với câu anh nhắc tới thì tôi có thể suy luận là khi phía Việt Nam đề nghị thì phía Trung Quốc không chấp thuận. Cho nên báo chí Việt Nam mới không thông tin là Trung Quốc chấp thuận hay không.
Theo tôi thì Trung Quốc sẽ không chấp thuận vì tham vọng của họ với biển Đông là rõ ràng và không thể lay chuyển. Liệu trong năm 2024 này thì quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc tại Biển Đông có gì căng thẳng không? Theo tôi thì sẽ có. Trung Quốc không thôi giấc mộng Trung Hoa của họ độc chiếm biển Đông nên không sớm thì muộn Trung Quốc sẽ vi phạm các quyền của Việt Nam trên biển theo Công ước Quốc tế về Luật biển. Vì thế tôi dự đoán là trong năm 2024 thì căng thẳng giữa Trung Quốc với Việt Nam sẽ không giảm xuống so với trước đây.
RFA. Theo ông, Việt Nam thành công những gì và thất bại những gì trong chính sách Biển Đông trong năm qua? Việt Nam có cần một chiến lược mới cho Biển Đông không?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt
Rất nhiều khen ngợi Việt Nam thành công. Cũng đúng vì Việt Nam vẫn duy trì được 21 thực thể trên Biển Đông. Thứ hai là bảo toàn được vùng đặc quyền kinh tế của mình. Nhưng rõ ràng là Việt Nam cần có một chiến lược lâu dài cho mình. Nhưng không rõ là Việt Nam có một chiến lược lâu dài hay không. Có vẻ như Việt Nam chỉ có các chiến thuật đối phó thụ động trước Trung Quốc. Trung Quốc làm gì thì mình sẽ phản ứng ra sao. Còn có chính sách trường kỳ, có tính dự báo trước thì có lẽ chưa có. Cá nhân tôi cho rằng Việt Nam cần có chiến lược lâu dài, cụ thể đối với Trung Quốc trên Biển Đông.
RFA xin cảm ơn nhà nghiên cứu Hoàng Việt đã giành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
2024.02.23
Đường di chuyển của tàu khảo sát Trung Quốc trong hai tháng 5 và 6, 2023 theo mô hình chữ "Trung" ( “中”) ngoài khơi bờ biển Việt Nam. (Ảnh minh họa). Raymond Powell / Sealight Project
Như ở bài trước đã chỉ ra, trong năm 2023,Việt Nam và Philippines áp dụng hai chiến thuật khác nhau đối với áp lực của Trung Quốc trên Biển Đông: Việt Nam im lặng trên truyền thông còn Philippines công khai các hành vi của Trung Quốc ra toàn thế giới. Hai cách thức ứng xử này liệu có dẫn đến hai kết quả khác nhau trong năm 2024 và dài hạn?
RFA đặt câu hỏi với ông Raymond Powell, Giám đốc Dự án SeaLight thuộc Trung tâm Gordian Knot về sáng kiến an ninh quốc gia thuộc Đại học Standford, về lý do các tàu khảo sát của Trung Quốc khi xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam đường đi theo hình ngang và dọc đều đặn như hình bàn cờ.
Ông Powell cho biết mô hình di chuyển như vậy không có ý nghĩa nhiều về mặt kỹ thuật như để vẽ bản đồ đáy biển cho tàu ngầm hay để khảo sát địa chất. Ông cho rằng có thông điệp chính trị nhiều hơn:
“Nhìn vào mô hình đường đi khảo sát của các tàu khảo sát trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ trước tới nay, chúng ta ngạc nhiên về đường đi kì lạ của nó.
Theo tôi, lời giải thích hợp lý duy nhất là Trung Quốc thực sự muốn vẽ một ký tự trong chữ Trung Quốc, chữ "Trung" 中, nghĩa là "Trung Quốc."
Về cơ bản nó gửi một thông điệp tới Việt Nam rằng Trung Quốc coi các mỏ dầu ở Bãi Tư Chính là thuộc về Trung Quốc.
Đó là một hành động rất táo bạo và quyết đoán. Tôi nghĩ nó báo hiệu rằng các mục tiêu dài hạn của Trung Quốc vẫn được giữ nguyên.”
Lập luận như vậy, ông Powell cho rằng mặc dù Việt Nam cố gắng giữ mức độ căng thẳng ở mức thấp, và tất nhiên điều đó giúp Việt Nam dễ thở hơn, nhưng không ai dám chắc năm 2024 và các năm tới, tàu Hải cảnh Trung Quốc sẽ giảm xâm nhập và tuần tra trong EEZ của Việt Nam.
Theo ông Powell, kiểm soát truyền thông về các hoạt động cưỡng bách của Trung Quốc trên Biển Đông gần như là chiến lược điển hình của Việt Nam đối với đại cường phía bắc trong nhiều năm qua, trừ một số ngoại lệ. Ông nói:
“Tôi đã ở Hà Nội vào năm 2014 trong cuộc khủng hoảng giàn khoan HD 981. Lúc đó Việt Nam thực hiện chiến lược ngược lại. Việt Nam đã tung ra các video về tất cả cảnh đâm tàu và bắn vòi rồng của Trung Quốc xung quanh giàn khoan dầu. Tôi nghĩ vào thời điểm đó, tình hình căng thẳng với Trung Quốc đã leo thang. Nó gây ra một số vấn đề trong nội bộ Việt Nam khi một số cuộc biểu tình vượt quá tầm kiểm soát. Nhưng tôi nghĩ vào thời điểm đó, điều đó cũng khiến Trung Quốc ngạc nhiên. Tôi nghĩ nó đã mang lại cho Việt Nam một số đòn bẩy. Tôi tin rằng Trung Quốc đã rút giàn khoan sớm hơn dự định.
Tôi nghĩ rằng Chính phủ Việt Nam rất coi trọng sự ổn định nội bộ bởi vì đó là một chế độ cộng sản. Đối với họ, duy trì sự ổn định nội bộ, để người dân không trở nên quá đỗi giận dữ là điều rất quan trọng.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam cũng muốn có thể quản lý xung đột với Trung Quốc một cách cẩn thận. Và một lần nữa, như bạn đã đề cập, tôi nghĩ họ tin rằng giọng điệu nhẹ nhàng sẽ mang lại cho họ thành công.”
Tuy vậy, ông Powell cho rằng, về lâu dài, ông không tin chiến thuật im lặng trên truyền thông của Việt Nam sẽ có hiệu quả trong việc ngăn cản Trung Quốc tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Theo ông, Việt Nam sẽ tiếp tục chứng kiến lực lượng Hải cảnh Trung Quốc tuần tra ngày càng nhiều hơn trong vùng đặc quyền kinh tế, khảo sát thềm lục địa và các mỏ dầu khí ở vùng Nam Côn Sơn và Tư Chính Vũng Mây ngoài khơi bờ biển phía nam của mình.
RFA đặt câu hỏi với ông Greg Poling, Giám đốc Chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, rằng nếu Việt Nam im lặng trên truyền thông về các hành vi xâm lấn của Trung Quốc, liệu hai nước này có một cơ chế nào khác để giải quyết xung đột trên Biển Đông? Ông Greg Poling nhận xét:
“Trung Quốc và Việt Nam không có cơ chế giải quyết xung đột. Họ đã có một số nỗ lực giải quyết xung đột và những nỗ lực đó có nhiều thành công khác nhau. Họ có các cuộc tuần tra chung hàng năm của Cảnh sát biển ở Vịnh Bắc Bộ mà cả hai bên đã công bố rộng rãi. Nhưng tất nhiên những điều đó chẳng làm được gì cả. Họ thậm chí chưa giải quyết được vấn đề chồng lấn ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.”
Theo ông Greg Poling, niềm tin nhất quán của Việt Nam là nước này gần gũi hơn với Trung Quốc. Nước này có lịch sử xung đột lâu dài hơn với Trung Quốc. Họ vẫn xảy ra nhiều vụ đụng độ bạo lực thường xuyên hơn ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đặc biệt liên quan đến ngư dân Việt Nam. Họ tin rằng tranh chấp không thể giải quyết được trong ngắn hạn và trung hạn.”
Vì vậy, ông Poling cho rằng Việt Nam sẽ tiếp tục hiện đại hóa lực lượng vũ trang của mình, tiếp tục xây dựng cơ sở quân sự ở quần đảo Trường Sa nhiều hơn bất kỳ bên tranh chấp nào khác để ngăn chặn Trung Quốc. Đồng thời, Việt Nam cũng cố gắng giải quyết căng thẳng bằng ngoại giao để không lan sang một cuộc xung đột mà cuối cùng sẽ không có ích gì cho lợi ích quốc gia của mình.
Ông Poling chỉ ra rằng Việt Nam tiếp tục phát triển mỏ dầu khí ở Bãi Tư Chính bất chấp tàu hải cảnh Trung Quốc có mặt ở đó hàng ngày, bất chấp Trung Quốc tung các tàu nghiên cứu để khảo sát thềm lục địa và EEZ của Việt Nam. Lực lượng dân quân biển của Trung Quốc vẫn đang neo đậu 270 ngày một năm ở Trường Sa mà không làm gì cả.
Mặc dù chính quyền Việt Nam im lặng trên truyền thông, ông Poling cho rằng những hành vi cưỡng bách của Trung Quốc vẫn khiến nước này ngày càng ít được ưa chuộng trong các cuộc thăm dò ý kiến công chúng và giới thượng lưu trong toàn khu vực Đông Nam Á. Các hành vi đó của Trung Quốc cũng thúc đẩy một mạng lưới quan hệ an ninh và ngoại giao mới nhằm cân bằng một Trung Quốc hung hãn hơn. Ông nói tiếp:
“Chúng ta có thể cảm ơn Trung Quốc một phần, bởi vì mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Hoa Kỳ và Việt Nam có thể đã không hình thành nếu không có một Trung Quốc hung hãn.
Chúng ta có thể cảm ơn Trung Quốc vì đã tái sinh một Liên minh Hoa Kỳ - Philippines. Chúng ta có thể cảm ơn Trung Quốc vì nhờ họ mà xuất hiện ý tưởng về bộ quy tắc ứng xử mới của Philippines với việc hợp tác Cảnh sát biển giữa một số nước trong khu vực.
Tất cả điều này đã xảy ra vì Trung Quốc. Rõ ràng, Trung Quốc đang làm suy yếu lợi ích của chính mình và nước này không còn giành thêm được bất kỳ vị trí nào ở Biển Đông trong ít nhất hai năm qua.”
2024.02.06
Hình chụp vệ tinh cho thấy thành phố Tam Sa do Trung Quốc thiết lập ở quần đảo Hoàng Sa hôm 27/7/2012. AFP
Quần đảo Hoàng Sa và một số thực thể ở Trường Sa hiện do Trung Quốc chiếm đóng đều bị nước này giành lấy từ những cuộc tấn công quân sự đối với Việt Nam. Năm 2024 là 50 năm Trung Quốc hoàn tất việc cưỡng chiếm Hoàng Sa. Năm nay cũng là 36 năm Trung Quốc tấn công một số thực thể ở Trường Sa và lần đầu hiện diện ở phía nam Biển Đông. RFA có cuộc trao đổi với hai nhà nghiên cứu là Luật gia Hoàng Việt ở Trường Đại học Luật Tp. HCM và Tiến sỹ Lê Vĩnh Trương, thành viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, một tổ chức phi chính phủ đăng kí tại Pháp, về một số vấn đề liên quan đến chủ quyền đối với hai quần đảo lớn nhất này trên Biển Đông.
Trao đổi với RFA qua email, Tiến sỹ Lê Vĩnh Trương cho rằng đối với Hoàng Sa và các thực thể ở Trường Sa mà Trung Quốc chiếm đóng, bất kể nước này quản lý các thực thể đó bao lâu đi nữa, họ cũng không thể nhận được sự công nhận của quốc tế về mặt chủ quyền. Theo TS. Lê Vĩnh Trương, đến nay thì Trung Quốc chiếm giữ Hoàng Sa trên thực tế đã 50 năm, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến tính chính nghĩa của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa. Bởi lẽ Trung Quốc đã đánh chiếm lãnh thổ Hoàng Sa bằng vũ lực, vi phạm hiến chương Liên Hiệp Quốc và Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc năm 1970, theo đó không công nhận bất kỳ lãnh thổ nào được thụ đắc bằng bạo lực. Việt Nam không cần lo lắng họ chiếm Hoàng Sa càng lâu thì mình mất chính nghĩa đối với vùng lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Từ sau khi thế giới có Hiến chương Liên Hiệp quốc và Nghị quyết 2625 năm 1970 thì Trung Quốc có chiếm đóng Hoàng Sa bao lâu đi nữa cũng không ai công nhận chủ quyền của họ cả.
Theo TS. Lê Vĩnh Trương, Việt Nam chỉ mất Hoàng Sa thực sự khi công khai thừa nhận chủ quyền của họ đối với quần đảo này. Nhưng Việt Nam sẽ không bao giờ làm như vậy. Hôm 20 tháng 1 mới đây, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam một lần nữa đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, nhân 50 năm Trung Quốc đánh chiếm quần đảo bằng bạo lực.
Trao đổi với RFA, TS. Lê Vĩnh Trương nhấn mạnh rằng mười bốn năm sau Hoàng Sa, đến 1988, Trung Quốc một lần nữa dùng bạo lực để tiến xuống Trường Sa. Đây là lần đầu tiên họ thụ đắc lãnh thổ ở Trường Sa. Có thể nói, lịch sử thụ đắc lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông phần lớn là bằng con đường bạo lực, xâm lược, trái với Hiến chương Liên Hiệp quốc. Ngày nay, họ vẫn đang tiếp tục tăng cường quân sự hoá ở Hoàng Sa và Trường Sa bằng cách xây dựng đảo nhân tạo, lắp đặt thêm vũ khí tối tân. Họ làm cho Biển Đông có nguy cơ trở thành điểm nóng của khu vực. Ông Lê Vĩnh Trương cho rằng cộng đồng quốc tế sẽ không làm ngơ trước điều đó vì đây là tuyến hàng hải huyết mạch này của thế giới.
Theo luật gia Malcolm N. Shaw, trong sách "International Law", bản in năm 2008 xuất bản lần sáu, thì "chiếm hữu theo thời hiệu" (prescription acquisitive) là cách thức thụ đắc lãnh thổ bằng con đường chiếm hữu liên tục trong thời gian dài, bất kể lãnh thổ đó được chiếm hữu một cách bất hợp pháp, nhưng việc chiếm hữu kéo dài một một khoảng thời gian dài mà quốc gia có chủ quyền với nó lại không phản đối trong một thời gian dài. Trung Quốc đã chiếm hữu Hoàng Sa và một phần Trường Sa bằng vũ lực trong một thời gian dài, 50 năm với Hoàng Sa và 36 năm với một phần Trường Sa. RFA đặt câu hỏi với Luật gia Hoàng Việt ở Trường Đại học Luật Tp. HCM rằng liệu Trung Quốc có thể sử dụng quyền “chiếm hữu theo thời hiệu” để dành được chủ quyền về mặt pháp lý đối với những thực thể này không. Thạc sỹ Hoàng Việt nói:
“Luật pháp quốc tế về chủ quyền không có một quy định rõ ràng, mà nó rải rác qua nhiều văn bản, như Hiến chương Liên Hiệp quốc, các án lệ quốc tế, các học thuyết pháp lý quốc tế. Trong các văn bản trên, không có chỗ nào nói một vùng lãnh thổ sẽ bị mất, không thể kiện sau khi bị chiếm hữu 50 năm.
Chủ quyền là câu chuyện kéo dài có thể hàng trăm năm vẫn không chấm dứt được. Ta lấy ví dụ tranh chấp đối với đảo Falkland / Malvinas giữa Anh quốc và Argentina. Năm 1982, lúc đó nước Anh đã chiến thắng tại Tòa Công lý Quốc tế và thậm chí còn chiến thắng trong một cuộc hải chiến trên biển đối với Argentina. Thế nhưng bây giờ nếu hỏi người Argentina là họ đã từ bỏ giấc mơ đòi lại quần đảo Falkland / Malvinas hay chưa thì câu trả lời là chưa.
Rất nhiều vùng lãnh thổ khác trên thế giới cũng vậy. Ví dụ vùng lãnh thổ Sabah đã thuộc về Malaysia từ lâu nhưng vẫn là nỗi đau trong lòng người Philippines. Người Philippines chưa quên được. Hoặc như tranh chấp quần đảo Kuril giữa Nga và Nhật Bản vẫn chưa ngừng. Có thể nói đó là những tranh chấp kéo dài hằng trăm năm vẫn không thể hết.
Luật quốc tế không có điều khoản nào hạn chết một thời hiệu theo cái nghĩa là sau bao nhiêu năm thì không được khởi kiện nữa. Như trong vụ Tòa án Công lý Quốc tế xét xử tranh chấp đối với đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, trong đó Malaysia lập luận rằng họ có một tiểu vương đã thiết lập chủ quyền đầu tiên. Nhưng người tới đảo sớm nhất này đã không tiếp tục giữ chủ quyền mà bỏ đi. Sau này là người Singapore đã giữ đảo, rồi người Anh chiếm giữ và sau đó trao trả lại cho Singapore. Tòa đã phán quyết là người thiết lập chủ quyền đầu tiên là Malaysia, nhưng người chiếm giữ thực tế một cách hòa bình và lâu dài là Singapore nên đã trao quyền sở hữu cho Singapore.
Câu chuyện Hoàng Sa thì hoàn toàn khác. Trung Quốc không phải dùng biện pháp hòa bình mà dùng bạo lực, trái với Hiến chương Liên Hiệp quốc và Nghị quyết 2625 Đại hội đồng Liên Hiệp quốc năm 1970. Trong luật quốc tế cũng có quy định rằng nếu một lãnh thổ bị xâm chiếm mà không lên tiếng phản đối thì sẽ mặc nhiên bị coi là công nhận chủ quyền của bên chiếm đóng.
Nhưng với trường hợp Hoàng Sa thì Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã ngay lập tức lên tiếng phản đối. Sau đó Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, kế thừa Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, cũng liên tục lên tiếng phản đối Trung Quốc, hằng năm hoặc mỗi khi có sự kiện liên quan.
Đó là chưa kể trong các “cuộc chiến công hàm” năm 2019, 2020, 2021 thì Việt Nam đã liên tục lên tiếng khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa (và cả Trường Sa). Ngoài ra, trong các năm trước đó, những năm như 2014, 2011 thì Việt Nam cũng gửi rất nhiều công hàm khẳng định chủ quyền. Như vậy, không thể nói Việt Nam im lặng và như vậy mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trong trường hợp này.”
Hằng năm, người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam vẫn thường lặp đi lặp lại một câu nói theo mẫu là “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. RFA đặt câu hỏi với Luật gia Hoàng Việt rằng sự lặp đi lặp lại một cách “nhàm chán” và đôi khi “gây cười trên mạng xã hội” này có phải là một cách phá bỏ khả năng “chiếm hữu theo thời hiệu” của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa? Ông Hoàng Việt giải thích:
“Không phải. Không hẳn như vậy. Vì “chiếm hữu theo thời hiệu” đòi hỏi mấy yếu tố, trước hết là phải chiếm hữu bằng biện pháp hòa bình. Mà ngay đối với điều kiện đầu tiên này thì Trung Quốc đã không thỏa mãn rồi. Một khi đã chiếm giữ lãnh thổ bằng cách vi phạm Hiến chương Liên Hiệp quốc, vi phạm Nghị quyết 2625 năm 1970 thì không thể “chiếm hữu theo thời hiệu” được.
Còn người phát ngôn Bộ ngoại giao phát biểu liên tục hằng năm rằng Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa là để ít nhất luôn luôn nhắc nhở quốc tế về thái độ và lập trường của Việt Nam đối với vấn đề này, chứ không phải Việt Nam im lặng.”
Mặc dù Trung Quốc không thể nhận được sự đồng thuận quốc tế đối với “chủ quyền” của họ ở những thực thể ở Hoàng Sa và Trường Sa nhưng nước này lại đang kiểm soát trên thực tế đối với Hoàng Sa và có sức mạnh quân sự lớn nhất ở Trường Sa. Trao đổi với RFA về sự chênh lệch lực lượng này giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông, TS. Lê Vĩnh Trương cho rằng mặc dù Trung Quốc đã chiếm ưu thế trên Biển Đông nhưng không phải là Việt Nam đã bị bịt đường ra biển. Việt Nam vẫn còn một phần Trường Sa. Việt Nam quản lý trên thực tế nhiều thực thể địa lý nhất ở đó. Dù nguồn lực kinh tế của Việt Nam không bằng Trung Quốc nhưng nhà cầm quyền có những động thái nỗ lực.
Ngoài ra, theo TS. Lê Vĩnh Trương, Trung Quốc đòi hỏi đường lưỡi bò chiếm hơn 80% Biển Đông, nhưng theo Luật biển Quốc tế thì Biển Đông có một phần lớn là vùng biển quốc tế. Các vùng giàu tài nguyên dầu khí nằm gần bờ biển Việt Nam. Việt Nam có rất nhiều đối tác quốc tế có thể hợp tác về công nghệ, tài chính và có thể một phần nào là chính trị để cùng khai thác, phát triển. Bên cạnh đó, các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn giữa Việt Nam với Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, và một số nước khác nếu có thể giải quyết bằng biện pháp thương lượng hòa bình thì sẽ càng giúp cho Việt Nam giữ được biển, tạo điều kiện để tiếp tục phát triển sức mạnh trên biển. Sức mạnh trên biển sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh tồn của dân tộc trong hiện tại và tương lai.
Cuối cùng, vị thành viên lâu năm của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông cho rằng sức mạnh tổng hợp bao gồm kinh tế , chính trị, ngoại giao và cả quân sự là vô cùng cần thiết cho Việt Nam. Nếu không có sức mạnh tổng hợp thì mơ ước khó mà thành hiện thực. Có sức mạnh tổng hợp thì mới phát huy được thế mạnh pháp lý đối với Hoàng Sa Trường Sa và Biển Đông.
2024.01.31
Hai sĩ quan Cảnh sát biển Việt Nam thảo luận với nhau khi theo dõi tàu Hải cảnh Trung Quốc xâm nhập vào vùng EEZ cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý, năm 2014 (ảnh minh họa). Reuters
Ngày 19 tháng 1 năm 2024 là tròn 50 năm Trung Quốc tấn công và chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa khi đó do Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Sắp tới, ngày 14 tháng 3, 2024 là 36 năm Trung Quốc tấn công ở Trường Sa và lần đầu tiên hiện diện ở đó. Ngoài ra, trong những năm qua, Trung Quốc cũng không ngừng tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, đòi hỏi chủ quyền đối với vùng khai thác dầu khí Tư Chính, Vũng Mây, Nam Côn Sơn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam theo Luật biển Quốc tế. RFA trao đổi với nhà nghiên cứu Hoàng Việt về những gì Việt Nam cần làm để gìn giữ và phát triển không gian sinh tồn trên biển trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động nghiêm trọng. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cho rằng Việt Nam không thể phát triển nếu bỏ qua khai thác nguồn lực trên biển. Đánh giá về hiện trạng Trung Quốc đang chiếm ưu thế mạnh mẽ về mặt quân sự trên biển Đông, ông cho rằng Việt Nam ngày nay có hai nhiệm vụ lớn là giữ đảo và giữ biển. So sánh giữa đảo và biển, ông Hoàng Việt cho rằng trong hai cái nguy là “mất đảo” và “mất biển” thì “mất biển” nguy hiểm hơn vì nguồn lợi quốc gia đa số nằm ở phần biển hơn là phần đảo.
RFA: Theo ông, biển có vai trò như thế nào trong không gian sống của Việt Nam? Tại sao biển Đông lại quan trọng với Việt Nam?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt
Chúng ta thấy rằng Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế phát triển trên biển. Nếu như trong lịch sử những quốc gia phát triển nông nghiệp và công nghiệp sẽ có sức mạnh thì bây giờ phải phát triển về biển. Đây cũng là quan điểm của một lý thuyết gia nổi tiếng là Alfred Thayer Mahan. Trung Quốc đã nhiệt tình áp dụng học thuyết của Mahan vào chiến lược phát triển của mình.
Thực sự mà nói nếu Việt Nam muốn trở thành một cường quốc tầm trung, hay trở thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như các lãnh đạo Việt Nam thường nói, thì phải phát triển kinh tế. Rõ ràng, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng, không chỉ trong đất liền mà còn trên biển.
Trong giai đoạn Việt Nam gặp khó khăn thời bao cấp, ngân sách Việt Nam đã được duy trì nhờ khai thác dầu khí trên biển, trong liên doanh dầu khí Việt Xô. Rõ ràng biển đóng vai trò rất lớn. Sau này cũng vậy.
Nhiều quốc gia lớn nhưng không có chiều dài bờ biển dài như Việt Nam. Vấn đề là Việt Nam có tận dụng được không. Việt Nam nằm sát biển khơi nhưng chưa hoàn toàn tận dụng được biển như các quốc gia khác như Nhật Bản.
RFA: Ngày nay, Việt Nam nhận thức như thế nào về tầm quan trọng của sức mạnh trên biển? Nước này làm những gì để bảo vệ quyền lợi hợp pháp trên biển trong khi có một cường quốc khác đang tìm cách thống trị hoàn toàn vùng biển đó?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt:
Đối với tư duy về biển, thời Việt Nam Cộng Hòa có nhiều giáo sư luật lừng danh. Trong các cuộc đàm phán về luật biển quốc tế năm 1958 và 1972 thì phía Việt Nam Cộng Hòa đều có đại diện tham gia. Còn phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời chiến thì không để ý nhiều tới biển. Họ tập trung vào mục tiêu thống nhất đất nước.
Nhưng sau 1975 trở đi thì CHXHCN Việt Nam đã nhìn thấy lợi ích của biển và đã làm rất tốt. Họ đã thấy tầm quan trọng của việc giữ được các vị trí tiền tiêu trên biển. Những suốt những năm 1980 thì Đô đốc Giáp Văn Cương đã đưa ra chủ trương với sự đồng ý của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là cho các con tàu cũ phi thẳng lên các bãi đá ở Trường Sa và đóng chốt ở đó. Điều đó cho thấy tầm nhìn của CHXHCN Việt Nam về biển đã thay đổi.
Biển là một tài nguyên rất lớn. Nó là một nguồn lực giúp đỡ rất lớn cho các quốc gia phát triển kinh tế. Đó cũng là lí do nhiều quốc gia tham gia vào tranh chấp biển Đông, có tham vọng đối với biển Đông. Việt Nam là một quốc gia giáp biển, tại sao không tận dụng lợi thế?
Mặc dù Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, chiếm một số thực thể quần đảo Trường Sa nhưng chưa phải là chúng ta đã mất không gian biển.
Cái nguy hiểm nhất mà nếu chúng ta không giữ được chính là vùng biển. Ta thấy đường lưỡi bò của Trung Quốc xâm lấn vào vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ không chỉ là nắm giữ các đảo, các thực thể hiện đang giữ ở Trường Sa. Ở Trường Sa hiện nay, Việt Nam là nước chiếm giữ nhiều thực thể nhất. Trong đó có 21 thực thể, theo cách nói dân dã ở Việt Nam là 9 đảo nổi, 12 đảo chìm và tổng cộng 33 điểm đóng quân. Việt Nam là quốc gia kiểm soát trên Trường Sa tốt như vậy.
Nhưng vấn đề là đường lưỡi bò của Trung Quốc lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thậm chí trong những mỏ dầu khí mà Trung Quốc xếp vào bãi Tư Chính nhưng thực ra nó không ở bãi Tư Chính mà ở bể Nam Côn Sơn. Nhiều lô dầu khí của chúng ta nằm ở bể Nam Côn Sơn. Bể Nam Côn Sơn và bãi Tư Chính cách xa nhau vời vợi và có một rãnh ngầm ngăn cách nên không thể nói nó là sự kéo dài của thềm lục địa. Nhưng Trung Quốc thì muốn nhập nhằng, gộp hai vùng này làm một, cho rằng tất cả chỉ là bãi Tư Chính và sự kéo dài của quần đảo Trường Sa. Nhiều khi chúng ta phải nói rõ chuyện này. Đó là vấn đề chúng ta phải lo.
Đường lưỡi bò Trung Quốc tự vẽ trên Biển Đông đòi chủ quyền phần lớn diện tích vùng biển này. AFP
RFA. Như vậy, theo ông, gìn giữ chủ quyền biển để thế hệ tương lai có nguồn lực tiếp tục phát triển về phía biển là điều cấp thiết?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt:
Khi vùng đặc quyền kinh tế có rất nhiều mỏ dầu, mỏ khí đốt, thủy hải sản và các tiềm năng khác, mà theo UNCLOS thì thuộc về chúng ta, chúng ta được hưởng. Nhưng chúng ta bị xâm phạm và có nguy cơ không giữ được. Đó mới là nguy cơ lớn chứ không hẳn là việc Trung Quốc chiếm giữ các thực thể.
Vì vậy, có hai nhiệm vụ mà Việt Nam phải làm, mà cho đến nay Việt Nam vẫn làm tốt, một là gìn giữ tất cả các thực thể đang kiểm soát được ở Trường Sa, và hai là gìn giữ được các vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta theo đúng UNCLOS. Việt Nam đang làm rất tốt hai nhiệm vụ này. Mong rằng Việt Nam sẽ giữ gìn được tất cả những nguồn lợi đó cho tương lai. Đó mới là không gian sống của chúng ta.
Biển Đông rất rộng. Chúng ta không sở hữu toàn bộ biển Đông. Chúng ta chỉ có 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế, và 200 hải lý thềm lục địa. Có thể mở rộng thềm lục địa lên tối đa 350 hải lý.
RFA. Với chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như vậy, dường như Việt Nam có biển và thềm lục địa còn rộng lớn hơn đất liền?
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt:
Chắc chắn là như vậy. Tôi không có con số cụ thể để đo lường. Về phía Việt Nam thì Việt Nam cho rằng mình có hơn 1 triệu km2 trên biển. Có nhiều tranh luận về con số này. Nhưng rõ ràng với thực tế là có 200 hải lý mở rộng từ đường cơ sở thì đó là một vùng biển rất lớn, rất nhiều tài nguyên và đó là lợi thế to lớn của Việt Nam.
RFA xin cảm ơn nhà nghiên cứu Hoàng Việt đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Diễm Thi
2024.02.07
Người dân biểu tình chống Trung Quốc ở trung tâm thành phố Hà Nội vào ngày 22 tháng 7 năm 2012. AFP
Đầu năm 2024, trang thông tin điện tử Ban dân tộc tỉnh Bình Thuận đăng kế hoạch kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong năm.
Nằm đầu danh sách là kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Những ngày được kỷ niệm sau đó là 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 70 năm Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ; 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 79 năm Ngày cách mạng tháng Tám; Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
Ngoài ra còn có kỷ niệm ngày sinh của một loạt lãnh đạo quá cố của Đảng, Nhà nước như Trần Phú; Nguyễn Chí Thanh; Nguyễn Lương Bằng… Sau cùng là kỷ niệm ngày sinh Vladimir Lenin; Karl Marx; Friedrich Engels.
Trang web nói rõ, việc tổ chức kỷ niệm nhằm tuyên truyền sâu rộng về truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng của dân tộc; lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, ý chí tự lực, tự cường và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần củng cố, bồi đắp niềm tin của Nhân dân vào sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Máu của đồng bào, của chiến sĩ không phải là nước lã. Tôi không biết lãnh đạo Việt Nam sợ cái gì mà lặng im trong khi Trung Quốc vẫn tưởng niệm ba ngày này. Họ vẫn ca ngợi cái mà họ gọi là phản kích tự vệ, thu hồi lãnh thổ về cho Trung Quốc. Nếu mà hành xử như vậy thì làm sao mà giáo dục cho thế hệ trẻ? Nếu mai này mà có chiến tranh xảy ra, ai sẽ là người cầm súng? - Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc |
Điều đáng nói là ngày Việt Nam mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc 19 tháng 1; Ngày Trung Quốc đem quân xâm lược sáu tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam 17 tháng 2; Ngày Trung Quốc chiếm một số đảo của Việt Nam ở Trường Sa 14 tháng 3 không có trong danh sách kỷ niệm của tỉnh Bình Thuận.
Cảnh sát giải tán người biểu tình trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở trung tâm thành phố Hà Nội vào ngày 9 tháng 12 năm 2012. AFP
Nhiều năm trước đây, vào ngày 19 tháng 1 và ngày 14 tháng 3, nhiều người dân tập trung tại tượng đài Lý Thái Tổ ở trung tâm Hà Nội và tượng đài Đức Thánh Trần ở bến Bạch Đằng, Sài Gòn để thắp hương tưởng niệm các tử sĩ, nhưng thường xuyên bị chính quyền ngăn cản. Năm nay, kỷ niệm 50 năm ngày mất Hoàng Sa, an ninh chặn những nhân vật bất đồng chính kiến ngay tại nhà nên không có cuộc tưởng niệm đông người và công khai nào diễn ra.
Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên trưởng ban nghiên cứu - Ban dân Vận Trung ương nói với RFA suy nghĩ của ông sáng 7 tháng 2 năm 2024:
“Hiện nay, nói chung là người ta chú trọng đến những ngày kỷ niệm của Đảng Cộng sản hơn là những ngày tưởng niệm của dân tộc. Những ngày như trận hải chiến Hoàng Sa của hải quân VNCH, hay ngày 17 tháng hai khi Trung Quốc đem quân xâm lược sáu tỉnh biên giới phía Bắc… Đó là những sự kiện lịch sử nhưng lại không dám tổ chức kỷ niệm. Người dân đã phản đối, đã chê trách nhưng họ vẫn cứ lỳ ra không chịu sửa. Như thế là quá sợ Tàu, trong khi Tàu vẫn lấy những ngày đó để kỷ niệm chiến thắng oanh liệt để tuyên truyền. Việt Nam thì im re. Như thế là có tội với nhân dân Việt Nam, có tội với dân tộc Việt Nam.”
Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc bày tỏ quan điểm của ông trong cùng ngày:
“Đầu năm 2023, tôi đã rất ngạc nhiên khi các chương trình kỷ niệm cho năm đăng trên trang web của Bộ Công thương không hề có ngày 19 tháng giêng, 17 tháng 2 và 14 tháng 3. Và năm nay, trên trang web chính thức của tỉnh Bình Thuận, ba sự kiện này đã bị gạt ra ngoài lề.
Chúng ta nên nhớ, cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới phía Bắc và biên giới phía Tây Nam cũng như cuộc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông hết sức là gay go. Máu của đồng bào, của chiến sĩ không phải là nước lã. Tôi không biết lãnh đạo Việt Nam sợ cái gì mà lặng im trong khi Trung Quốc vẫn tưởng niệm ba ngày này. Họ vẫn ca ngợi cái mà họ gọi là phản kích tự vệ, thu hồi lãnh thổ về cho Trung Quốc. Nếu mà hành xử như vậy thì làm sao mà giáo dục cho thế hệ trẻ? Nếu mai này mà có chiến tranh xảy ra, ai sẽ là người cầm súng?
Bạn bè là bạn bè, đồng chí là đồng chí nhưng quyền lợi quốc gia là tối thượng. Tôi xin nhắc lại, năm 2014, khi phát biểu tại Manila, Thủ tướng Việt Nam lúc đó là ông Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu rất đanh thép: Không đánh đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viển vông. Đấy là khẩu hiệu chúng ta phải nhớ”.
Tháng 5 năm 2014, thủ tướng Việt Nam lúc đó là ông Nguyễn Tấn Dũng có chuyến thăm và làm việc tại Philippines. Trả lời báo chí quốc tế về hành xử của Việt Nam về tình hình Biển Đông, ông Dũng nhấn mạnh: “Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”.
Thế nhưng, điều mà tôi thật sự thất vọng sâu sắc khi không đề cập gì đến các sự kiện mất Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó chứng tỏ chế độ không hề có ý chí khôi phục lãnh thổ bị đánh chiếm. Không những thế, họ xem trọng ngày sinh lãnh tụ của họ hơn là khôi phục lại lãnh thổ bị chiếm mất. - Luật sư Đặng Đình Mạnh |
Với việc tỉnh Bình Thuận bỏ ba ngày liên quan đến Trung Quốc ra khỏi danh sách kỷ niệm năm 2024, luật sư Đặng Đình Mạnh nêu quan điểm của ông với RFA:
“Đọc bản kế hoạch tuyên truyền về các ngày lễ trong năm 2024, trong đó, bao gồm việc tuyên truyền kỷ niệm ngày sinh của các lãnh đạo Cộng sản đã mất. Thế nhưng, điều mà tôi thật sự thất vọng sâu sắc khi không đề cập gì đến các sự kiện mất Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó chứng tỏ chế độ không hề có ý chí khôi phục lãnh thổ bị đánh chiếm. Không những thế, họ xem trọng ngày sinh lãnh tụ của họ hơn là khôi phục lại lãnh thổ bị chiếm mất.
Với giặc ngoại xâm từ phương bắc, không phải thế hệ chúng ta mới phải đối diện với điều đó. Nào là Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… Thế hệ nào bị ngoại xâm, thế hệ đó đứng lên đánh đuổi, khôi phục nền độc lập, thu hồi lại lãnh thổ một cách sòng phẳng, dứt khoát. Chỉ đến thế hệ chúng ta, với sự cai trị của Cộng Sản mới nhu nhược, đớn hèn với chủ trương để lại di sản chống ngoại xâm cho thế hệ con cháu… Tôi đã nghĩ, lãnh thổ thiêng liêng của đất nước, thì chỉ có người dân mới quan tâm, chứ nó không phải là sự quan tâm của đảng Cộng sản.”
Một người lính Hải quân Việt Nam đứng canh gác tại đảo Thuyền Chài thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Reuters
Vào ngày 19 tháng 1 năm 2024, tròn 50 năm ngày mất Hoàng Sa, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng phát biểu trước báo giới rằng, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa được xác lập ít nhất từ thế kỷ 17, phù hợp với luật pháp quốc tế và được các nhà nước kế tiếp nhau của Việt Nam thực hiện một cách hòa bình, liên tục, công khai.
Một tuần sau, ngày 24 tháng 1 năm 2024, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao Trung Quốc Uông Văn Bân nói trong cuộc họp báo thường kỳ ở Bắc Kinh rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, đặt tên, phát triển, quản lý các đảo và quần đảo, và tiếp tục thực thi quyền chủ quyền đối với những đảo và quần đảo đó. Trung Quốc luôn luôn phản đối tuyên bố chủ quyền phi pháp của các nước liên quan đối với lãnh thổ Hoa Lục và sẽ tiếp tục bảo vệ vững chắc chủ quyền của nước mình.
2024.02.23
Tàu hải cảnh Trung Quốc CCG 6901 (Zhong Guo Hai Jing 3901) đang tuần tra bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hôm 23/1/2024. Marine Traffic/ RFA
Từ đầu năm 2024 đến nay, trên Biển Đông, trong khi tăng cường áp lực với Việt Nam ngay khi hai nước Việt Trung đang họp “Ủy ban chỉ đạo song phương”, Trung Quốc dường như đã “chùn tay” hơn với Philippines.
Ngày 3 tháng 1, 2024, tờ South China Morning Post đưa tin “Trung Quốc ngó lơ” khi Philippines tiến hành tiếp tế cho bãi Cỏ Mây. Đến cuối tháng 1, 2024, Trung Quốc lại nói họ “không ngăn chặn” khi Philippines thả dù tiếp tế cho binh sĩ trên bãi Cỏ Mây.
Trong khi đó, hôm 20 tháng 2, 2024, tàu Hải cảnh Trung Quốc mang số hiệu CCG 5901 (Zhong Guo Hai Jing 3901) đã bật tín hiệu AIS khi tuần tra khu vực bãi Tư Chính. Theo ghi nhận của RFA từ dữ liệu Marine Traffic, đây là lần thứ hai kể từ đầu năm 2024, Trung Quốc cho tàu hải cảnh xâm nhập, tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Lần thứ nhất là ngày 4 tháng 2, 2024, tàu hải cảnh mang số hiệu CCG 4201 đi tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, cách đảo Lý Sơn khoảng 120 hải lý (hôm 4/2/2024) và 150 hải lý (hôm 5/2/2024.)
Đáng chú ý, cuộc tuần tra hôm 4 và 5 tháng 2, 2024 được tiến hành trong lúc cuộc họp của Ủy ban chỉ đạo song phương Việt Nam - Trung Quốc đang diễn ra tại Việt Nam. Trong chuỗi sự kiện của Ủy ban chỉ đạo song phương này, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn đã có lời đề nghị Trung Quốc “tôn trọng lợi ích chính đáng” của Việt Nam trên biển.
Nhiều nhà quan sát nhận thấy Philippines và Việt Nam có hai cách ứng xử khác nhau với Trung Quốc khi bị nước lớn này cưỡng bách. Philippines công khai thông tin về các hoạt động cưỡng bách của Trung Quốc. Việt Nam im lặng nhiều hơn. RFA hầu như không tìm thấy các bản tin trên báo chí Việt Nam do nhà nước kiểm soát về các hoạt động tuần tra, khảo sát của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong tháng 2, 2024 kể trên. Một ví dụ khác, đối với hoạt động xâm nhập, tuần tra, khảo sát của Trung Quốc từ tháng 3 năm 2023 đến cuối năm, trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, trang “Tin Biển Đông” của một tờ báo lớn trong nước hầu như không đưa tin. Trong khi như RFA đã đưa tin, năm 2023, các hoạt động như vậy của Trung Quốc diễn ra liên tục trong nhiều tháng.
Trao đổi với RFA, ông Raymond Powell, Giám đốc Dự án SeaLight thuộc Trung tâm Gordian Knot về sáng kiến an ninh quốc gia thuộc Đại học Standford, nhận xét:
“Năm 2023 rõ ràng là một năm có nhiều căng thẳng gia tăng, đặc biệt là với Philippines. Điều đó liên quan rất nhiều đến việc Philippines quyết định công khai vụ quấy rối của Trung Quốc mà họ đã gánh chịu vào tháng Hai năm 2023. Philippines đã phát động “một chiến dịch minh bạch quyết đoán”, thu thập bằng chứng và công bố bằng chứng để cả thế giới thấy.”
Ông Powell nói ông có niềm tin mãnh liệt rằng việc công khai thông tin về hành vi cưỡng bách của Trung Quốc đối với Philippines đã mang lại lợi ích cho nước này ở ba khía cạnh khác nhau. Ông nói tiếp:
“Thứ nhất, chính sách của Philippines đã giúp xây dựng khả năng đề kháng của quốc gia trước sức mạnh cưỡng bách của Trung Quốc. Khả năng đề kháng là khả năng tổng hợp của quốc gia để đứng vững trước một chiến dịch gây áp lực và cường bách. Bằng cách công khai tất cả các sự kiện, người dân Philippines đã được thông tin đầy đủ. Họ trở nên quan tâm đến an ninh hàng hải. Điều đó mang lại cho quốc gia cơ hội đưa ra các chính sách mới và thông qua ngân sách cũng như đầu tư vào những lĩnh vực sẽ tăng cường khả năng phục hồi quốc gia của họ. Khả năng đề kháng có nghĩa là bạn có thể đứng vững đến mức nào trước một áp lực.
Thứ hai là Philippines nhận được rất nhiều hỗ trợ quốc tế. Vì vậy, họ đã có thể củng cố sức mạnh quốc gia của mình. Họ đã ký các thỏa thuận mới với Nhật Bản và Úc. Họ nhận được sự hỗ trợ về quan điểm pháp lý từ Ấn Độ. Họ nhận được hỗ trợ về năng lực phát hiện tàu trong bóng tối từ Canada. Rất nhiều hỗ trợ quốc tế đã đến với Philippines vì họ đã công khai các sự kiện.
Thứ ba là Philippines đáp trả bằng cách gây thiệt hại cho Trung Quốc. Họ làm cho Trung Quốc phải chịu áp lực ngày càng tăng, không chỉ từ Philippines mà trên toàn thế giới, vì những gì Trung Quốc đang làm. Trung Quốc rõ ràng rất không hài lòng khi nhìn thấy tất cả những hình ảnh xấu của mình trên tin tức quốc tế.”
Tàu Kiểm Ngư 261 cùng hai cụm tàu dân quân biển của Việt Nam đi theo giám sát hoạt động của tàu hải cảnh Trung Quốc hôm 21/2/2024 tại bãi Tư Chính. (Ảnh: Marine Traffic/ RFA)
Theo ông Powell, khi Philippines thực hiện việc công khai thông tin như vậy, lúc đầu, điều đó khiến cho nước này phải trả giá một cách đặc biệt vì Trung Quốc gia tăng áp lực. Trung Quốc cố gắng khiến cho Philippines phải dừng chiến dịch công bố thông tin đó bằng cách họ leo thang căng thẳng. Vì vậy trong suốt cả năm 2023, Trung Quốc mỗi lúc một hung hăng hơn, tăng cường bắn vòi rồng nhiều hơn, chặn tàu nhiều hơn, có nhiều vụ đâm tàu ở bãi cạn Second Thomas Shoal (bãi Cỏ Mây) hơn. Do đó, lúc đầu thì mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn với Philippines.
Nhưng cuối cùng, ông Powell nhận xét, đến hết năm 2023 sang đầu năm 2024, Trung Quốc đã thay đổi tư duy của mình. Điều này có thể liên quan đến chuyến thăm của Tập Cận Bình tới San Francisco dự APEC, gặp Tổng thống Biden. Cả hai cố gắng đạt được một số thỏa thuận. Ông Powell chỉ ra là đối với Trung Quốc, những xung đột công khai với Philippines không có ích gì cho hình ảnh của họ. Nó chỉ gây ra cho họ quá nhiều vấn đề.
Ông Powell cho biết vào tháng 1 năm 2024, lần đầu tiên các quan chức Trung Quốc và Philippines đã gặp nhau ở Thượng Hải. Trong cuộc gặp đó, họ đã đi đến một số thỏa thuận. Các thỏa thuận này không được công bố chi tiết nhưng điều mà chúng ta thấy trên thực tế là vào tháng 1 năm 2024 việc tiếp tế cho bãi cạn Second Thomas Shoal (Cỏ Mây) của Philippines đã diễn ra rất suôn sẻ và không gặp phản kháng từ phía Trung Quốc, như trên đã nói. Trên cơ sở đó, ông Powell cho rằng nếu như năm 2023 là một năm căng thẳng của Philippines thì năm 2024 dường như đã bắt đầu với nhiều “không gian dễ thở hơn” cho cho nước này. Điều này có thể là kết quả của chiến dịch công khai minh bạch thông tin về những gì diễn ra trên thực địa ở Biển Đông để cả thế giới thấy những gì Trung Quốc làm. Theo ông Powell, chiến dịch minh bạch của Philippines cuối cùng đã thành công vì nó mang lại cho họ đòn bẩy để giành lợi thế trước Trung Quốc trong các cuộc đàm phán.
Về thành công của Philippines trong hai tháng đầu của năm 2024 so với một năm 2023 căng thẳng với Trung Quốc, ông Greg Poling, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á ở Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ở Washington DC, cũng đồng quan điểm với ông Raymond Powell. Trao đổi với RFA, ông Greg Poling cho rằng Trung Quốc thực sự đã nhận ra những giới hạn lớn trong chiến lược của mình. Theo ông Poling, chiến lược của cường quốc này trong 10 năm qua dựa trên việc sử dụng lợi thế về số lượng và khả năng chịu rủi ro cao hơn khi cố tình đâm tàu, tạo nguy cơ va chạm để bắn vòi rồng, cùng nhiều chiến thuật “vùng xám” khác. Tuy nhiên, Philippines đã nhận ra rằng nước này có thể đứng vững trước áp lực của Trung Quốc để tiếp tục tiếp tế cho lực lượng của mình tại bãi cạn Second Thomas Shoal (Cỏ Mây) và tuần tra bãi cạn Scarborough.
Các nhà nghiên cứu nói trên đều đồng quan điểm cho rằng năm 2024 sẽ tiếp tục là một năm căng thẳng trên Biển Đông, đặc biệt là đối với Việt Nam. Các hoạt động của Trung Quốc năm 2023 đối với Việt Nam như tuần tra, khảo sát, xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế và quậy phá các vùng thăm dò khai thác dầu khí sẽ tiếp tục. Còn đối với Philippines thì mặc dù nước này đã có 2 tháng đầu tiên “dễ thở”, không ai có thể chắc chắn về hành xử của nước lớn Trung Quốc đối với họ trong những tháng còn lại của năm 2024.
2024.02.23
Khán giả xếp hàng mua vé xem phim Đào, phở và piano. Báo Lao Động
Một nhạc sĩ nổi tiếng tin rằng Nhà nước hoàn toàn có thể làm một bộ phim hay tuyên truyền về lịch sử, sau "Đào, phở và piano" hãy làm phim về cuộc chiến Việt Nam với Trung Quốc ở Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.
Bộ phim được Cục Điện ảnh đặt hàng cho Công ty cổ phần phim truyện I sản xuất với kinh phí khoảng 20 tỷ đồng đang làm mưa làm gió trên các trang truyền thông Nhà nước và các trang mạng xã hội ủng hộ Chính phủ. Người ta cũng nhìn thấy hàng dài những người trẻ xếp hàng đợi mua vé xem phim ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/2.
“Đào, phở và piano” lấy bối cảnh những ngày cuối cùng của trận chiến với quân Pháp sau khi Quân đội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rút lui lên Việt Bắc. Vào ngày 16/2/1947, tại một chiến lũy bên trong khu phố cổ, các dân quân tự vệ phải chống chọi với một cuộc tấn công bằng xe tăng và súng hiện đại của quân Pháp. Họ đã đáp trả bằng vũ khí thô sơ, trong đó có bom ba càng để cầm chân quân Pháp.
Trong một chương trình của VTV, ông Phi Tiến Sơn - đạo diễn của bộ phim nói: “Điện ảnh chúng tôi còn nợ khán giả nhiều lắm về mảng đề tài lịch sử này. Hi vọng sắp tới đây các đồng nghiệp của tôi sẽ trả dần món nợ ấy.”
Nhạc sĩ Tuấn Khanh hôm 23/2/2024 bình luận với Đài Á Châu Tự Do (RFA):
“Tôi đề nghị mở rộng một dự án nhân dân góp tiền để xây dựng một bộ phim điện ảnh về Trung Quốc xâm lược đảo Gạc Ma một 1988 để tưởng nhớ những người hi sinh gần nhất của Việt Nam để bảo vệ tổ quốc, để giúp giải bớt món nợ phim chủ đề lịch sử như đạo diễn của phim đã nói!”
“Đào, phở và piano” được nhiều người săn tìm vì dường như ít được bố trí các suất chiếu vào giờ thuận lợi cho người xem trong ngày. Thay vào đó, các rạp chiếu các phim thương mại “Mai” của Trấn Thành hay các phim của nước ngoài như “Thanh Gươm Diệt Quỷ: Phép Màu Tình Thân, Cho Đến Chuyến Đặc Huấn Của Đại Trụ.”
Khi nhu cầu xem phim tăng cao, một số rạp chiếu phim ở TPHCM như Beta và Cinestar cũng xin phép được chiếu phim này với hình thức phi lợi nhuận và diễn ra vào lúc nửa đêm.
Với mục đích tuyên truyền, Nhà nước Việt Nam thường bỏ tiền ngân sách ra làm nhiều phim về đề tài lịch sử hay ca ngợi lãnh tụ trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, các phim này thường bị xếp vào kho lưu trữ sau một vài buổi chiếu giới thiệu, hoặc được đưa chiếu miễn phí trên truyền hình quốc gia.
“Đào, phở và piano” chỉ là một trong nhiều phim Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đặt hàng trong năm 2022 với tổng kinh phí lấy từ ngân sách Nhà nước lên đến 65 tỷ đồng. Theo báo chí, doanh thu của phim đến nay đã được hơn 1 tỷ đồng, một hiện tượng đối với thể loại phim kiểu này.
Bình luận về bộ phim, nhạc sĩ Nguyễn Tuấn Khanh từ thành phố Hồ Chí Minh nói với RFA:
“Sau nhiều năm Nhà nước đã tung ra một cuốn phim được tài trợ về chủ đề mang tính lịch sử và tuyên truyền với cái giá 20 tỷ để đến với công chúng. Mục đích được nói rõ là nhằm nhắc lại lịch sử, không thể để lãng quên.
Nhưng cách làm một cuốn phim tuyên truyền trong thế kỷ 21 vẫn không khác gì những năm tháng ở miền Bắc trước năm 1975 là cứ làm xong thì thôi, phó mặc chuyện phát hành và quảng bá cho đời sống, nếu không có sự vận động của các trang mạng xã hội thì bộ phim này có lẽ cũng đã chết trong im lặng.”
Ông đặt câu hỏi về thực tâm muốn nhắc lại lịch sử và trân trọng nó của cơ quan đặt hàng bộ phim, ở đây là Cục Điện ảnh, hay “chỉ là một dự án làm ăn lấy đủ tiền rồi thôi?”
Bà Nguyễn Hoàng Ánh, một nữ trí thức ở Hà Nội sau khi xem phim “Đào, phở và piano” nêu ý kiến với RFA:
“Người ta không nói rõ. Khi xem phim thì người xem phải hiểu rằng đây là một câu chuyện dựng lên thôi, nó không phải là một bộ phim kiểu mô tả lại lịch sử. Nó chỉ là một câu chuyện tiểu thuyết, không phải là một bài dựng lại lịch sử.”
Một cảnh trong phim Đào, phở và piano (Thanhuytphcm)
Bà Ánh có gia đình nội ngoại đều ở Hà Nội trong thời điểm mà bộ phim nói đến, cho rằng những gì diễn ra trong phim không đúng thực tế.
Theo bà, lẽ ra những người làm phim phải nói rõ nội dung chỉ là "hư cấu" của để tránh sự ngộ nhận cho thế hệ trẻ, những người sinh ra nhiều thập niên sau thời điểm mà bộ phim nhắc đến.
Bà dẫn chứng về sự hiểu lầm có thể gây ra bởi bộ phim này:
“Cái mình sợ nhất ở phim này là cách dựng phim nó làm cho người ta tưởng nhầm Pháp định giết hết mọi người, và người nào ở lại cũng đều chết cả. Nhưng gia đình mình cả hai họ đều sống thời gian đó. Nó vẫn có sự lựa chọn cho người ở lại và người ra đi mà!”
Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ bằng việc quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu tấn công các đơn vị Pháp ở Hà Nội vào đêm 19/12/1946. Khi đó, Chính phủ và các cơ quan nhà nước đã di dời lên chiến khu Việt Bắc, chỉ còn lại một số đơn vị quân sự và đa số là du kích ở lại cầm chân quân viễn chinh Pháp. Nhiều người dân thủ đô sau đó cũng tản cư về vùng nông thôn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều gia đình ở lại trong thành.
Bà cảnh báo người xem phải thận trọng với các chi tiết đưa ra bởi “Đào, phở và piano.”
“Cho nên mình khuyến cáo mọi người hãy coi đây là một câu chuyện có thể có một chút sự thật nhưng mà nó chắc chắn không phải là lịch sử. Cái đấy đáng ra các nhà làm phim làm rõ, giống như các bộ phim lúc đầu người ta nói luôn là cái này không liên quan đến công ty, con người hay gì gì đó. Với một bộ phim tuyên truyền người ta có thể không có nhu cầu làm chuyện đó (cảnh báo- PV) do vậy người xem phim phải có ý thức nhất.”
Bà cũng nhặt ra những hạt sạn của bộ phim này, như cảnh quay chiến trận không thật, lời thoại lại "kịch hóa," và nhiều nhân vật được sao chép lại từ nhân vật trong tác phẩm văn học khác, hoặc nhiều chi tiết vô lý của bộ phim.
Tuy nhiên, theo bà, bộ phim cũng có thành công nhất định, như nói lên nét đặc trưng hào hoa lãng mạn của Hà Nội những năm đó:
“Trên chiến hào, cô gái chơi nhạc cũng vẫn là chơi nhạc Pháp, người ta vẫn hát với bài hát Pháp. Điều mà người Hà Nội thích hay là ít nhất là người ta chỉ có cảm giác rằng nó đúng là tính hào hoa lãng mạn và có một chút Tây phương hoá vào khoảng những năm 1945-1950.”
Bà cho biết cảm xúc mà phim này mang lại lớn khiến bà “chưa từng xem phim gì mà mình khóc quá trời khóc như vậy” cho dù bộ phim “bịa từ đầu đến cuối.” Theo bà, đạo diễn đã rất thành công trong việc tạo nên một khung cảnh bi tráng, hào hoa và lãng mạn, một bài thơ đậm chất Hà Nội đi vào lòng người.
* Cập nhật lúc 8 giờ 32 ngày 23/02/2024
Đính chính tên nhân vật: Sửa Nguyễn Thị Ánh thành Nguyễn Hoàng Ánh