logo-vuot

logo-ConNguoi

Cảm tính, Vô cảm & Tha hóa

acrobat  📂  🏠   

Con người - Người Việt nhỏ - 2 - Giá trị sống

Hãnh diện là người Việt Nam?

Thư gửi các bạn trẻ Việt Nam: Những phát biểu cực kỳ ngu dốt của giới lãnh đạo (Thư số 7)

Câu thơ Tản Đà như sấm (*)

Biến đổi các giá trị sống: Tiếng thở dài u buồn

"Nữ sinh đánh bạn, tung clip": Khủng hoảng giá trị sống?

Bạo lực có mầm mống trong xã hội Việt

Bàn về "những giá trị sống" (1)

Bàn về "những giá trị sống" (2)

Bàn về "những giá trị sống" (3)

Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ

Lớp trẻ cần tự hình thành hệ thống giá trị mới

Hãnh diện là người Việt Nam?

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

khaisang

Lời bình của Nguyễn Văn Tuấn: Hồi còn nhỏ tôi cũng rất tự hào về người Việt, vì tôi nghĩ người mình thông minh và hiếu học. Thời đó, ai nói xấu người Việt là tôi phản đối ngay. Nhưng khi lớn lên, có dịp tiếp cận nhiều nguồn thông tin, thì tôi bắt đầu có cái nhìn khác. Tôi nghĩ người Việt mình chẳng hơn ai, và cũng chẳng hiếu học (bác Hoàng Tụy nói là “hiếu bằng cấp”) hơn ai. Báo chí VN thì cứ tự ru ngủ rằng người mình tài ba, thông minh xuất chúng. Có giáo sư còn lấy mấy cái huy chương thi Olympic ra để chứng minh rằng người Việt thông minh. Thật là ấu trĩ đến mức không ngờ! (Báo chí mà nói như thế thì có thể còn “tha thứ” được, chứ giới khoa học mà nói như thế thì khó nghe quá).

Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nói rằng người mình có thói gian tham, và ông tuyên bố không thể chữa được thói gian tham đó. Mới đọc qua tôi cũng hoang mang, vì không ngờ anh Nhàn mà còn phát biểu mạnh như thế. Nhưng kinh nghiệm của tôi ở Úc thì có phần (chỉ dám nói là “có phần”) nhất quán với nhận định của anh Nhàn. Có khá nhiều gia đình khá giả (có nhà cửa đàng hoàng) dàn kịch để cho bà vợ bị ông chồng hành hung đánh đập có dấu sưng mặt, chảy máu mũi, rồi đi đến các tổ chức tị nạn để xin tá túc. Úc bênh phụ nữ, nên thấy cảnh như thế là cho ở ngay. Tá túc một thời gian, rồi … xin nhà. Căn nhà thứ hai! Nhiều gia đình thành công. Nhưng Nhà nước Úc theo dõi và biết, nên những màn kịch đó bị lật tẩy và xấu hổ cả đám. Sự việc mới bị báo nêu tuần vừa qua, nên làm tôi nhớ đến cái tham của người mình. Tôi chỉ biết hi vọng đó là thiểu số. Nhưng dù là thiểu số thì vẫn ảnh hưởng đến danh dự người Việt.

Do đó, trả lời câu hỏi của ông Huy Phương, “Có hãnh diện là người Việt?”, thì tôi phải nói là “Chưa”. Chưa chứ không phải là “Không”. Tôi nghĩ chỉ khi nào nước mình giàu mạnh lên, người mình văn minh hơn (văn minh như người Thái là tôi mừng rồi) thì lúc đó câu trả lời mới là “Có”. Nhưng lúc đó thì chắc gì tôi còn sống để trả lời. :-)

* * *

Hãnh diện là người Việt Nam?

Người Việt thông minh, chăm chỉ và anh hùng,

thế bạn có hãnh diện là người Việt Nam không?

(Câu hỏi của báo Thanh Niên trong nước)

Trong bài “Ðêm Của Những Cánh Bướm Việt Ở Malaysia” đăng trên nhật báo Người Việt (2009) trước đây, ký giả Ðông Bàn đã vô tình nhắc lại câu nói của giới taxi Kuala Lumpur, “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Thủy, một “cánh bướm đêm” tại Beach Club đã cay đắng hỏi lại những người ký giả cùng quê hương với cô: “Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Câu trả lời tất nhiên là không! Ai lại hãnh diện khi có đồng bào, con em của mình, dù được khen là đẹp phải thất thân đi làm gái mại dâm. Không những được khen đẹp lắm, mà dân địa phương còn một “lắm” nữa, khi nói: “Con gái Việt Nam rẻ lắm!”

Khi Ðông Bàn đang đứng trên đất Malaysia, hẳn ông không thể nào hãnh diện là người Việt Nam.

Chúng ta cũng không hãnh diện là người Việt Nam, nếu chúng ta đang ở Ðài Loan.

Theo số liệu thống kê kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người Ðài Loan trong 14 năm (1995-2008) đã có 117,679 trường hợp, chiếm 82% tổng số phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Trong một đảo quốc nhỏ như Ðài Loan đã có hơn 10,000 phụ nữ Việt bỏ xứ sang đây làm vợ người, dù hạnh phúc hay khốn khổ, thì cũng vì thân phận nghèo đói, tương lai mờ mịt, có vinh dự gì cho đất nước khi đàn bà phải ly hương, với những cuộc hôn nhân không tình yêu chỉ vì đồng tiền. Ðiều khốn nạn nhất là trong tâm ý của người dân đồng bằng Cửu Long, “lấy chồng Ðài Loan” là chuyện mơ ước của tất cả mọi người. Một đôi vợ chồng đem con gái về thăm quê được một người bà con buột miệng khen: “Úi, con bé này ngộ quá, lớn chút nữa lấy chồng Ðài Loan được à nghen!”

Cũng ở Ðài Loan, năm người lao động Việt Nam làm thuê ở một công ty thủy sản địa phương đã hợp lực khiêng lồng đi bắt hai con chó của dân địa phương bỏ vào bao tải, dìm xuống biển cho chết, sau đó mang lên làm thịt.

Ngoài việc phải quỳ hai giờ cúi lạy bàn thờ chó để tạ tội và để quần chúng giảm cơn thịnh nộ, năm người lao động Việt Nam này còn bị phạt 10,000 tiền Ðài Loan.

Câu trả lời cũng là không, nếu chúng ta đang ở Nhật.

Trên nhiều diễn đàn của Nhật, nhiều người Nhật “cực đoan” kêu gọi tẩy chay người Việt, đuổi hết người Việt về nước, cắt vĩnh viễn các khoản viện trợ cho Việt Nam. Có người so sánh viện trợ cho Việt Nam uổng hơn là đổ tiền vào... cống, bởi tiền thuế của họ đang được dùng để nuôi bọn “dòi bọ” ở Việt Nam, sau những vụ: PCP, một tập đoàn cung cấp dịch vụ của Nhật bị Việt Nam đòi hối lộ 15% để được trúng thầu các dự án dùng tiền viện trợ của Nhật tại Việt Nam; Nhân viên, tiếp viên hàng không và phi công Vietnam Airlines, tổ chức đánh cắp hàng hóa trong các siêu thị Nhật để vận chuyển hàng gian về tiêu thụ tại Việt Nam; Các tu nghiệp sinh Việt Nam trước khi sang Nhật đã bị các doanh nghiệp xuất khẩu lao động CSVN bóc lột thậm tệ; Lãnh sự quán Việt Nam ở Nhật tại Osaka tổ chức bán giấy thông hành Việt Nam.

Trong một số siêu thị tại Nhật, có bảng cảnh cáo dành cho người Việt về chuyện ăn cắp vặt sẽ bị vào tù! Bức ảnh đã làm rộ lên tin đồn về nạn ăn cắp vặt của người Việt ở bên Nhật. Nhiều người cho rằng, người Việt đã để lại ấn tượng xấu xa trong mắt người Nhật khi xuất ngoại sang đất nước của họ.

Câu trả lời cũng là không, nếu chúng ta đang ở Singapore.

Trang mạng với tên gọi là Craigslist có mặt tại Singapore đưa thông tin rằng khách hàng có thể lựa chọn “gái Việt còn trinh,” giá khoảng $3,000 một tuần, ngay tại sân bay, khách sạn hoặc bất cứ nơi nào khách hàng yêu cầu. Tình trạng các cô gái Việt Nam bán trinh tại Singapore dường như công khai, ai cũng hay biết. Cảnh sát Singapore cho biết, hầu hết các cô gái Việt còn trinh đều ở độ tuổi từ 16 đến 17, đến và “làm việc” qua nhân vật trung gian, và năm ngoái, tại đây, một cô gái Việt Nam 17 tuổi cũng đã rao bán trinh tiết với giá $1,500!

Câu trả lời cũng là không, nếu chúng ta đang ở Nga.

Các đường dây buôn người đưa hàng nghìn phụ nữ Việt Nam vào các nhà chứa Nga, nhưng Ðại Sứ Quán Việt Nam tại Nga từ chối trả lời câu hỏi của BBC cho rằng cơ quan này không có thẩm quyền để nói về việc này. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Ðình Thắng: “Trong tất cả các trường hợp ở Nga này, thủ phạm là những người Việt được bao che bởi một số giới chức ở Tòa Ðại Sứ Việt Nam ở Nga, thậm chí họ thành Hiệp Hội May Dệt dưới sự bảo trợ của Tòa Ðại Sứ Việt Nam.”

Cảnh sát Nga vừa khám phá một xưởng may “đen” dưới lòng đất tại khu chợ Cherkizov ở thủ đô Moscow, bắt hằng trăm di dân lậu Việt Nam. Nạn buôn lậu của người Việt tại Nga là chuyện xảy ra hằng ngày, có lẽ bởi nguyên nhân trong 80,000 người Việt ở Nga đã có 80% làm nghề buôn bán, phần lớn là chợ trời, mánh mung.

Ở Ba Lan: “Cầm quyền Hà Nội và nhân viên Tòa Ðại Sứ Việt Nam tại Warsaw là một băng nhóm tội phạm có tổ chức, một hệ thống Mafia.” (Ðài báo Weltspiegel Ðức)

Câu trả lời là không, ở mọi nơi trên thế giới.

Trên VietNamNet, người Việt Nam sinh sống ở Nhật, ở Nga, ở Anh, ở Úc, ở Nam Phi, ở Mozambique và ngay cả ở California, đã trình bày những những mẩu chuyện về người Việt đọc xong chỉ muốn “độn thổ,” với bao nhiêu thói hư, tật xấu khác của người Việt từ trong nước đến như trộm cắp, gian dối, đái bậy, khạc nhổ, vứt rác bừa bãi, ăn uống thô tục, tranh giành, chen lấn nơi công cộng, không biết nói cảm ơn, xin lỗi khi cần. Nói về chuyện ăn cắp và ăn cắp vặt thì Việt Nam chắc hẳn bỏ xa đàn anh Trung Quốc. Ngay cả cuộn giấy đi cầu trong khách sạn, khách người Việt cũng không tha.

Một người Việt làm nghề thông dịch cho tòa án và cảnh sát ở Úc, cho biết phần lớn thủ phạm ăn cắp trong siêu thị và trồng cần sa trong nhà là những người mới định cư, đặc biệt những người từ Bắc Việt Nam và du học sinh. Mỗi lần người này đi dịch là anh ta khổ tâm vì cảm thấy nhục nhã cho dân tộc mình.

Trong khi trao đổi chuyện này với một phụ nữ trong nước, bà này đã viết cho chúng tôi: “Năm 2008 vào dịp Tết Nguyên Ðán, tôi được con trai cho di du lịch Doha (Qatar,) sẵn dịp công ty của con bảo lãnh qua chơi Dubai. Nhưng đến chiều về lại Doha thì bị giữ lại phi trường vì nghe nói có chuyện gì xảy ra ở một siêu thị mà có người Việt mình dính vô. Trong khi cả đoàn ‘check in’ thì riêng tôi bị giữ lại vì mang passport CHXHCN Việt Nam. Mang hộ chiếu Việt Nam đi nước ngoài buồn lắm ông ơi!!!”

Lâu nay, người ta nhắc đến hai chữ Việt Nam hơi nhiều, không phải vì “tiếng tăm” mà vì “tai tiếng!”

Như vậy cũng không nên trách câu phát biểu của Ðức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt : “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế.”

Nhân câu nói này, các cơ quan truyền thông tại Việt Nam đã chỉ trích, lên án ông và đặt câu hỏi về lòng yêu nước của ông.

Tôi thì nghĩ khác, vì yêu nước nên ông Ngô Quang Kiệt mới cảm thấy nhục nhã. Tôi cũng không hãnh diện lắm về chuyện làm người Việt Nam, nhưng không phải như vậy là tôi không yêu nước, mà có thể vì lòng yêu nước, biết đâu có tác giả sẽ cho ra đời một cuốn sách mang tên “Người Việt Xấu Xa”.

Chúng ta đang nói chuyện người Việt dưới chế độ Cộng Sản. Ðể công bằng chúng ta nên có thêm một cái nhìn về người Việt ở Mỹ. Ngoài những chuyện được đề cao là làm “vẻ vang dân tộc Việt,” không có gì hơn là xin trích dẫn lời của ông Nguyễn Hữu Hanh, cựu thống đốc ngân hàng VNCH:

“Những năm tiếp theo đó ở nước Mỹ, tôi lại càng thêm ngao ngán và tuyệt vọng. Ngoài một số thành tích sáng chói của sinh viên Việt Nam và một vài thành công đáng kể của các chuyên gia Việt Nam trẻ tuổi, thì cộng đồng người Việt di tản đã gây nên tai tiếng xấu xa trong cái xã hội đã dung dưỡng họ: Bên cạnh những người đang cố gắng làm lụng để nuôi nấng con cái, một số người di tản lại đem qua đây những thói xấu cũ, lừa đảo và chôm chỉa bất cứ khi nào có dịp. Không phải chỉ có những người nghèo khổ phải sống bằng tiền trợ cấp, mà cả những tầng lớp trên (bác sĩ, dược sĩ, những người môi giới cổ phần, mua bán bất động sản, v.v.). Một ngày nọ tại Westminster, bang California, người ta trông thấy 80 vị bác sĩ và dược sĩ Việt Nam bị còng tay dẫn đi sau một toán cảnh sát Mỹ. Xấu hổ thay cho cộng đồng người Việt chúng ta ở đây, và xấu hổ lây cho cả quê hương đất nước chúng ta bên kia nữa!” (“Lời Nói Ðầu” - “Làm việc với các nhân vật danh tiếng thế giới” hồi ký, XB 2004.)

Như vậy, sau một người có tên tuổi trong nước là Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cảm thấy “nhục nhã,” bây giờ một người ngoài nước, lại là một viên chức cao cấp của hai nền Cộng Hòa Việt Nam, cảm thấy “xấu hổ,” một phụ nữ bình thường thì than “buồn lắm!” Thế mà không biết sao thời “chống Mỹ” báo chí miền Bắc lại phịa ra câu chuyện một anh chàng “bá vơ” nào đó tuyên bố: “Mơ ước một buổi sáng thức dậy, thấy mình được trở thành một người... Việt Nam!”

Ông Nguyễn Hồi Thủ khi dịch cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí” đã có nhận xét: “Thường trong lịch sử Việt Nam vốn đã rất ít người thật tình có can đảm và trung thực để tìm hiểu, phê bình, những cái xấu, cái dở của dân tộc mình. Gần đây lại chỉ toàn thấy ca tụng đất nước rừng vàng biển bạc, con người cần cù, thông minh, cao cả, đẹp đẽ, kiên cường, anh hùng, trong sáng... Thậm chí lại có cả người lãnh đạo lấy tên giả viết sách để ca ngợi cá nhân mình, có cả nhà văn bịa tên một người nước ngoài để ca ngợi dân tộc mình.”

Báo Thanh Niên trong nước đã đặt câu hỏi: “Người Việt thông minh, chăm chỉ và anh hùng, thế bạn có hãnh diện là người Việt Nam không?”

Thưa, các yếu tố thông minh, chăm chỉ và nhất là kiểu “ra ngõ là gặp anh hùng,” chưa đủ để tạo thành một con người tử tế và một đất nước tử tế để cho thế giới tôn trọng và yêu mến!

Huy Phương

Theo blog Nguyễn Văn Tuấn

🔝

Thư gửi các bạn trẻ Việt Nam: Những phát biểu cực kỳ ngu dốt của giới lãnh đạo (Thư số 7)

February 24, 2024

baocalitoday

Thân mến chào các bạn,

Mỗi khi mùa Xuân đến, lòng chúng tôi, những người sinh ra thuộc thế hệ trước của các bạn, lại rộn ràng với những bản nhạc Xuân, trong đó, có một bản nhạc mà nếu mùa Xuân không mang theo bản nhạc này, thì Xuân hình như đã mất đi nhiều hương vị: bản “Xuân và Tuổi Trẻ”. Theo Wikipedia, thì bài hát “Xuân và Tuổi Trẻ” được nhạc sĩ La Hối sáng tác vào năm 1944 cho nhóm nhạc công của Hội Hiếu nhạc Faifo, với tên tiếng Pháp đề là “Le printemps et la jeunesse”, mới đầu viết bằng tiếng Hoa, đến năm 1946, đoàn kịch nói của Thế Lữ vào miền Nam, ông đã đặt lời Việt cho bài hát này. Thú thật với các bạn, hồi đó, mỗi khi nghe bản nhạc này được trình bầy với nhịp nhanh của thể điệu Valse, tâm hồn của bao thế hệ miền Nam đột nhiên thấy lâng lâng, sảng khoái, đôi chân cứ muốn lướt đi, và những bàn tay chỉ muốn nắm lấy những bàn tay để bay theo lời ca nhịp nhàng: “Xuân thắm tươi, én tung bay cao tít trời, Vui sướng đi, cao tiếng ca mừng vui reo. Đừng để lòng thổn thức tình mê đắm. Ta trẻ vui, ta trẻ vui đời xuân thắm tươi…”

Mùa Xuân năm nay, cũng nghe nhiều ca sĩ hát bản nhạc này nhưng lòng chúng tôi lại chùng xuống, buồn bã khi nhìn về Việt Nam, thấy những hình ảnh tương phản của cuộc sống hai lớp người cùng mang họ Nguyễn, Lê, Trần. Một bên là những nhà chọc trời với ánh điện sáng choang, những siêu thị khổng lồ với nhiều tầng lớp, những thú ăn chơi không thua gì Hồng Kông, Ma Cao. Trên những con đường sáng rực ấy, có những “nàng Tiên sa đọa”, diện áo quần lộng lẫy để đón khách làng chơi, những người sẵn sàng bỏ ra cả vài trăm triệu cho một lần hưởng lạc, những cô gái trần truồng đứng trên xe gắn máy láng o, vừa cười khoái trá vừa vỗ đồm độp vào những chỗ kín đáo của phụ nữ trước nhóm thanh niên vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Trong những biệt phủ xây bằng mồ hôi nước mắt của công nhân lao động, những bản ký kết trao đổi hàng trăm triệu đôla Mỹ được chan hòa bằng rượu mạnh cất từ thế kỷ trước. Tại các trường học, nam sinh đứng cười ha hả quay phim các nữ sinh lớp 9, lớp 10 xắn tay áo đánh nhau, lột trần nhau ra trước các cặp mắt hoang dại của lớp thanh thiếu niên sống chỉ vì mong được đi làm lao công nước ngoài hay bán mình làm nô lệ tình dục cho Nam Hàn, Quảng Đông…

Trong khi phẫn nộ với những hình ảnh sa đọa ấy, chúng tôi lại nhỏ lệ khi thấy những hình ảnh khác của những người nghèo mà chúng tôi đặt tên là “cuộc sống của những Zombies”, nghĩa là những người đang sống vật vờ như những xác chết biết đi, những bà cụ lưng còng gánh mớ rau hay nải chuối bên đường gió bụi, những em bé bán vé số, tối ngủ trên mặt đường ướt nhẹp, hoặc trong những mái lá dột nát, những gia đình sống trên bờ kinh rạch hôi thối, rác rưởi, đầy phân người, phân chó và các chuột chết, những cha mẹ chỉ mong cho con mình được ăn những món dư thừa mà giới Tư Bản vất ra thùng rác.

Tại sao xã hội Việt Nam ngày nay lại xấu xa, đáng ghê sợ như vậy? Thực tế lịch sử cho thấy rằng cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thật ra là một “Chế độ Người Bóc Lột Người” của thời Phong Kiến, Thực Dân, nhưng tinh vi gấp trăm lần các chế độ Phong Kiến, Thực Dân xưa cũ. Các Chủ Tịch, Bí Thư Phường, Xã, Thành Phố hiện nay là những Lý Trưởng, Trương Tuần, Hương Cả, của thế kỷ 19 đã được hiện đại hóa, nên tham nhũng và bóc lột nhân dân tinh vi hơn thời trước. Chính Nguyễn Phú Trọng đã công nhận rằng: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.” Khi nói về Quốc Nạn tham nhũng từ Bộ Chính Trị, từ Trung Ương Đảng trở xuống, Tổng Bí Thư Trọng đã bênh vực Quốc Nạn này như sau: “Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải hối lộ. Bước chân sang nước Phật đã phải hối lộ…Cho nên chúng ta phải xem xét, bĩnh tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt”. Trong khi chỉ diệt tham nhũng lấy lệ, Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng đã phớt lờ đi ba chính sách nhằm tiêu diệt nhân dân, biến nhân dân thành những kẻ khốn cùng: Sắc Lệnh Đổi Tiền (hai lần), chính sách Cải Tạo Tư Sản, và Kinh Tế Mới.

Sắc Lệnh Đổi Tiền là một kế hoạch “cướp cạn” toàn thể nhân dân, đặc biệt là Ba Chục Triệu nhân dân Miền Nam, buộc mỗi gia đình chỉ có được 200 đồng, trong khi thì các Đảng Viên, các Lãnh Đạo từ cấp Phường đến Trung Ương thì không lệ thuộc vào Sắc Lệnh này, nghĩa là trong khi nhân dân chỉ có 200 đồng, thì các Cán Bộ tha hồ có thể sở hữu từ vài trăm ngàn đến cả tỷ đồng. Từ đó, có sự sai biệt giữa hai tầng lớp: Đảng và Nhân Dân. Chưa đủ lòng tham, Bộ Chính Trị lại ra lệnh Cải Tạo Tư Sản, nghĩa là bắt nhốt giam tất cả những ai có gia sản tích lũy từ bao đời, để tịch thu tài sản của họ, rồi buộc toàn thể nhân dân miền Nam phải đi Kinh Tế Mới, để lại nhà cửa, tài sản cho cán bộ hưởng thụ. Vì thế mà hàng triệu dân miền Nam lê thê, lếch thếch biến thành những kẻ không nhà, “homeless”, “ăn mày, ăn nhặt”, đầu đường xó chợ. Khi còn đấu tranh, Đảng đã tạo ra cái Bánh Vẽ “Đảng Của Công Nhân và Nông Dân”, để lôi cuốn Công Nhân và Nông Dân đi theo, hy sinh máu xương mình cho các lãnh đạo Đảng hưởng thụ. Sau khi đã đạt được mục tiêu, đánh đổ chế độ Nhân Bản-Tự Do của miền Nam theo lệnh của Trung Cộng, thì cả guồng máy cầm quyền lại thành lập một chế độ Tư Bản Mới, giầu sang hơn cả Tư Bản Á Châu. Chủ Tịch, Bí Thư, Giám Đốc đều sở hữu từ vài trăm triệu đến cả Tỷ Đôla Mỹ. Lãnh đạo tha hồ chiếm dụng đất công, đất tư dưới chiêu bài “cưỡng chế” để xây biệt phủ nguy nga, dát vàng 24 lên nóc nhà, thuê cả trăm công nhân là đầy tớ phục vụ cho các chủ Lâu Đài ấy. Đảng ra khẩu hiệu: “Chống Mỹ, cứu Nước”, rồi lại cho con cháu đi du học ở Mỹ, hàng năm nhét tiền cho con cháu vài trăm ngàn đô la, để chúng mua tài sản, đất đai ở Mỹ, học lấy bằng cấp Mỹ, rồi chơi xe “siêu sang” của Mỹ, mỗi chiếc xe cả vài trăm ngàn đô la Mỹ. Có kẻ lại chơi một chiếc xe đến gần Hai Triệu Đô La.

Vì thế mà bây giờ ai gọi chế độ này là Xã Hội Chủ Nghĩa thì một là kẻ điên từ nhà thương Chợ Quán mới ra, hai là chính các Quan Cai Trị Thực Dân, Phong Kiến của Thế Kỷ 21.

Một yếu tố quan trọng đã làm cho xã hội thối nát cùng cực là sự Thất Học, Thiểu Trí của các cán bộ lãnh đạo. Khi không có học vấn, không có tri thức thì bạ đâu làm đấy, thích gì nói nấy. Qua các phát biểu của lãnh đạo, từ Bộ Trưởng, Bí Thư, hay Giám Đốc, xuống đến Chủ Tịch Phường, Xã, nhân dân nhận thấy rằng trí não của lãnh đạo chỉ nhỉnh hơn cháu bé 9, 10 tuổi. Đa số Tiến Sĩ, Giáo Sư, Phó Giáo Sư chỉ có trình độ tương đương Lớp Ba Trường Làng mà thôi.

Với tri thức kém cỏi như thế, thì tại sao họ lại được bổ nhiệm làm lãnh đạo? Theo thông tin từ trong nước, hầu hết lãnh đạo từ cấp Phường, cấp Quận, đến Bộ Trưởng, Trung Ương đều là “CCCCC”, nghĩa là “con cháu các cụ cả”, được Trung Ương đề bạt dựa theo tình liên đới họ hàng, hoặc theo công trạng Nịnh Đảng, chứ không có thi tuyển, không cần tài năng, bằng cấp thứ thiệt. Ngay cả đến thư ký văn phòng Phường, mà không có thần thế, thì cũng không thể được nhận. Vì thế, nếu họ ngậm miệng ăn tiền, không mở miệng nói thì thôi, nhưng nếu mở miệng ra là nói tầm bậy tầm bạ, ngớ nga ngớ ngẩn, ngu ngu ngốc ngốc, như kẻ bị bệnh tâm thần.

Mời các bạn theo dõi một số nhỏ những phát ngôn Lớp 3 trường làng cùng bản chất độc ác của người Cộng Sản dưới đây.

-Phó Chủ Tịch QH Phùng Quốc Hiền: “Việt nam là cô gái đẹp, tất cả cơ thể chỗ nào cũng đẹp. Chúng ta phải lựa chọn những bàn tay tinh túy nhất, chứ không phải là bàn tay nào cũng cho (1) vào.”

-TS Khoa Học Lương văn Kế, giảng viên đại học Hà Nội: “Nếu không tham, người Việt không thể phát triển. Đạo đức giả hiện nay đang là chuẩn mực văn hóa. Người nào không biết giả dối, không biết bịa đặt thì không thể phát triển.”

-Nguyễn văn Đực, Phó Giám Đốc công ty địa ốc Đất Lành: “Người nghèo nên cuốn xéo về quê. Tôi dị ứng với người nghèo.”

-Phó Giáo Sư, Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Oanh, giảng viên Học viện Báo Chí và Tuyên Truyền: “Tôi đã đọc báo Phụ Nữ việt Nam từ khi còn chưa biết chữ?” (2)
-Nguyễn tiến Dũng, Phó Giám đốc Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh Ninh Bình hăm dọa người kiện mình: “Cả gia đình nhà mày chết, tao đi tù cũng được.”

-Tiến Sĩ Bùi Hiền, người chế tạo ra loại chữ dành cho người bị bệnh tâm thần“: Nghành Y Học Việt Nam vừa phát hiện mới nhất: “Người đã chết thì trái tim ngừng hoạt động.” (Lưu ý chữ “Nghành” viết sai văn phạm, và chú thích (3) bên dưới)

-Trần Xuân Giá, Phó chủ nhiệm Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước, Bộ Trưởng Kế Hoạch và đầu tư, giảng viên trường Đại Học Kinh Tế: “Bảo bối của tôi hiện nay là cái mà pháp luật không có quy định, không cấm thì doanh nghiệp và người dân được làm. Trước năm 1989 khi Luật Doanh nghiệp chưa ra đời, người dân làm bất kỳ việc gì miễn là nhà nước cho phép, còn sau đó, thì được phép làm bất kỳ việc gì mà pháp luật không cấm.” (4)

-Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình: “Người ta tìm ra bộ ba bất khả thi giữa tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá, ông đó được quốc tế cho giải thưởng Nobel. Vậy mà hiện nay chúng ta phải vừa làm sao kiềm chế được lạm phát mà vẫn phải tăng trưởng. Tôi đã có lần nói đùa với Chủ tịch quốc hội là em chỉ cần nửa giải thưởng Nobel cũng được, nếu em làm được một trong hai”.

-Bộ trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến: “Bệnh nhân và người nhà hãy dứt khoát không đưa phong bì và nếu thấy bác sĩ, điều dưỡng nào nhận thì chụp ảnh, gửi cho chúng tôi.”; “Nếu là lỗi của Vắc Xin, thì xử Vắc Xin”, “thiếu giường bệnh thì hỏi Nhà Nước”. Khi đến thăm một bệnh viện nhơ nhớp, Bộ Trưởng Y Tế bịt mũi và nói: “Nếu tôi là bệnh nhân, tôi không bao giờ vào cái bệnh viện nhơ bẩn này”

-Thiếu tướng Phan Anh Minh – Phó Giám đốc Công an TPHCM: “Ít năm trước, thành phố hô hào bắt tội phạm nhưng sau đó, một năm lại phải đặc xá một đến hai lần vì trại giam quá tải chứ không phải do phạm nhân cải tạo tốt”

-Trần Trọng Dực – chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, đại biểu HĐND TP Hà Nội cho biết: “Tôi xin mách với các đồng chí lãnh đạo quận, huyện là trưởng phòng Nội vụ của các quận, huyện đang là đầu mối tiếp nhận hồ sơ và nhận tiền chạy của các thí sinh để được đỗ công chức và số tiền không dưới 100 triệu đồng…”

-Bùi Huy Thanh – chánh Văn phòng UBND tỉnh Hưng Yên: “Quan điểm chỉ đạo về vụ việc này là xử lý nghiêm khắc nếu đúng đó là sai phạm của lực lượng chức năng. Chúng tôi mong hai nhà báo cung cấp băng gốc cho cơ quan công an vì phải có đầy đủ vật chứng, nhân chứng mới sớm xử lý được. Hơn nữa, cũng phải xem lúc bị đánh các phóng viên có xưng là nhà báo không, có thẻ hành nghề không hay là khi bị đưa về cơ quan công an mới xưng là nhà báo? Vấn đề này cần làm rõ mới xác định được tính chất vụ việc”. (5)

-Đại Biểu Quốc Hội Đặng Thành Tâm: “Tôi chỉ ước được trở về ngày xưa. Không phải mình tôi đâu, những anh khác nằm trong danh sách giàu nhất nhì sàn chứng khoán cũng ước mơ như vậy đấy. Ngày xưa làm ít, nợ ít, không canh cánh nỗi lo nợ nần. Ước như thế chả khác nào bảo mình trở về với máng lợn sứt mẻ, nhưng máng đó là của mình còn tốt hơn sống trong lâu đài xa hoa nhưng không phải của mình, lại canh cánh nỗi lo bị tù.”

-Đinh La Thăng Bộ trưởng bộ Xây dựng: “Bộ Xây dựng chả làm gì trong khi vai trò của Bộ Xây dựng cực kỳ quan trọng trong việc phê duyệt quy hoạch và thỏa thuận quy hoạch”. “Việc đóng phí thể hiện sự yêu nước nên người dân phải thấy hạnh phúc và tự hào. Khi nào người dân đóng đủ các loại phí cho các phương tiện ô tô, xe máy,… có nghĩa là “yêu nước”.

-Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ Công Thương: “Quy hoạch thủy điện mang tính đặc thù… Đây là quy hoạch của cả nước chứ không riêng của Chính phủ, hay của Bộ Công Thương. Chúng ta đang nói về chúng ta, chứ không phải nói về Chính phủ hay về bộ ngành này, bộ ngành khác?” (6)

-Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Nguyễn Thái Bình: “Do đây là vấn đề nhạy cảm, tế nhị, nên chúng tôi đã đọc kỹ các văn kiện của Đảng, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XI đánh giá cán bộ là khâu yếu, tình trạng chạy chức, chạy quyền vẫn chưa được khắc phục… Chúng tôi coi đây là tài liệu gối đầu giường để nghiên cứu giải pháp khắc phục!”

-Phó Chủ Nhiệm UB Tư pháp Nguyễn Đình Quyền: “Cơ quan điều tra Việt Nam được coi là một trong những cơ quan giỏi nhất thế giới. Quá trình điều tra của Việt Nam rất nhanh. Khóa trước chúng tôi làm việc với Cục điều tra Liên bang Mỹ, FBI, thì thấy án an ninh quốc gia, giết người cướp của của ta điều tra rất giỏi, vì công cuộc phòng chống tội phạm của ta dựa vào nhân dân”.

-Bộ Trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng: “Công tác đấu tranh của riêng Quản lý thị trường đã cố gắng nhưng phương tiện công cụ vừa yếu, vừa thiếu. Một câu chuyện có thật là, ở nhiều nơi thanh kiểm tra, anh em cán bộ phải dùng miệng để kiểm tra chất lượng phân bón!” (7).

-Ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo Vệ Thực vật: “So với quy định, loại (hoa quả bị nhiễm độc từ Trung quốc) nhiều nhất cũng chỉ cao hơn 2-3 lần. Mức này là cực kỳ an toàn và người tiêu dùng đã sử dụng số hoa quả bị phát hiện nhiễm độc vẫn đang còn rất an toàn”.

-Phạm Vũ Luận, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: đang chuyển từ “Một lớp 40 cháu” thành “40 cháu một lớp”

-Nguyễn Văn Phong, Phó trưởng Ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội: “Đây không phải là lần đầu tiên xảy ra sự cố vỡ đường ống nước sông Đà, chắc cũng không phải lần cuối cùng, sẽ còn vỡ vài lần nữa”,

-Đào Đức Toàn, Trưởng ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội: Trong một xã, huyện thì quan hệ họ hàng là khó tránh khỏi” (8)

-Phó Tiến Sĩ, Giáo Sư Lê Thị Hồng Xuân: Có thể trang bị cho người dân mỗi nhà một cái lu nước to để chứa nước mưa. Đây cũng là một giải pháp chống lụt bên cạnh các công trình chống ngập lụt khác”. (Bà này được nhân dân ưu ái đặt tên là Tiến Sĩ Lu)

-Bộ trưởng Tài Nguyên và Môi Trường Trần Hồng Hà: tình trạng ngập lụt ở Hà Nội là do “thời tiết cực đoan”. “biến trường học, sân vận động, và các cánh đồng thành nơi chứa nước để “tránh ngập các nơi xung yếu”. “Không chỉ ở Việt Nam, mà ở các nước tân tiến như Mỹ và Châu Âu, mà mưa lớn bất thường như vậy, lại tập trung vào một điểm thì không hạ tầng nào có thể chống chịu được.”

-Ngày 24 tháng 2 năm 2024: Cầu treo ở bản Chu Va 6, xã Sơn Bình (huyện Tam Đường – Lai Châu) bị sập khiến cho hàng chục người đang đi đưa tang rơi xuống suối, 8 người thiệt mạng, lãnh đạo Huyện nói: “Cầu sập vì người đi đưa ma đi nhanh quá”.

Các bạn thân mến,
Trên đây chỉ là một số nhỏ những câu nói chứng tỏ trình độ nhận thức của các lãnh đạo còn trong tình trạng sơ khai, chỉ nhỉnh hơn các em bé Tiểu Học một chút, vì thế mà xã hội không tiến triển được. Mặt khác, một yếu tố gây ra sự ngăn cách giầu nghèo đến mức “cực đoan” (theo lời một ông Bộ Trưởng), chỉ là vì hai chữ “Quyền” và “Lợi” mà Đảng Cộng Sản đã sử dụng nhân dân như những đầy tớ của mình theo nguyên tắc “Kẻ nào không theo ta là kẻ thù ta”. Đảng sẵn sàng choàng còng số 8 vào bất cứ tiếng nói nào đòi cải tổ, đòi trong sạch hóa cán bộ. Một lãnh đạo đã nói: “Nếu bắt hết tham nhũng thì còn ai làm việc?” Vì thế mà nhân dân có đầu không được nghĩ, có mồm không được nói, chỉ biết nhắm mắt làm ngơ trước những bất công khủng khiếp đang tồn tại và sẽ tồn tại đến khi nào mà Đảng Cộng Sản còn cầm quyền.

Với những chứng minh kể trên, mong các bạn nhận thức được cái “VÔ LÝ, VÔ NGHĨA, VÔ LƯƠNG TÂM, VÔ GIA ĐÌNH, VÔ TÍN NGƯỠNG, VÔ TỔ QUỐC” của cái chế độ Tư Bản Đỏ này (9), từ đó mà chọn cho mình một chỗ đứng tích cực trong việc dựng lại một nước Việt Nam thực sự Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, bảo vệ nền văn hóa nguyên thủy, cũng như dẹp bỏ cái bánh vẽ mà Đảng ban phát cho toàn dân Việt.

Chân tình chúc các bạn Sức Khỏe cả Tinh thần lẫn Thể chất để xứng đáng là Những Đứa Con Yêu Quý của Mẹ Việt Nam.

Chu Tất Tiến. Đầu Năm Con Rồng 2024.

Chú thích:

(1) Ví Việt Nam như một thứ gái gọi, mời khách ngoại quốc đến hưởng thụ.

(2) Không biết chữ, sao đọc được sách báo?

(3) Tiếng Việt ngu xuẩn của Bùi Hiền, kẻ muốn xóa hết lịch sử dân tộc, làm lợi cho Trung Cộng. Một khi thế hệ sau này học theo loại chữ này, chúng sẽ không thể đọc được sách lịch sử cũ:
C = Ch, Tr; D = Đ; G = G, Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; X = Kh; W =Th; Z = D, Gi, R; N’ = NH

Thí dụ:

TRẦN ANH CHỨC = CẦN AN CỨK,

TRẦN TRẦM CHU = CẦN CẦM CU

TRẦN CHU ĐÀI = CẦN CU DÀI

TÔI GẶP TRỤC TRẶC = TÔI GẶP CỤC CẶC

CẤM ĐÁI, CẤM KHẠC NHỔ = CẤM DÁI, CẤM XẠC NỔ,

ANH NẮM CHẶT TÔI, EM NẮM CHẶT ANH = ANH NẮM CẶT EM, EM NẮM CẶT ANH,

HỒ CHỦ TỊCH SỐNG TRONG QUẦN CHÚNG = HỒ CỦ TỊQ SỐQ COQ KUẦN CÚQ

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG NẮM CHẶT DÂN = TỒQ BÍ WƯ QUYỄN FÚ CỌQ NẮM CẶT DÂN

(4) Hai mệnh đề này là một.

(5) Hai nhà báo bị bắt và bị đánh tơi bời, cho dù đã đưa ra thẻ hành nghề.

(6) Không ý nghĩa gì.

(7) Dùng miệng lưỡi thử phân bón?

(8) Bộ máy chính quyền tại huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội có 13 phòng, ban thì hơn 10 người là anh em, họ hàng với lãnh đạo huyện.

(9) Chế độ Tư Bản đỏ này hoàn toàn đi ngược lại quan điểm của Karl Marx và Engels về Chủ nghĩa Cộng Sản.

🔝

Câu thơ Tản Đà như sấm (*)

Thạch Giản

06:46 CH @ Thứ Ba - 14 Tháng Bảy, 2015

chungta

Chẳng ai hiểu dân tộc mình bằng các nhà văn nhà thơ, bởi lẽ họ là người chép sử của dân tộc, họ nói lên tiếng nói của dân tộc.

Nhà văn Phùng Tuyết Phong hồi thập niên 30 đến thăm Mao Trạch Đông ở chiến khu Thụy Kim có kể cho Mao nghe: “Một người Nhật nói, cả Trung Quốc chỉ có 2 người rưỡi hiểu được người Trung Quốc. Một là văn hào Lỗ Tấn, hai là Tưởng Giới Thạch, nửa người kia là Mao Trạch Đông”. Nghe xong, Mao cười ngất: Hảo, cái tay Nhật Bản ấy nói đúng lắm!

Hai thập niên sau, Chủ tịch Mao nói: Lỗ Tấn mới là đệ nhất thánh nhân của Trung Quốc, còn tôi (Mao) chỉ là “hiền nhân”.

Ở ta cũng có nhà thơ Tản Đà chỉ dùng hai câu thơ là đủ nói lên tính cách dân tộc mình:

Dân hai nhăm triệu ai người lớn

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.

Thằng trẻ ranh này xin múa rìu qua mắt thợ để lạm bàn về tính trẻ con của người Việt ta.

Trẻ con ai chẳng hồn nhiên? Vì thế nếu có lỗi lầm gì thì thiên hạ cũng bỏ qua. Còn nhớ năm xưa Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đến thăm Trung Quốc. Sau khi Bác Hồ làm cụ Mao đớ người ra vì cái ôm hôn nồng thắm chưa từng có trong lịch sử ngoại giao thế giới, toàn bộ lưu học sinh Việt Nam có mặt ùa tới ôm lấy Bác, có anh sờ cả râu Bác. Cụ Mao đứng như trời trồng; mấy cán bộ bảo vệ Trung Quốc cuống lên không biết làm thế nào để bảo vệ hai lãnh tụ. Nghe nói sau đấy họ bị kiểm điểm gay gắt lắm, còn học sinh ta thì chẳng sao.


Trẻ con thích gì?

Thích hình thức. (Già được bát canh, trẻ được manh áo mới). Bệnh hình thức của ta có lẽ nặng nhất thế giới. Cứ xem đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội thì đủ rõ. Chẳng thấy thủ đô sạch hoặc văn minh thêm, mà có lẽ ngược lại, trong khi tiền tỷ tiêu cả trăm, nghìn.

Thích được khen, ghét bị chê. Gặp người nước ngoài bao giờ cũng hỏi họ thấy Việt Nam thế nào. Vì phép lịch sự, ai lại chê chủ nhà bao giờ. Nhà đài ta phỏng vấn chính khách, nguyên thủ nước ngoài không bao giờ thiếu câu hỏi ấy (xem phỏng vấn Ban Ki-mun ... mới đây). Được khen thì hý hửng lắm. Sao không hỏi có thấy chúng tôi có khiếm khuyết gì? Một tiến sĩ tâm lý viết sách nói về tính cách người Việt, sách in xong bị thu hồi ngay khi chưa kịp bán.

Thích khoe khoang.Vì còn bé nên chỉ có thể khoe bố mẹ, ông bà, chứ bản thân có gì để khoe. Bệnh ca ngợi, khoe khoang tổ tiên rất thịnh hành (“Ăn mày dĩ vãng”). Thời cách mạng, kháng chiến, cha ông ta vô cùng giỏi. Nhưng chúng ta bây giờ giỏi cái gì? Tham nhũng, lãng phí, giả dối, đạo văn, đạo công trạng người khác thành của mình, chạy chức ... Chẳng hiểu có cái gì xấu của xã hội tư bản mà ta còn thiếu?

Trẻ con làm gì cũng khác người lớn.

Ta có lắm cái khác thiên hạ đến kỳ cục. Một ông Giám đốc Sở tỉnh Hà Tây cũ lái ô tô cán phải hai bố con đi xe máy, không đỗ xe đưa người ta đi cấp cứu (nếu cấp cứu kịp có thể sống) mà vô lương tâm lái xe vù mất. Hai mạng người chết, ông này lĩnh cái án treo! Kỳ cục là Tòa Tối cao cũng bỏ qua. Chuyện này đáng ghi vào Sách Ghi-nét về xử án công bằng.

Bài Tiến hay lùi đúng lúc cũng là yêu nước trên VietnamNet vạch ra: “Từ tháng sáu (2010) đến nay có quá nhiều điều phải bàn, (đó là) những câu chuyện ... an nguy của xã tắc” :

- Cho nước ngoài thuê khoảng 340.000 hec ta đất rừng với giá 1 hec ta bằng 10 bát phở; - Dự án đường sắt cao tốc với dự kiến 56 tỷ USD bị Quốc hội bác;

- Quy hoạch chung Hà Nội với sáng kiến dời đô và tiêu hủy đất nông nghiệp kỷ lục; - Dự án Bô xít ở Tây Nguyên, quả bom nổ chậm bùn đỏ lơ lửng treo trên đầu dân tộc; - (Con tàu) Vinashin với khoảng 86.000-120.000 tỷ đồng tiền ngân sách (thuế dân) đang chìm theo làn nước lạnh.

Tác giả bài báo đưa ra một từ rất hay Tư duy bỗng dưng: - Bỗng dưng phải làm đường sắt cao tốc; - Bỗng dưng phải dời đô lên Ba Vì; - Bỗng dưng phải khai thác bô xít ... Khó mà kể hết những cái bỗng dưng ấy. May mà dân chúng, các nhà trí thức mạnh dạn góp ý (tuy rất dè dặt), nếu không thì còn phí vài trăm tỷ đô vì cái tư duy bỗng dưng cả thế giới không có.

Đúng là tư duy trẻ con. Bỗng dưng nghĩ ra và “quyết” làm ngay, chẳng hề cân nhắc tính toán. Lại thích làm chuyện lớn trong khi chưa biết nó ra sao. Tiền của bố mẹ (tức của dân) cho nên không xót, chậc lưỡi một cái là xong. Bố mẹ xót ruột nhưng thương con nên bỏ qua.

Trẻ con dễ tính và dễ quên. Tính cách này vừa hay vừa dở. Hay ở chỗ không thù dai, sẵn sàng bắt tay kẻ thù cũ khi họ chơi đẹp. Dở ở chỗ hay quên chuyện lớn. Chuyện to đùng là mỗi con dân tự dưng è cổ gánh món nợ cả triệu bạc thì không dành phiên họp riêng để bàn, trong khi chuyện 20 năm nữa may ra mới làm (đường sắt cao tốc) thì bàn tới bàn lui, lại còn bỏ phiếu thông qua nữa, chưa kể trước đó một số vị còn đi nước ngoài tham quan bằng tiền dân!

Báo chí khoe GDP tăng trưởng mấy phần trăm, nhưng ít nói tới giá cả tăng chóng mặt.

Trẻ con hay chối lỗi. Một vị hoa tay tươi cười nói như ra lệnh trong kỳ họp Quốc hội trước: Ta nhất định phải làm đường sắt cao tốc. Kỳ họp này chẳng thấy vị nào ra phân trần về vụ Vinashin. Rồi xem, có ai từ chức vì chuyện “bỗng dưng” mất 4-5 tỷ đô-la này.

... Trẻ con thì lắm chuyện lôi thôi, rông dài kể mãi sao hết. Mong bạn đọc bàn thêm.

Dân tộc Việt Nam không thể mãi mãi trẻ con, mà phải trưởng thành, tiến vào hàng ngũ những dân tộc tiên tiến. Nếu đất nước có bé về diện tích thì cũng là bé hạt tiêu – như Nhật Bản, Hàn Quốc, Israel, chẳng sợ gì nước lớn. Huống chi ta đứng thứ 13 thế giới về số dân.

Muốn vậy phải dựa vào dân, phải cho dân được thật sự tự do nói, sao cho “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, chớ có vì lợi ích của một số người hoặc nhóm. Phải khai thác tối đa trí tuệ của dân. Người Việt không thua kém mặt bằng chung tri thức của nhân loại. Ngô Bảo Châu đã cho thấy Việt Nam là dân tộc thứ hai ở châu Á giành được giải Nobel Toán cao quý.

Dẫu có thế nào thì trẻ con cuối cùng vẫn thành người lớn, vì có sự dạy dỗ của cha mẹ, của xã hội. Nhưng một dân tộc thì ai dạy dỗ? Nếu không phải là chính chúng ta, những người chủ của đất nước này. Cả tôi lẫn bạn hãy suy ngẫm, hãy kiểm điểm thật kỹ bản thân, vì tư duy của chúng ta hãy còn trẻ con lắm, dù đã 4000 năm tuổi.

Lạy cụ Tản Đà, mong cụ linh thiêng chỉ bảo chúng con vài lời.n

(*) tên bài do Trần Nhương đặt lại. Tên của tác giả là "Nước 4000 năm vẫn trẻ con"

Nguồn:Blog Trần Nhương

🔝

Biến đổi các giá trị sống: Tiếng thở dài u buồn

chungta

PGS. TS. Huỳnh Văn Sơn

08:01 CH @ Thứ Bảy - 12 Tháng Bảy, 2014

Định hướng giá trị là một thành phần quan trọng trong nhân cách của con người.

Giá trị theo quan điểm của mỗi người sẽ ít nhiều khác biệt nhưng nhìn chung nó được thống nhất theo những chuẩn mực quy định của xã hội. Lẽ đương nhiên, từ sự ảnh hưởng này nên những thay đổi trong đời sống xã hội ít nhiều đều có tác động đến hệ thống giá trị mà mỗi cá nhân quy định cho bản thân để sống và lao động trong cuộc đời họ.

Từ sự đổi thay những giá trị nhân văn

Lối sống thực dụng ngày càng lan truyền nhanh trong đời sống xã hội, nhất là giới trẻ.

Những hiện tượng về tính bạo lực, tính giả dối hay sự không chung thủy khiến con người ngày càng mất niềm tin vào nhau. Như một phản ứng tự vệ mang tính tất yếu, cá nhân có sự chuyển đổi thu mình, bảo vệ bản thân bằng những quan điểm trái ngược nhằm giảm tối đa nhất sự tổn thương về mặt tâm lý.

Người ta đã không còn dễ dàng cho người ăn xin vài đồng tiền lẻ vì nghi ngờ đó là ăn xin giả. Người ta không dám dừng chân giữa đường để đưa bà lão qua đường vì sợ bị mọi người mắng là cản trở giao thông hay lo chuyện bao đồng, hay sợ bị giật đồ, cướp xe...

Sự nghi ngờ mang tính cộng đồng dẫn đến sự thay đổi giá trị nơi cá nhân. Những giá trị về lòng nhân ái, tính vị tha được ông cha ta dạy dỗ, lưu truyền thì giờ đây giới trẻ sợ bị lợi dụng nếu áp dụng triệt để những giá trị ấy. Chính vì vậy, họ phân vân trước những quyết định mang tính nhân văn. Khi quyên góp tiền nhân đạo họ cũng đặt câu hỏi: Liệu số tiền này có đến tận tay người cần giúp đỡ?...

Theo công trình nghiên cứu đề tài khoa học năm 2010 về sự lựa chọn các giá trị trong định hướng lối sống của chúng tôi, cho thấy tỷ lệ rất cao là có đến 41% sinh viên đồng ý không nhất thiết phải sống cao thượng vì đôi khi cao thượng lại là mù quáng, 36% đồng ý làm việc theo lương tâm sẽ bị thua thiệt và 28% có tư tưởng trả thù, báo oán. Bên cạnh đó, có 18% sinh viên chấp nhận đưa lợi ích cá nhân lên trên hết và không bao giờ quan tâm đến ai nếu không liên quan đến mình.

Sự thay đổi hay nói một cách mạnh mẽ hơn sự biến đổi nơi giá trị con người không thể đổ lỗi cho sự tác động về mặt xã hội, hoàn cảnh xã hội khiến cá nhân mất niềm tin vào những giá trị mang tính nhân văn mà ảnh hưởng lớn nhất cần bàn đến là gia đình.

Cuộc sống bận rộn, cha mẹ ít có thời gian giáo dục con cái hơn. Nếu như trước đây, phần lớn những giá trị truyền thống đều do ông bà, cha mẹ truyền đạt hay răn dạy con cháu qua những bữa cơm gia đình thì dường như ngày nay những điều ấy đã khá lạ lẫm.

Công nghệ thông tin quá phát triển, mỗi thành viên trong gia đình giao tiếp với nhau qua công nghệ là chủ yếu. Thời gian ăn cơm, xem phim cùng nhau rất ít huống chi ngồi bên nhau để tâm tình, chia sẻ... Và giới trẻ chủ yếu giao lưu trên thế giới ảo hoặc bạn bè - trong khi đây đều là những kênh thông tin chưa có sự chín chắn về nhân cách cũng như độ chính xác không cao.

Chính vì vậy, họ có thể dễ dàng bị chi phối và định hướng sai lệch. Sự gắn bó và yêu thương đối với gia đình cũng suy giảm. Vì vậy, trong cuộc sống hiện nay không ít hiện tượng cha mẹ con cái mâu thuẫn, con tranh giành tài sản, giết cha mẹ hay đuổi cha mẹ ra khỏi nhà khi già cả.

Giá trị về lòng hiếu thảo ngày một lỏng lẻo. Không ít thanh thiếu niên cho rằng đến 18 tuổi mình có quyền bình đẳng với cha mẹ nên có thể thẳng thừng đưa ra quan điểm mà không sợ làm tổn thương bậc sinh thành.

Trong phạm vi quan hệ gia đình, nghiên cứu cho thấy có đến 60% sinh viên đổ mọi trách nhiệm nuôi dạy con cái lên cha mẹ mà không thừa nhận trách nhiệm của chính bản thân những người con.

Đến sự đổi thay các giá trị văn hóa

Cá nhân ngày nay dễ dàng chấp nhận với những hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội hơn và đôi khi xem đó là trào lưu của xã hội hiện đại. Lòng tự trọng được hạ thấp và cái tôi ảo được nâng cao. Họ sẵn sàng nói sai sự thật về cá nhân khác hay khoe thân thể để đánh đổi sự nổi tiếng, sự giàu có cho riêng mình.

Một tỷ lệ khá cao, 31% sinh viên chấp nhận hành động mà không quan tâm xem có ảnh hưởng đến người khác hay không. Một số hành vi được xem là lối sống văn minh được xem là “sến”, là “rảnh hơi” khi nghiêm túc thực hiện. Người tốt thực hiện đúng thì bị chỉ trích. Người xấu thực hiện sai được xem là sống có cá tính.

Chính vì vậy, việc xây dựng lối sống văn minh như xếp hàng nơi công cộng, nhường chỗ trên xe buýt, nói lời xin lỗi - cảm ơn, bảo vệ cây xanh, không xả rác bừa bãi... vẫn còn là thực trạng nhức nhối trong việc hình thành lối sống có văn hóa trong công cuộc hội nhập và phát triển.

Trước đây, “nhất tự vi sư - bán tự vi sư”, “uống nước nhớ nguồn - ăn quả nhớ kẻ trồng cây”... thì ngày nay cá nhân dễ dàng quay lưng với thầy cô của mình.

Học sinh nói xấu, bình luận tiêu cực hay bôi nhọ nhân cách người thầy một cách dễ dàng và công khai nhờ mạng xã hội. Nhưng buồn hơn, những hành vi này được cộng đồng mạng đánh giá là dũng cảm, cá tính.

Không bình luận ở nội dung của mâu thuẫn nhưng đánh giá trên bình diện hành vi đạo đức con người thì đó đã là giá trị đi ngược lại với truyền thống của dân tộc hay đơn thuần chỉ là cái tình của con người.

Số liệu của nghiên cứu nói trên cũng cho thấy có 32% sinh viên chấp nhận hành vi vô ơn, không xem đó là chuyện phi đạo đức. Tất cả đều là những con số biết nói, mang đến sự trăn trở cho nhiều người khi mọi cái đảo lộn đều có nguy cơ diễn ra theo hướng đáng lo lắng khi vàng thau chung mâm, chung chiếu.

Nếu ngày xưa, người Việt được biết qua cá tính “trọng sự hòa thuận”, “một cái lý một bằng một tý cái tình” thì ngày nay con người dễ dàng “nhảy bổ” vào nhau bằng hành động lẫn ngôn từ. Lối sống ích kỷ ngày càng xâm chiếm một cách mạnh mẽ.

Trong đời sống, chỉ cần va quẹt xe nhau là người ta “trợn mắt”, “chửi rủa”, “hăm dọa” và “cào cấu” nhau trên đường. Mọi người xung quanh thì thản nhiên nhìn xem, vừa cười, vừa bình luận... Sẽ có rất ít người can ngăn hay gọi điện cho lực lượng chức trách vì ai cũng sợ mang họa vào thân.

Đau lòng hơn, trong những tình huống thương tâm từ tai nạn giao thông, người ta thản nhiên đứng nhìn chứ không hỗ trợ nạn nhân hay gọi xe cấp cứu, chưa kể không ít kẻ còn tận dụng cơ hội để “hôi của”...

Không thể bỏ qua sự bất công khi so sánh dù biết là khập khiễng. Giải thưởng các cuộc thi nhan sắc và cuộc thi sáng tạo khoa học kỹ thuật quá chênh nhau, sự nỗ lực bao năm trời rèn dũa viết lách của một nhà báo hay nhà văn kỳ cựu không thể bằng một chiến lược truyền thông đầy scandal của một cây viết mạng thở bằng văn thơ dăm ba tháng.

Sự tréo ngoe khi một nhà khoa học xây dựng hình ảnh liên tục nhiều năm liền so với một nhân vật “nóng sốt” nào đó chịu khó “tải mình” theo nhiều hình thức, kích cỡ khác nhau… Còn đấy sự đảo lộn giá trị của giàu và nghèo, của sang và hèn, của tiền và tiếng, giữa hô hào và thực hiện, giữa lời nói và hành động… Sự đảo lộn giá trị xét nhiều chiều kích đều đáng lo lắng.

Tạm khép lại vấn đề, thời gian trôi kéo theo đó là sự thay đổi của đời sống xã hội. Có những lối sống, những giá trị tích cực được hình thành là tín hiệu đáng vui mừng cho hạnh phúc của xã hội.

Nhưng có những giá trị được xem là cốt lõi của nhân cách con người bị mai một thì đó không chỉ là tiếng thở dài u buồn mà còn là sự mất mát, sự tổn thương vô cùng to lớn cho thế hệ đang sống và thế hệ mai sau... Các chương trình hành động kịp thời, mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ về định hướng giá trị cho giới trẻ phải là điều cần thực hiện.

Và xem chừng, trách nhiệm không thể được thực thi nếu làn sóng chủ quan sẽ không sao đâu, rồi cũng ổn mà… trở thành sự lựa chọn của những người quản lý hay những nhà giáo dục của hôm nay.

Nguồn: Giáo dục Việt Nam

🔝

"Nữ sinh đánh bạn, tung clip": Khủng hoảng giá trị sống?

chungta

Thông Chi

01:50 CH @ Thứ Năm - 30 Tháng Tám, 2018

Xem thêm:


"Trước mắt, chúng ta nên chấp nhận sống chung với nó như sống chung với bao điều rối ren, phi lý trong cuộc sống thường ngày", TS Trịnh Hòa Bình, Viện Xã hội học, trao đổi với Bee.net.vn.

- Ông nhận xét thế nào những clip nữ sinh đánh nhau tung lên mạng trong thời gian gần đây?

Nữ sinh đánh nhau xưa nay hiếm hơn nam sinh đánh nhau nhưng nó vẫn là chuyện biến đổi tâm sinh lý của lứa tuổi mới lớn.

Tuy nhiên phải nhìn nhận thực tế rằng xu hướng bạo lực học đường đang có xu hướng gia tăng. Và ngành Giáo dục đã phải làm hẳn một khảo sát toàn quốc về xu hướng bạo lực học đường và Game online để nghiên cứu rõ hơn về vấn đề này.

- Tuy vậy trong thời gian ngắn, mật độ clip phản cảm của nữ sinh được đưa lên mạng ngày một nhiều hơn?

Những clip của những nữ sinh này cho thấy một vài cá nhân, nhất là những người trẻ đang phản ứng lại với những giá trị của xã hội.

Học sinh đánh nhau là chuyện muôn đời xưa cũ, nhưng nhờ sự can thiệp của công nghệ nó được phổ biến rộng rãi hơn. Đa số các nữ sinh tự quay clip này là ở các thành phố lớn, nơi mà điều kiện khoa học công nghệ phát triển hơn các vùng miền khác.

Đi sâu vào những clip này, những hành động của nữ sinh ngày càng táo tợn và phản cảm hơn. Điều đó cũng ghi nhận hành vi lệch chuẩn trong ứng xử của học sinh ngày càng có xu hướng gia tăng nhiều hơn.

Những clip gây sốc này đang phản ánh một xu hướng đang hiện diện trong thực tế là một bộ phận trong giới trẻ đang lệch lạc trong định hướng giá trị sống. Nó gây lo ngại thực sự trong cộng đồng.

- Nhưng nếu mổ xẻ sâu hơn về vấn đề này, nguyên nhân bắt nguồn từ đâu, thưa ông?

Những clip này của những nữ sinh này cho ta thấy một vài cá nhân, nhất là những người trẻ đang phản ứng lại với những giá trị của xã hội.

Họ không hài lòng với những giá trị đang hiện diện trong cuộc sống mà muốn thay đổi nó. Và họ đã phản ứng bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có những clip phản cảm được đưa lên mạng.

- Ai đứng ra nhận lỗi?

Lâu nay, học sinh đều được định hướng trong sinh hoạt của các tổ chức: Đoàn, Đội... Vậy vai trò của những tổ chức này phải chăng đang không hiệu quả để dẫn tới những biến đổi không thể kiểm soát được của những cá nhân trong tổ chức mình?

Chúng ta phải thừa nhận thẳng thắn với nhau rằng hiện nay tổ chức sinh hoạt Đoàn, Đội trong nhà trường đang bị xơ cứng. Nó bây giờ là cái bóng mờ trong đời sống học đường. Khác hẳn với thời bao cấp.

Trước đây, thời bao cấp tuy cuộc sống khó khăn nhưng những tổ chức Đoàn, Đội đã làm công tác định hưởng rất tốt. Rất nhiều phong trào xã hội lành mạnh được các tổ chức này phát động và gây hiệu ứng rộng rãi trong giới học sinh, sinh viên. Tiếc là ngày nay không được như vậy nữa.

- Tuy vậy phải có ai đứng ra nhận lỗi về mình chứ?

Nhà trường. Không thể khác được.

Lâu nay trong xã hội chúng ta xuất hiện một xu hướng rất đáng lo ngại. Đó là khi có những thành tích tốt thì các tổ chức đua nhau nhận về mình. Và khi xảy ra chuyện xấu thì hoàn toàn ngược lại.

Trong trường hợp này, không thể đổ lỗi cho gia đình và xã hội chung chung được. Nhà trường trước tiên hãy nhận trách nhiệm về mình.

- Nhiều người khi xem những clip xuất hiện ở các tờ báo mạng đã cho rằng, truyền thông cũng đưa tin về những hiện tượng này hơi thái quá. Ý kiến của ông về nhận xét này?

Hành vi của giới truyền thông khi đưa cái xấu lên để phê phán nhằm mục đích giáo dục, định hướng xã hội thì hoàn toàn tốt và rất đáng hoan nghênh.

Tuy vậy, phải khẳng định rằng không phải tờ báo nào cũng xuất phát từ mục đích tốt đẹp như vậy. Nhiều tờ báo đang giật lên những hàng tít thu hút thị hiếu tầm thường khi đưa những clip này lên báo mình.

Hành vi đó cũng phản ánh một thứ vị kỷ nghề nghiệp đang hình thành và ngày một lớn hơn trong công việc của báo chí. Tôi nghĩ, muốn cải thiện vấn đề này báo chí phải vượt qua ham muốn tầm thường của cá nhân và hướng tới những giá trị tốt đẹp hơn cho toàn xã hội.

- Thưa ông, nếu sáng ngày mai thức dậy đọc báo mạng lại xuất hiện một clip nữ sinh hành xử phản cảm hơn nữa, ông có bất ngờ không?

Không. Tôi hoàn toàn không bất ngờ. Việc định hướng những giá trị, những hành vi lệch chuẩn cần có thời gian. Và trước mắt, chúng ta nên chấp nhận sống chung với nó như sống chung với bao điều rối ren, phi lý trong cuộc sống thường ngày.

Nguồn: Bee.net.vn (2010)

🔝

Bạo lực có mầm mống trong xã hội Việt

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn

chungta

05:29 CH @ Thứ Sáu - 16 Tháng Năm, 2014

Clip nữ sinh bạo lực khuấy động dư luận. Nhiều người sửng sốt vì tình trạng bạo lực học đường. Nhiều người khác giật mình chất vấn giáo dục, xã hội. Trong khi đó, nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn cho rằng: Bạo lực có mầm mống trong xã hội Việt mà ta không tự thấy.

Xem thêm:

Năm nay gần 70 tuổi, Vương Trí Nhàn đã làm phê bình lý luận văn học trong vài thập kỷ và sau này chuyển sang nghiên cứu văn hoá. Ông được biết đến là một trong những người đầu tiên chủ trương nghiên cứu về những thói hư, tật xấu của dân tộc Việt Nam và là người được chú ý nhất trong mảng công việc này.

Loạt bài viết của ông về các thói xấu của người Việt được đăng tải thường kỳ trên báo Thể thao & Văn hóa cách đây vài năm đã trở thành một chuyên mục thu hút sự chú ý của nhiều độc giả và gây ra tranh luận nhiều chiều. Thậm chí, có nhiều người mong muốn có thể tập hợp thành sách “Người Việt xấu xí”, tương tự cuốn sách gây sốc Trung Hoa đại lục mang tên “Người Trung Quốc xấu xí” của tác giả Bá Dương.

Năm 2007, khi vụ scandal clip sex Vàng Anh - Việt Dart nổ ra, trong khi dư luận ầm ĩ xung quanh vụ việc này, trong khi nhiều người cũng sửng sốt và giật mình không khác gì với hiện tượng clip nữ sinh ẩu đả vừa qua… thì Vương Trí Nhàn nhìn vào sự kiện theo một cách tiếp cận rộng hơn ở góc độ dân tộc tính. Nhận định của ông “Dân tộc Việt là một khối tự phát khổng lồ” trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo mạng ngay lập tức dấy lên một làn sóng tranh luận với nhiều ý kiến đa chiều: Có nhiều ý kiến cực lực ủng hộ và không ít tiếng nói phản đối gay gắt.

Ở hiện tượng xã hội gây xôn xao dư luận lần này, những nhìn nhận của ông cũng mang lại cái nhìn tương đối rộng mở và mới mẻ. Và, đương nhiên, cũng không ít ý kiến có thể sẽ gây tranh cãi… Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy đây là hướng suy nghĩ cần được tiếp tục bàn luận.

Dưới đây là trao đổi ông với Vnmedia trên tinh thần này.

Sẽ còn những biểu hiện bạo lực mới

Tuần qua cả xã hội xôn xao với clip nữ sinh đánh hội đồng bạn trên phố. Nhìn nhận của ông xung quanh hiện tượng này?

Việc các em nữ đánh bạn dã man như trong clip là biểu hiện của một cách sống mà trong đó bạo lực trở nên cần thiết trong giao tiếp giữa người với người, mà người ta cho rằng, lời lẽ thông thường không còn đủ để tác động tới người khác.

Cảnh tượng trong clip này là sự tràn ra của một cái gì đó đã đến mức không bình thường… Nếu đọc báo những năm qua sẽ thấy nhiều hình thức bạo lực trong xã hội. Ngay trong môi trường giáo dục, không biết bao nhiêu vụ hoặc các cô trông trẻ bạo hành với trẻ con, hoặc các thầy cô giáo đánh phạt học trò hay các học trò đánh lại thầy cô giáo…

Những việc như thế này tôi cho rằng sẽ còn tiếp tục có những biểu hiện mới, với những cấp độ rồi sẽ còn cao hơn. Nếu chúng ta không tính chuyện chữa trị lâu dài, và trước tiên là tìm về tận gốc để lý giải một cách khái quát, rồi thì sẽ còn lĩnh đủ.

Có thể hiểu như thế này, sự xuất hiện của clip nữ sinh bạo lực kia trong xã hội tương tự như việc một người huyết áp thấp bị ngã ngất lần đầu. Họ hẳn là ngỡ ngàng nhưng cái sự ngất ấy nó không hề ngẫu nhiên. Và nếu chưa biết là mình bị huyết áp thấp, người ta sẽ không ý thức là mình có thể đối diện nguy hiểm hơn trong những lần ngất tiếp theo?

Tôi chia sẻ với lối ví này của bạn ở khía cạnh: Nhiều khi phải có những “cú điếng người”, ta mới hết nhởn nhơ coi thường và bắt đầu nhận ra những thứ tiềm ẩn trong mình. Cái nguy hiểm hôm qua đã đáng sợ, nhưng cái nguy hiểm tiếp theo mới thật đáng bàn.

Bây giờ thử bình tĩnh mà nhìn lại xem, hóa ra trong nhiều mặt đời sống người Việt, mầm mống bạo lực đã có mặt và ta đã chung sống với nó quá lâu - cái cách sống bạo lực ấy - mà ta không biết.

"Những việc như thế này sẽ còn tiếp tục có những biểu hiện mới, với những cấp độ rồi sẽ còn cao hơn"

Tôi muốn nhấn mạnh hai điều.

Một là, sở dĩ có hiện tượng lớp trẻ sống với nhau theo kiểu bạo lực, vì người lớn cũng hành xử theo kiểu bạo lực. Xã hội đen. Giới giang hồ thanh toán nhau. Những vụ cướp giết hiếp, và cả những vụ nợ tình, trả thù… Có quá nhiều sự việc trong xã hội mà chúng ta chưa phản ánh hết, chưa có dịp phân tích soi rọi.

Hai là, trước khi có những biểu hiện cực đoan theo kiểu bột phát nói trên, nhiều hình thái tạm gọi là tiền bạo lực cũng đã nhan nhản trong đời sống hàng ngày. Muốn ép người ta phải nghe mình điều gì đấy nói một lần chưa đủ, nói đi nói lại hàng trăm lần, bắc loa vào nhà người ta lải nhải…

Ai đi cầu cúng đầu năm hẳn nhớ cảnh dân địa phương nhiều nơi vừa thấy người đi chùa thì áp sát, bắt người ta mua đồ cúng của mình, lèo nhèo nói đi nói lại, không mua thì chửi xéo chửi đổng, đốt vía đốt vang… Đấy là tiền bạo lực chứ còn gì nữa?

Lâu lắm rồi từ 1999, tôi đọc trên báo Nông thôn ngày nay thấy một hiện tượng kỳ cục ở một tỉnh nhỏ. Giữa công ty X và công ty Y có sự tranh chấp. Để trả thù, bên Y liên tiếp gửi tới bên X những chiếc quan tài và các vòng hoa tang, trong đó đề rõ tên tuổi kẻ thù của mình. Kiểu khủng bố độc đáo này thật tiêu biểu cho người mình, tức là ác vặt, nhưng mà cứ ác một cách dai dẳng đáng sợ.

Đạo diễn Xô viết Mikhail Rom từng có một bộ phim mang tên “Chủ nghĩa phát xít thông thường”. Ở ta giá có ai bắt chước mà làm một bộ phim “Chủ nghĩa bạo lực thông thường”, chắc cũng dễ có một tác phẩm có sức răn đe với xã hội.

Bạo lực có mầm mống trong xã hội Việt

Ở trên ông vừa nói nhiều mặt trong đời sống đã tiềm ẩn yếu tố bạo lực mà ta không ý thức.. Ông có thể nói rõ hơn một chút về cái ý này?

Gần đây tôi đã viết trong một bài báo, ngay cách đi đường của người Việt Nam hôm nay cũng có tính chất bạo lực. Chúng ta có xu hướng chen lấn, xô đẩy, chèn ép người khác để vượt lên... Không ở đâu tiếng còi bị lạm dụng như ở ta. Nó có tính hối thúc, đe nẹt, doạ dẫm… Nghe trong tiếng còi như toát lên một lời đe dọa: nếu không tránh cho tôi đi, anh sẽ biết mặt.

"Ngay cách đi đường của người Việt cũng có tính chất bạo lực"

Thơ văn cho thấy chúng ta yêu thiên nhiên, sống chan hoà với cỏ cây, hoa lá. Nhưng trong đời sống tôi thấy tình yêu thiên nhiên này… chạy đi đâu cả. Văn học nói cái điều ta muốn, nhưng trong đời sống ta hiện ra hoàn toàn khác. Để tự nuôi sống, ta chưa biết tìm thêm cách để làm giàu thiên nhiên mà nhiều khi chỉ lo bóp nặn, bóc lột thiên nhiên.

Khách quan mà xét, đứng ngoài mà nhìn, phải nói đó là một cách ứng xử khá tệ bạc. Chặt cây, phá rừng, đốt rẫy… ta làm những việc đó vô tư chứ chả cần quan tâm gì đến thiên nhiên. Đến khi no đủ rồi thì lại bẻ hoa, ngắt cành vì thú vui của mình. Những dịp lễ tết cây cối xơ xác vì bị vặt cành làm lộc. Rồi các sự việc ở lễ hội hoa anh đào năm trước và lễ hội hoa đầu năm dương lịch vừa rồi. Chẳng nhẽ không nói đó là cách sống bạo lực?

Chúng ta cũng không phải là dân tộc yêu thương các giống vật. Các loài thú quý hiếm đang đứng trước nạn tận diệt. Ở nhiều nơi người ta sẵn sàng dùng điện, dùng chất nổ đánh cá... Rất nhiều người phương Tây ngạc nhiên vì chúng ta ăn thịt chó, là vật nuôi mà họ coi như bạn bè của con người.

Từ tháng 4 tới, Trung Quốc chính thức cấm ăn thịt chó mèo. Ở ta tôi không nghĩ được là bao giờ có thể có một lệnh cấm tương tự. Nhiều cuộc chọi trâu xong, dân sở tại mổ ngay con trâu vừa đoạt giải để bán cho dân tới xem. Chẳng có luật pháp nào kết tội người ta được, nhưng tôi cứ luấn quấn với ý nghĩ làm thế là một cách gieo mầm bạo lực mà ta không biết.

Sôi sục đấy, rồi lại quên đi rất nhanh

Thử nhìn lại sự việc. Các em trị nhau ngay giữa phố một cách bạo lực. Bạn bè thản nhiên ngồi nhìn. Không thấy ai đứng ra can ngăn. Khi quay xong hình, các em khoái trá post lên mạng, nhiều người truyền cho nhau qua internet để cùng xem clip đó. Đó là một chuỗi sự vô cảm cho đến khi thành sự kiện hot thì xã hội mới bùng lên chất vấn. Ông có bình luận gì thêm về việc này?

"Vô cảm rồi bùng lên chất vấn rồi lại quên đi rất nhanh"

Từ lâu phương Tây người ta đã nói đến sadism với nghĩa thói quen thích thú những trò tàn ác bao gồm cả quan sát người khác làm lẫn tự mình thực hiện. Những tưởng đó là chuyện đâu đâu, hóa ra xứ mình không phải không có.

Ngoài ra tôi muốn ghi nhận một tình trạng nước đôi thế này: Không hẳn là vô cảm đâu, nhiều người chúng ta cũng đang xúc động lắm. Chỉ có cái dở là rồi chúng ta lại quên đi rất nhanh. Tôi nhớ những lần lòng mình sôi lên thầm hứa nhất định không bỏ qua chuyện nọ chuyện kia. Nhưng chỉ ít lâu sau là tôi quên hết.

Để vượt lên sự nông nổi, tôi chỉ muốn nhân dịp này chúng ta cùng suy nghĩ về gốc rễ của bạo lực trong đời sống.

Nguồn: VnMedia

🔝

Bàn về "những giá trị sống" (1)

Trả lời phỏng vấn ngày 7/6/2009 (phần 1)

chungta

Nguyễn Trần Bạt

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group

02:23 CH @ Chủ Nhật - 13 Tháng Bảy, 2014

Hỏi: Ông là một người từng trải và chúng tôi rất mong ông trò chuyện giúp người trẻ suy nghĩ, nhìn nhận lại, đặt lại vấn đề về các giá trị nền tảng nhất cho cuộc sống. Mong ông cùng chia sẻ với độc giả về những điều họ cũng đang nghĩ, đang đi tìm và có thể chưa tìm ra hoặc tìm sai cho mình.

Trước hết xin hỏi ông về sự chuyển hướng của ông trong việc đi tìm kiếm lại những giá trị thực của mình trong xã hội hiện nay. Vấn đề mà người ta hay nói nhất hiện nay là sự sụp đổ niềm tin và những giá trị giả đang lên ngôi và đang lấn lướt những giá trị thật. Ông có thấy đau nỗi đau đấy không và bản thân những nỗi đau đó đã tác động đến ông như thế nào trong quá trình viết và suy nghĩ?

Trả lời: Tôi nghĩ thực ra không cần phải bi quan đến thế. Không phải các giá trị giả lấn át các giá trị thật mà những giá trị chúng ta tưởng là thật thua những giá trị mà chúng ta tưởng là giả. Thực ra những giá trị mà chúng ta tưởng rằng bị mất đi hoặc bị lấn át cũng vẫn là những giá trị giả. Bởi vì trong lịch sử của đất nước chúng ta, con người chưa bao giờ thật sự tiếp xúc với tự do và có các quyền về phương diện tự do, vì thế cái gì mà mỗi một cá nhân chưa có thật, không có thật và không có quyền có thật thì cái đấy được gọi là giả. Đôi khi người ta nhầm lẫn giữa tiền bố mẹ cho và tiền của mình. Chúng ta, những người Việt, trong hơn nửa thế kỷ có rất nhiều thứ được cho, bị cho và cho. Chính cái hỗn hợp 3 yếu tố được cho, bị cho và cho ấy là những thành tố tham gia vào cái quá trình tạo ra màu sắc thật của những cái mà chúng ta tưởng rằng mình có. Vì thế cho nên bây giờ có những cái chưa kịp định hình, những cái chưa kịp được sàng lọc, những cái chưa kịp được nhận thức, nó là bóng dáng của những cái sẽ có và chúng ta tưởng rằng những cái sẽ có ấy lấn át cái đã có và đang có.

Đôi khi con người, do nhịp điệu của công việc, nhịp điệu của sự sống, do sự chạy đua, do sự cạnh tranh, do sự bon chen mà vận hành đời sống tinh thần của mình với một tốc độ quá lớn và không phù hợp để người ta có thể hình thành các nhận thức. Chúng ta thấy rằng thường các học giả bao giờ cũng chậm rãi, vì khi nào người ta còn suy ngẫm thì người ta không chạy được. Tôi nghĩ rằng bây giờ đại bộ phận người Việt chạy nhanh quá nên không kịp suy ngẫm và do đó nhầm lẫn giữa những cái mình có với những cái mình sẽ có, giữa những cái mình thực có và những cái mình không thực có, và đôi lúc những người bi quan thì thường thấy cuộc sống đang diễn ra như là cái giả lấn át cái thật.

Tôi lấy ví dụ về chuyện bằng giả chẳng hạn. Bằng giả là một khái niệm có thật và bằng giả có vẻ lấn át nếu nhìn từ bên ngoài, nhưng nếu nhìn từ bên trong thì không phải như thế. Phải nói rằng, sự phân biệt thật giả trong thời buổi phát triển với tốc độ nhanh như thế này buộc con người phải có năng lực chuyên nghiệp để đánh giá, để phân biệt thật giả. Vì đại bộ phận con người không có khả năng ấy cho nên có một ấn tượng đem lại một cảm giác bi quan, đó là cái giả đang lấn át cái thật. Phải nói rằng, trong lịch sử hình thành loài người bao giờ con người cũng có cảm giác như vậy, các thời đại trước cũng có cảm giác như vậy. Vì thế, mới sinh ra những người như Vũ Trọng Phụng để viết "Số Đỏ", mới sinh ra những Khái Hưng, Nhất Linh v.v, luôn luôn tố cáo cái sẽ có như là yếu tố giả, chỉ có những cái mình thật có trong tay, mình từng trải với nó, sống chung với nó một thời gian đủ lâu thì mới xem cái đó là thật.

Tôi nghĩ rằng cái có thật chưa chắc đã tích cực và cái có giả chưa chắc đã tiêu cực. Cho nên, để nhận thức được câu chuyện này đòi hỏi con người phải có năng lực. Cái thiếu của xã hội chúng ta là chúng ta không có những nền tảng học vấn đủ để hướng dẫn con người trong việc lựa chọn, phân loại và đánh giá, cho nên gây cho con người một cảm giác không tự tin lắm trong việc quan trắc đời sống, và do đó gây ra một cảm giác bi quan không cần thiết.

Hỏi: Vậy theo ông, điểm mấu chốt trong những tác phẩm ông đã viết là tìm lại tự do cho chính mình và có quyền được lựa chọn?

Trả lời: Khẳng định tất cả các quyền cá nhân là một trong những điểm có chất lượng chiến lược để hình thành xã hội mà trong đó con người có thể tự tin được, con người có thể phân biệt thật giả được, con người có thể có bản lĩnh để sống và đối phó với những cái sẽ có. Chúng ta chưa có tự do, chúng ta chưa có ý niệm về tự do một cách rõ ràng. Một vài học giả, một vài trí thức lớn hoặc một vài nghệ sỹ lớn cũng cố gắng mô tả tự do một cách khái quát, nhưng biến thành các hệ thống tiêu chuẩn để định nghĩa khái niệm tự do và vai trò của nó đối với thân phận của mỗi một con người thì dường như ở Việt Nam chưa ai đặt ra vấn đề như vậy. Tôi là một trong những người có thể nói là hiếm ở Việt Nam cố gắng làm chuyện ấy, và tôi không dám nói là tôi đã thành công, nhưng tôi chắc chắn rằng sự cố gắng này là có thật.

Hỏi: Ông có gặp khó khăn gì trong quá trình tư duy để đặt lại những giá trị về tự do?

Trả lời: Đánh trận giả thì không có gì khó khăn cả. Cái khó khăn duy nhất là xung quanh tôi không có những bằng chứng về tự do, về các quyền tự do, cho nên tôi buộc phải suy tưởng, buộc phải tưởng tượng. Xung quanh tôi chỉ có hiện tượng vô chính phủ chứ không phải có tự do. Đi vệ sinh bậy ở ngoài đường chẳng hạn, hút thuốc lá trong rạp chiếu phim, nghe điện thoại trong nhà hát lớn chẳng hạn, họp chính phủ đôi lúc cũng thấy các bộ trưởng lén nghe điện thoại chẳng hạn, tất cả những thứ đấy là biểu hiện của sự vô chính phủ chứ không phải tự do.

Tự do là gì? Tự do là hoạt động tự nhiên của con người trong những điều kiện nó không dẫm đạp lên các quyền tự do của người khác. Tôi nghĩ rằng, ở Việt Nam có rất ít bằng chứng về tự do, hơn nữa lịch sử giáo dục của cá nhân tôi cũng rất không thuận lợi cho việc suy nghĩ và nghiên cứu khái niệm này. Phải nói rằng, để làm được một số việc ngăn ngắn, nho nhỏ trước mắt thì tôi cũng đã phải vượt qua chính lịch sử của bản thân mình, đặc biệt là lịch sử giáo dục.

Hỏi: Thời buổi hiện nay người ta đề cập đến từ khủng hoảng rất nhiều, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng trong đời sống tinh thần của cá nhân. Khi mà phương Tây quá khủng hoảng như thế thì họ quay về các giá trị của phương Đông.

Là một người phương Đông, ông thấy định nghĩa về tự do có sự hài hòa như thế nào trong triết lý phương Đông và triết lý phương Tây?

Trả lời: Tôi muốn đính chính lại về câu hỏi này. Phương Tây không khủng hoảng đến mức phải quay về các giá trị của phương Đông. Có thể có một vài người hoặc một cộng đồng phương Đông nào đó đi tìm phương Tây không được thì quay về phương Đông. Giống như người ta vào Sài Gòn mà không thể kiếm đủ tiền để chi tiêu theo tiêu chuẩn Sài Gòn thì đành phải quay trở lại Hà Nội. Phương Đông nói thẳng ra chưa bao giờ là chỗ quay về của bất kỳ ai ngoài chính phương Đông, và đấy là sự bất lực của phương Đông trong việc tiếp cận với phương Tây chứ không phải phương Tây quay về phương Đông. Đôi khi người ta cứ ngộ nhận và đấy là tình trạng thiếu thông tin. Phải nói rằng, chỉ cần áp dụng các kinh nghiệm, các nguyên tắc hay là các lý luận của phương Tây trong vòng từ năm 1978-2008, người Trung Quốc đã từ một nước nghèo khổ trở thành một nước khá giả, tôi không nói là một xã hội khá giả vì xã hội Trung Quốc còn lâu mới khá giả mà chỉ là một nhà nước khá giả. Những kinh nghiệm phương Tây có đã giúp một loạt các nước phương Đông ra khỏi bóng tối, ra khỏi hang hốc của mình.

Bây giờ phương Tây đang khủng hoảng, nhưng bất kỳ một sự phát triển nào cũng dẫn đến khủng hoảng và khủng hoảng như hiện nay là khủng hoảng tất yếu, là hệ quả của một sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế thế giới, thậm chí nhiều hơn cả nền kinh tế là của tình trạng xã hội. Khi kinh tế đã khủng hoảng thì xã hội sẽ khủng hoảng theo, văn hóa cũng khủng hoảng theo, chính trị cũng khủng hoảng theo, và tất cả những chuyện ấy là dấu hiệu của sự phát triển chứ không phải là bằng chứng tiêu cực. Cuộc khủng hoảng này có thể bắt đầu từ phương Tây nhưng không phải là khủng hoảng của phương Tây mà là cuộc khủng hoảng của nhân loại, khủng hoảng toàn cầu, và phải khẳng định rằng không có nước phương Tây nào quay trở lại phương Đông sau khủng hoảng cả.

Câu hỏi này phản ánh một tâm trạng rất phổ biến và nếu không nhận thức được một cách rành mạch câu chuyện này thì phải nói thật là nhân loại mất phương hướng và người phương Đông tự nhiên trở thành tự mãn. Bây giờ có người nói rằng Trung Quốc bằng với Mỹ rồi, trong khi kể cả khủng hoảng thì thu nhập của người Mỹ cũng từ 40.000 đô la xuống 35.000 đô la, còn người Trung Quốc thì vẫn chỉ có một vài ngàn đô la thôi. Và thu nhập một hay một vài ngàn đô la ấy cũng chỉ tập trung ở một vài đô thị, còn 90% dân số nước CHND Trung Hoa vẫn tiếp tục nghèo đói theo tiêu chuẩn của phương Tây (tôi không nói theo tiêu chuẩn của những người nghèo đói trên thế giới). Phải nói rằng người dân Trung Quốc vẫn là người nghèo, có một số người Trung Quốc trở thành tỷ phú và tốc độ hình thành các tỷ phú rất lớn, nó phản ánh sự lạc hậu về mặt thể chế của Trung Quốc. Trong khi có hàng trăm triệu con người nghèo khổ thì bỗng nhiên có thêm một cách nhanh chóng dăm bẩy người trở thành tỷ phú, cái mặt ấy là mặt thể hiện sự tiêu cực nhiều hơn là tích cực.

Nếu chúng ta nhầm lẫn trong việc đánh giá tình trạng khủng hoảng hiện nay và nói rằng phương Tây sẽ trở lại phương Đông và viết điều đó lên báo thì người ta sẽ cười. Ngay cả người phương Đông cũng cười. Những người thành đạt ở phương Đông biết rất rõ là mình thành đạt bằng các phương thức phương Tây chứ không phải bằng phương thức phương Đông. Nói cách khác, người ta lợi dụng sự sắc sảo của phương pháp phương Tây và lợi dụng sự ngốc nghếch của đại bộ phận dân chúng phương Đông để thành công. Sự giàu có ở phương Đông được hình thành chủ yếu bởi hai nguồn như vậy.

Hỏi: Vậy theo ông nếu đặt lại những vấn đề nền tảng về tự do cũng như nền tảng về các phương thức thành công của người phương Tây thì ông sẽ đưa ra những điều gì?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng tự do quan trọng ở chỗ nó làm cho con người cảm thấy có trách nhiệm với mình, có trách nhiệm với xã hội của mình, không bị áp đặt, không a dua, không theo ai cả, và khi xã hội có những sự thống nhất mang chất lượng tự giác về quyền lợi thì chi phí để quản trị xã hội ấy giảm xuống rất nhiều. Trong khi chúng ta giãy dụa về chuyện cải cách giáo dục thì ở phương Tây không có nước nào kêu khủng hoảng về vấn đề ấy cả. Tại sao phương Tây quay về với các giá trị phương Đông mà học sinh Việt Nam, học sinh Trung Quốc vẫn đi du học 500.000 -700.000 người một năm sang phương Tây? Người ta đi học cái cách thức của phương Tây và tận dụng sự ngốc nghếch của phương Đông để làm giàu, thậm chí để làm chính trị nữa chứ không chỉ để làm giàu. Có thể nói, nền tảng sự phát triển của một số cá nhân hạn hẹp ở phương Đông chính là những phương thức sắc sảo mà chủ yếu là học ở phương Tây cộng với sự thấp của dân trí. Nghiên cứu thị trường chứng khoán sẽ thấy rõ điều ấy.

Hỏi: Theo ông không có quyền tự do cũng chính là nguyên nhân lớn nhất làm cho phương Đông không phát triển?

Trả lời: Đúng thế. Điểm tập trung, điểm cô đặc nhất của toàn bộ các khuyết tật của một xã hội, trong đó có khuyết tật dân trí chính là thiếu tự do. Hay nói cách khác là không có điều kiện để hình thành các cá nhân. Đó là những đàn, những bầy được lãnh đạo, được chỉ huy và được kiểm soát, do đó con người không thể sáng tạo được và mảnh đất ấy trở thành mảnh đất vàng của những kẻ láu cá và cơ hội. Điều rất nhiều người than vãn hiện nay là chúng ta mất các giá trị văn hóa truyền thống. Tôi là người nghiên cứu các giá trị văn hóa, tôi có thể nói rằng không có hiện tượng ấy. Đấy là sự luyến tiếc của con người đối với bộ quần áo cũ, đấy không phải là bản sắc.

Tôi thấy cần phải nói rằng chúng ta không nên có khái niệm giữ gìn bản sắc. Văn hóa là một khái niệm tự nó, bản sắc là tự nó cho nên không đánh mất được, nó chỉ thay đổi cùng với đòi hỏi của cuộc sống, cùng với tốc độ tăng trưởng của cuộc sống. Ở những trạng thái chưa chín, ở những khía cạnh chưa chín của nhận thức của người quan sát cũng như của những người đang là thành tố để hình thành một tiêu chuẩn văn hóa mới thì người ta có cảm giác nó ngô nghê, nó kệch cỡm. Cảm giác kệch cỡm ấy sẽ mất dần cùng với sự phát triển, cảm giác luyến tiếc bản sắc cũng dần dần mất đi cùng với sự phát triển.

Sự phát triển cá nhân đích thực sẽ làm cho con người duyên dáng tại mỗi một phút của nó trong cuộc sống. Bởi vì chúng ta đi từ chỗ một bầy đàn đến một cá nhân cho nên trạng thái không tự tin ở giữa chặng đường dịch chuyển như vậy tạo cho con người một sự vụng về, lóng ngóng, thiếu tự tin và do đó chúng ta cảm thấy chúng ta mất mát. Có rất nhiều người cũng cố gắng lịch sự, ngồi thì không gác chân lên ghế, tiếp khách không chép miệng v.v, nhưng chỉ giữ gìn được lúc ban đầu, đến khi cơn lên rồi thì người ta lại nhai nhóp nhép, lại gác chân lên ghế, lại hút thuốc lào sòng sọc và bảo "thôi chúng ta lại quay về với những giá trị bản thể, với bản sắc". Đấy là sự đầu hàng các quá trình phát triển chứ không phải là sự mất mát bản sắc hay giữ gìn bản sắc. Có thể có nhiều người sẽ khó chịu với những gì tôi vừa nói, nhưng bản chất của nó là như thế, tôi không thể nói khác được.

Hỏi: Nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng, sự vụng về, sự thô lậu trong cách ứng xử, cách sống là do không có sự chuẩn bị của mình trong một quá trình mà là một sự đột biến. Ông có đồng ý với ý kiến ấy không?

Trả lời: Cách đây mấy tháng tôi vừa xuất bản một quyển sách tên là "Cội nguồn Cảm hứng", trong đó tôi lý giải về khái niệm tự do, về cá nhân. Tôi nghĩ rằng sự vụng về có ở tất cả mọi người. Tôi kể một câu chuyện như thế này.

Cách đây mấy năm tôi có dự một lớp huấn luyện về Bảo vệ các quyền Sở hữu trí tuệ do cơ quan điều tra của chính phủ Hoa Kỳ là FBI tổ chức, giảng viên là chánh cảnh sát của thành phố Westminster. Tôi mời nhóm giảng viên ấy ăn cơm tối và ông chánh cảnh sát ấy nói rằng "Khi tôi đi sang đây vợ tôi xem tôi quay lại Việt Nam có thể chết nên vợ tôi rất bịn rịn và còn khóc nữa, nhưng sang đây tôi không những không chết mà còn được ngài mời cơm, nói chuyện thoải mái thế này" và ông ấy rưng rưng nước mắt. Cái đấy chính là sự lóng ngóng vụng về của người Mỹ khi đến Việt Nam, và khi chúng ta đến Mỹ chúng ta cũng lóng ngóng vụng về như vậy. Lóng ngóng, vụng về là trạng thái ban đầu của quá trình làm quen với một nền văn hóa và với một trình độ phát triển, ai cũng có điều ấy cả. Ai khi đến một nền văn hóa mới cũng có những lóng ngóng. Chẳng hạn khi đến Nhật Bản chúng ta vẫn quen xưng hô Lady and Gentlemen, nhưng ở Nhật Bản thì người ta không xếp Lady lên trước. Nếu chúng ta mang kinh nghiệm tiếp xúc với người phương Tây và người Mỹ vào áp dụng ở Nhật Bản thì chúng ta có thể phạm sai lầm vì nó không phù hợp với nền văn hóa Nhật. Khi va chạm với những môi trường văn hóa lạ bao giờ con người cũng có một trạng thái được gọi là lóng ngóng, vụng về, ngượng nghịu và cái đó là cái đáng yêu nhất của con người. Con người đáng yêu vào lúc họ lóng ngóng, vụng về, còn khi người ta trơ ra rồi, người ta mắt la mày lém, người ta nghênh ngang thì người ta không còn đáng yêu nữa.

Trạng thái làm quen giữa các nền văn hóa là trạng thái đáng yêu nhất mà loài người có. Ta biết rằng trong những gia đình quý phái ở phương Tây bao giờ cũng có những buổi vũ hội đầu tiên của cô con gái mới lớn. Một cô gái đến dự buổi vũ hội đầu tiên khi các chàng trai nhìn vào thì thế nào cũng nhún nha nhún nhẩy, thế nào cũng lóng ngóng. Cái lóng ngóng của một trinh nữ chính là vẻ đẹp lớn nhất mà con người có. Sự lóng ngóng của một nền văn hóa để tìm hiểu một nền văn hóa khác, để thích nghi với một nền văn hóa khác là sự lóng ngóng đáng yêu và chúng ta thấy buồn cười với mình, nhưng không ai nhìn chúng ta thấy buồn cười cả. Nếu được giải phóng rồi, cảm thấy tự do rồi thì chúng ta không phải áy náy về sự lóng ngóng của mình mà chúng ta thưởng thức sự lóng ngóng của mình. Rất nhiều cô trơ ra rồi, không còn lóng ngóng được nữa, bây giờ diễn lại trò lóng ngóng, bắt chước sự lóng ngóng của thời xa xưa ấy là khó hơn nhiều so với việc thể hiện sự từng trải.

Hỏi: Vậy là ông nhìn tất cả những sự dịch chuyển trong giai đoạn này cũng chỉ là một sự lóng ngóng rất đáng yêu?

Trả lời: Đúng thế. Đây là lúc người Việt ra khỏi làng, người Việt ra phố, dân thuyền chài men sông ra biển. Ví dụ cái lóng ngóng của một nhà thơ Việt Nam khi đối mặt với Shakespear chẳng hạn, tất cả những chuyện như thế đáng yêu lắm. Tôi thấy cuộc sống không bi quan đến mức như thế. Xét về phương diện sự thích nghi dần với tốc độ phát triển, với sự hội nhập của các cá nhân, tôi không thấy có gì đáng bi quan cả. Có thể thấy những người ăn mặc rất dữ dội nhưng nói chuyện vẫn rất nền nã, lễ phép. Cái vẻ đáng yêu không mất đi, cái giá trị cốt lõi của con người không mất đi cùng với sự hội nhập mà được thử thách bằng sự hội nhập. Cái đau đớn là chúng ta vẫn hiểu sai rằng nó mất đi cùng với sự hội nhập mà không hiểu rằng nó được thử thách bằng sự hội nhập.

Hỏi: Rất thú vị khi ông lý giải được những lo lắng của mọi người hiện nay là toàn cầu hóa thì sẽ đánh mất mình.

Trả lời: Chẳng ai đánh mất mình được, muốn đánh mất cũng không được. Nó là máu, là thịt, nó nằm trong gen, không mất được. Tôi kể câu chuyện thế này.

Trong một lần tôi đến Washington DC, buổi tối tôi đến ăn cơm ở một tiệm ăn Việt Nam và thấy ở đó có món bún riêu. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy có món này và tôi hỏi ông chủ quán, một người Hà Nội lớn tuổi rất đẹp lão rằng "Bác có mắm tôm không?". Ông ấy nói rất nhỏ rằng "Có", rồi bê ra một đĩa mắm tôm nhỏ bảo rằng "cái này là nhà dùng để ăn riêng chứ không mang cho khách, nhưng anh hỏi thì tôi đưa". Tức là ông ấy cũng lóng ngóng khi thưởng thức cái món mình rất thích là mắm tôm trước mặt người Mỹ, cho nên ông ấy giấu đi để ăn riêng, nhưng khi gặp người thích ăn mắm tôm giống mình thì cũng không kìm được và thể hiện cái bản sắc thích mắm tôm của mình. Lúc trả tiền tôi đưa thừa 50 đô la, ông ấy trả lại tiền thừa nhưng tôi bảo rằng "Tôi cố tình đưa như vậy vì tôi muốn thưởng cho bác cái công đưa được mắm tôm đến đất Mỹ". Ông ấy cười và mời tôi ngồi lại uống rượu.

Con người có thể đánh mất các khía cạnh chính trị, nhưng bản sắc, chất lượng văn hóa thì không đánh mất được. Có thể một người yêu nước trở thành một kẻ bán nước, một người tích cực trở thành một kẻ tiêu cực trong con mắt của một số các nhà chính trị, nhưng cái đặc trưng văn hóa cá nhân thì không mất được, không thay đổi được.

Bởi vì chúng ta luôn có khuynh hướng đồng nhất văn hóa với chính trị cho nên chúng ta sợ, những nhà quản lý sợ mất cái yếu tố chính trị mà mình cần ở trong một con người, và vì không dám nói điều ấy nên họ kêu toáng lên về sự đánh mất bản sắc. Bản sắc là cái cớ để họ kêu la chứ bản sắc không mất được. Đây là một phát hiện rất quan trọng.

(Còn tiếp)

🔝

Bàn về "những giá trị sống" (2)

Trả lời phỏng vấn ngày 7/6/2009 (phần 2)

chungta

Nguyễn Trần Bạt

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group

11:49 SA @ Thứ Tư - 25 Tháng Mười Một, 2009

Xem bài liên quan:

... Con người có thể đánh mất các khía cạnh chính trị, nhưng bản sắc, chất lượng văn hóa thì không đánh mất được. Có thể một người yêu nước trở thành một kẻ bán nước, một người tích cực trở thành một kẻ tiêu cực trong con mắt của một số các nhà chính trị, nhưng cái đặc trưng văn hóa cá nhân thì không mất được, không thay đổi được.

Bởi vì chúng ta luôn có khuynh hướng đồng nhất văn hóa với chính trị cho nên chúng ta sợ, những nhà quản lý sợ mất cái yếu tố chính trị mà mình cần ở trong một con người, và vì không dám nói điều ấy nên họ kêu toáng lên về sự đánh mất bản sắc. Bản sắc là cái cớ để họ kêu la chứ bản sắc không mất được. Đây là một phát hiện rất quan trọng.

Hỏi: Ông có đề cập nhiều đến quản lý vĩ mô, đến vai trò của nhà nước. Vậy theo ông người làm chính trị của chúng ta thiếu nhất cái gì?

Trả lời: Họ thiếu nhất cái hiểu biết về con người, họ thiếu nhất cái ý chí về việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người.Chúng ta biết rằng ở Trung Quốc có chuyện cho Melamine vào trong sữa, bây giờ người ta phát hiện ra melamine dùng để sản xuất các bát đĩa nhựa. Rất nhiều người lên án đó là đạo đức, nhưng tôi thì nhìn sự việc ấy như một biểu hiện của sự thiếu hụt tính tự giác về quyền con người. Khi người ta dân sự hóa, đời thường hóa các tiêu chuẩn, các nguyên lý của quyền con người thì người ta không làm hay người ta bị bó buộc để không làm những việc giết người một cách phổ biến như vậy bằng cách cho chất độc vào trong thực phẩm hoặc các dụng cụ ăn uống. Tôi nghĩ rằng sự thiếu hụt nhất của một số lượng lớn các nhà chính trị ở các nước lạc hậu về chính trị chính là thiếu ý thức về quyền con người. Khi người ta đã lấy cái đó làm một trong những giá trị căn bản của các phẩm chất của một nhà chính trị thì người ta sẽ tìm ra được một phương thức.

Chúng ta đôi lúc nhầm lẫn sự thiếu hụt của một nhà chính trị với sự vụng về của nhà chính trị. Sự vụng về của một nhà chính trị là một biểu hiện như tôi vừa phân tích lúc nãy, đó là sự dịch chuyển từ một nền văn hóa chính trị này đến nền văn hóa chính trị khác.

Tức là sự làm quen của một nhà chính trị thuộc nền văn hóa này với một nền văn hóa khác thì nó tạo ra sự vụng về. Tôi không lên án sự vụng về của một nhà chính trị, nhưng sự thiếu hụt những đặc trưng cơ bản để hình thành phẩm chất của một nhà chính trị là nghĩ đến con người, giải phóng con người, chăm sóc con người, bảo vệ các quyền của con người đã tạo ra rất nhiều hiện tượng tiêu cực: sự coi thường nhân dân, tham nhũng rồi tất cả sự quấy nhiễu này khác, đấy là biểu hiện cơ bản của việc không tôn trọng quyền con người. Bây giờ nếu như người ta nhìn bạn là một cá nhân thì không lý gì một anh văn thư ở một phường lại có thể hống hách, hạnh họe bạn được, đấy là biểu hiện của việc không có con người. Không có cá nhân là không có con người, trước mặt là những đối tượng mà mình quản lý, mình cho chứ không phải là con người. Thiếu hụt cơ bản của hầu hết các nhà chính trị ở các nước lạc hậu là ở điểm ấy, còn khuyết tật thì nhiều lắm, chúng ta phải biết phân loại cái gì là căn bản. Trong quyển sách "Cội nguồn cảm hứng" tôi có nói rằng Tự do sinh ra con người, không có tự do thì không có con người và tôi đưa ra cả khái niệm tiền con người.

Tôi thảo luận với rất nhiều giáo sư ở trên thế giới về khái niệm tiền con người và rất nhiều ông tá hỏa lên hỏi tôi rằng "Liệu ông có xúc phạm đến một số quá đông không? Bởi vì theo tiêu chuẩn của ông thì thế giới này chưa được 1/3 loài người là con người?".

Hỏi: Ông có kỷ niệm nào trong đời sống cá nhân khi giá trị của mình bị chà đạp?

Trả lời: Tôi là một người tự do, hay là người có ý chí tự do từ khi còn bé cho nên phải nói rằng, tôi tránh một cách rất xuất sắc những tình huống để người ta đẩy mình vào thế mất tự do hay mất các giá trị cá nhân. Tôi từ chối những quyền lợi mà tôi phải đổi bằng tự do cá nhân. Cho nên kinh nghiệm lớn nhất của tôi là kinh nghiệm tránh được những tình huống bị người ta chà đạp lên những giá trị cá nhân của mình.

Sau khi đi bộ đội về tôi học lại phổ thông một vài năm. Vì là bộ đội về nên tôi nhận được khá nhiều ưu tiên, nhiều đề xuất có lợi. Tôi có được đề nghị đi học ở nước ngoài, đề nghị kết nạp Đảng, và tôi có một người bạn gái. Ông bí thư chi bộ của cái trường tôi học bảo tôi rằng: Cậu có hai quyết định thế này nhưng cậu có khuyết điểm là cậu có quan hệ luyến ái khi cậu còn là học sinh, vì thế nếu cậu chấm dứt chuyện yêu đương thì sẽ có được hai quyết định này. Tôi cười và bảo "Những cái này không cùng thứ nguyên. Thầy là người dạy vật lý, thầy hiểu rất rõ rằng những cái không cùng thứ nguyên thì không đổi cho nhau được, và nếu thầy ép một sự đổi chác không cùng thứ nguyên thì thầy cứ giữ lấy cái của thầy". Đấy là kỷ niệm của tôi về việc phải bảo vệ các quyền cá nhân của mình bất chấp mọi sức ép. Không thể hình thành nổi các giá trị cá nhân nếu cái đuôi của mình ngoe nguẩy trước bất kỳ thế lực nào và quyền lợi nào. Tuy nhiên, tôi cũng không lên án sự ngoe nguẩy ấy, bởi sự ngoe nguẩy cũng là tự do, tự do ngoe nguẩy. Có những người không ngoe nguẩy được mà quỳ mọp xuống, run sợ, tái người đi, chứ còn đã chủ động đến mức ngoe nguẩy để đánh đổi sự ngoe nguẩy của mình lấy một quyền lợi nào đó thì tức là đã bao hàm trong đó có cả ý nghĩa tự do, tất nhiên là tiêu cực và giới hạn.

Tôi nghĩ rằng trong quá trình con người dịch chuyển đến tự do có cả những chặng ngoe nguẩy. Tôi không lên án sự ngoe nguẩy ấy. Các trạng thái hay các phong cách ngoe nguẩy càng phong phú bao nhiêu thì nền văn hóa dịch chuyển ấy càng phong phú bấy nhiêu. Và nếu quan sát với tư cách là một nhà khoa học hay một nhà hàn lâm nhân văn thì bạn sẽ thấy rằng thương con người thông qua sự ngoe nguẩy của nó chứ không phải coi thường nó, bởi vì ngoe nguẩy chính là bản năng sống. Có một thời kỳ chúng ta tái mặt đi chứ không ngoe nguẩy. Từ ngoe nguẩy, đánh đổi những giá trị bằng mồm miệng đến mua bán quyền lực, đấy là những chặng phát triển như là một khuynh hướng được gọi là tha hóa. Tha hóa cũng là biểu hiện của tự do, nhưng là tự do chết.

Hỏi: Theo ông, bây giờ tự do chết có nhiều không?

Trả lời: Nhiều. Bởi vì sai thì chết. Con người, nhất là người Việt chúng ta, trong nửa thế kỷ không được trang bị bất kỳ kiến thức gì để sống một cách độc lập và chủ động cả. Khi anh không đủ trí tuệ để độc lập và chủ động thì anh sẽ sai. Anh sai mà anh lại tự do thì anh đi đến chỗ chết nhanh hơn, và chính vì thế nên có một kẻ thứ ba đứng ngoài bảo "ta phải lãnh đạo nó". Chính sự dốt nát, sự sai lầm, sự thiếu hụt trí tuệ làm xuất hiện một đối tượng có nhu cầu cung cấp các dịch vụ lãnh đạo.

Hỏi: Nghệ thuật lãnh đạo của ông có gì khác so với số đông doanh nhân hiện nay?

Trả lời: Tôi khác. Thứ nhất là tôi rất khắt khe và nếu nhìn ngoài thì tôi khắt khe như một kẻ độc tài. Nhưng tôi khắt khe trong việc cần phải xây dựng một tiêu chuẩn để tất cả những người cộng tác với tôi trở thành những con người hoàn chỉnh, phải có hiểu biết, phải đọc, phải nắm bắt được tình thế, phải biết quan tâm đến cấp dưới, bởi vì chúng tôi làm một nghề bắt buộc phải sáng tạo, bắt buộc phải hiểu biết, bắc buộc phải tiếp cận với khoa học hàng ngày. Tôi quản lý rất khắt khe thái độ của các cán bộ của tôi đối với các cấp dưới của họ và tôi cũng khắt khe với chính họ. Tôi là người chia sẻ lợi ích, tôi không phải là một nhà kinh doanh với quan niệm ngoài lương thì cái còn lại là của tôi. Tôi biết chia sẻ các lợi ích mà công ty này mang lại cho các đồng nghiệp gần gũi của mình.

Tôi không biết có khác không vì tôi cũng không quan tâm lắm đến các doanh nghiệp khác. Con trai tôi đi học ở nước ngoài 10 năm trở về, khi quan sát sinh hoạt ở công ty của tôi nó nói rằng "Cái mà bố tạo ra được là một tập thể rất đầm ấm". Chúng tôi ở đây càng hiểu biết càng tốt, cấp dưới càng giỏi thì tôi càng thích. Rất nhiều nhà lãnh đạo rất sợ khi cấp dưới giỏi, cấp dưới mà bắt vở được cái ngốc nghếch hay cái ngu dốt của lãnh đạo thì chỉ có nước đi, nhưng ở chỗ chúng tôi thì chỉ có sự dốt nát về mặt trí tuệ bị lên án thôi, còn sự giỏi giang được biểu dương. Trong công ty chúng tôi có một số tạp chí nội bộ do anh em viết và mỗi một số đều có bình bầu bài viết xuất sắc nhất và có tiền thưởng. Tôi khuyến khích mọi người đọc và viết. Trong vòng mấy năm, anh em đã viết được một bộ tổng tập hơn 4000 trang. Chúng tôi xây dựng được một thư viện, có lẽ là một trong những thư viện tư nhân khá lớn khoảng gần 10 nghìn đầu sách có lựa chọn. Chúng tôi có những tủ sách về kinh tế, về luật học, khoa học xã hội, văn học, triết học để phục vụ anh em đọc, thư giãn và nâng cao sự hiểu biết. Nếu là một nhà kinh doanh ích kỷ thì đấy là lợi ích của tôi và tôi sẽ không mua sách mà chuyển nó thành tiền.

Hỏi: Trong các tiêu chuẩn đánh giá doanh nhân hiện nay có quá nhiều danh hiệu, nhiều chuẩn mực chạy theo các con số như lợi nhuận, doanh thu v.v. Theo ông, chuẩn mực nào để đánh giá doanh nhân một cách đầy đủ nhất?

Trả lời: Chỉ nguyên chúng ta có ý đồ đánh giá doanh nhân là đã sai rồi. Bởi vì ý đồ sai cho nên việc tổ chức ra nó cũng sẽ sai thôi. Tại sao người ta lại phải đánh giá doanh nhân? Đã bao giờ người ta đánh giá các nhà chính trị chưa? Khi đưa ra ý đồ đánh giá ấy thì người ta phải tổ chức nó bằng trăm cách, nghìn cách và người ta buộc phải bịa ra những tiêu chuẩn.

Tôi nghĩ rằng thế giới người ta cũng đánh giá nhưng họ đánh giá tài sản, đánh giá các công nghệ được sáng tạo ra trong một xí nghiệp, trong một tập đoàn xí nghiệp chứ không đánh giá, phân loại doanh nhân trên qui mô toàn xã hội như chúng ta. Và phải nói thật rằng các doanh nhân cũng rất thông minh, họ tận dụng điều ấy để quảng cáo cho chính mình. Và để quảng cáo cho chính mình thì họ phải đưa ra những chỉ tiêu, những khía cạnh có giá trị quảng cáo. Thực ra đấy là một sự hợp tác có chất lượng nhạy cảm của doanh nhân đối với các hoạt động chính trị của nhà nước, cái đấy hoàn toàn không phản ánh gì cả và tôi thấy không nên mất thì giờ nghĩ về những chuyện ấy.

Gần đây người ta còn nói rằng phải xây dựng văn hoá kinh doanh, văn hóa doanh nhân, tôi nói rằng văn hóa giống như phù sa sông Hồng, anh không thể lên kế hoạch để xây dựng những lớp phù sa ấy được. Văn hoá là cái còn lại sau một chu trình vận hành của cuộc sống. Văn hóa là cái vết của những hành động của con người trên cuộc sống. Chúng ta thấy vết trườn của con rắn trên mặt đất khác với vết bò của con kỳ đà, và vết bò của con kỳ đà thì khác với vết chân đi của con hổ. Văn hoá là vết của các sự vật, các đối tượng để lại trong đời sống, vì thế không thể xây dựng văn hoá được.

Hiện nay chúng ta có rất nhiều biển hiệu gia đình văn hoá, khu phố văn hoá, công ty văn hoá v.v, đâu đâu cũng thấy. Tôi thấy rằng việc tiêu tốn bao nhiêu tiền cho những chuyện như vậy không quan trọng, cái quan trọng chính là nó tố cáo trên qui mô xã hội sự ngốc nghếch của những người đề ra chuyện ấy. Đấy mới là nỗi đau. Bây giờ sáng dậy người ta cởi trần, mặc quần xà lỏn, vừa đi vừa khạc nhổ từ trong những con phố mà bên trên treo biển hiệu khu phố văn hoá, rất kỳ quặc. Phải nói thật là chúng ta có rất nhiều chuyện kỳ quặc và rất nhiều người lên án về sự tốn kém của nó, nhưng tôi không quan tâm đến chuyện tiền mà quan tâm đến chuyện nó thể hiện một cách đại trà trên qui mô xã hội về sự ngốc nghếch.

Hỏi: Là một người phản biện những quan niệm thuộc về số đông như vậy, ông có cảm thấy cô đơn không?

Trả lời: Không. Tôi phản biện chính mình thì làm sao lại cô đơn được? Tôi không tách mình ra khỏi sự sai sót vốn có của cuộc sống nói chung. Và nếu như cá nhân tôi không sai thì tôi vẫn có trách nhiệm với sự sai sót của những người bên cạnh. Tôi không phải là kẻ đứng bên ngoài, không phải là kẻ đối lập, cũng không phải là kẻ tự nhấc mình ra khỏi bầy đàn của mình, cho nên tôi không thấy cô đơn gì cả. Và cách nhìn của tôi là cách nhìn lạc quan, cho nên tôi mới nói rằng sự vụng về, sự ngượng ngùng của một bầy người đang dịch chuyển dần đến sự phát triển, đến văn minh như một tất yếu.

Hỏi: Theo ông, văn minh có gì khác so với văn hoá không?

Trả lời: Văn minh là trình độ phát triển, còn văn hoá là đặc trưng hay còn gọi là bản sắc của cá nhân, của cộng đồng. Bản sắc cá nhân được gọi là cá tính, còn bản sắc cộng đồng được gọi là văn hoá.

Hỏi:Vậy văn minh và văn hoá có phát triển thuận chiều với nhau không?

Trả lời: Không, nó không liên quan gì đến nhau mà nói rằng thuận chiều hay trái chiều. Ví dụ như ở Tây Nguyên, người Ba Na, người Ê Đê, người Gia Rai chưa văn minh, nhưng chất lượng văn hoá của họ đậm đặc đến mức người ta thấy ngay từ đầu làng. Những người thiểu số là một ví dụ để mô tả một cách xuất sắc, rõ rệt sự khác biệt giữa văn hoá và văn minh. Văn hoá giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, tính cách con người này với con người khác. Còn văn minh giúp phân biệt mức độ phát triển này với mức độ phát triển khác.

Hỏi: Nhiều người lo ngại rằng sự phát triển của văn minh sẽ làm huỷ diệt hoặc tổn hại bản sắc. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Trả lời: Bản sắc không phải là một đại lượng cố định. Bản sắc là những giá trị còn lại trong quá trình phát triển và vì thế bản sắc thay đổi cùng với sự phát triển.

Tôi lấy ví dụ, bạn đi trên biển, đi qua đảo Sơn Trà và con tàu càng ngày càng xa đảo Sơn Trà, nghĩ rằng thôi thế là mất đảo Sơn Trà rồi vì mình không nhìn thấy nó nữa. Thế thì chúng ta nhảy xuống để leo lên ngồi trên đảo Sơn Trà hay là tiếp tục du hành cùng với con tàu? Con người là quá trình dịch chuyển và phát triển, nó đi qua các kỷ niệm được gọi là văn hoá và nó sinh ra một cảm giác luyến tiếc những bản sắc mình đã có trong giai đoạn cũ mà quên mất những bản sắc mới đang hình thành trong chính quá trình dịch chuyển ấy. Phát triển càng nhanh thì cái cảm giác mất mát bản sắc càng lớn và khi nào hiểu được nguyên lý như vậy thì chúng ta sẽ thấy rằng cái sự rối loạn bản sắc là một chỉ tiêu để đo tốc độ phát triển. Vậy chúng ta cần phát triển hay cần bản sắc? Chúng ta mất cái bản sắc này thì chúng ta có bản sắc khác. Bản sắc là gì? Bản sắc là lớp cặn của đời sống, mỗi một giai đoạn phát triển người ta có những lớp cặn mới và cái đó là những trạng thái khác nhau của sự phát triển mang chất lượng văn hóa.

Hỏi: Nếu chia sẻ với thế hệ trẻ khi họ muốn tìm lý luận triết học để giải mã được con đường mình tìm kiếm thì ông sẽ nói điều gì?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng họ hãy sống một cách tự nhiên. Tất cả mọi người hãy sống một cách tự nhiên, hãy sống một cách thư thái, một cách bình lặng và tích cực. Sự yên tâm và bình lặng về mặt tinh thần sẽ tạo điều kiện tốt cho sự lắng đọng các chất lượng mang tính bản sắc của mỗi một thời đại khác nhau lên việc hình thành các giá trị văn hoá của một cá nhân.

Hỏi: Hiện nay các loại sách triết học cũng như sách về mặt tâm linh tự nhiên được giới trẻ quan tâm rất nhiều. Ngay cả các cuốn sách của ông tôi cũng thấy có rất nhiều người trẻ đọc và chia sẻ với ông. Vậy có phải giới trẻ hiện nay thiếu tư duy triết học nền tảng?

Trả lời: Tất cả các cộng đồng dân tộc nói chung đều thiếu triết học cả, vì triết học là một đối tượng rất khó đối với bất kỳ người đọc hay người nghiên cứu nào.

Chúng ta có cả tỷ con người theo đạo Phật, nhưng để thuộc kinh sách của Phật giáo thì số ấy chỉ được 1% thôi. Chúng ta có hàng dăm bảy trăm triệu người theo Thiên chúa giáo, nhưng cũng chỉ khoảng 10% số ấy thuộc kinh thánh thôi. Nhưng tôn giáo không lệ thuộc vào kinh sách mà lệ thuộc vào lòng tin của con người và những lợi ích tinh thần mà con người nhận được từ tôn giáo. Vì thế cho nên việc đi tìm chất lượng hợp lý trong hành vi của mình dẫn con người đến triết học chứ không phải triết học dẫn con người đến sự hợp lý. Hegel nói một câu rất hay mà tôi đưa vào làm đề tựa trong quyển sách xuất bản gần đây của tôi, đó là "Triết học là thời đại của nó đã phát triển đến trình độ tư tưởng".

Cho nên con người đi tìm sự hợp lý của các hành động thì đến với triết học chứ không phải triết học dẫn người ta đến sự hợp lý, nhưng vì sốt ruột nên mới có hiện tượng người ta dùng triết học để dẫn con người đến sự hợp lý. Việc truyền bá chủ nghĩa Marx ở một loạt quốc gia là một biểu hiện rực rỡ nhất để chứng minh việc người ta sử dụng triết học để hướng dẫn con người, và kết quả là gì thì chúng ta biết rồi. Cho nên tôi xin nhắc lại là phát triển lành mạnh là đi tìm sự hợp lý của các hành động dẫn con người đến triết học chứ không phải triết học dẫn con người đến sự hợp lý của các hành động.

Con người phải sống một cách tự nhiên chứ không phải là sống đúng theo các tiêu chuẩn triết học. Chúng ta biết rằng Khổng giáo đã làm ngu muội hàng tỷ con người ở khu vực của chúng ta, đấy là một ví dụ nữa về việc sử dụng triết học để hướng dẫn hành vi con người và nó làm xuất hiện hiện tượng các cá nhân biến mất. Các cá nhân đi tìm lẽ phải, đi tìm chân lý, đi tìm sự hợp lý thì quá trình đi tìm ấy dẫn người ta đến triết học, và các triết học ấy khác nhau và phù hợp với nhận thức, thói quen hoặc trình độ văn hoá của mỗi cá thể chứ người ta không dùng triết học để hướng dẫn con người, nhất là hướng dẫn bằng công cụ nhà nước thì càng sai.

Hỏi: Ông có thể kể về quá trình sống, chia sẻ và đi tìm con đường triết học của mình?

Trả lời: Có lẽ tôi là một trường hợp không phổ biến lắm, trong thiên tư của tôi triết học hay khoa học nhân văn trở thành một khát vọng từ tấm bé. Khi tôi bắt đầu nhận ra tôi là một con người thì tôi đã có cảm giác là tôi để ý đến chuyện này. Tôi thích nghe ngóng về chuyện này khi cha tôi trò chuyện với bạn hữu hoặc nghe các thầy trò chuyện với nhau khi đi học. Bài giảng có khi tôi không nghe chăm chú bằng những chuyện các thầy nói với nhau liên quan đến chính trị hoặc triết học. Đấy là một bản năng.

Đến bây giờ, ở tuổi này tôi vẫn đọc những chuyện ấy một cách hứng thú như người ta làm thơ hay đọc thơ vậy. Đấy là đặc điểm riêng của tôi về chuyện ấy. Tôi đi tìm nó, nghiên cứu nó một cách rất kiên nhẫn từ năm tôi 15-16 tuổi cho đến bây giờ ngoài 60 rồi. Tôi không đếm được, không thống kê được, nhưng phải nói rằng tôi đọc và suy nghĩ hàng ngày rất kiên nhẫn. Khi đọc một bài trên báo Nhân Dân tôi cũng có thể rút ra được một kết luận triết học. Tôi không biết kể lịch sử tìm đến triết học của tôi như thế nào bởi vì nó là cuộc sống của tôi hàng ngày, tôi không thể thiếu nó được. Do sự tự giác như vậy và cũng có kinh nghiệm về phương diện này cho nên tôi nhìn thấy các khuyết tật của các chính sách, của các nhà chính trị, của các cán bộ của tôi rất nhanh, có thể tính từng giây.

Hỏi: Tôi có quen biết anh Bùi Văn Nam Sơn, tôi thấy lớp của anh ấy có rất nhiều bạn trẻ đi học lại những kiến thức triết học nền tảng. Tôi thấy rằng ở đây đặt ra vấn đề là dường như người ta quá khủng hoảng về tìm kiếm con đường tương lai của mình?

Trả lời: Chưa đến mức ấy đâu chị. Nếu vì sự khủng hoảng trong việc tìm kiếm con đường của mình mà người ta phải đi học triết học thì phải nói thật rằng đất nước mình may rồi. Anh Bùi Văn Nam Sơn là một người khá nổi tiếng. Tôi rất nể anh ấy và xem đấy là dịch giả triết học tốt nhất Việt Nam hiện nay và nói một cách đứng đắn thì nhất khu vực Đông Nam châu Á. Tôi có tất cả các tác phẩm dịch của anh Bùi Văn Nam Sơn.

Tôi không tin là ở Việt Nam có một phong trào mê mải triết học đến mức người ta học nó một cách chăm chú để giải thoát mình ra khỏi sự bế tắc. Trong lịch sử Việt Nam cũng chưa có điều ấy chứ không phải chỉ bây giờ. Phải cảnh giác với những câu chuyện như vậy. Và nếu như có những lớp học mà người ta mê mải đi tìm chân lý bằng Kant thì chúng ta sẽ không tìm được gì cả. Có một sai lầm cơ bản như thế này, trong khi hầu hết các nhà triết học kinh điển khi viết các tác phẩm là họ giải quyết các vấn đề của thời đại của họ thì chúng ta biến các tác phẩm ấy thành các giáo trình để học thuộc nó. Người ta chỉ có thể trở thành nhà triết học thật khi tự giao cho mình nhiệm vụ giải quyết các vấn đề ở thời đại của mình chứ không phải thuộc sách của thời đại trước. Người Việt không có triết học vì chúng ta chưa xem triết học là công cụ để giải quyết những đòi hỏi của đời sống. Nếu các nhà triết học mà không đặt ra nhiệm vụ giải quyết các bài toán thật của cuộc sống thì không thể trở thành nhà triết học thật được, chỉ trở thành người học triết mà thôi.

Hỏi:Theo ông sống tự nhiên có khó không?

Trả lời: Sống tự nhiên khó. Sống tự nhiên chính là cách sống có chất lượng triết học cao nhất, bởi vì mọi triết học có cao đến mấy cũng chỉ hội tụ đến tự nhiên mà thôi. Đi học triết không phải con đường trở thành nhà triết học. Triết học chỉ là nắm cơm ăn đường của người hành hương đến chân lý chứ nó không phải là chân lý.

Hỏi:Ông có thể nói một chút về gia đình không? Đối với những người con của mình, ông muốn dành cho họ điều gì?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng là một người cha tôi có ba nhiệm vụ đối với con cái, trong đó quan trọng nhất là bảo tồn được sự nguyên vẹn của gia đình, đấy như là một ngôi nhà, một cái vỏ, một cái tổ, một cái hang để con người trong những lúc khó khăn nhất có nơi cư ngụ cả về vật chất lẫn tinh thần. Đấy là nhiệm vụ số một của người cha. Thứ hai là xây dựng kho lương thực dự trữ để phục vụ quá trình phát triển của các con tôi. Thứ ba là xây dựng một kho kinh nghiệm có chất lượng tinh thần để trang bị cho con ở những bước đầu chập chững.

Đấy là nghĩa vụ của một người cha, một người chồng. Và tôi không để cho các con tôi nương tựa vào các giá trị của tôi mà chúng phải tự tạo ra các giá trị của mình. Tôi không bao giờ cô các giá trị của mình trở thành ra một tấm, một món để con tôi đút túi, tôi không bao giờ giới thiệu nó làm quen với ai để nó có thể kiếm việc. Tôi tự cấm mình làm những việc như vậy đối với con cái. Tôi có thể tài trợ cho con cái trong quá trình học hành, nghiên cứu, trưởng thành bao lâu cũng được, tôi đủ điều kiện để làm chuyện ấy và nếu như chúng xem quá trình học tập là đến 50 tuổi thì tôi cũng sẵn sàng cung cấp. Nhưng sự nghiệp của con tôi là do nó hoàn toàn, không một lời giới thiệu, không một cuộc làm quen, không có sự đảm bảo nào của tôi đối với sự nghiệp riêng của chúng. Đấy là quan niệm của tôi.

Cách đây nhiều năm, khi tôi còn là một nhân viên quèn thì vợ tôi được cử làm Trưởng ban Bạn đọc của báo Phụ nữ Việt Nam. Cô ấy rất áy náy khi chồng là nhân viên quèn còn vợ là trưởng phòng, vì vào thời ấy trưởng phòng là có bìa C và ra ngoài đường là vênh vang lắm rồi. Cô ấy hỏi tôi xem ý tôi thế nào. Tôi bảo "Tại sao phải hỏi ý kiến? Đấy là việc của em". Phải nói thật là với tư cách là một con người, tôi không thấy thua kém ai nên tôi chẳng bao giờ tự ái lặt vặt. Vợ tôi có là trưởng phòng hay là Phó chủ tịch nước thì đối với tôi vẫn vậy thôi. Ví dụ anh Bùi Văn Nam Sơn là một người nghiên cứu triết học có chất lượng hàng đầu ở Việt Nam hiện nay, thử hỏi anh ấy xem khi đã đọc Kant, đối thoại với Kant ở trong đầu rồi thì anh ấy thấy những địa vị, kể cả địa vị cao nhất về mặt nhà nước có giá trị gì? Tôi chắc chắn là anh ấy cũng sẽ có câu trả lời giống tôi. Khi đã trở thành nhà tư tưởng rồi thì mọi địa vị đều bé bằng cái kẹo. Chưa có một người thầy nào cảm thấy mình bé hơn học trò, dù người học trò ấy là Chủ tịch nước, chỉ trừ những người không làm thầy thật được cho nên vừa làm thầy vừa run thì có cảm giác ấy. Tôi thì không, tôi chưa bao giờ làm thầy ai cả, nhưng tôi cũng chẳng thấy tôi bé hơn so với bất kỳ cái gì cả, tôi không có nhu cầu so sánh kiểu ấy.

Hỏi:Trong tình yêu ông là một người thế nào?

Trả lời: Tôi có 2 quỹ tình yêu. Cái phần tình yêu dành cho gia đình của tôi thì đấy là đại lượng bất di bất dịch và không ai bớt xén được một xu nào ở đấy, nó chỉ có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác hay từ cảm giác này sang cảm giác khác. Một lần trả lời phỏng vấn của đài truyền hình, tôi có nói rằng khi người ta đã ở một độ tuổi nào đó rồi thì phải biết cái công nghệ chuyển hoá từ tình yêu đối với một người đàn bà trở thành sự kính trọng mẹ của các con mình. Đấy là một cái quỹ rất minh bạch và tôi không bớt xén. Phần còn lại là một cái quỹ thanh khoản để tôi có thể biểu lộ cảm xúc của mình trước những vẻ đẹp tôi gặp được ở trong đời. Nếu bao nhiêu tình yêu tôi dồn hết cho vợ rồi, ra đường tôi không biết thưởng thức cái gì nữa thì tôi cũng không có cả tình yêu của vợ.

Những người chồng đưa lương cho vợ nhưng thỉnh thoảng vẫn mở tủ rút tiền ra tiêu đấy chứ. Tôi thì không rút từ trong cái quỹ ấy và tôi tiến bộ hơn nhiều người khác là ở chỗ ấy.

Hỏi: Viết cũng là một tình yêu lớn của ông?

Trả lời: Đúng thế. Nghĩ về những vấn đề của thân phận và đời sống con người là tình yêu lớn nhất của tôi.

Hỏi: Ông có thể nói một chút về các con của mình?

Trả lời: Phải nói rằng, các con tôi là những cậu bé con nhà giàu, đấy là một thực tế. Nhưng chúng rất khiêm tốn, nhân hậu với mọi người và với mọi quan hệ, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ với bạn bè, ham hiểu biết và hiểu biết nhiều hơn cái nó cần trả bài cho cuộc sống, và yêu nghệ thuật. Tôi hài lòng về chúng.

Hai cậu con trai của tôi đều đang đi học cả. Đứa lớn đã tốt nghiệp hai đại học rồi, hiện đang ở nhà để chuẩn bị đi Mỹ làm tiến sĩ, đứa thứ hai đang học dở đại học thứ hai ở Anh. Một cậu 25 tuổi, một cậu 22 tuổi. Chúng đều dễ thương, khiêm tốn, không ăn chơi theo nghĩa thông thường nhưng tất cả những trò chơi sang trọng thì chúng đều biết cả, đánh golf, làm thơ, đọc Shakespeare như một chuyên gia, sống vui vẻ và phải nói rằng rất sợ bố mẹ quấy rầy, rất sợ được chăm sóc. Cái duy nhất chúng cần lúc này là bố mẹ đưa tiền, đưa xong rồi thì tức là bố mẹ đã hoàn thành nhiệm vụ, khỏi cần lo gì.

Hỏi: Tức là ông đã chuẩn bị cho con một nền tảng để chúng có thể sử dụng đồng tiền một cách chủ động?

Trả lời: Có lẽ là như thế. Tôi nghĩ là không bao giờ các cháu tiêu pha bên ngoài quy định của mẹ chúng. Việc tài chính quy định thế nào là của mẹ chúng, tôi không can thiệp và tôi không tước bỏ quyền lãnh đạo của mẹ chúng đối với chúng. Bây giờ bố có tiền, bố cho nhiều tiền và mẹ chẳng là gì cả là không được.

(Còn tiếp)

🔝

Bàn về "những giá trị sống" (3)

Trả lời phỏng vấn ngày 7/6/2009 (phần 3)

chungta

Nguyễn Trần Bạt

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group

10:31 SA @ Chủ Nhật - 29 Tháng Mười Một, 2009

Xem bài liên quan:

Hỏi: Ông có suy nghĩ về chuyện được mất trong đời?

Trả lời: Có chứ, luôn luôn, vì một trong những nội dung quan trọng nhất trong tư duy của con người chính là lợi ích. Người không làm chủ các tư duy lợi ích, không thiết kế được công nghệ tư duy lợi ích và không biến tư duy lợi ích thành một nghệ thuật sống là người không có bản lĩnh trên thực tế. Tôi là người rất làm chủ mình trong tư duy lợi ích, vì thế tôi luôn ung dung, không phải lo nghĩ về chuyện đấy. Ví dụ tôi kiếm được 100 đồng thì 40 đồng dành cho vợ để tiêu, 40 đồng nữa dành cho vợ để đầu tư hoặc để dành, còn tôi tiêu 20 đồng.

Hỏi: Cái mất lớn nhất mà ông từng trải qua là gì?

Trả lời: Tôi mất một đứa con gái, nếu còn sống thì năm nay cháu 35 tuổi. Cháu bị bệnh máu trắng và mất năm 1985, lúc cháu 12 tuổi. Đấy là mất mát lớn nhất mà đôi khi tôi tưởng mình không thể vượt qua được, nhưng rồi những thằng bé này lớn lên, chúng động viên tôi và làm cho cuộc sống của tôi dần dần cũng nguôi ngoai. Nhưng phải mất một thời gian rất lâu, hàng chục năm mới nguôi ngoai được. Cái nhược điểm lớn nhất của tôi là yêu con.

Hỏi: Sau cái chết của đứa con, ông tìm thấy điều gì trong con đường đi của mình?

Trả lời: Không. Tôi là người có ý thức về con đường đi của mình một cách rất ổn định. Về bản chất tôi là một nhà khoa học, đã từng là chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu về cái mà người ta đang làm hỏng ở Thủ Thiêm, đó là bộ môn nền móng và công trình ngầm của Viện Khoa học Giao thông Vận tải. Khi con tôi bị bệnh, tôi phải hy sinh, tôi bỏ việc, bỏ sự nghiệp ấy để chữa bệnh cho cháu 2 năm. Không có tiền chữa bệnh cho con thì mất con nên tôi phải ra ngoài kiếm tiền và tạo ra công ty này.

Phải nói rằng, tôi kiếm tiền rất nhanh và khá thành công về chuyện ấy. Có thể nói 15-16 năm trước đây tôi là người thành công nhất trong việc kiếm tiền bằng lao động trí khôn ở Việt Nam. Nhưng bản chất tôi vẫn là một người làm khoa học, và tôi quay trở về với khoa học cách đây khoảng 10 năm, nhưng tôi chuyển sang nghiên cứu về xã hội học, chính trị học và cũng viết được một số tác phẩm. Sự mất con của tôi làm tôi tổn thương, mất mát về tình cảm chứ không ảnh hưởng nhiều lắm đến việc nghiên cứu khoa học.

Ở một nước đang bế tắc về hệ thống tư tưởng như Việt Nam, nếu một người định làm khoa học thật thì sớm hay muộn cũng đều dẫn đến triết học hoặc chính trị. Ví dụ, có nhiều giáo sư toán học của chúng ta nổi tiếng không phải với tư cách một nhà toán học mà như những nhà lý luận về các vấn đề chính trị - xã hội. Một cách tự nhiên, trong các dân tộc lạc hậu và các dân tộc đang bế tắc, mọi nhà khoa học đều tiệm cận đến việc đi tìm con đường giải thoát con người và dân tộc của họ ra khỏi sự bế tắc về mặt lý luận. Tôi không phải là ví dụ điển hình, nhưng là một trong những ví dụ như vậy. Tuy nhiên nói gì thì nói, trước đó phải có phẩm chất của nhà khoa học. Phương pháp luận khoa học, cảm hứng khoa học, thiên tư về khoa học là cái tối thiểu phải có. Những người không có chất lượng khoa học có thể làm một kỹ sư rất giỏi, hoặc một luật sư rất giỏi nhưng không bao giờ trở thành một nhà khoa học được.

Hỏi: Liệu có xu hướng khoa học tự nhiên tiệm cận tới các khoa học xã hội không, thưa ông?

Trả lời: Về nguồn gốc, vốn dĩ nó là một. Leonardo Da Vinci vừa là một nhà nghệ thuật, vừa là một nhà tư tưởng, vừa là một nhà kỹ thuật. Newton vừa là một nhà triết học, vừa là một nhà khoa học tự nhiên, vừa là một nhà toán học. Hegel cũng là người như thế, Kant cũng là người như thế.

Chúng ta đang ở giai đoạn mà các khoa học đang hội tụ đến sự hợp lý về mặt tư tưởng, bởi vì sau khi phát triển theo lối phân chia thì các khoa học mất dần sự phải chăng về mặt triết học và nó tạo ra cả thành tựu lẫn tai họa. Để cứu tình trạng các khoa học tự phát tán các năng lực phá hoại của nó thì nó lại hội tụ lại để điều hòa, còn vốn dĩ về nguồn gốc là nó xuất phát từ một điểm. Galilei hay Bruno đều là những nhà tư tưởng chống lại tôn giáo. Người ta ép Galilei nói rằng trái đất vuông, ông ấy phải nói để thoát chết, nhưng sau khi xuống khỏi giàn thiêu thì ông ấy bảo "dù sao đi nữa, trái đất vẫn quay". Nếu là nhà khoa học thật thì sự hội tụ đến những sự hợp lý có tính chất tư tưởng là tất yếu của sự phát triển cá nhân.

Hỏi: Ông có nghĩ Việt Nam đang thiếu các nhà tư tưởng không?

Trả lời: Một trạng thái rất tự nhiên của nhân loại là lúc nào cũng thiếu các nhà tư tưởng. Nhưng sự thiếu của các nhà tư tưởng có hai nguyên nhân.

Thứ nhất, thiếu một cách tự nhiên vì tư tưởng là một loại hình hoạt động vô cùng khó. Tức là năng lực của con người thiếu một cách tự nhiên để đáp ứng các yêu cầu về sự phát triển các tư tưởng.

Thứ hai, trong một số chế độ chính trị thì nhà nước chủ động làm thiếu các nhà tư tưởng. Vốn dĩ trong tự nhiên đã thiếu rồi, nhưng trong một số nhà nước thì sự thiếu ấy không chỉ là thiếu tự nhiên mà còn thiếu nhân tạo. Tuy nhiên, sự thiếu một cách phi tự nhiên bằng nhà nước ấy không phải là thiếu về số lượng mà thiếu chất lượng, vì nhiều nhà nước sản xuất ra vô khối các nhà tư tưởng để hướng dẫn con người đến chỗ chết.

Hỏi: Vậy theo ông, bản chất của hạnh phúc, của những giá trị sống là gì?

Trả lời: Trong quyển sách "Cội nguồn cảm hứng" của tôi, chương hay nhất, chương có nhiều người đọc trên chungta.com là chương viết về hạnh phúc. Trong đó tôi nói rằng bản chất của hạnh phúc là con người sử dụng được những năng lực tự nhiên của mình để tạo ra sự thịnh vượng và tạo ra tương lai của sự thịnh vượng. Và hạnh phúc bền vững chính là hạnh phúc được xác lập trên cơ sở con người có được bản lĩnh để duy trì cảm giác ấy trong bất kỳ điều kiện nào mà con người nhận thức đúng.

Khái niệm hạnh phúc của tôi hơi khác so với những định nghĩa hay những quan niệm thông thường rằng hạnh phúc đơn giản là sự thỏa mãn. Nếu để xác lập một mối liên hệ giữa hạnh phúc và sự thỏa mãn thì tôi cho rằng hạnh phúc là năng lực biết thưởng thức và gìn giữ cho bền vững tất cả những gì tạo ra sự thỏa mãn, và phát triển chính là phá vỡ mọi sự thoả mãn đơn giản.

Hỏi: Ông đã thực sự hạnh phúc chưa?

Trả lời: Câu hỏi ấy rất khó trả lời. Suy ra cho cùng, nếu ngày mai tôi không tìm được cảm giác hạnh phúc hơn ngày hôm nay thì tức là tôi bất hạnh. Nếu tôi trả lời rằng tôi đang rất hạnh phúc thì tức là tôi sai. Tôi đang đi tìm kiếm chất lượng của cái hạnh phúc ngày mai của tôi bằng cái hôm nay của tôi. Và phải nói thật rằng, hạnh phúc lớn nhất của con người là không buộc phải để ý đến nó. Người ta bảo rằng mỗi một người đều có một trái tim, nhưng khi người ta để ý rằng mình có một trái tim thì tức là trái tim ấy bị bệnh. Mỗi một người đều có hạnh phúc và khi người ta bắt đầu để ý đến hạnh phúc của mình thì tức là lúc ấy hạnh phúc đã bắt đầu méo.

Hỏi: Làm thế nào để một nhà triết học có thể sống hồn nhiên như thế được?

Trả lời: Tất cả các nhà triết học đều hồn nhiên, vì kẻ hồn nhiên nhất là kẻ biết được các tất yếu. Các nhà triết học là những người được trang bị công cụ để biết rõ hơn người khác về tính tất yếu của những gì xung quanh mình, và do đó họ cảm thấy họ yên tâm và họ hạnh phúc. Nếu một nhà triết học mà không yên tâm về mình, không hạnh phúc thì không phải là nhà triết học. Đừng nhầm lẫn về sự cau có, sự chau mày, sự vặn vẹo, sự trăn trở của họ là sự bất hạnh. Không phải đâu, đấy chính là hạnh phúc, hạnh phúc đang cuộn sóng trong tâm hồn những nhà hiền triết. Vì nhiệm vụ của họ là chỉ ra hạnh phúc cho người khác cho nên họ phải có kinh nghiệm về hạnh phúc. Huy Cận có bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương" mô tả trạng thái vặn vẹo của triết học mà nhiều người cho là không hay nhưng tôi thích:

Các vị La hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương
Có phải nơi đây là xứ Phật?
Mà sao ai nấy mặt đau thương

Mặt đau thương đấy nhưng họ có đau thương đâu. Sự đau thương của xứ Phật khác với sự đau thương của Huy Cận. Hay nói cách khác, Huy Cận không đủ kinh nghiệm để hóa thân vào để cảm nhận sự đau thương của các vị La hán. Tôi đã từng mời anh Lê Bá Khánh Trình, một nhà toán học, chủ nhiệm khoa Toán của trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh đến dạy con tôi. Anh ấy có đọc bài của tôi và cũng thích nên nhận lời. Hôm thì vợ áp tải đến, hôm thì mẹ áp tải đến. Tôi mời anh ấy đi ăn thì vợ ngồi bên cạnh cầm cái khăn cho anh ấy, ai nhìn vào một người đàn ông như thế cũng đều thấy giống như một cậu "em chã", nhưng anh ấy không thấy điều ấy vì trong tâm hồn anh ấy là những đường cong tuyệt mỹ của toán học. Làm sao những người bán cháo quẩy lại có thể hiểu được cái hạnh phúc của một nhà toán học? Tôi nói rằng bài thơ ấy hay không phải vì bản thân nó hay mà vì nó phản ánh được một sự thật, đó là sự không tiếp cận nổi của một số người đối với trạng thái tôn giáo, đối với trạng thái tinh thần cao cả của con người.

Hỏi: Anh có tin vào năng lực tâm linh không?

Trả lời: Tôi luôn luôn tin rằng có cái gì đó không phải là ma mà là những dòng năng lượng tinh thần của con người. Những năng lượng tinh thần ấy xuất hiện trong những phút lao động thần thánh của con người, và những phút lao động thần thánh ấy tạo ra tất cả những gì vĩ đại để lại cho nhân loại. Tôi cho rằng tất cả các tác phẩm vĩ đại mà nhân loại đang có đều là kết quả của sự giao lưu giữa tác giả và thần thánh. Thần thánh được hiện hình dưới dạng các xung lượng tinh thần mà con người có trong những phút lao động xuất thần. Tôi đôi lúc cũng cảm thấy mình có điều ấy.

Hỏi: Ông tiếp nhận năng lượng ấy như thế nào?

Trả lời: Một cách không biết. Trong quyển "Suy tưởng" tôi có nói rằng thiên tài là một thứ mà người cuối cùng biết về nó chính là người sở hữu nó. Còn ở chúng ta thì có rất nhiều người biết trước về thiên tài của mình, thậm chí còn thiết kế ra nó. Có thể nói trạng thái thần thánh ấy là trạng thái siêu dẫn về mặt thông tin. Khi mà con người rơi vào trạng thái mà các điện trở gần như bằng không trong các hệ thống dẫn thì nó tạo ra những liên kết kỳ lạ và đấy là sự sáng tạo. Con người mà chịu ảnh hưởng của nhiều tạp âm, nhiều tạp vọng, không tập trung nổi vào một công việc thì không bao giờ có phút xuất thần cả và trở thành những người lao động mà Marx định nghĩa là những người lao động chân chính. "Ba ông hàng da thành một ông Gia Cát Lượng" đấy là công thức điển hình của nền văn hoá vô sản khi định nghĩa về lao động.

Hỏi: Một ngày của ông diễn ra như thế nào?

Trả lời: Tôi dậy vào khoảng 8 giờ hoặc muộn nhất vào 8 rưỡi sáng, tuỳ thuộc vào thời gian đi ngủ buổi tối. Sau đó ăn sáng và dành nửa tiếng gọi cho các đồng nghiệp của tôi để kiểm tra xem bộ máy công ty đang chạy như thế nào, vì dù sao đi nữa cũng phải lo miếng cơm manh áo cho mình và mọi người trước. Từ 9 giờ trở đi, tôi bắt đầu đọc và nghĩ. Buổi trưa tôi ăn cơm cùng với những người lãnh đạo cao cấp trong công ty và chúng tôi điểm lại tất cả những thông tin về tình hình thế giới và Việt Nam trong ngày. Sau bữa trưa, tôi nghỉ đến 2 giờ rồi lại bắt đầu đọc, nghĩ hoặc kiểm tra công việc của công ty. Đến 5 rưỡi chiều tôi lại có buổi điểm tin hẹp hơn và đến 6 rưỡi chiều thì tôi nghỉ ăn cơm. Đến 7 rưỡi tối tôi lại tiếp tục làm việc cho tới khuya.

Hỏi: Có lẽ sự cảm nhận của ông về những chuyển động xung quanh mình rất mạnh?

Trả lời: Đúng. Các dự báo chính trị, dự báo kinh tế của tôi trong 20 năm nay dường như chưa bao giờ sai. Tôi thấy trước sự sụp đổ của Liên Xô. Tôi có gặp Brzezinski ở Hoa Kỳ vào năm 90. Ông ấy hỏi tôi "ông có biết tôi không?". Tôi bảo "có, tôi đọc quyển Great Failure của ông". Ông ấy hỏi "ông thấy thế nào". Tôi trả lời "ông dự báo sau tôi 10 năm". Tôi có gặp tiến sĩ Henry Kissinger vào năm 1995, ông ấy mời tôi và chúng tôi thảo luận về vấn đề toàn cầu hoá. Tôi nói rằng sẽ có một trào lưu bên cạnh toàn cầu hoá về kinh tế là toàn cầu hoá về văn hoá và chính trị và nhiệm vụ của các học giả là nghiên cứu về những vấn đề ấy chứ không phải về toàn cầu hoá kinh tế.

Những năm trước đây tôi lang thang khắp thế giới, chỗ nào có thể liên quan đến Việt Nam, đến những suy ngẫm của tôi là tôi đến và tìm cách gặp gỡ với những đối tượng có thể thảo luận được. Những năm gần đây, với tình trạng thông tin phát triển trên toàn cầu như thế này thì tôi thấy không cần phải đi nữa. Hàng ngày tôi dự báo tình hình, tôi có viết những bài báo chẳng hạn như bài "Con ngựa và cỗ xe kinh tế", "Obama - nhiệm kỳ chống khủng hoảng và tìm triết lý phát triển" và nhiều bài khác để nói những phán đoán của mình. Nhiều phóng viên đến hỏi tôi về chuyện chính sách này, chính sách kia bị chỉ trích là đúng hay sai, tôi bảo rằng tại sao phải mất thì giờ chỉ trích. Gần đây có người hỏi tôi "Anh có băn khoăn gì về vấn đề kinh tế không?". Tôi trả lời rằng "Điều tôi băn khoăn bây giờ không còn là chuyện kinh tế Việt Nam. Điều tôi suy nghĩ bây giờ chính là điều mà đầu thế kỷ XX Hồ Chí Minh suy nghĩ, tức là chúng ta bắt đầu lại phải nghĩ về vấn đề độc lập dân tộc".

Hỏi: Tôi cũng có trao đổi với một số nhà nghiên cứu, họ nói rằng chúng ta mới chỉ giải phóng về mặt chủ quyền lãnh thổ chứ chưa giải phóng toàn diện về mặt con người. Ông có đồng ý về điều đó không?

Trả lời: Vấn đề ấy cách đây hơn chục năm tôi đã có một bài viết đăng trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc (Bài báo: Từ thế giới thứ ba đến một thế giới thứ hai rưỡi hay dân chủ hoá như là cuộc giải phóng thứ hai). Trong bài ấy tôi có nói đến cuộc giải phóng nửa vời. Chúng ta thiếu một nửa cuộc giải phóng, đó là chia cái gói tự do mà quốc gia này nhận được từ việc giải phóng dân tộc cho từng người một.

Tôi nghiên cứu về những chuyện như vậy một cách rất có hệ thống. Ai đó có bức xúc này khác nhưng tôi thì không. Những người nghiên cứu triết học không bức xúc, bởi vì nếu không thấy trước được bằng suy tưởng thì không thể nghiên cứu triết học được. Nếu phải bức xúc mới thấy được thì không phải là người nghiên cứu triết học.

Hỏi: Ông đã đề cập đến cuộc giải phóng thứ hai cần thực hiện và đó mới là cuộc giải phóng thực sự. Để đi đến một cái kết cho những vấn đề được trao đổi hôm nay, ông có gì tâm huyết nhất muốn chia sẻ?

Trả lời: Tôi cho rằng món nợ của những người lãnh đạo ở Việt Nam đối với dân tộc này chính là dân chủ hoá xã hội. Dân chủ hoá xã hội là xây dựng một thể chế để bảo vệ và phân bố các quyền tự do đến từng con người một. Đấy là món nợ và là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của những người lãnh đạo hiện nay.

Nếu việc ấy không được thực hiện bởi họ thì dân tộc chúng ta sớm muộn cũng sẽ đối mặt với một cuộc cách mạng. Mà mọi cuộc cách mạng đều là cơ hội khổng lồ của những kẻ cơ hội. Tôi không chờ đợi một cuộc cách mạng mà tôi kêu gọi những người lãnh đạo hãy chủ động thực hiện tiến trình dân chủ hoá xã hội. Cách duy nhất để dân tộc chúng ta tránh được sự đổ vỡ, sự thất thiệt, sự mất mát là đoàn kết và ủng hộ những người cầm quyền trong quá trình dân chủ hoá xã hội. Đấy là cái kết của những quan điểm chính trị chủ chốt của tôi.

Tôi nghiên cứu về sự phát triển chính trị ở Việt Nam chỉ để đi tìm một lối thoát để dân tộc chúng ta không phải đi qua sự bạo loạn, không phải đi qua cách mạng, bởi vì chúng ta không còn đủ dự trữ cho một cuộc cách mạng nữa. Vì thế chúng ta cần phải huy động toàn bộ sức lực xã hội để tiến hành một cuộc cải cách mà trung tâm của nó là dân chủ hoá xã hội và nhất thiết phải được thực hiện bởi sự tổ chức của những người lãnh đạo đương nhiệm thì mới tránh được những tai họa của một cuộc cách mạng. Thời gian không còn nhiều, nếu không làm nhanh thì rất có thể chúng ta không còn cơ hội để làm nữa. Sự phát triển tiêu cực của đời sống chính trị đã dẫn đến việc nhiều người phải bắt đầu suy nghĩ về những điều Hồ Chí Minh đã nghĩ ở đầu thế kỷ XX, tức là độc lập dân tộc và tự do.

Xin cảm ơn ông!

🔝

Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ

Vương Trí Nhàn

chungta

07:16 SA @ Thứ Năm - 01 Tháng Mười, 2015

Soi rọi các hiện tượng xã hội dưới ánh sáng văn hóa - đó là công việc mà nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn đang theo đuổi. Dưới đây là những chia sẻ của ông với phóng viên VietNamNet nhân một câu chuyện thời sự.

Người Việt duy tình, cạn nghĩ, ăn xổi

"Tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt lên một trình độ sống khác".

Suốt tuần nay, dư luận ầm ĩ xung quanh sự kiện 1 diễn viên trẻ bị đưa chuyện phòng the lên mạng. Từ góc độ một người nghiên cứu văn hóa, nhận định của ông về việc này ra sao?

Có hai hiện tượng để nhìn nhận.

Thứ nhất, việc tự quay phim ghi lại chuyện ân ái của mình, chứng tỏ một bộ phận lớp trẻ hiện nay có lối sống khá bế tắc, bất cần, muốn vượt ra ngoài các lề thói đạo đức thông thường.

Thứ hai, việc dư luận sôi sục lên trước sự kiện ấy, chứng tỏ chúng ta có một đám đông rất nhạy cảm, dễ bị kích động. Song tôi dự đoán, rồi cũng giống như một vài vụ trước, như vụ các cô dâu lấychồng Đài Loan, Hàn Quốc, nó chỉ là hiệu ứng lửa rơm.

Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có. Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý, mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì. Lẽ ra với một thái độ kiên trì và bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng nghe và chờ đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu không muốn nói là có hại.

Tức là, theo ông, hiện tượng dư luận ồn ào quá mức xung quanh một chuyện cá nhân là bất thường?

Không hẳn bất thường. Như người ta vẫn nói, nước mình nó thế. Từ thuở chỉ quanh quẩn trong các làng xã, chúng ta vẫn có lối phản ứng như vậy. Nó là một đặc điểm của tính cách người Việt.

Tôi nhớ, trong một bài báo gần đây, ông Trần Ngọc Thêm (nhà nghiên cứu văn hoá - PV) có nói: Đặc điểm tính cách, người Tây là duy lý, người Tàu là duy ý chí còn người Việt là duy tình. Chữ tình, nói theo chữ của ông Thêm, là lối sống giàu tình cảm, trọng tình nghĩa của người Việt.

Nhiều người cũng nghĩ như ông Thêm.

Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự phát rất lớn, thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải qua những suy ngẫm nên sẽ qua đi nhanh.

Tức, tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt lên một trình độ sống khác.

Cụ thể hơn, theo ông, "sự duy tình" có những điểm nào không đáng để tự hào?

Cả sự kém duy lý (vận dụng đến cùng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta.

Kém lý trí dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ. Kém ý chí dẫn đến ngắn hơi, ăn xổi. Cái gọi là duy tình rút lại là đồng nghĩa với bột phát, tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng suốt cùng những quyết sách hợp lý, nhất là trong xã hội hiện đại.

Như trong câu chuyện phần trên chúng ta vừa nói: cả các bạn trẻ hiện nay cũng sống truồi theo cảm hứng tự phát, không nghĩ đường xa. Mà dư luận cũng tự phát, ầm ĩ đấy rồi cũng bỏ qua ngay đấy.

Đằng sau nó là những nguyên nhân sâu xa...

Dân tộc Việt là một khối tự phát khổng lồ

"Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ".

Vậy là, từ một hiện tượng ồn ào trong dư luận hiện nay, ông muốn lưu ý tới những nguyên nhân sâu xa. Liệu có gượng ép quá không?

Tôi không ngại, miễn là chúng ta cùng lắng nghe nhau một chút.

Nhưng, liệu cách nhìn nhận của ông về cốt cách sống của dân mình quá cực đoan và khắt khe? Người Việt xưa nay vẫn tự hào là một dân tộc hiếu học, thông minh và có sức chịu đựng, bền bỉ?

Các phương tiện truyền thông và cả bản thân chúng ta vẫn thường tự ve vuốt mình bằng những nhận định như mấy chữ bạn đã dùng.

Còn tôi, sau một giai đoạn nghiên cứu về văn hoá và tính cách Việt, tôi mạnh dạn sử dụng hình ảnh “một khối tự phát khổng lồ".

Nói vậy có thể gây tự ái cho ai đó và có thể gây tranh cãi. Ngay như bản thân tôi, cũng đã nhiều lần tự tìm cách phủ định nó, nhưng hiện tại tôi vẫn chưa tìm ra được dẫn chứng phủ định thuyết phục.

Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ. Chúng ta tự cho phép sống theo thói quen, nếu như có nói đến các lý thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu là đi thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo lý thuyết lên gọi là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.

Tôi ví dụ, đơn giản nhất là trong đời sống tôn giáo. Với đạo Phật, chúng ta hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không nghiên cứu gì cả, chỉ toàn là truyền miệng với nhau, trong tu thì chỉ "thiền", "ngộ", tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra cái gì đấy.

Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi, từ sự trống vắng, kết quả thu được cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng. Trong khi ấy, thử so sánh, người Trung Quốc có không biết bao nhiêu pho kinh, chẳng hạn như ông Huyền Trang sang tận Ấn Độ lấy về, dịch ra, họ đã mang lại cho đạo Phật một sức sống mới.

Bàn một chút về đặc điểm tính cách dân tộc. Theo ông, có những nguyên nhân nào tác động đến điều này?

Khi nhìn vào những ngổn ngang trong đời sống trước mắt, nhiều người có ý cho rằng đó là bởi các lý thuyết mà chúng ta theo đuổi, chẳng hạn lý tưởng cộng sản... này khác. Tôi thì lại thấy những nguyên nhân sâu xa cơ bản là nằm trong cái cốt cách mà dân tộc đã hình thành trong lịch sử.

Hiểu rõ nguồn gốc dân tộc, sự hình thành của dân tộc mình là một trong những cách để nhận chân lại mình.

Nói một cách thô thiển nhất thì như thế này: mỗi khu vực địa lý tạo ra một giống người với đặc điểm riêng của họ.

Chúng ta là người xứ nóng, vùng nhiệt đới được thiên nhiên ưu đãi, nên một mặt dễ sống, một mặt khác, nó tạo cho ta tính dễ dãi.

Người xứ nóng thường có cuộc sống đơn giản. Trước đây, thời các cụ, chẳng cần có quần áo cũng tồn tại được. Ngay trước Cách mạng tháng Tám, dân ta còn rất nhiều người đi chân đất.

Trong khi đó, người xứ lạnh, thời tiết khắc nghiệt đòi hỏi họ phải chuẩn bị cho cuộc sống cẩn thận hơn. Ngay từ ngôi nhà, đến ăn mặc phải bền chắc hơn, có sức chịu đựng hơn... Tất cả những điều này ảnh hưởng một cách vô thức đến tính cách dân tộc.

"Nuôi dưỡng ảo tưởng"

Sau những nguyên nhân ban đầu ấy, mọi chuyện đã phát triển ra sao?

Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không hình thành cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất nhiều hạn chế. Chính nó khuếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu.

Thời trung đại việc dùng chữ Hán đã mang lại cho chúng ta bao thiệt thòi. Rồi sau này, do lịch sử đổi thay, lại dùng chữ hệ Latinh. Lâu nay người ta chỉ thích nhấn mạnh rằng chữ Latinh góp phần thúc đẩy xã hội tiến tới. Tôi cũng thấy thế, nhưng lưu ý thêm chữ quốc ngữ càng làm cho chúng ta cẩu thả trong nói và viết. Nếp tư duy hời hợt lan rộng.

Việt Nam, xét trong lịch sử, là một nước trải qua khá nhiều các cuộc chiến tranh. Yếu tố này có góp phần ảnh hưởng đến cái gọi là tính cách dân tộc không, theo ông?

Tất nhiên rồi. Trên nét lớn, chiến tranh ở ta còn để lại dấu vết nặng nề và càng lảng tránh nó, chúng ta càng bị nó ám.

Không cần có kinh nghiệm nhiều thì người ta cũng có thể biết chiến tranh là tình trạng ăn xổi, ở thì, lúc đó, trong khi sống với những mơ tưởng xa vời, thực tế là người ta lại chả biết rõ ràng ngày mai của mình như thế nào.

Cụ thể hơn, 2 cuộc chiến lớn của dân tộc trong thế kỷ vừa qua, để lại dấu ấn như thế nào trong đời sống tinh thần người Việt?

Chuyện lớn quá, cho phép tôi chỉ nói một điểm có tính cách xuất phát: phải nói chính ra chiến tranh nuôi dưỡng ảo tưởng. Ta không biết rõ ta đã trở nên như thế nào. Ta tưởng rằng, sau chiến tranh, mình còn nguyên vẹn, nhưng thực ra mình đã mất mát rất nhiều. Nhìn vào nhiều mặt đời sống, tôi cảm thấy so với trước chiến tranh, có một bước lùi. Con người ít tham vọng hơn, dễ dãi với mình hơn mà lại buông thả hơn.

Ông có cực đoan quá không? Có nhiều ý kiến cho rằng, chính cuộc chiến này đã khơi dậy, đánh thức được tiềm năng của các thế hệ?

Tôi cho rằng, nhận định đó là đúng nhưng chưa đủ, khi nói vậy chúng ta chưa thấy hết sự thực. Cuộc kháng chiến chống Pháp còn vừa sức với dân tộc ta. Còn cuộc chiến chống Mỹ ư? Với tư cách một người vừa lớn lên thì bước vào chiến tranh, tôi muốn nói rằng nó to lớn vĩ đại, nó kinh khủng quá, nó hút hết sức lực của cộng đồng. Chiến tranh ở ta như việc một người nhỏ bé phải đối mặt với một thách thức quá sức. Vẫn làm được đấy, nhưng sau đó sẽ mệt mỏi, một sự mệt mỏi kéo dài cho đến hôm nay.

Việc nghiên cứu tính chất của xã hội hậu chiến ở ta ít được xem trọng. Nhưng nhìn đâu cũng thấy.

Cả việc lớp trẻ lao đầu vào cuộc hưởng thụ lẫn một dư luận xốc nổi, khi quá khắt khe khi quá dễ dãi, tức là câu chuyện mà chúng ta nói từ đầu đến giờ, cũng là hiện tượng thường thấy ở các xã hội hậu chiến.

Nguồn: Vietnamnet

🔝

Lớp trẻ cần tự hình thành hệ thống giá trị mới

Nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn chia sẻ

chungta

Hoàng Lê (thực hiện)12:39 CH @ Chủ Nhật - 17 Tháng Ba, 2013

"Lớp trẻ hiện nay mang trong mình cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả tai hoạ tiềm tàng. Nếu không biết khai thác, thật khó đoán biết điều gì sẽ xảy ra... Tôi muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Xã hội ta luôn đón chờ những tài năng trẻ". Nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn chia sẻ.

• Vương Trí Nhàn: "Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ"

Lanh, khôn, nhưng thiếu chắc chắn

- Có nhiều ý kiến khác nhau về lớp trẻ bây giờ: cả lạc quan lẫn bi quan. Còn ông, ấn tượng chung về họ ở ông ra sao?

- Ở bạn trẻ bây giờ, cảm giác tự do rất mạnh. Hơn hẳn cái đó ở bọn tôi. Thời trước, chúng tôi rón rén, khép nép, cái gì cũng sợ. Chúng tôi chờ đợi được cho phép làm... mà vẫn vui vẻ với điều đó.

Các bạn giờ sống với cả thế giới rộng lớn, nhiều bạn có cảm giác mình là công dân thế giới. Chúng tôi xưa quanh quẩn trên mảnh đất quen thuộc. Nhớ lần đầu đi qua biên giới thì tim đập thình thịch.

Song đằng sau vẻ rất lanh, rất khôn, tiếp cận và hiểu biết nhiều, lớp trẻ bây giờ lại gợi trong tôi một cảm giác thiếu chắc chắn, trên đại thể lại lờ mờ, thiếu ước mơ lớn. Hình như họ có cảm giác bi quan, không bao giờ đạt được lý tưởng cao cả nữa.

Họ có thể phóng đi rất nhanh để rồi chả biết làm gì ở cái nơi vừa đến. Đằng sau cái vẻ vội vã của họ hình như ẩn giấu một nỗi thèm thuồng, chỉ sợ không được hưởng hết mọi lạc thú ở đời. Trong sự vội vã ấy, họ lại không có khả năng dò vào chiều sâu của cuộc sống.

Tôi đã nói người mình là một khối tự phát và lớp trẻ thường là lớp người nhạy cảm nhất, dễ gây bất ngờ nhất. Lớp trẻ hiện nay mang trong nó cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả tai hoạ tiềm tàng. Nếu không biết khai thác, thật khó đoán biết điều gì sẽ xảy ra.

- Ông có thể cắt nghĩa hiện tượng này?

- Tuổi trẻ bao giờ cũng bị ảnh hưởng ngang bởi tinh thần thời đại nhiều hơn là ảnh hưởng dọc từ thế hệ cha ông. Mà thời đại ta nói chung là thời đại của cái gì đó vỡ ra dang dở và chưa được sắp xếp lại.

Nước ta vẫn đang trên đường phát triển, nói theo thuật ngữ xã hội học là trong quá trình chuyển đổi. Con người bước từ chỗ tối ra chỗ sáng, nên đôi khi cảm giác vẫn còn bị ngợp và chập choạng, lúc thì tự tin quá, lúc lại tự ti quá. Cái này thấy rõ ở giới trẻ. Tôi nhớ một nhân viên tuyển dụng nước ngoài thường tiếp xúc với SV mới ra trường, có nhận xét, SV ta nhiều khi nói nhiều điều mà mình không biết, đến lúc hỏi kỹ thì lại trở nên lúng túng.

So với lớp trước, lớp trẻ hiện nay có cảm giác về tự do tốt hơn, nhưng nhiều lúc điều đó đồng nghĩa với bơ vơ, mất phương hướng, không xác định được mình.

Trong nhiều trường hợp, họ hiểu rất sai về tự do. Tự do không phải là bột phát, muốn làm gì thì làm. Mà tự do là sự hiểu biết chung về bản thân, về hoàn cảnh và cách sống thích hợp với hoàn cảnh, đồng thời khẳng định bản thân mình.

Tự do cao nhất là tự do về mặt tinh thần, liên quan đến nội lực con người, sự phong phú trong tinh thần của họ, chứ tự do không phải là lăn ra đường để khẳng định cái tôi. Đa số giới trẻ hiện nay, tự do bề ngoài thì có nhưng sâu sắc bên trong thì không. Điều này dẫn đến việc họ không tìm được cách khẳng định mình, mà trút cái gọi là tự do vào những hành động ngông cuồng bề ngoài.

- Nói một chút về sự mất phương hướng của lớp trẻ. Ở Mỹ từng có một "thế hệ vứt đi" sau Thế chiến I, và một thế hệ hippy trong chiến tranh Việt Nam, mất niềm tin vào cuộc sống. Ở Nhật cũng có một thế hệ khủng hoảng niềm tin... VN trải qua một cuộc chiến lâu dài, đang trên đường phát triển và sẽ phải đối mặt với cả những hiện tượng xã hội đi kèm. Ông có nghĩ một điều tương tự ở đây?

- Bất cứ một xã hội nào, sau thời gian chiến tranh, con người cũng đều cảm thấy đời là trống rỗng... Đây là bệnh chung của xã hội thời hậu chiến. Còn xã hội hiện đại mà phát triển nóng quá, giới trẻ chịu áp lực thì cũng dễ gây những hiệu ứng tâm lý. Ngay cái ham hưởng thụ, sống gấp... cũng là một biểu hiện.

So với các nước cũng trải qua chiến tranh, tôi cho là ở VN, tình hình tương tự còn trầm trọng hơn nhiều. Thiếu một sự quan tâm thường xuyên, thiếu một cái nhìn kỹ lưỡng, thiếu một sự nhận chân, như thế này sẽ luôn luôn có scandal chờ sẵn.

Tuy nhiên, ở VN, lối phản ứng của con người không bao giờ quyết liệt cả, mà thường tản mát, tự bó hẹp, làm nghèo mình đi.

Không nên dạy trẻ về một xã hội ảo tưởng

- Nếu làm phép so sánh tương quan với các thế hệ trước, ông đánh giá lớp trẻ bây giờ nằm ở vị trí nào?

- So với lớp cha anh thì họ đã có nhiều cái mới. Nhưng, so với yêu cầu thời đại thì còn đòi hỏi một sự phấn đấu cao hơn hẳn.

Đầu thế kỷ XX, nước ta có sự hội nhập mạnh mẽ với thế giới, với văn minh phương Tây.

Cả một lứa như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Anh... thực sự tạo dựng được một nền tảng học thuật vượt xa các bậc tiền bối.

Trong văn học nghệ thuật, một thế hệ các nhà khoa học, các nhạc sỹ, hoạ sỹ, nhà văn... để lại dấu ấn mạnh mẽ.

Lấy đơn cử, các tác giả thời ấy như Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam... có số lượng người đọc đông đảo, trước họ chưa từng có. Tức là sức ảnh hưởng vào thời đại của họ cũng rất lớn.

Thời Pháp thuộc, 15-16 tuổi người ta đã đi làm công chức và đã có sự trưởng thành về mặt xã hội. Không ai có thể nghĩ là Vũ Trọng Phụng chết non được, vì tuy mới 27 tuổi ông đã có một sự nghiệp hoàn chỉnh.

Sau đó, thế hệ thanh niên sinh khoảng trước sau 1930 và bắt đầu lập nghiệp từ sau giai đoạn Cách mạng tháng 8 1945 cũng để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt. Các nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, các nhạc sĩ như Nguyễn Đức Toàn, Huy Du… làm nên một bước chuyển mới trong sinh hoạt văn nghệ. Các tác phẩm để đời của họ thường được viết ngay khi họ mới 20-25, thậm chí còn trẻ hơn nữa.

- Thế còn thế hệ các ông, thế hệ thanh niên trong chiến tranh chống Mỹ, cũng là một thế hệ ưu tú mà nhiều người thường nhắc đến với một sự hoài niệm tự hào?

- Cuộc chiến tranh vắt kiệt sức của một thế hệ, nhưng không phủ nhận, nó cũng tạo động lực để thế hệ ấy phát huy được tốt nhất tinh hoa của mình.

Tuy nhiên, khơi dậy nội lực theo cách này giống như khai hoang, chỉ được 1 lần. Vấn đề là chúng ta phải thâm canh. Chúng ta phải đào tạo ra những người luôn có thể làm ra những thứ tinh hoa, 1 lớp người tinh hoa.

- Vậy, theo ông, làm sao để "thâm canh" trên thế hệ trẻ hiện tại 1 cách tốt nhất?

- Hiện tại, đã qua rồi cái thời xây dựng thông điệp qua những điển hình.

Trước đây, chúng ta cứ hay dạy trẻ "ở hiền gặp lành"... bây giờ phải có những câu khác, ở hiền đôi khi vẫn gặp ác như thường. Không nên dạy cho lớp trẻ về một xã hội ảo tưởng, mà nên phản ánh đúng thực tế của nó.

Thêm nữa, giới trẻ luôn tích tụ khối năng lượng lớn, làm sao để hướng cho họ sử dụng tốt nguồn năng lượng này. Ngay đằng sau những cuộc đập phá mà nhiều người lên án là một cảm giác muốn tự khẳng định. Mà xã hội chúng ta chưa chỉ cho họ con đường chân chính để làm việc này. Điều kiện để họ phát triển - trước tiên là một nền giáo dục hiện đại mang tinh thần nhân bản - thì lại càng chưa có.

Điều quan trọng nhất là cho họ thấy mọi nỗ lực chính đáng của họ sẽ được khẳng định. Nếu chỗ nào họ cũng cảm thấy bí, bị chặn lại... bởi những điều tiêu cực giới hạn như trong chuyện học hành, công việc... thì họ sẽ dễ nản. Trong xã hội, vẫn đầy rẫy nạn tham nhũng, vẫn đánh giá nhau về kinh nghiệm, sống lâu lên lão làng... điều này cũng làm sự vận động xã hội nói chung chậm lại.

- Cùng với sự phát triển xã hội và hội nhập, liệu những quy tắc xã hội đã chạy theo kịp sự vận động của thời đại?

- Lep Landao, nhà vật lý nổi tiếng có nói: "Thời đại của chúng ta là thời đại của những nghịch lý". Trong hoàn cảnh mọi sự đều thay đổi như vậy, không thể giữ mãi một kiểu nghĩ cũ.

Theo tôi, thời đại mới bây giờ đòi hỏi tất cả phải minh bạch hơn bao giờ hết. Nay là lúc mọi chuyện tốt xấu nên công khai ra, công nhận nó, chứ đừng đẩy nó vào bóng tối, lại làm phát triển ngầm hơn.

Tôi ví dụ, ở một số nước, người ta cho phép hoạt động mại dâm công khai miễn là có quản lý chặt chẽ. Còn ở ta, cho rằng mại dâm là trái với thuần phong mỹ tục, với quan niệm truyền thống phương Đông nên ta chỉ có cấm. Nhưng ai cũng thấy chỉ cấm được trên danh nghĩa, còn trong thực tế lại để lan tràn.

Hiện tại chúng ta vẫn duy trì nhiều sự quá khắt khe, mà tiếc thay, cái khắt khe ấy chỉ ở trên bề nổi, trong thực tế của chúng ta vẫn đầy rẫy những chuyện ấy. Đấy là một biểu hiện của sự giả dối.

Trong mắt tôi, vụ NSƯT Lê Vân thẳng thắn nhìn nói lên những gì chưa được trong gia đình là một tín hiệu tốt. Tất nhiên, chẳng có gì là trọn vẹn cả, được cái này hỏng cái khác. Người Việt hay thích tròn trịa, mà chính vì sự tròn trịa này nó làm ta bớt sắc đi.

- Sự phát triển kinh tế, xã hội luôn phải đối mặt với sự thay đổi các giá trị văn hoá. Theo ông thì làm gì để điều tiết cân bằng hiện tượng này, để giới trẻ dễ đi giữa 2 làn đường này?

- Trong văn hóa học, giá trị có 2 dạng. Các giá trị nhân bản thì thời nào cũng có, như sự tôn trọng xã hội, sống lương thiện, tự do... Lại có những giá trị chỉ thích hợp với từng thời đại Một số bài học truyền thống ta đang giáo dục cho lớp trẻ như phải biết vâng lời hoặc “tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại”... giờ không thích hợp nữa.

Lớp trẻ cần tự hình thành một hệ thống giá trị mới

- Ông đánh giá cao điều gì nhất ở lớp người trẻ?

- Thứ nhất là khả năng dám nghĩ khác và thứ hai là sự thẳng thắn.

Tôi nhớ mãi câu nói của một thanh niên. Ta hay khuyên họ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nhưng cậu "lý luận", đó là quan hệ bình đẳng chứ không phải mang ơn, hệ luỵ: "nhờ tôi mua quả bà trồng cây mới sống được". Cảm giác biết ơn là một giá trị truyền thống. Tôn trọng lao động của nhau, mỗi người có một giá trị đóng góp là một giá trị hiện đại, hợp thời.

Trong cách nghĩ ấy, rõ ràng là đã thấy một lớp người khác.

Trong phẩm chất của các bạn trẻ, tôi cũng đề cao khả năng có những khoảng đơn độc với chính mình. Người Việt Nam thường rất sợ sống một mình. Việc ít đọc sách, ít nghiên cứu cũng là một biểu hiện. Điều này thể hiện tính bầy đàn cao. Muốn có trí tuệ thì phải dám đơn độc.

- Hiện tại, xã hội Việt Nam đã phát triển nhiều so với trước, nhưng một cách thẳng thắn, chúng ta vẫn ở vị trí rất khiêm tốn, bị thế giới bỏ xa khá lớn. Theo ông thì có hướng nào để nhanh thu hẹp khoảng cách này không?

- Có những người chủ trương như đi tắt, đón đầu. Tôi không ủng hộ. Chúng ta cũng phải xác định thẳng với người dân là cố gắng mấy cũng không bao giờ đón đầu được. Cái chính là phải cố đi cho nhanh. Đi tắt thì sau này lại phải trả giá thôi.

Chúng ta đang phát triển nóng quá. Nếu cả xã hội sống tỉnh táo, bình tĩnh, tự nhận thức chính xác về mình, làm gì đó theo đúng chuẩn mực, thì bằng những bước đi chắc chắn như thế, chúng ta sẽ giúp cho lớp trẻ một cơ hội thuận lợi.

- Gác qua những điều kiện hỗ trợ của xã hội, vậy thì bản thân giới trẻ phải đáp ứng những yêu cầu gì để có thể thực hiện nhiệm vụ thời đại của mình?

- Thời đại đòi hỏi ở lớp trẻ một trí tuệ cao lắm. Lớp trẻ hiện tại cũng đang thiếu một khát vọng lớn lao, thiếu sự nghĩ rằng, mình phải ngang hàng với các dân tộc trên thế giới.

Tôi nghe kể một câu chuyện đàm đạo về giấc mơ. Người Việt bảo, mơ có một cái honda, ô tô. Người Nhật bảo: Tôi có ước mơ là thực hiện được ước mơ của bạn. Chuyện phiếm thôi, nhưng nó phản ánh tâm lý nhược tiểu của dân tộc mình.

Chúng ta phải có một cuộc tự vấn rộng lớn, xã hội đặt câu hỏi với chính mình. Nghĩ rằng, mọi vấn đề đều có thể có cách làm khác.

- Sự tự vấn ấy được thực hiện dưới hình thức nào?

- Chúng ta nên có nhiều những cuộc đối thoại với lớp trẻ. Từ chuyện của Lê Vân, tôi thấy cần có sự đối thoại thường xuyên giữa lớp trẻ - già. Đặt mình vào địa vị của nhau, lớp già thì nên biết điều hơn, đừng dạy dỗ nhiều, lớp trẻ nên thông cảm hơn, hiểu những khó khăn ngày hôm qua...

- Cuối cùng, ông đặt niềm tin vào giới trẻ chứ?

- Hồi ở Văn nghệ quân đội, ông Nguyễn Khải hay bảo tôi, nói chuyện với lớp trẻ là khó nhất, nhưng chinh phục được "hội nó" lại là thú vị nhất. Khi trưởng thành lên, tôi cũng thấy thế. Trong những cuộc đối thoại, được giới trẻ khen tôi cảm thấy yên tâm, không chừng mình còn sống được với tương lai.

Tôi đang viết đều chuyên mục "Thói hư tật xấu người Việt" trên báo Thể thao - Văn hoá. Tòa soạn bảo chính độc giả trẻ lại quan tâm hơn, điều đó động viên tôi rất nhiều.

Tôi nhớ, lúc tôi mới vào nghề, người phụ trách trực tiếp tôi là nhà văn Nhị Ca luôn bảo: "Nhất định các cậu phải làm được hơn chúng mình". Câu ấy không làm cho tôi kiêu căng, mà giúp mình phải cố lên để đạt được kỳ vọng. Ngày nay tôi cũng thường nói thầm như thế với các bạn trẻ xa gần.

Tôi muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Xã hội ta chưa phải là ưu việt, nhưng luôn đón chờ những tài năng trẻ.

Tuy nhiên, hiện giờ vẫn chưa hình thành được hệ thống giá trị mới. Lớp trẻ cần tự hình thành cho mình, trong sự tác động của xã hội.

- Cảm ơn ông.

Nguồn: Vietnam Net

🔝