logo-vuot

logo-ConNguoi

Cảm tính, Vô cảm & Tha hóa
acrobat  📂  🏠   

Con người - Sắc tộc - 2

Vụ nổ súng ở Đắk Lắk: 10 án chung thân và hàng trăm năm tù sau phiên tòa “lạ lẫm”

Việt Nam nói vụ xử án ở Đắk Lắk mang tính ‘nhân văn’, giới quan sát nói gì?

Người Thượng ở Mỹ biểu tình phản đối chính phủ Hà Nội đàn áp người sắc tộc ở Tây Nguyên

Luật sư nói về các vụ tranh chấp đất đai âm ỉ ở Tây Nguyên, Việt Nam

Thứ trưởng BCA: Nguyên nhân sâu xa vụ Đắk Lắk từ phân hóa giàu nghèo, quản lý đất đai

Người Việt Nam, dân tộc Kinh, tôn giáo Lương?

Vụ nổ súng ở Đắk Lắk: 10 án chung thân và hàng trăm năm tù sau phiên tòa “lạ lẫm”

Trường Sơn

2024.01.20

Capture à partir de :RFA

Tại phiên xét xử. CAND

Toà án tỉnh Đắk Lắk hôm 19 tháng 1 đã khép lại phiên xét xử đối với 100 người Thượng, trong vụ án tấn công và sát hại cán bộ ở hai trụ sở uỷ ban nhân dân (UBND) xã xảy ra vào rạng sáng 11 tháng 6 năm 2023.

Phiên toà kết thúc với 10 án chung thân dành cho những người bị cáo buộc “chủ mưu”, những người còn lại bị kết án tù từ ba năm rưỡi đến 20 năm tù.

Trong số 100 người bị đưa ra xét xử, có 53 người bị kết tội “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, 45 người bị khép tội “Khủng bố”. Hai tội danh còn lại “Tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép”, và “che giấu tội phạm”, mỗi tội khép cho một người.

Cuộc tấn công vào hai trụ sở UBND xã Ea Ktur và Ea Tiêu thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, theo thông tin từ nhà chức trách, đã khiến chín người thiệt mạng, trong đó có bốn cảnh sát và cán bộ địa phương.

Cáo buộc văn mẫu

Theo tường thuật của báo chí Nhà nước, tại phiên xét xử sơ thẩm kéo dài từ 16/1 đến 19/1, các bị cáo xác nhận đã bị “dụ dỗ, xúi giục và ép” phải thực hiện cuộc tấn công bởi các nhóm phản động ở nước ngoài, trong đó có Hoa Kỳ và Thái Lan. Họ được nói không hề đề cập đến vấn đề xung đột sắc tộc, đàn áp tôn giáo, hay tranh chấp đất đai.

Truyền thông Nhà nước, điển hình là Báo Công an, cũng lên tiếng bác bỏ sự liên hệ giữa vấn đề sắc tộc với cuộc nổ súng trên.

Tuy vậy, tại cuộc họp của Uỷ ban Tư pháp của Chính phủ diễn ra hồi tháng 9 năm 2023, nói về vụ nổ súng ở Đắk Lắk, tờ VnExpress dẫn lời thứ trưởng Công an Trần Quốc Tỏ, thừa nhậnrằng “nguyên nhân sâu xa, cội nguồn vẫn là những vấn đề kinh tế xã hội của đồng bào trong vùng; ; phân hóa giàu nghèo; quản lý đất đai; xây dựng hệ thống chính trị và cuối cùng là một số nội dung khác về quản lý an ninh trật tự ở cơ sở.”

Trao đổi với Đài Á châu Tự do, bà H Biap Krong, một nhà hoạt động nhân quyền người Ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk, cho biết:

“Từ năm 1980 cho đến bây giờ, đa số người Thượng khi bị đàn áp và bị cáo buộc dưới những tội danh như phá hoại chính sách đại đoàn kết của nhà nước, thì những hoạt động của họ lại không nằm trong bản án.

Nhưng toàn bộ những người bị đem ra xét xử bởi toà án, thì các cáo buộc của họ rất giống nhau, từ trước tới giờ rồi. Nó giống như một bài văn học đi học lại, chẳng hạn như là bị lôi kéo, bị xúi giục bởi các thế lực bên ngoài. Đây không còn là điều lạ lẫm đối với những người theo dõi tình hình ở Tây Nguyên.”

Nhà hoạt động có hàng chục năm kinh nghiệm theo dõi tình hình nhân quyền ở Tây Nguyên cũng cho biết, bản thân người Thượng hiểu rõ cái giá phải trả nếu bị bắt, cho nên sẽ không thể dễ dàng bị lôi kéo để thực hiện những hành động mạo hiểm như vậy, bà nói thêm:

“Đối với người Thượng, khi bị đưa ra xét xử thì các bản án mà Nhà nước Việt Nam, và cụ thể là tại chính quyền Đắk Lắk ở Tây Nguyên, thì họ thường bị kết tội với những án tù rất lâu năm, từ sáu năm đến 17 năm.

Cho nên họ không thể nào đánh đổi cái cuộc sống, và an ninh của họ để mà nghe cái lời xúi giục từ bên ngoài. Bởi vì họ đủ biết rằng nếu họ nghe lời xúi giục từ bên ngoài thì họ sẽ phải đối mặt với những bản án lâu như vậy.”

Trước khi xảy ra vụ nổ súng ngày 11/6/2023, trên địa bàn huyện Cư Kuin đã xảy ra nhiều vụ việc liên quan đến đất đai. Điển hình là trước đó hai tháng đã nổ ra một cuộc biểu tình của người Ê-đê bản địa, nhằm phản đối một dự án thoát nước ở địa phương.

Lo ngại về xét xử công bằng

Những người tình nghi tham gia vụ tấn công ở Đắk Lắk hôm 11/6/2023 bị bắt giữ. Photo:Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động

Đây là một phiên toà có quy mô lớn với số lượng bị cáo lên đến 100, và các tội danh có tính chất nghiêm trọng như “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, và “khủng bố”. Thế nhưng, toàn bộ quá trình xét xử chỉ diễn ra vỏn vẹn trong hơn bốn ngày.

Phiên toà kéo dài chưa đầy năm ngày để xét xử 100 bị can được luật sư Đặng Đình Mạnh (người không có liên quan đến vụ án) cho rằng “bất khả thi”, ông nói với RFA:

“Vì chỉ cần hội đồng xét xử, công tố và luật sư xét hỏi để làm rõ tội trạng của từng nghi can đã không đủ thời gian chứ nói gì đến một loạt thủ tục trước và sau đó.

Trừ phi đây là phiên tòa mà dân gian hay gọi xách mé về nền tư pháp trong nước là “án bỏ túi”. Mọi sự đều đã được định sẵn từ trước. Việc xét xử của tòa án, tranh luận của công tố và bào chữa của luật sư đều chỉ là hình thức và thực hiện quấy quá (qua loa-pv) cho xong.”

Vị luật sư có nhiều năm kinh nghiệm tham gia tố tụng trong hệ thống toà án Việt Nam cũng chỉ trích hình thức ‘xét xử lưu động’ mà toà Đắk Lắk áp dụng. Đây là hình thức xét xử được áp dụng thường xuyên ở khu vực Tây Nguyên, và bị cáo buộc mang tính đe doạ đối với các cộng đồng người Thượng bản địa.

Theo tường thuật của truyền thông trong nước thì các bị cáo có luật sư bào chữa, tuy nhiên không rõ số lượng luật sư là bao nhiêu, và là do gia đình tự thuê hay do toà chỉ định.

Phóng viên của đài Á châu Tự do đã liên lạc được với người nhà của một bị cáo trong vụ án, và được người này cho biết ngắn gọn như sau:

 “Gia đình không được thăm gặp, không được thuê luật sư, và không được làm gì cả.” 

Khác với các phiên toà xét xử các vụ “đại án” tham nhũng dính líu đến hàng loạt quan chức cấp cao, phần bào chữa và tranh luận của luật sư được báo chí tường thuật sát sao. Ngược lại, có thể thấy, điều duy nhất mà báo giới chính thống đề cập đến quan điểm của các luật sư trong phiên toà diễn ra ngày 16/1 đến 19/1 đó là các luật sư “đồng ý” với kết luận của Viện kiểm sát.

Bình luận về điều này, luật sư Đặng Đình Mạnh cho biết sự không hài lòng của ông:

“Tôi tin rằng các luật sư và trợ giúp viên pháp lý đã chưa làm hết trách nhiệm của mình, thậm chí, với cách mô tả từ báo chí, tôi cho rằng họ đã bán đứng thân chủ của mình bằng cách bào chữa đầy tắc trách như vậy.

Với việc công an bắt giữ tràn lan bất kỳ đồng bào người Thượng nào đang mặc quần áo rằn ri vào thời điểm trung tuần tháng 06/2023 tại địa phương, thì tôi tin rằng không thể có khả năng tất cả 100 đồng bào người Thượng đều có tội.

Thế nên, trong phiên tòa, thay vì được bào chữa, họ đang trở thành nạn nhân không chỉ của các cơ quan tiến hành tố tụng, mà của cả các luật sư vô trách nhiệm, thỏa hiệp với chính quyền.”

Sứ quán Mỹ phản ứng

Ông Y Sôl Niê, người bị cáo buộc có vai trò “chỉ huy, cầm đầu, lôi kéo và chỉ đạo” cuộc tấn công, hiện đang ở Hoa Kỳ và là một công dân Mỹ. Ông này bị tuyên án tù chung thân.

Ngoài ông Y Sôl Niê, một số công dân Hoa Kỳ khác cũng được cho là có liên quan, và đã bị xét xử vắng mặt do hiện đang không ở Việt Nam, trong đó ông Y Mut Mlô -bị cho là chủ mưu.

Phản hồi trước đề nghị bình luận của phóng viên đài RFA, về việc công dân Mỹ bị cáo buộc đứng sau cuộc tấn công “khủng bố” ở Việt Nam, người phát ngôn của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam cho biết qua email, nội dung như sau:

“Chúng tôi đã và sẽ tiếp tục lên án cuộc tấn công ở tỉnh Đắk Lắk một cách mạnh mẽ nhất. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ luôn là một đối tác thiện chí trong lĩnh vực hợp tác chấp pháp. Chúng tôi kêu gọi Việt Nam đảm bảo phiên toà được diễn ra một cách công bằng, minh bạch, và đúng thủ tục pháp lý.”

Người trong cuộc lên tiếng

Ông Y Quynh Bdap, một trong số sáu người bị xét xử vắng mặt dưới cáo buộc phạm tội “khủng bố”, và bị tuyên án 10 năm tù giam, cho đài RFA biết sau khi phiên toà kết thúc:

“Đây là cáo buộc phi lý, họ không đưa ra bằng chứng nào mà lại cáo buộc tôi như vậy. Cái mức án mà họ đưa cho tôi là không đúng. Tôi đâu có tham gia vào vụ này mà họ lại xử tôi với mức án 10 năm. Tôi không hề liên quan đến nhóm vũ trang này mà nhà nước Việt Nam lại cáo buộc như vậy thì thật là phi lý!”

Được biết đến dưới vai trò sáng lập ra tổ chức Người Thượng Vì Công lý, một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền, chuyên báo cáo các vụ việc vi phạm nhân quyền ở khu vực Tây Nguyên, ông Y Quynh Bdap từ lâu đã bị chính quyền Đắk Lắk tuyên truyền là “thành phần chống phá”.

Ông này cho biết sở dĩ chính quyền cố tình gán ghép ông vào vụ tấn công trên là vì muốn phá hoại uy tín của của tổ chức và các công việc do ông thực hiện.

🔝

Việt Nam nói vụ xử án ở Đắk Lắk mang tính ‘nhân văn’, giới quan sát nói gì?

23/01/2024

VOA Tiếng Việt

Capture à partir de :voatiengviet

 Phiên tòa lưu động ở Đăk Lăk xét xử 100 bị cáo vụ khủng bố, tháng 1/2024. Photo ANTV.

Vụ án mà Việt Nam gọi là “khủng bố” ở Đắk Lắk khép lại với mức án cao nhất là tù chung thân cho các bị cáo, trong đó có một công dân Hoa Kỳ, mà không có án tử hình như Viện Kiểm sát đề nghị trước đó. Các chuyên gia pháp lý chia sẻ góc nhìn của họ về phiên tòa xét xử 100 bị can vừa tuyên án hôm 20/1.

Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án “khủng bố”, xảy ra tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, đã tuyên án đối với 100 bị cáo về các tội danh “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, “Khủng bố”, “Tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép” và “Che giấu tội phạm”. Kết quả có 10 bị cáo bị tuyên tù chung thân, 5 bị cáo cùng nhận án 20 năm tù và 85 bị cáo còn lại bị phạt từ 9 tháng đến 19 năm tù giam.

Bản án ‘tích cực’

“Tôi nghĩ đây là một bản án rất tích cực, theo xu hướng giảm bớt án tử hình ở Việt Nam”, luật sư Ngô Ngọc Trai nêu nhận định hôm 22/1 với VOA. “Từ lâu nay, tôi quan tâm tới vấn đề án tử hình và thúc đẩy cho việc tiết giảm và tiến tới bãi bỏ hoàn toàn án tử hình. Trước phán quyết của tòa án ở Đắk Lắk như thế tôi rất hoan nghênh, trân trọng quan điểm và việc làm của các cơ quan tố tụng trong vụ án này”.

Trang An ninh TV của Bộ Công an đưa ra đánh giá trong bài viết hôm 21/1: “Phiên tòa xét xử vụ khủng bố ở Đắk Lắk: Bản án nhân văn, đúng người, đúng tội”.

“Sau 5 ngày đưa vụ án ra xét xử công khai, chiều qua, Hội đồng xét xử (HĐXX) Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tuyên án đối với 100 bị cáo trong vụ khủng bố nhằm chống lại chính quyền nhân dân xảy ra tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Theo dõi phiên tòa, dư luận nhân dân đồng tình với mức án của HĐXX tuyên phạt đối với từng bị cáo theo đúng quy định pháp luật”, trang này viết.

Trước đó, Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Đắk Lắk đề nghị Hội đồng Xét xử tuyên phạt tử hình đối với 2 bị cáo trong số 100 bị cáo này, nhưng đến khi tuyên án đã không còn án tử hình.

Ở một góc nhìn khác, luật sư Đặng Đình Mạnh ở Mỹ, người từng bào chữa trong các vụ án vi phạm an ninh quốc gia tại Việt Nam, nêu nhận định với VOA rằng đây là một phiên tòa với mức án “đã định sẵn”.

“Đối với vụ án xét xử đến 100 nghi can mà chỉ diễn ra trong phạm vi 5 ngày là hoàn toàn bất khả thi. Vì những thủ tục như xác định căn cước của họ, đọc cáo trạng, xét hỏi làm rõ tội trạng của từng người, luận tội, bào chữa, tranh luận, nói lời sau cùng, tuyên án… đều rất mất thời gian”, luật sư Đặng Đình Mạnh viết cho VOA hôm 22/1. “Thế nhưng, thực tế nó đã diễn ra chỉ với ngần ấy thời gian, thì tôi đoan chắc rằng không có việc xét xử gì cả. Mà phiên tòa chỉ là cách để chính quyền hợp thức hóa bản án đã được ấn định sẵn mà thôi”.

“Nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của họ như bị cướp đất, bị phân biệt đối xử… đã bị lờ đi một cách có chủ ý”, luật sư Mạnh nhận xét.

Ngoài ra, luật sư Mạnh cũng lưu ý rằng việc xét xử lưu động đối với phiên tòa này dường như là một “dấu hiện của sự phân biệt đối xử sắc tộc”, khi mà hình thức xử lưu động đã bị ngành tòa án cho dừng từ năm 2018 vì không có cơ sở pháp lý, vi phạm tố tụng, vi phạm nhân quyền và nhiều mặt hạn chế khác…

Từ Đức, luật sư Nguyễn Văn Đài, chia sẻ nhận định cá nhân của ông với VOA hôm 22/1:

“Cuối cùng thì họ không có tuyên người nào bị án tử hình cũng gây ngạc nhiên cho những người theo dõi về sự việc ở Tây Nguyên. Theo tôi, phía chính quyền cũng thừa nhận những sai lầm của họ, như một thứ trưởng Bộ Công an phát biểu trước Quốc hội rằng để xảy ra sự việc này cũng do một phần của chính quyền từ trung ương đến địa phương trong việc quản lý đất đai, tôn trọng những quyền của người dân….

“Chỉ khi nào người ta bị áp bức thì người ta mới đấu tranh thôi. Ngay trong nguyên lý của chế độ cộng sản cũng luôn tuyên truyền câu nói của Karl Marx rằng ‘Ở đâu có áp bức thì ở đó đấu tranh’”.

Hồi tháng 9/2023, tại một tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Tư pháp ở Quốc hội, ông Trần Quốc Tỏ, Thứ trưởng Bộ Công an, cho rằng vụ việc khủng bố xảy ra ở Đắk Lắk là một “việc đáng tiếc”. Ông Tỏ nói rằng nguyên nhân sâu xa, cội nguồn của vụ việc xảy ra ở Đắk Lắk “vẫn là những vấn đề kinh tế-xã hội của đồng bào trong vùng; phân hóa giàu nghèo; quản lý đất đai; xây dựng hệ thống chính trị và cuối cùng là một số nội dung khác về quản lý an ninh trật tự ở cơ sở”.

Vụ án “khủng bố” ở Đắk Lắk khiến 9 người chết, phần lớn là cán bộ và công an xã, làm bị thương 3 viên công an, gây thiệt hại hàng tỷ đồng về tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp và công dân, truyền thông Việt Nam cho biết.

Tuyên án vắng mặt

Một nhóm ủng hộ cho người Thượng Tây Nguyên ở Mỹ mà Viện Kiểm sát gọi là “khủng bố” bị cáo buộc “kích động” người dân ở Việt Nam thực hiện các hành động khủng bố nhằm gieo rắc nỗi sợ hãi, các công tố viên cho biết tại phiên tòa lưu động.

VnExpress dẫn kết quả điều tra cho hay nhóm bị cáo đang bị truy nã hiện đang sống ở Mỹ là những người đã ‘dụ dỗ, kích động, lôi kéo, chỉ đạo’ những bị cáo trong nước thành lập nhóm vũ trang lấy tên là ‘Lính Đề Ga’ và thực hiện cuộc tấn công ngày 11/6 nhằm lật đổ chính quyền nhân dân để thành lập ‘Nhà nước Đề Ga’.

Viện Kiểm sát tỉnh Đăk Lăk cáo buộc rằng ông Y Mut Mlo, lãnh đạo Nhóm Hỗ trợ Người Thượng (MSGI) có trụ sở tại Mỹ, đã thuyết phục bà H Wuen Eban tham gia các hoạt động vũ trang, giết người và phá hoại tài sản thông qua việc cử công dân Mỹ Y Sol Nie, 48 tuổi, về Việt Nam cùng chủ mưu vụ tấn công trụ sở Ủy ban Nhân dân tại hai xã Ea Ktur và Ea Tiêu trên địa bàn huyện ngày 11/6.

Ông Y Sol Nie, bị cáo duy nhất là công dân Mỹ có mặt tại phiên tòa, bị tù chung thân; ông Y Mut Mlo, công dân Mỹ vắng mặt tại phiên tòa, bị tuyên án 11 năm tù.

Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chưa phản hồi ngay khi VOA đề nghị họ đưa ra bình luận về việc công dân Mỹ bị tuyên án trong vụ án này.

Ngoài ra, còn một số bị cáo vắng mặt khác cũng bị tuyên án từ 7 năm đến 20 năm tù cũng với cáo buộc “khủng bố”, trong số này có nhà hoạt động Y Quynh Bdap, đồng sáng lập Nhóm Công lý cho Người Thượng, hiện đang xin tị nạn chính trị ở Thái Lan, bị tuyên 10 năm tù.

Luật sư Mạnh nhận định rằng việc xử những người này vắng mặt là cách xử “tùy tiện”, vì thông thường, chính quyền Việt Nam trong trường hợp không bắt giữ được nghi can để điều tra, thì cơ quan điều tra sẽ tạm đình chỉ điều tra đối với với nghi can vắng mặt, sau đó, tách hồ sơ cho đến khi bắt giữ được họ sẽ xét xử riêng.

“Cơ quan tố tụng đã tự tiện giải thích pháp luật tố tụng theo hướng có thể xét xử vắng mặt họ”, luật sư Mạnh nói. “Sau đó, bằng bản án đã kết tội họ, chính quyền tin rằng sẽ có cơ sở để yêu cầu các quốc gia mà nghi can cư trú cho dẫn độ nghi can về nước để thi hành án”.

Luật sư Mạnh lưu ý rằng hiện nay giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chưa ký kết hiệp định dẫn độ. Tuy nhiên, trong thực tế hai bên có thỏa thuận sơ bộ về việc trao trả đối tượng truy nã giữa hai nước và đã thực hiện một số trường hợp.

🔝

Người Thượng ở Mỹ biểu tình phản đối chính phủ Hà Nội đàn áp người sắc tộc ở Tây Nguyên

2023.11.04

Capture à partir de :RFA

Photo: RFA

Hơn 100 người thuộc các sắc tộc Dega, Chàm và Khmer tập trung trước Toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ vào sáng ngày 3/11 để biểu tình, nhằm phản đối chính quyền Hà Nội đàn áp người bản địa tại Việt Nam, đặc biệt là sau sự kiện hai đồn công an ở Đắk Lắk bị tấn công vào hôm 11/6/2023.

Ông Rong Nay, Giám đốc tổ chức Nhân quyền của đồng bào người Thượng tại North Caroline (Hoa Kỳ) cho biết mục đích cuộc biểu tình còn nhằm nêu lên tình trạng đàn áp nhân quyền nhắm vào đồng bào người sắc tộc bản địa Tây Nguyên tại Việt Nam:

“Sau bao nhiêu năm, từ năm 75 cho tới năm 2023 đã 48 năm, nhận thấy rằng tình hình nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam nói chung và với đồng bào thượng ở Tây nguyên nói riêng không có gì thay đổi.

Do đó, chúng tôi gồm có người Dega, người Chàm và Khmer cùng đồng ý với nhau tới đây để dành thời giờ cầu nguyện cho hàng triệu đồng bào Thượng, Chàm, Khmer và cả đồng bào Kinh đang ở trong tình trạng đau khổ dưới chế độ bạo quyền của Hà Nội.”

Có mặt tại cuộc biểu tình, Mục sư Y’Hin Nie nói với RFA rằng, người bản địa ở Việt Nam đã theo Chúa từ rất lâu rồi, trước khi chính quyền Cộng sản lên nắm quyền cả trăm năm. Vậy nhưng, chính quyền Hà Nội lại công khai không công nhận các Hội thánh Tin lành đấng Christ ở Tây Nguyên, liên tục sách nhiễu các thành viên của Hội thánh. Tại cuộc biểu tình này, ông yêu cầu chính quyền Hà Nội phải ngưng đàn áp người bản địa và kêu gọi mọi người lên tiếng cho nhân quyền, đặc biệt là tự do tôn giáo cho tất cả người dân ở Việt Nam:

“Ngày hôm nay, đại diện tiếng nói của tất cả những người dân tộc tại Việt Nam đang bị đàn áp từ lâu rồi, kêu gọi tất cả chúng ta phải hướng về tự do, thế nào thì chúng ta cũng phải có tự do cho tất cả mọi người.”

Hơn 100 người biểu tình sau đó đã tuần hành đến trước Nhà Trắng và Đại sứ quán Việt Nam tại Washington DC để tiếp tục nêu lên mong muốn của họ.

Nói với RFA, ông Rong Nay khẳng định nhà chức trách Việt Nam càng ngày càng đối xử mạnh tay, khắt nghiệt hơn với người Thượng ở Tây Nguyên, nhất là từ sau khi xảy ra vụ tấn công vào hai trụ sở Uỷ ban Nhân dân ở Dak Lak vào hôm 11/6.

Vụ 11/6 được truyền thông loan là do hai nhóm (chừng 40 người) có trang bị súng đạn, dao thực hiện tấn công bất ngờ vào hai trụ sở UBND Ea Tiêu và Eatur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk làm chín người thiệt mạng, trong đó có bốn công an, hai cán bộ xã và ba người dân.

Đến tháng 10/2023, Bộ Công an cho biết có 92 người bị khởi tố theo các tội danh: Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; Không tố giác tội phạm; Che giấu tội phạm; Tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép.

Theo ông Rong Nay, sự kiện trên là kết quả của 48 năm bị chế độ Cộng sản đàn áp, trong đó mọi quyền cơ bản của con người đã bị tước bỏ. Sự khinh miệt, hận thù và phân biệt đối xử đối với người Thượng vẫn đang tiếp diễn và ngày càng trầm trọng hơn ở Việt Nam.

Ông cũng nêu lên giả thuyết, “có thể vụ án xảy ra ở Đắk Lắk là do chính quyền Hà Nội đã cố tình thực hiện nhằm “đổ tội” cho người Dega”. Ông lập luận:

“Nói cho đúng ra chính phủ Cộng sản Việt Nam là một chính phủ có quân đội hùng mạnh, kiểm soát bên trong rất gắt gao, tại sao sự việc xảy ra mà phút chót thì chính quyền mới biết?

Đó là câu hỏi chắc chắn họ không trả lời được. Bởi vì họ đã dựng lên một cái kịch bản để đổ tội cho người thượng là khủng bố. Đó là cái mà chụp mũ trắng trợn của chính quyền Cộng sản.

Sau vụ đó thì tình trạng an ninh còn siết chặt hơn đối với cuộc sống đồng bào người Thượng, nhất là đối với người nông dân ở vùng nông thôn. Họ muốn đi làm rẫy cũng khó bởi vì bị theo dõi rất gắt gao.

Công an luôn quấy rối, vào nhà đồng bào không cần xin phép, bắt bớ không cần biết tội gì, cứ nắm đầu chụp mũ, cứ tình nghi hoạt động cho FULRO, cho nên từ ngày đó tới giờ thì tình trạng của đồng bào thượng rất là khó khăn.”

🔝

Luật sư nói về các vụ tranh chấp đất đai âm ỉ ở Tây Nguyên, Việt Nam

27 tháng 7 2023

Capture à partir de :BBC

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Trẻ em dân tộc thiểu số Ba Na ở tỉnh Kon Tum lên đường lấy gỗ - hình minh họa

Vụ nổ súng tại hai đồn công an tại Đắk Lắk vào rạng sáng ngày 11/06 được truyền thông VN cho là "khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân".

Nhưng từ nhiều năm qua, giới quan sát nhận định mâu thuẫn về đất đai đã luôn là 'ngọn lửa' đã âm ỉ ở vùng Tây Nguyên.

Một vụ việc khác, rộ lên lại gần đây là vụ người dân K'Hor ở thôn K’Rèn, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng phản đối dự án hồ thủy lợi Ta Hoét.

Từng tham gia bảo vệ quyền lợi đất đai cho các người dân tại các tỉnh Tây Nguyên trong nhiều năm qua, luật sư Nguyễn Duy Bình, Đoàn Luật sư TP HCM cho biết tại vùng đất các tỉnh Tây Nguyên trong hàng chục năm trở lại đây đã xảy ra hàng ngàn vụ khiếu kiện về đất đai giữa người dân với chính quyền và doanh nghiệp "do mâu thuẫn tranh chấp về đất đai bùng phát dữ dội".

Ông kể lại với BBC News tiếng Việt hôm 26/07/2023 về các vụ việc điển hình, như một vụ ông trợ giúp pháp lý năm 2014 cho gần 200 hộ gồm đồng bào thiểu số và cả người Kinh tại xã Đắk Ngo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông.

"Vụ việc tranh chấp xuất phát từ những năm 2008 khi UBND tỉnh Đắk Nông đưa hàng ngàn ha đất trong đó có cả rừng phòng hộ, rừng nghèo, rừng hoang và cả những vùng đất người dân đang canh tác để cho phía các doanh nghiệp tư nhân thuê. Hậu quả là hàng trăm ha đất và cây trồng lâu năm, hàng năm cùng nhà cửa, lán trại của người dân đã bị cưỡng chế trắng. Trong lúc đó, sau khi cho thuê, phần đa các doanh nghiệp để mất rừng hoặc lấy đất bán giấy tay kiếm lời; trong lúc đó, người dân lại mất đất trồng trọt, mất nguồn sống. Hậu quả là mâu thuẫn tranh chấp đất đai giữa người dân và doanh nghiệp đã lên tới đỉnh điểm và nhiều vụ án mạng đã xảy ra tại địa bàn này", Luật sư Nguyễn Duy Bình cho biết.

Một vụ khác là vào năm 2014, mà ông có tham gia bảo vệ quyền lợi.

"Vào năm 2014, nhân viên bảo vệ phía doanh nghiệp tư nhân Phạm Quốc đã dùng súng bắn chết một người dân và năm 2017 công ty Long Sơn đã đụng độ với nhóm các hộ dân trong đó có Đặng Văn Hiến (tử tù đã được ân giảm) dẫn đến làm chết ba người bên phía công ty Long Sơn."

"Thời kỳ đó, người dân tố cáo, khiếu kiện và ngay cả công an tỉnh cũng đã có kết luận việc cưỡng chế 286 ha đất (phần lớn do người dân khai hoang rừng nghèo) có dấu hiệu trái pháp luật. Người dân cho rằng tại sao nhà nước không công nhận quyền sử dụng đất cho người đân đối với những thửa đất do họ khai hoang, sử dụng ổn định, tại sao phía chính quyền không giao khoán cho họ để họ trồng rừng theo chủ trương, chính sách lại cho phía doanh nghiệp tư nhân thuê để kiếm lợi ích riêng. Thế nhưng, trải qua quá trình khiếu kiện hàng chục năm, đến nay vụ việc vẫn chưa được giải quyết dứt điểm", Luật sư Nguyễn Duy Bình cho biết.

Việt Nam: ‘Luật Đất đai là vấn đề căn cơ của nạn tham nhũng’

Dự thảo luật đất đai của Việt Nam chưa nhiệt tâm về áp thuế đất?

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Người dân tộc Ê Đê đốt rừng làm rẫy tại tỉnh Đắk Lắk, ảnh vào năm 2013

Tiếp theo, trong vụ mấy chục hộ dân tại xã Ea Kiết, huyện Cư M'Nga, tỉnh Đắk Lắk có tranh chấp hợp đồng giao khoán với phía công ty Buôn Za Vầm (thuộc nhà nước), luật sư Nguyễn Duy Bình cho biết những năm 1980 về trước công ty này được giao quản lý hàng ngàn ha đất rừng các loại, tuy nhiên, do việc quản lý thiếu trách nhiệm nên đã để mất rất nhiều rừng.

"Cũng thời kỳ đó người dân di cư từ Bắc vào đây thấy rừng nghèo, rừng hoang nên đã khai phá trồng trọt. Một thời gian sau phía doanh nghiệp cho rằng đó là đất của họ nên ép người dân ký các hợp đồng liên kết để trồng cà phê và giao nộp sản lượng hàng năm.

Đến những năm 2010 trở đi, đặc biệt là năm 2014 họ thấy Trung ương đảng đã có nghị quyết 30 và Chính phủ có Nghị định 118 chỉ đạo, hướng dẫn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, giải thể hoặc khoán trắng hoặc không có nhu cầu sử dụng đất thì giao đất về cho địa phương quản lý để địa phương giao lại cho đồng bào thiểu số hoặc công nhân, nông dân thiếu đất trồng trọt nên người dân đã không còn giao nộp sản lượng và gửi đơn khiếu kiện đến các cấp chính quyền yêu cầu giải quyết.

Cũng từ đó, phía doanh nghiệp thất thu nên đã kiện người dân ra toà để chấm dứt hợp đồng và đòi nợ sản lượng và hậu quả là người dân đã thua kiện trong lúc chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước chưa được giải quyết."

Năm 2021, ông cho biết đã cùng các đồng nghiệp tham gia bảo vệ cho hơn 40 hộ dân tại xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Mê Thuột, Đắc Lắk trong vụ UBND thành phố Buôn Mê Thuột thu hồi đất có nguồn gốc từ công ty Thắng Lợi (thuộc doanh nghiệp nhà nước) để thực hiện dự án tái định cư (quy hoạch gồm cả phân lô bán nền).

"Trong vụ khiếu kiện này người dân kể rằng họ là những người từ Bắc vào Nam đa số làm công nhân cho công ty trên và nhận giao khoán, liên kết các vườn cà phê, cuối vụ giao nộp sản lượng. Sau đó, công ty này không còn nhu cầu sử dụng và phía UBND tỉnh đã ra quyết định thu hồi đất nhưng không giao lại cho người dân sử dụng nên họ bị xem là lấn chiếm đất trái phép nên không được bồi thường (chỉ được hỗ trợ một phần).

Tuy nhiên, trên thực tế từ trước tới nay họ vẫn là người sử dụng đất và đa số đã xây dựng nhà cửa, tạo lập vườn tược và cư trú ổn định, đã được cấp sổ hộ khẩu tại nơi có đất."

"Người dân cho rằng cả đời làm thuê cho doanh nghiệp, nay phía chính quyền thu hồi trắng, đập bỏ nhà cửa thì họ biết cư trú ở đâu, lấy gì nuôi sống gia đình và lo cho con cái ăn học vì giờ muốn về quê cũng không có ruộng để làm. Cũng từ đó họ tổ chức khiếu kiện kéo dài. Sau đó, chúng tôi và người dân cũng đã gửi rất nhiều đơn thư khiếu tố, tiếp xúc, đề nghị với các cấp chính quyền nhưng kết quả cũng chỉ được hỗ trợ thêm, còn đất đai, nhà cửa đề đã bị cưỡng chế, đập bỏ", ông nói.

Dự thảo luật đất đai của Việt Nam chưa nhiệt tâm về áp thuế đất?

Đồng Tâm: 'Một vụ án chứa đựng nhiều điều ý nghĩa'

Nguyên nhân là gì?

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Theo luật sư Nguyễn Duy Bình, khi mô hình kinh tế quốc doanh cũ không còn phù hợp, lạc hậu, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì đất phải giao về cho các tỉnh thành quản lý và địa phương giao lại cho nhân dân theo chủ trương, chính sách đã có sẵn.

Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ đất hoặc sau khi giao lại cho địa phương thì địa phương không giao cho dân sử dụng, theo luật sư Bình.

Ông cũng đề cập vấn đề nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng vẫn không thu hồi, dẫn đến nhà nước và nhân dân đều bị thiệt hại, nhiều nơi vẫn áp dụng phương thức sản xuất tá điền "phát canh thu tô".

Đồng thời, cơ chế quản lý đất đai hiện tại khiến doanh nghiệp, nhóm lợi ích dễ hưởng lợi từ những vùng đất có giá trị kinh tế, ông Bình nói.

Chính sách và thực tế

Chính quyền Việt Nam có nghị quyết về chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất… và đang lấy ý kiến Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Ngày 13/11/2021 Quốc Hội Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 39/2021/QH15 có nội dung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nhất là nhu cầu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Chính phủ Việt Nam năm 2022 có Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 5/9/2022 về Chương trình hành động quy hoạch sử dụng đất quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, nêu rõ:

"Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nhất là nhu cầu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, phù hợp với đặc điểm phân bố dân cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số".

Nhưng về mặt thực tế thì cần có những thay đổi cụ thể như lời luật sư Nguyễn Duy Bình cho biết:

"Lẽ ra, những vùng đất trống, đồi núi trọc và những vùng rừng nghèo người dân đã khai phá, không có khả năng phục hồi rừng thì người dân phải được sử dụng ổn định và công nhận quyền sử dụng đất. Lẽ ra, việc giao đất, giao rừng, giao khoán trồng rừng phải được ưu tiên cho người nông dân để họ có đất để cày, có cơm ăn, áo mặc nhằm ổn định tình hình trật tự tại địa phương."

"Chính quyền thu hồi hết đất thì họ lấy gì để sống, lấy gì để ở. Họ là công dân của đất nước Việt Nam họ phải được đối xử bình đẳng và họ phải có đất để cày theo chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước."

"Nếu nhà nước làm được vậy mới yêu dân, nguy cơ mâu thuẫn bùng phát mới được hạn chế, tình hình trật tự xã hội mới được ổn định và không bị sa vào các cuộc nổi loạn như thời gian qua", ông nhận định.

Vụ nổ súng ở Đắk Lắk: Có phải người Tây Nguyên thành bộ phận dân số nghèo nhất?

Nền báo chí cách mạng VN có bị kiểm soát khi đưa tin vụ tấn công ở Đắk Lắk?

🔝

Thứ trưởng BCA: Nguyên nhân sâu xa vụ Đắk Lắk từ phân hóa giàu nghèo, quản lý đất đai

2023.09.07

Capture à partir de :RFA

Thứ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Tỏ. Bình Thuận Online

Thứ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Tỏ khẳng định vụ việc nghiêm trọng xảy ra ở Đắk Lắk hồi tháng 6 là hệ quả của việc thế lực thù địch không ngừng chống phá, nhưng cũng có nguyên nhân sâu xa từ các vấn đề như phân hóa giàu nghèo, quản lý đất đai ở địa phương.

Phát biểu được ông Tỏ đưa ra với tư cách Đại biểu Quốc hội trong phiên họp toàn thể của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội thẩm tra báo cáo về công tác tư pháp của Chính phủ hôm 6/9.

Mạng báo Tiền Phong dẫn lời thứ trưởng Bộ Công an nói, vụ việc xảy ra ở Đắk Lắk vừa qua là điều rất đáng tiếc, khẳng định đó là hệ quả tất yếu, tích tụ do thế lực thù địch không ngừng chống phá, chứ không đơn thuần là vấn đề sơ suất.

Chính phủ Việt Nam và các tờ báo trong nước thường quy kết những người phản biện ôn hòa, chỉ trích các chính sách của chính phủ, đòi hỏi nhân quyền cho người dân, nhất là người Việt Nam ở hải ngoại là thế lực thù địch.

Bên cạnh đó, em trai của cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang thừa nhận nguyên nhân sâu xa là những vấn đề kinh tế xã hội của đồng bào trong vùng, phân hóa giàu nghèo; quản lý đất đai; xây dựng hệ thống chính trị và một số nội dung khác về quản lý an ninh trật tự ở cơ sở.

Đây là lần đầu tiên phía cơ quan chức năng thừa nhận vụ việc hàng chục người Thượng tấn công vào hai trụ sở chính quyền, công an ở Đắk Lắk còn có nguyên nhân khác, chứ không chỉ đơn thuần là "các thế lực thù địch lôi kéo, giật dây" như báo đài Nhà nước tuyên truyền.

Thượng tướng Trần Quốc Tỏ nói thêm, trước và sau khi xảy ra vụ việc, Bộ Công an đã có nhiều văn bản tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trong đó, đã có cuộc họp cấp ủy với 10 tỉnh khu vực Tây Nguyên.

🔝

Người Việt Nam, dân tộc Kinh, tôn giáo Lương?

Kim Văn Chính

27-8-2023

Capture à partir de :baotiengdan

1. Từ hồi nhỏ, khi khai trong các thứ gọi là lý lịch, tôi vẫn thắc mắc, không biết tại sao dòng dân tộc mình phải khai là người Kinh, dòng tôn giáo phải khai là Lương?

Sau dần dần biết được, ghi tôn giáo lương tức là không theo tôn giáo có tổ chức nào cả, nó cũng không phải là vô thần. Thực chất, tôn giáo Lương là tôn giáo truyền thống Việt Nam, theo đa thần giáo, thờ cúng ông bà tổ tiên, Phật và linh tinh các totem mà người dân thấy thiêng và cần thờ cúng…

Nhưng dân tộc Kinh, mãi tôi vẫn không hiểu. Dường như các diễn đàn khoa học lịch sử cũng né tránh chủ đề này. Chỉ biết người được cho là “KINH” chiếm 93%, còn lại là Hoa, Thái, Khmer, H’Mong, Tày, Mường, Nùng… Người Kinh gần như đồng nghĩa với “NGƯỜI VIỆT” trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

2. Vậy nguồn gốc người Kinh – Việt?

Người ta cố dựng lên huyền thoại 18 đời vua Hùng, rồi truyền thuyết mẹ Âu Cơ 100 trứng, lại có truyền thuyết ông Kinh Dương Vương nữa… cứ như thật. Nhưng tôi không thấy có cứ liệu khảo cổ và lô gich về các truyền thuyết đó… Nó cũng không giải thích về giống người KINH.

3. Hóa ra tên gọi người Kinh xuất hiện rất muộn: Khoảng đầu TK 11 khi Lý Công Uẩn rời đô ra Thăng Long. Kinh có nghĩa là người kinh kỳ, tức thủ đô. Kinh để chỉ dân sống quanh Thủ đô, khác với dân sống xa trong các vùng sơn cước, được gọi là Trại …

Người Kinh là người bản địa, cộng người Hán di cư sống gần thủ đô, thần phục nhà vua hay thái thú Nam Việt, cũng tức là thần phục Nhà Hán (trong các thời kỳ bắc thuộc).

Người Trại bao gồm: a/Nhóm người giống hệt người kinh về dân tộc học, nhưng sống ở vùng sơn địa, có xu hướng chống lại triều đình, thích tự do (dù dưới chế độ bắc thuộc)… ; b/nhóm các dân tộc thiểu số như Mường, Thái, Tày…

Tại sao gọi người TRẠI? Nhiều giả thuyết cho rằng, người trại là họ sống không theo quy định triều đình. Ngay ngôn ngữ họ dùng (nếu ban đầu xuất thân nguồn gốc họ là người KINH) họ cũng nói trại đi (giống hệt người xứ Thanh Hóa – Nghệ An miền núi hiện nay vẫn dùng, cái gì cũng nói trại đi thành một phương ngữ rất quái). Tiếng Việt, “trại” có nghĩa là xa trung tâm.

4. Khi Pháp vào cai trị, họ thấy vấn đề KINH – TRẠI quá phức tạp, họ ép tất cả dân trại nói tiếng Việt, đều phải khai dân tộc mình là KINH. Kinh trở thành đồng nghĩa với VIỆT.

Chính quyền đương đại vẫn kế thừa tên gọi của Pháp, tất cả người Việt, dù là KINH hay Trại, đều phải khai là KINH…

Tôn giáo Lương thì đã bỏ rồi, thay vào đó khai là Không (không theo tôn giáo nào). Nhưng Kinh thì vẫn để đó. Và 95% người Việt (Kinh) chả hiểu nghĩa chữ KINH là gì.

5. Ai muốn hiểu đọc thử vài đoạn tài liệu dưới đây xem có bị loạn óc không nhé.

***

Nguồn gốc dân tộc Kinh ở Việt Nam

Giới thiệu

Lịch sử dân tộc Kinh tại Việt Nam có nhiều nét tương đồng với người Hán ở phía Nam Trung Quốc (ví dụ như phía Nam sông Trường Giang). Ta có thể chia dòng chảy lịch sử thành 4 làn sóng nhập cư của người Hán để hiểu rõ hơn.

Đợt nhập cư đầu tiên (214 – 110 TCN) – Thời đại dựng nước

Đợt nhập cư đầu tiên của người Hán xảy ra khi Hoàng đế triều Tần gửi 500,000 quân lính và 30,000 phụ nữ Hán tới chinh phạt Lĩnh Nam (Gồm Quảng Đông, Quảng Tây, miền Bắc Việt Nam).

Triệu Đà là một vị tướng võ triều Tần được lệnh của triều đình tới cai quản Việt Nam. Ông là người Hán, sinh tại tỉnh Hà Bắc. Khi nhà Tần sụp đổ, ông lợi dụng cơ hội, lập nên vương quốc độc lập tại phía nam – đặt tên là Nam Việt, Ông khuyến khích việc hôn phối giữa quân lính Hán và phụ nữ Tai-Kadai người bản địa. Trong “Đại Việt sử ký” do Lê Văn Hưu biên soạn năm 1272, Nam Việt được coi là quốc gia độc lập đầu tiên và Triệu Đà được coi là Hoàng đế đầu tiên của Việt Nam.

Đợt nhập cư thứ 2 (111TCN – 938 SCN) – Một tỉnh của Trung Quốc

Đợt nhập cư thứ 2 diễn ra khi nhà Hán chiếm được Nam Việt năm 111 TCN và Việt Nam trở thành Quận Giao Chỉ của Trung Quốc (VN gọi là thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc). Đợt nhập cư này có quy mô lớn hơn với số lượng cư dân người Hán thông thường đổ vào Việt Nam nhiều hơn so với lượng binh lính người Hán chiếm đa số trong đợt nhập cư đầu tiên.

Xi Guang là quan cai quản Giao Chỉ từ năm 1-25 SCN. Khi Xi Guang từ chối công nhận sự soán ngôi nhà Hán của Vương Mãn, Giao Chỉ trở thành nơi trú ngụ lý tưởng của người Hán di cư, bao gồm quan chức và thương nhân người Hán.

Hai bà Trưng – Trưng Trắc và Trưng Nhị (dân tộc Tai) khởi nghĩa chống lại nhà Hán từ năm 40 và chiếm được đa phần miền Bắc Việt Nam từ năm 40-43.

Tướng Mã Viện được nhà Hán chỉ đạo mang quân quay lại dập tắt cuộc khởi nghĩa vào năm 43. Khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, Mã Viện xử tử hàng ngàn quân Hán và người ủng hộ Hai Bà Trung để thị uy và đảm bảo cho sự thống trị của Trung Quốc trên mảnh đất xung quanh Hà Nội.

Vua Hán Vũ Đế nhà Hán còn ra lệnh cho người Hán từ những vùng khác di cư tới đây để giảm thiểu sức mạnh của dân tộc Tai tại Việt Nam – một chiến thuật vẫn đang được Trung Quốc sử dụng tại Tây Tạng và Tân Cương.

Một lượng lớn dân nhập cư người Hán đổ về Việt Nam trong thời Đường (618-907). Tới cuối thời Đường – sau 1100 năm di cư, người Hán trở thành dân tộc chiếm đa số ở Đồng bằng Sông Hồng tại Bắc Việt Nam.

Đợt nhập cư thứ 3 (939 – 1857) – Giành được độc lập khỏi Trung Quốc

Đợt di cư thứ 3 bắt đầy sau sự sụp đổ của nhà Đường. Nhà Đường sụp đổ kéo theo nhiều cuộc nội chiến, Trung Quốc bị chia thành nhiều vương quốc nhỏ – một trong số đó là Nam Hán (917 – 971) bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam.

Ngô Quyền – con rể của vua Nam Hán quyết định tạo lập vương quốc riêng và đánh bại quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng năm 938. Tổ tiên của Ngô Quyền là người Hán thuộc tỉnh Hà Bắc.

Tổ tiên của nhà Lý (1009-1225) cũng có nguồn gốc từ Hà Bắc. Lý Thuần An từ Phúc Kiến tới Việt Nam trong thế kỷ 10. Sau khi cha Li Song bị xử tử cùng cả họ tộc, Lý Thuần An trốn thoát khỏi Phúc Kiến – một thánh địa – từ Hà Bắc.

Tổ tiên của nhà Trần (1225 – 1400) có nguồn gốc từ tỉnh Phúc Kiến khi Trần Kinh cùng lượng lớn người Hán di cư về Việt Nam trong thế kỷ thứ 11. Họ “Trần” là một trong 8 họ lớn tại Phúc Kiến.

Nhà Trần khuyến khích người Hán di cư vào Bắc Việt Nam. Xuyên suốt thời Lý và Trần, rất nhiều người Hán nhập cư vào Việt Nam từ Mông Cổ. Trong số đó, có những người đã giúp nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông khi chúng xâm lược Việt Nam.

Tổ tiên nhà Hồ (1400 – 1407) tới từ Tân Cương khi Hồ Hưng Dật tới Việt Nam vào cuối thời nhà Hán (947-951).

Khi nhà Minh chiếm được Việt Nam vào năm 1407, một bộ phận người được gọi là “người Kinh” từ đồng bằng sông Hồng đã ủng hộ và hỗ trợ quân Minh. Thời đó, Nguyễn Trãi – người dân tộc Kinh đã lựa chọn gia nhập lực lượng của người Trại (Mường) để trả thù quân Minh đã bắt và giải Nguyễn Phi Khanh, cha ông, tới Nam Kinh – thủ đô cũ của Trung Quốc.

Trong sách “Gia Định Thành Thông Chí” có chép, rất nhiều người Hán đã bỏ trốn tới Việt Nam sau khi người Mãn xâm lược Việt Nam năm 1644. Năm 1679, tướng cũ nhà Nam Minh Dương Ngạn Địch chạy tới Việt Nam cùng gia quyến và 3000 binh lính.

Năm 1802, hoàng đế Việt Nam – Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) – người khai sinh ra triều Nguyễn, muốn đổi tên đất nước thành Nam Việt thay cho Văn Lang, nhưng nhà Thanh từ chối công nhận. Thay vào đó, đất nước được đổi tên thành Việt Nam để không bị trùng với quốc gia của Triệu Đà xưa kia.

Trong đợt nhập cư thứ 3 này, một dân tộc mới mang tên “Kinh” được tạo ra.

Kinh là từ Hán Việt để chỉ thủ đô của một đất nước. Thủ đô của Việt Nam thời đó là Hà Nội và khu vực Đồng bằng Sông hồng xung quanh – cũng là khu vực trung tâm của dân nhập cư người Hán. Cư dân sống ở vùng kinh thành (xung quanh Hà Nội) được gọi là Kinh.

Những người sống xa Trung tâm được gọi là Trại.

Đợt nhập cư thứ 4 (1858 – 1945) – Sự xâm lược của Châu Âu

Làn sóng nhập cư trỗi dậy trong thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945) và sau Chiến tranh Nha phiến tại Trung Quốc.

Rất nhiều người Trung Quốc từ phía Nam (Quảng Đông và Phúc Kiến) rời Trung Quốc tới Việt Nam (và những vùng khác tại Đông Nam Á) bởi chiến tranh và sự nghèo đói của Trung Hoa. Người Pháp khuyến khích những người Hoa nhập cư buôn bán giao thương và phát triển công thương nghiệp tại Việt Nam.

Nhóm người này được gọi là người Hoa và tới nay vẫn nhớ và khai báo nguồn gốc Trung Quốc của họ. Họ có thể nói được tiếng Trung ở nhiều vùng miền khác nhau, tuy nhiên tiếng phổ thông họ dùng là tiếng Quảng Đông.

Rất nhiều người Hoa lại rời khỏi Việt Nam như “thuyền nhân” sau khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm được Nam Việt Nam năm 1975 – sự kiện này khiến lượng người Hoa tại Việt Nam suy giảm mạnh. Họ chủ yếu di cư tới Pháp, Úc, Canada và Mỹ.

Kết luận

Người Kinh dù đã địa phương hóa khá mạnh, vẫn tôn trọng các lễ hội chính của người Hán, theo tôn giáo và văn hóa của người Hán – bởi thực ra họ đang thừa hưởng lại phong tục của tổ tiên. Thêm nữa, người Kinh sử dụng ngôn ngữ Hán Việt (Annamese Chinese language) – ngôn ngữ mẹ đẻ ban đầu của họ.

Người Kinh tại Việt Nam cũng như người Hán ở Đài Loan và Singapore – nơi người Hán trở thành dân tộc đa số tại một quốc gia độc lập sau vài đợt sóng di cư. Ba đợt di cư đầu tiên của người Hán được gọi là Kinh trong khi những người Hoa mới di cư trong đợt thứ 4 được gọi là Hoa.

Người Kinh là một nhóm phụ trong nhóm người Hán cũng như người Quảng Đông, Phúc Kiến, Khách Gia, Ngô,… – những nhóm người di cư tới miền Nam Trung Quốc bởi chiến tranh tại miền Bắc và trở thành dân tộc đa số tại miền Nam Trung Quốc vào cuối thời Đường. Nói cách khác, hiện tượng này không chỉ ở riêng Việt Nam mà còn diễn ra ở miền Nam Trung Quốc.

***

NGUỒN GỐC NGƯỜI KINH – THEO K.W. TAYLOR

“Người Kinh- Người trại”. Người Kinh từ đâu ra?

K. W. Taylor ghi lại nhận xét lạnh lùng trong tác phẩm “A History of the Vietnamese”, Một quyển sử về người Việt Nam, như sau:

“Cư dân đồng bằng sông Hồng có xu hướng ủng hộ chính quyền nhà Minh. Người vùng thấp ở các phủ Thanh Hóa, Nghệ An phía nam nói chung cũng hưởng ứng chính quyền này. Tuy nhiên, đặc tính dân cư vùng chân núi và cao nguyên các phủ miền nam là đề kháng sự cai trị bởi Minh triều. Nói cách khác, theo sự phân biệt đầu tiên được tường trình dưới thời Trần, nhiều người Kinh cảm thấy có giá trị khi họ là một phần của vương quốc phương bắc, riêng người Trại thì không. Vì thế, vào thập niên 1420, sau khi Chu Đệ băng hà, hoạt động kháng Minh tích cực trong nhóm người Trại tại các phủ phía nam phát triển nhanh chóng nhất, đặc biệt nơi các thung lũng thấp thuộc vùng ven núi nam sông Hồng và vùng phía tây bình nguyên duyên hải. Thời Trần, thuật ngữ Kinh – Trại biểu trưng hai xu hướng khác nhau trong lĩnh vực thực hành văn hóa và ngôn ngữ, điểm khác nhau mà thời hiện đại cảm nhận như sự khác biệt giữa người Việt và các nhóm người mệnh danh Mường.

Theo Toàn Thư, sự phân biệt khu vực “trại” với các xứ khác đầu tiên xuất hiện vào năm 1010, ngay sau khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long. Nguyên văn Toàn Thư : “改十道為二十四路愛州驩州為寨 cải thập đạo vi nhị thập tứ lộ ái châu hoan châu vi trại”, Đổi 10 đạo thành 24 lộ, hai châu Hoan Ái thành trại. Như vậy, Hoan-Ái được xem như khu vực quân sự ngoài biên. Dân Hoan Ái không phải Man Lão, cũng không phải người sống ở “kinh” hay ở các “lộ” đồng bằng. Các thủ lĩnh theo truyền thống Lạc như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn chưa bao giờ có quan điểm tương tự. Qua “Chiếu dời đô”, người “kinh” đầu tiên Lý Công Uẩn, vốn quê Phúc Kiến, xác định giá trị của Ngài cũng là của triều đại mới, ở việc thừa kế truyền thống cai trị Hoa Hạ. Ngài mạnh dạn biến triều đình Mân-Việt của mình thành trung tâm đồng thời ngoại vi hóa thế lực giàu tính bản địa. (

Việc hủy bỏ tên gọi “đạo” thực tế xuất hiện từ triều đại trước. Năm 1002, Lê Hoàn đã có lệnh đổi mười đạo làm lộ, phủ, châu. Vua Lê dù dùng nhiều người Hán hay gốc Hán trong bộ máy đồng thời chú tâm khai thác trung châu nhưng không có khái niệm kinh-trại. Dường như công việc cải tổ hệ thống hành chánh bị dang dở nên Lý Thái tổ phải tái thực hiện, tiện thể hạ thấp vai trò tiền triều bằng cách xếp loại quê quán và cộng đồng người của vua cũ vào diện “trại”.

Như vậy, những người sinh sống ở kinh thành mới và khu vực quanh đó có căn cước như thế nào?

Năm 866, sau khi đánh bại Nam Chiếu và chiếm lại Đại La, Cao Biền xây thành mới đồng thời làm 40 vạn căn nhà. (9) Dễ suy đoán số nhà cửa lớn lao được xây dựng dành cho người Hán hay trung thành với Hán đã bị xiêu tán trong 10 năm chiến tranh với Nam Chiếu. Cao Biền chủ ý lập khu dân cư quanh phủ thành như một hàng rào bảo vệ từ xa. Vành đai dân cư ủng hộ chính quyền phương Bắc phát huy tác dụng khi Dương Đình Nghệ, thủ lĩnh quê Ái châu, chủ quan đóng quân trong thành sau khi đuổi Thứ sử Lý Tiến về xứ. Ông dễ dàng bị Kiều Công Tiễn, người ngưỡng mộ Nam Hán, tiếp cận và sát hại trước sự bất lực của bộ thuộc (937). Đó là chưa kể đến Khúc Thừa Mỹ, bị Nam Hán đánh bắt năm 930 mà sử ký không ghi nhận dân sở tại có phản ứng gì.

Ai đã đến cư trú trong các căn nhà do Cao Biền dựng lên? Trong trận quyết chiến giữa Đường và Nam Chiếu tại phủ Đô hộ vào năm 863, các tướng Đường như Sái Tập, Nguyên Duy Đức chống trả kịch liệt đến mức toàn thể gia đình, bộ thuộc đều chết. Nam Chiếu lần thứ hai chiếm phủ thành. Qua hai lần thành công, họ vừa bắt vừa giết gần 150.000 người. Với số lượng nạn nhân như vậy, dễ hiểu là không còn đủ nông dân để canh tác. Năm 865, Cao Biền tiến quân sang An Nam bắt gặp 50.000 người Man đang thu hoạch lúa trên vùng nay thuộc Bắc Ninh. Rõ ràng, Nam Chiếu có kế hoạch định cư lâu dài tại An Nam nên tiến hành tàn sát quy mô lớn để thay đổi thành phần dân cư. (10) Ruộng đất cung cấp lương thực cho phủ Đô hộ đã có chủ mới. Họ Cao đánh giết những người gặt lúa, phá tan viện binh rồi tiến chiếm châu trị. Riêng trận phá thành, Biền tiêu diệt 30.000 quân Man, sau đó bắt 17.000 thổ dân ủng hộ Nam Chiếu. Qua mười năm chiến loạn, tổn thất sinh mạng quân dân cả hai bên đều lớn. Như thế, có thể đoán rằng Cao Biền phải mời gọi không chỉ dân phủ Đô hộ cũ vốn đã bị tiêu hao nặng nề, mà còn gồm cả người Đường mới đến cư trú quanh châu thành. Quan hệ giữa nhóm “tân dân” với các triều đình phương Bắc đương nhiên bền chặt hơn quan hệ của nhóm “cựu dân” đã An Nam hóa ít nhiều.

Năm 939, Ngô Quyền rút kinh nghiệm Đình Nghệ, lập triều đình bên ngoài vùng đất thù địch Đại La. Việc định đô tại Cổ Loa cho thấy quê Đường Lâm của họ Ngô không thuộc Giao châu. Ông là vị đầu lĩnh gốc Phúc Lộc châu thống trị một vùng đang nghiêng ngửa giữa thế lực bản địa Hoan Ái và thế lực mang bóng dáng chủ cũ từ Hưng Vương Phủ. Vương quốc mới ra đời có vẻ là tập hợp nhiều lãnh thổ tự trị nhỏ hơn là một thể chế có hệ thống hành chánh đến từng địa phương. Sử cũ không thể hiện hành động phân bổ quan lại nào của Ngài. Có thể Ngô vương dựa vào đạo quân mạnh của mình để áp đặt phú thuế, sưu dịch lên các lãnh chúa tự quản sau này trở thành các sứ quân. Khi Dương Tam Kha vận hành chính quyền trung ương, ông muốn bắt Xương Ngập tại lãnh địa Trà Hương (nay thuộc Hải Dương) của Phạm Lệnh công nhưng ba lần đều thất bại. Sự việc cho thấy quyền lực Cổ Loa vô cùng giới hạn, đặc biệt đối với vùng duyên hải là vùng mà Xương Ngập cảm thấy an toàn khi ẩn nấp.

Theo thần phả thần tích còn lưu hành đến nay, hơn phân nửa số thổ hào khu vực trung du và đồng bằng sông Hồng là người gốc Hán vào thời 12 sứ quân. Các vị hào trưởng đó gồm: Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, Đỗ Cảnh Thạc và Trần Lãm. (không kể thủ lĩnh chiếm cứ miền núi Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí, Kiều Thuận). Họ chính là nhóm người kiểm soát nguồn hàng hóa từ đầu nguồn theo sông Hồng, sông Thái Bình xuống cửa biển phục vụ hệ thống hải thương nhộn nhịp đương thời. Dưới quyền sứ quân đa số là thổ dân ở nhiều mức độ phát triển khác nhau, vẫn còn các cộng đồng hoang dã khiến Toàn thư nhắc đến họ bằng danh xưng “bộ lạc” khi Đinh Bộ Lĩnh bình định Đỗ Động giang (năm 967). Thời điểm đó, dân cư phía đông nam và nam sông Hồng hẳn rất thưa thớt vì người Lạc cổ chủ yếu sống dựa theo đồi gò ven chân núi và việc canh tác đất thấp trũng chưa thuận lợi do hệ thống đê chưa hình thành.

Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân, vẫn tránh định đô tại Đại La hay tại một địa điểm thuộc đồng bằng sông Hồng. Có thể nơi này dân cư vẫn chưa hồi phục đông đúc như trước, cũng có thể vua Đinh cảm thấy đó chẳng phải là không gian thân thiện.

Uy vũ của Tiên Hoàng tuy áp đảo các lãnh chúa nhưng khi Ngài băng, chưa chắc người con nào đó đương nhiên kế vị. Xét kỹ lá thư do Lê Hoàn giả danh Đinh Toàn gửi hoàng đế Tống, chúng ta thấy rõ điều kiện cần và đủ để được làm vua Đại Cồ Việt.

“Nhà thần sắp sụp đổ, chưa bỏ áo tang thì quân dân tuớng lại trong hạt, nguời già lão ở núi rừng cùng đến chỗ nằm rơm gối đất của thần, bảo thần tạm giữ việc quân lữ. Thần cố từ ba bốn lần, nhưng bọn họ thỉnh cầu nài ép càng khẩn thiết. Thần muốn đợi tâu bày, nhưng lại lo chậm trễ; nguời núi rừng hung ác, dân khe động tráo trở, nếu không chiều ý họ, sợ có khi tai biến xảy ra.” (Toàn Thư I, 223-224).

Có hai nhân tố chính tác động đến việc lên ngôi của vua mới, một là “quản nội quân dân tướng lại 管内軍民將吏”, quân dân tướng lại trong hạt, hai là “phiên duệ kỳ điệt 番裔耆耊”, người già lão nơi biên viễn. Đứng đầu Hoa Lư thì chỉ cần sự ủng hộ của quân dân tướng lại, tức những người trực thuộc hệ thống hành chánh của tiểu vương quốc trung tâm, nhưng muốn làm vua Đại Cồ Việt thì phải thêm điều kiện đủ là sự đồng thuận của các thủ lĩnh bên ngoài khu vực đô thành.

Tiếng nói của những tù trưởng nơi núi non 山, đồng ruộng 野, hang động 洞 và ao ngòi 壑 đủ mạnh để chủ động Hoa Lư phải cân nhắc hết sức nếu muốn làm điều gì trái ý họ. Đặc tính “hung ác”, “tráo trở”, sẵn sàng ép uổng cả nhà vua cho thấy họ là những chúa đất có tiềm lực quân sự. Điểm này khiến ta liên tưởng đến nhận xét của Tomé Pires vào đầu thế kỷ 16 về hòn đảo nay thuộc Philippines, Pires thấy Lữ Tống được quản lý bởi một nhóm trưởng lão chứ không có quốc vương. Tổ chức chính trị Đại Cồ Việt, dưới ảnh hưởng trung nguyên, chỉ vừa vượt qua giai đoạn thô sơ này và còn quãng đường rất xa mới đạt đến kiểu cấu trúc phong kiến tập quyền. Cách trình bày với vua Tống của Lê Hoàn cũng thật khéo, bằng cách nhấn mạnh ảnh hưởng của cừ súy địa phương trong việc suy tôn vua mới, Ngài đã hạn chế tác động từ hoàng đế Trung Hoa lên qui trình truyền ngôi tại nước Nam. Thời Đinh, có vẻ cộng đồng người tại trung lưu sông Hồng chưa đóng vai trò chính trị đáng kể nên không được đề cập riêng.

Người Quảng hay Mân đến Giao châu sinh sống là điều rất bình thường vào thế kỷ X. Vị vua thừa kế nhà Đinh là Lê Hoàn từng nói với sứ Tống Lý Nhược Chuyết rằng (996): “Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở ngoài, Hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi? ” (Toàn Thư II, 234).[5] Câu nói ít nhiều phản ánh sự luân chuyển con người, ý tưởng và hàng hóa giữa ba xứ tham gia buôn bán trên biển Đông, đồng thời cho thấy vua Lê có kiến thức nhất định về hoạt động phồn thịnh này.

Từ năm 991 đến năm 995, Toàn Thư ghi nhận Lê Đại Hành phân phong 8 trong số 9 hoàng tử về địa bàn châu thổ sông Hồng, đặc biệt ở vùng nay là Hưng yên, Hải phòng. Hành động đó cho thấy khu vực đồng bằng có sự phục hồi về dân số và kinh tế nên vấn đề an ninh hay thu thuế trở nên quan trọng hơn trước. Quan tâm tột độ của Lê Hoàn đối với trung nguyên hé lộ sự tái hình thành có thể vượt tầm kiểm soát của một cực chính trị khác đủ khả năng đương đầu với Hoa Lư.

Lý Thái tổ dời đô về Đại La, trong bản chất, là sự quay về không gian văn hóa của chính mình, tránh xa phản ứng bất trắc của tập hợp bản xứ rất mạnh từ Hoan Ái. Cộng đồng “kinh” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt chính là gia tộc Lý và nhóm công khanh người Mân, có thể cả Quảng, cùng gia đình họ. Vây quanh là lớp thổ hào quen thuộc với lối sống và cách cai trị kiểu Trung Hoa, họ có mối quan hệ thương mại cả bằng đường bộ lẫn đường biển với phía Bắc từ trước. Thổ hào không chỉ là người địa phương mà còn có thể là người Hoa bản địa hóa hay người lai. Nền tảng của cộng đồng “kinh” là thần dân cũ của đế quốc Đường tập trung ở trung lưu sông Hồng, họ từng sống bên trong hệ thống hành chánh phủ Đô hộ hàng trăm năm.

Nhóm dân “sống ở kinh đô” đầu thời Lý là một sắc tộc mới đang tượng hình, khác biệt với các cộng đồng chung quanh, chiếm thiểu số so với tổng dân số trên vùng lãnh thổ nay là bắc bộ và bắc trung bộ. Họ bắt đầu sử dụng ngôn ngữ khác, dần hoàn chỉnh trong triều đình Lý vốn chủ đạo bởi vua quan nói tiếng Mân hoặc một thứ tiếng Hoa miền biển. Tiếng nói mới hẳn chịu tác động mạnh mẽ bởi tiếng nói của lớp lãnh đạo tại chỗ vốn bắt đầu ngừng sử dụng tiếng Hoa sau khi Ngô Quyền từ chối các Tiết độ sứ phương Bắc. Sự lan tỏa của ngôn ngữ này kèm theo văn hóa hỗn tạp nhưng tiên tiến đã chuyển hóa nhóm người bản địa hợp tác với ngoại tộc thành người “kinh”, đồng thời biến dân số bất khuất còn lại thành “dị tính”, “trại” hay tệ hơn, thành “mường mán”.

Sự khác biệt giữa dân ở “kinh” với dân “trại” có thể được phát hiện qua lịch sử chinh chiến của hai đời vua đầu triều Lý.

– Năm 1011: đem sáu quân đánh man Cử Long ở Ái châu (thuộc Thanh Hóa nay).

– Năm 1012: vua thân đi đánh Diễn châu (thuộc Nghệ An nay) vì người ở đấy không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân…Cuối năm này, bắt người Man và hơn 10.000 con ngựa tại châu Vị Long (thuộc Tuyên Quang nay)

– Năm 1013: vua thân đi đánh châu Vị Long do dân châu hùa theo người Man làm phản. Thủ lĩnh Hà Án Tuấn cùng bộ thuộc trốn vào rừng núi.

– Năm 1014: Dực Thánh vương chống người Man xâm nhập ở châu Bình Lâm (thuộc Tuyên Quang nay), chém hàng vạn người.

– Năm 1015: Vũ Đức vương và Dực Thánh vương đánh người Man ở Vị Long, Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên (thuộc Tuyên Quang nay); bắt được Hà Án Tuấn, chém bêu đầu ở chợ.

– Năm 1020: Khai Thiên vương và Đào Thạc Phụ đánh Chiêm ở trại Bố Chính, chém tướng giặc Bố Linh tại núi Long Tỵ (nay thuộc Quảng Bình).

– Năm 1022: Dực Thánh vương đánh Đại Nguyên Lịch, thâm nhập trấn Như Hồng thuộc Tống.

– Năm 1024: Khai Thiên vương đánh Phong Châu, Khai Quốc vương đánh châu Đô Kim.

– Năm 1025: lập trại Định Phiên ở phía nam Hoan Châu (khoảng Hà Tĩnh nay)

– Năm 1026: Khai Thiên vương đánh giặc ở Diễn Châu.

– Năm 1027: Khai Thiên vương đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh vương đánh châu Văn (nay thuộc Lạng Sơn).

– Năm 1028: vua mới Thái tông đánh phủ Trường Yên (Ninh Bình nay) do Khai Quốc Vương trấn trị làm phản.

– Năm 1029: đánh giáp Đãn Nãi ở châu Ái.

– Năm 1031: vua thân đi đánh châu Hoan.

– Năm 1033: vua thân đi đánh châu Định Nguyên, sau đó là châu Trệ Nguyên.

– Năm 1035: vua thân đi đánh châu Ái.

– Năm 1036: đặt hành dinh ở châu Hoan, đổi tên thành châu Nghệ An.

– Năm 1037: vua đánh đạo Lâm Tây, Khai Hoàng vương đánh Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên. Dựng hơn 50 kho tàng thuộc Nghệ An.

– Năm 1039: vua đi đánh Nùng Tồn Phúc.

– Năm 1041: cho Uy Minh hầu Nhật Quang làm Tri châu Nghệ An. Đánh bắt được Nùng Trí Cao.

– Năm 1042: Khai Hoàng vương đánh châu Văn.

– Năm 1043: Khai Hoàng vương đánh châu Ái, Phụng Càn vương đánh châu Văn. Đào Xử Trung dẹp giặc biển Chiêm Thành.

– Năm 1044: vua thân chinh Chiêm Thành, chém vua Chiêm Sạ Đẩu tại trận. Trên đường về, Vua ban tiết việt và gia tước vương cho Trấn thủ Nghệ An Nhật Quang.

– Năm 1048: Phùng Trí Năng đánh Ai Lao, Quách Thịnh Dật đánh động Vật Ác của Nùng Trí Cao.

– Năm 1050: dẹp loạn ở Vật Dương.

– Năm 1051: Thánh tông lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Việt.

Ngoài ba lần đối phó Chiêm Thành, đối tượng của các cuộc chinh phạt từ năm 1010 đến 1052 là các bộ tộc nói tiếng Tai-Kadai phía Bắc và người trại phía Nam. Riêng vùng đồng bằng rất yên ả. Bản chất chiến tranh phía Bắc và phía Nam khác nhau. Nhà Lý buộc phải ngăn chặn sự xâm nhập của “người lạ” từ phương Bắc. Đối với phương Nam, nhiều khả năng chiến tranh mang tính chất trừng phạt việc từ chối nộp cống thuế. Dưới triều trước, thủ lĩnh Hoan Ái còn định thần phục vua Chiêm thay vì vua tiền Lê. Đến triều Trần, khi Thăng Long suy yếu, Toàn Thư ghi chép rõ dân Tân Bình Thuận Hóa ủng hộ quân Chiêm, dân Nghệ An thì ăn ở hai lòng. Dường như dân trại chọn ngả theo vị vua thu thuế nhẹ hơn và gần gũi hơn về mặt văn hóa.

Triều đình Lý cũng không hoàn toàn yên tâm với các xứ đang an bình. Năm 1043, khi Lý Thái Tông hỏi ý các quan về cách đối xử với Chiêm Thành vì xứ này đã 16 năm không tiến cống thì được tâu trình như sau: “Bọn thần cho rằng đó là vì đức của bệ hạ tuy có đến nhưng uy thì chưa rộng. Sao thế? Vì từ khi bệ hạ lên ngôi đến giờ, họ trái mệnh không đến chầu, bệ hạ chỉ ban ơn đức để vỗ về, chưa từng ra oai dùng võ để đánh phạt. Bọn thần e rằng các chư hầu khác họ trong nước đều như Chiêm Thành cả, há chỉ riêng người Chiêm mà thôi đâu”. (Toàn Thư I, 279)[7]

Nghĩa là hệ thống cai trị trên toàn vương quốc của nhà Lý vẫn chưa mang tính tập quyền. Bên ngoài bộ máy trực trị vẫn tồn tại các chư hầu cùng họ và khác họ. Việc nộp phú thuế như thế nào từ các khu tự trị hoàn toàn tùy thuộc vào sức mạnh của tập đoàn trung ương. Cuộc xâm lược thành công Chiêm Thành năm 1044 dĩ nhiên đã ngăn ngừa hiệu quả manh động có thể có từ các chư hầu. Nhưng vì sao quan tướng nhà Lý đặt “hải nội dị tính chư hầu 海内異姓諸侯”, chư hầu khác họ trong nước, ngang với Chiêm Thành? Phải chăng văn hóa Đại Việt thời điểm đó do mới hình thành chỉ lan tỏa quanh Thăng Long và phủ Thiên Đức? Còn nhiều vùng ngay trong châu thổ vẫn theo truyền thống Đông Nam Á, được điều hành bởi các hào trưởng tự lập? Thời trung đại, “dị tính” có nghĩa gần như tương đương với “tộc người khác.”

Dân “kinh” thời Lý không thể đông hơn các cộng đồng mệnh danh “trại” hay “mường mán”. Họ chỉ là nhóm dân có văn hóa đặc thù, không là Hán nhưng đủ khác với cư dân xung quanh để chiến tranh bùng phát dai dẳng. Sự áp đảo về quân sự của triều đình trên các nhóm người ngoài vùng hạt nhân là sự áp đảo của một xã hội có tính tổ chức lên các cộng đồng riêng lẻ chưa có cơ cấu liên kết nhau sâu sắc. Tuy nhiên, có thể thấy chỉ đến đời thứ hai nhà Lý, triều đình đã cử Nhật Quang cai trị Nghệ An bên cạnh các thổ hào. Riêng châu Ái, nhà vua còn cử Khai Hoàng vương đánh dẹp vào năm 1043, nhưng đến năm 1105 khi Lý Thường Kiệt qua đời, đã thấy sử ghi việc Kiệt được Thánh tông phong chức Thái Bảo kèm tiết việt để thăm hỏi “lại dân” ở Thanh Hóa, Nghệ An. Như vậy, tầng lớp ưu tú nhà Lý bản địa hóa rất nhanh và các địa phương miền nam cũng mau chóng hòa hợp với trung châu. Trong vòng 100 năm, phân chia kinh-trại đã nhòa nhạt. Các trại, hay châu, Hoan và Ái đã trở các phủ Nghệ An và Thanh Hóa.

Tuy vậy, khi văn hóa miền biển lấn ngược chiều sông Cái, các nhà lãnh đạo duyên hải dù cảm thấy gần gũi với quý tộc trung lưu sông Hồng, lại thấy mình khác với người Thanh Nghệ. Điều này dễ hiểu, vì vùng duyên hải dưới quan sát của các tác giả Trung Hoa, thổ dân chỉ chiếm một nửa nhân khẩu. Năm 1256, nhân kỳ thi nho học, vua Trần chia làm Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên, Kinh Thái học sinh và Trại Thái học sinh. Tống nho đã thâm nhập đồng bằng sớm sủa hơn khu vực phía nam nhiều. Chính nhà Trần dung nạp di thần Tống để kháng cự Mông Cổ xa lạ đến từ thảo nguyên. Liên kết chặt chẽ với Hoa tộc cả về quân sự lẫn văn hóa khoét sâu sự ngăn cách giữa tầng lớp thượng lưu Mân-Hán và đa số bình dân địa phương, khoảng cách tưởng đã phai nhạt vào cuối đời Lý. Thời bình, vấn đề giữa các tộc người có thể là thứ yếu nhưng trước đe dọa đòi hỏi huy động tổng lực của vương quốc, ủng hộ từ đa số bị trị trở thành yếu tố quyết định sự tồn vong của triều đại. Tính chất mong manh của một vương triều ngoại tộc được vua Trần hóa giải bằng hai hành động vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Đại Việt: đuổi cá sấu trên sông Lô và họp hội nghị tại thềm điện Diên Hồng.

Về việc nhà vua sai Nguyễn Thuyên đuổi cá sấu, chúng ta dễ hào hứng với thông tin gợi mở rằng Thuyên viết bài văn bằng quốc ngữ, tức chữ Nôm, nên thường hiểu sai về mục đích của thao tác này. Nhằm tìm hiểu động cơ của triều đình, phải đặt sự kiện vào trong dòng chảy căng thẳng của thế cuộc đương thời:

– Mùa đông năm 1278, Trần Thái tông băng. Nguyên đế sai Sài Xuân sang sứ dụ vua vào chầu. Vua cự tuyệt. Sứ giả Đại Việt sang Nguyên bị bắt giữ.

– Năm 1279, người Nguyên đánh trận quyết định với nhà Tống ở Nhai Sơn, quan quân Tống gồm cả hoàng gia chết đuối hơn 100.000 người.

– Năm 1280, xét duyệt sổ đinh và các sắc dịch. Trịnh Giác Mật ở Đà Giang làm phản, Trần Nhật Duật thu phục được.

– Năm 1281, nhà Nguyên phong chức tước cho vài người thuộc sứ đoàn nhà Trần, cử Sài Xuân sang Đại Việt hành xử khiêu khích.

– Năm 1282, Lạng Châu báo tin Toa Đô chuẩn bị 50 vạn quân mượn đường nước ta đi đánh Chiêm Thành. Lúc ấy, có cá sấu đến sông Lô, vua sai Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông để xua đuổi. Mùa đông, vua họp vương hầu và trăm quan tại Bình Than, cử Trần Khánh Dư làm Phó Đô tướng quân. Lấy Thái úy Trần Quang Khải làm Thượng tướng thái sư.

– Năm 1283, mùa thu, sứ giả Đại Việt thu được thông tin về đạo quân 50 vạn sắp vào cướp. Mùa đông, vua thân chỉ huy tập trận thủy bộ, cử Trần Hưng Đạo làm Quốc công Tiết Chế, bổ nhiệm nhiều tướng hiệu có năng lực.

– Năm 1284, mùa thu, Hưng Đạo vương duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, bố trí phòng thủ các điểm xung yếu. Mùa đông, vua sai Trần Phủ sang Nguyên xin hoãn binh. Trần Phủ báo tin Thoát Hoan sẽ tấn công với lý do mượn đường đánh Chiêm Thành. Thượng hoàng triệu tập bô lão ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi ý kiến. Tất cả đều quyết chiến. Chỉ vài ngày trước Tết Nguyên đán, Mông Cổ vi phạm biên cảnh.

Trước Nguyễn Thuyên (1229 – ?), Hàn Dũ (768 – 824) từng làm việc tương tự khi bị biếm truất làm thứ sử Triều Châu, miền đất đương thời hãy còn là biên địa của đế quốc Đường. Họ Hàn vốn mộ Nho bài Phật, khổ nỗi, dân địa phương chắc chẳng “mộ” cũng chẳng “bài” cả hai. Để thu phục tập đoàn mông muội đa thần giáo, Hàn Dũ đã tạo nên sự kiện đuổi cá sấu bằng “Ngạc ngư văn”, qua đó, ông hành xử như một thầy mo bản thổ. Liam C. Kelley nhận xét rằng hành động của Hàn Dũ là thủ thuật cai trị phổ biến trong nhiều nền văn hóa khác nhau.

Toàn Thư không nói rõ Nguyễn Thuyên làm bài văn bằng thứ chữ gì, nhưng ngay sau lời kể vua ban họ Hàn cho ông, tác giả sử ký xác nhận Thuyên giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Như vậy, có thể đoán rằng ông làm bài văn bằng chữ Nôm, đọc cho cá sấu nghe bằng loại tiếng Việt mà dân quanh vùng sông Lô nghe, hiểu được. Ở đây, vị vua gốc Phúc Kiến đã đóng vai “thầy mo” của các bộ tộc Lạc để dễ dàng huy động họ trong cuộc đại chiến sắp xảy ra. Vị phù thủy này vô cùng tế nhị vì đã không buộc cá sấu hay dân địa phương phải nghe tiếng nước ngoài. (15)

Hội nghị Diên Hồng mang dấu ấn cơ cấu Kuriltai của người Mông Cổ, chủ nhân trung nguyên lúc bấy giờ. Hội nghị trưởng lão tương tự vẫn thấy ở Afghanistan ngày nay dưới danh xưng Loya Jirga. Riêng Đại Việt, nơi hệ thống hành chánh phát triển hơn trên địa bàn chật hẹp, vua có thể trao đổi với lãnh đạo các phủ lộ để nắm tình hình địa phương nhưng vẫn triệu họp phụ lão, điều đó chứng tỏ hệ thống chính quyền không chặt chịa bao trùm toàn vương quốc. Nhiều khu vực vẫn tự chủ ở các mức độ khác nhau nên vua chỉ có thể trao đổi với thủ lĩnh địa phương thông qua cuộc họp này.

Hội nghị Bình Than dành cho tập đoàn cầm quyền bao gồm vương hầu người gốc Mân và trăm quan Hán hóa cao độ gắn kết với hoàng gia. Hành động đuổi cá sấu hay họp phụ lão là những nỗ lực tác động đến mọi ngóc ngách của khối dân bản địa. Hai thao tác chuẩn bị chiến tranh này cho thấy người Việt gốc vẫn chiếm đa số áp đảo mặc dù nhân số đồng bằng đã được bổ sung đáng kể bởi người Mân Quảng kinh dinh ven biển hoặc bởi di dân Tống.

Không còn báo cáo dân số thuở ban đầu, lúc nhà Lý phân chia kinh-trại. Li Tana tích hợp nhiều nguồn chứng minh một cách thuyết phục rằng dân cư thời Lý rất thưa thớt và chưa bao gồm dân số khu vực phía đông đồng bằng. Bà cũng đồng ý dân số tăng đột biến vào quãng thời gian 1200 – 1340. (16) Để suy đoán tương quan giữa dân số kinh và dân số các cộng đồng khác vào thời Lý, chúng ta thử xem xét tường trình Trương Phụ gửi về Kim Lăng năm 1408:

Chiêu an hơn 3.120.000 người, bắt được dân Man hơn 2.087.500 người (Minh Thực Lục I, 298)[8]

Sau khi Lý thái tổ chia Hoan Ái thành trại gần 400 năm (1010 – 1408), dân số nằm trong hệ thống hành chính trung ương, tức người chấp nhận văn hóa và sự cai trị từ Ty Bố Chính Giao Chỉ, chỉ chiếm 60% tổng dân số trên vùng đất nay là bắc bộ và bắc trung bộ (tỉ lệ khoảng 6/4). Con số “3.120.000 người” năm 1408 chắc chắn chủ yếu là dân “kinh lộ” và một ít dân “trại” vùng duyên hải Hải Tây mà người Minh trực tiếp thu thuế được. Dân số lên đến mức đó chỉ sau kỳ bùng nổ nhân khẩu tại đồng bằng xảy ra dưới thời Trần khi hệ thống đê điều toàn khu vực được xác lập và giống lúa Chiêm được phổ biến rộng rãi. Như vậy, có thể suy đoán tỉ lệ giữa dân số vùng trung lưu sông Cái với dân số các vùng Hoan Ái, vùng duyên hải, vùng đồi núi đầu thời Lý là con số rất khác tỉ lệ 6/4. Không đủ cơ sở để xác định tỉ lệ đó chừng 5/5, 4/6 hay 3/7…,(17) nhưng có thể xác định một điều : người nói các thứ tiếng Mường hay Tai-Kadai chưa trở thành dân tộc ít người vào thời điểm đó. Họ chỉ trở thành thiểu số khi nhiều thành viên trong số họ rời bỏ cộng đồng để hòa nhập vào người “kinh” hay “lộ”. Chính chiếu chỉ năm 1042 cho thấy các phụ nữ làm vợ hay thiếp của nhà quyền thế còn mang đậm tập quán của các bộ tộc sống cách biệt, bị ám ảnh bởi hôn nhân cận huyết. Dòng chảy nhân lực từ miền cao xuống còn thấy rõ vào cuối đời Trần qua bài thơ “Đề Tư Đồ Trần Nguyên Đán từ đường 題司徒陳元旦祠堂”, Đề thơ tại nhà thờ quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán, của Trần Nghệ tông. Thượng hoàng cho biết đội khiêng kiệu cho Ngài là “山僮 sơn đồng”, nô lệ người miền núi. Đối sánh số “nhân dân” 3.120.000 với số 2.087.500 “man nhân”, có thể nói rằng người man là các cộng đồng văn hóa khác biệt trên lãnh thổ An Nam, do điều kiện địa lý và trình độ phát triển, họ còn thuộc về nhiều bộ tộc khác nhau, nói ngôn ngữ không hoàn toàn giống nhau, nhưng chưa thật sự trở thành thiểu số trên chính quê hương mình.

Cần chú ý khái niệm kinh-trại chỉ được nhắc đến trong chính sử khi quyền lực thuộc về các gia tộc gốc Mân. Đến thời Hồ – Lê, không thấy Toàn Thư nhắc lại khái niệm này. Các vua Hồ lập đô ở Thanh Hóa, biến khu vực nay là Thanh Hóa và bắc Nghệ An thành “tứ phụ”, tức vùng lõi. Bộ phận điều hành lộ Đông Đô được đặt tên Phủ Đô hộ, một hàm ý ngoại vi hóa vùng kinh thành xưa. Từ đó, người trung châu được gọi là dân “kinh lộ”, ý chỉ người thuộc các lộ đồng bằng bao gồm cả lộ Đông Đô.

Taylor có lý của ông khi cho rằng khái niệm kinh-trại sẽ phát triển thành Việt-Mường sau này. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu theo cách khác: Kinh gồm người Hán vùng duyên hải bản địa hóa và người địa phương Hán hóa chấp nhận sự lãnh đạo của nhóm gốc Bắc; Trại là người địa phương Hán hóa mức độ thấp, còn gần gũi với các tộc bản xứ. Thổ dân đóng vai trò tương đối thụ động trong tiến trình Hán hóa của nhóm kinh, ngược lại, người bản địa vùng trại chủ động tiến trình này. Dưới mắt kinh, dân trại phong hóa tầm thường. Dưới mắt trại, dân kinh quá ngả về Bắc không đủ tư cách làm chủ nước.

Xét riêng cộng đồng “kinh” hay “kinh lộ” thời Lý Trần, chúng ta thấy tầng lớp ưu tú chủ yếu là người Hán vùng ven biển đông nam hoặc người lai miêu duệ của họ; tầng lớp dưới là dân bản địa gốc Mường được bổ sung bởi tù binh nói tiếng Nam đảo hoặc tiếng Tai-Kadai. Dĩ nhiên có tầng lớp trung gian đến từ nhiều nguồn, họ có thể là thầy thợ người Bắc, hoặc thành viên các gia tộc lớn, hoặc người bình dân tiến thân bằng chiến công hay học vấn. Cơ cấu dân số như vậy đóng vai trò quyết định thái độ chính trị của khu vực. Nó giải thích vì sao những “người có chút ít tiếng tăm” nhanh chóng hợp tác với quân Minh, trái lại, “quân nhân đinh nam” lúc cùng đường lại sẵn lòng phục vụ vua Giản Định. Xu hướng chính trị này ảnh hưởng sâu đậm, bền bỉ và góp phần quan trọng định hình lịch sử Đại Việt – Đại Nam – Việt Nam.

Chất Hán vùng kinh lộ thẩm thấu trong giới tinh hoa đến mức độ nào? Đến các đời vua đầu Trần, ảnh hưởng Hán thấy rõ là bộ máy vương quyền được tổ chức kiểu Trung Hoa. Triết học Nho, Lão và Thiền tông ảnh hưởng mạnh chủ yếu trong tầng lớp biết chữ. Tuy vậy, những gì có nguồn gốc ngoại lai sau một thời gian hoạt động ở An Nam đã trở nên rất khác.

Năm 1293, sứ thần Nguyên Mông Trần Phu nhận xét hoàng tộc Trần như sau:

Hạ tục kiêu phù thậm,

Trung Hoa lễ nhạc vô.

Húy hiềm ngoa thị Nguyễn,

Thác chế tiếm xưng cô.

Tế tự tông phường tuyệt,

Hôn nhân tộc thuộc ô.

(Phong tục của tầng lớp dưới[9] hết sức bạc nẽo nông nổi,

Ở đây không có lễ nhạc của nước [Trung-quốc] văn minh.

Kiêng tên, nên đã mạo nhận là họ “Nguyễn”,

Mượn cớ có tang để tiếm xưng là “cô”.

Trong nơi tông miếu, việc tế tự mất hẳn,

Người cùng họ hàng lấy nhau thật xấu xa.)(18)

Vị sứ giả người Hán đại diện vua Mông Cổ không tìm thấy văn minh Trung Hoa tại triều đình Đại Việt. Ông phân biệt Hoa – Di không dựa vào đặc điểm sinh học của cộng đồng người, mà dựa vào thực hành văn hóa của giới thống trị. Dưới mắt Trần Phu, sự “khác” với thượng quốc thể hiện tính thấp kém.

Hơn 80 năm sau, Trần Nguyên Đán lại thấy sự “khác” giữa hai vương quốc ở góc cạnh “văn vận”, ông cho rằng đó là do tầm vóc văn hóa Đại Việt đã vượt qua Trung nguyên. (19) Dù tự hào đến vậy, Nguyên Đán vô tình vẫn dùng tiêu chuẩn cân đo phương bắc. Hẳn vì ngoài hệ giá trị đã am tường, ông không còn biết hệ nào khác.

Cả Trần Phu lẫn Trần Nguyên Đán đều là văn nhân đại thần. Phát biểu của họ hình thành từ cơ sở tri thức và học vấn đỉnh cao của mỗi xứ nên có thể xem như ý kiến điển hình. Chính sự “khác” cảm thấy bởi cả hai bên là nền tảng để người phương Nam tạo nên, và người phương Bắc nhìn nhận, thực thể Đại Việt. Thực thể này theo cách hiểu của Trần Hưng Đạo trong “Dụ chư tỳ tướng hịch văn” là tài sản thuộc họ Trần; công chúa Thiên Ninh cũng hiểu thiên hạ là “của tổ tông mình” nên không nhường họ khác. Tuy nhiên, sau mười năm giao chiến với quân Minh, Lê Lợi qua “Bình Ngô đại cáo” lại cho rằng thực thể đó thuộc về người Đại Việt dù nó bị cai trị bởi bất kỳ dòng tộc nào. Do vậy, Bình Định vương không chấp nhận quyền chọn chủ phương Bắc của nhóm ưu tú sinh sống bên trong cương vực nước Nam. Sau khi điểm lại tình hình lòng dân oán phản bởi chính sách triều Hồ, Ngài định danh nhóm hợp tác đồng thời định nghĩa việc họ làm nhân buổi rối ren một cách minh bạch:

“Ác đảng hoài gian cánh dĩ mại ngã quốc 惡黨懷奸竟以賣我國”, Bọn bất lương mưu cấu kết với giặc để bán nước ta.

Trong bối cảnh cái gọi là “dân tộc” theo định nghĩa phương Tây chưa hình thành, nhận xét của Lê Thái tổ cho thấy Ngài vươn trước thời đại mình rất xa.

🔝