Trả lại Sự thật và Công lý cho Lịch sử
45 năm chiến tranh biên giới Việt-Hoa - 1
Tuyên bố: 45 năm cuộc chiến tranh tự vệ chống xâm lược Trung Quốc (17 tháng 2 năm 1979)
Giới hoạt động kêu gọi chính phủ không lãng quên cuộc chiến chống Trung Quốc năm 1979
Có ai biết “Tiếng vọng đèo Khau Chỉa” là cuốn sử liệu đầu tiên về cuộc chiến tranh 17-2-1979
Chiến tranh Việt–Trung: cuộc chiến đẫm máu giữa các ‘đồng chí’
15-2-2024
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc ngang nhiên xua 600 ngàn quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu cùng 400 xe tăng xâm lược Việt Nam. Sau 27 ngày, quân Trung Quốc đã tổn thất nặng nề: 28.000 quân bị giết chết, 280 xe tăng bị phá hủy… Trung Quốc buộc phải rút quân về nước.
Nhưng cuộc xâm lược không dừng ở đó mà mở rộng trên cả đất liền với việc chiếm cao điểm 1059 (mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn) ở Hà Giang năm 1984 và trên biển chiếm lấy một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào 14 tháng 3 năm 1988. Cuộc gây hấn của Trung Quốc với Việt Nam trên vùng biển Việt Nam vẫn đang tiếp diễn.
Lịch sử 4.000 năm của Việt Nam đã được các thế hệ cha ông luôn luôn răn dạy con cháu. Trung Quốc không bao giờ từ bỏ âm mưu thôn tính Việt Nam, biến nước ta thành nô lệ. Cuộc xâm lược ngày 17/02/1979 là cuộc xâm lược thứ 18 của Trung Quốc với Việt Nam.
Cuộc xâm lược trong thời đại Việt Nam – Trung Quốc cùng chung ý thức hệ đang cùng nhau xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa, cuộc xâm lược của đồng chí với đồng chí, cuộc xâm lược của một nước Cộng Sản vào một quốc gia Cộng Sản có chủ quyền. Cuộc xâm lược này cũng vứt bỏ khẩu hiệu Tinh Thần Quốc Tế Vô Sản xuống bùn, vứt bỏ khẩu hiệu Trung Quốc giúp Việt Nam vô tư vô vụ lợi vì cùng hệ tư tưởng Cộng Sản, chấm dứt mọi tuyên truyền xảo trá lừa bịp bấy lâu nay.
Cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam ngày 17/02/1979 và những gây hấn liên tiếp trên vùng Biển chủ quyền của Việt Nam cho đến hôm nay đã cho toàn thể nhân dân Việt Nam, cũng như toàn nhân loại hiểu một cách chính xác quyền lợi quốc gia dân tộc của Trung Quốc và của Đảng cộng sản Trung Quốc là tối thượng. Vì quyền lợi này, Trung Quốc sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai, bất cứ lúc nào, khi cần thiết. Khẩu hiệu “đồng chí”, “cùng hệ tư tưởng”, “cùng chung vận mệnh” chỉ là xảo trá, lừa dối, chẳng có ý nghĩa gì trong quan hệ giữa hai nước.
Việt Nam là quốc gia láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam cần một môi trường hoà bình, hợp tác bình đẳng, cùng phát triển. Nhưng lịch sử là lịch sử, lịch sử phải được đánh giá đúng và không lãng quên, vì lịch sử tự vệ của Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược là máu xương của toàn dân tộc qua 4.000 năm lịch sử.
Do vậy, chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự và các cá nhân yêu cầu nhà nước đưa cuộc chiến tranh tự vệ 1979 vào sử sách như Bạch Đằng, Đống Đa…, giảng dạy trong các nhà trường, báo chí truyền hình, thông tin rộng rãi trong ngoài nước, thể hiện trong các bảo tàng lịch sử và tổ chức công khai Lễ Tưởng Niệm đồng bào chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh tự vệ chống xâm lược Trung Quốc. Sau đó, theo thông lệ 5 năm một lần làm Lễ Tưởng Niệm.
_________
(Quý vị muốn tham gia ký tên xin vui lòng gởi về: paracelle19011974@gmail.com)
CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ
1. Lập Quyền Dân: Ông Nguyễn Khắc Mai đại diện
2. Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: TS Nguyễn Quang A đại diện
3. Câu lạc bộ Nguyễn Trọng Vĩnh: GS Nguyễn Đình Cống đại diện
4. Câu lạc bộ Phan Tây Hồ: TS Hà Sĩ Phu đại diện
5. Ủy Ban ĐT/CT CĐ Liên Châu: Nguyễn Sơn Hà đại diện
6. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng: Ông Lê Thân đại diện
CÁ NHÂN:
1. Nguyễn Quang A, Hà Nội.
2 . Nguyễn Kim Chi, nghệ sĩ, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM.
3. Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, Hà Nội
4. Nguyễn Đình Cống, Giáo sư, Hà Nội
5. Nguyễn Khắc Mai, Hà Nội
6. Mạc Văn Trang, nhà giáo, TP.HCM
7. Vũ Trọng Khải, PGS.TS chính sách nông nghiệp, TP.HCM.
8. Lê Phú Khải, nhà báo, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM.
9. Kha Lương Ngãi, nguyên phó TBT báo SGGP, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM
10. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM
11. Hoàng Hưng, nhà văn, TP.HCM
12. Nguyễn Sơn Hà
13. Lê Thân, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM
14. Daniel Thiều Thị Tân, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM
15. Bùi Nghệ, Kỹ sư, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM
16. André Mendras (Hồ Cương Quyết), nhà giáo Việt – Pháp, CLB Lê Hiếu Đằng, Paris Pháp
17. Hà Sĩ Phu, tiến sĩ, Đà Lạt Lâm Đồng
18. Đỗ Như Ly, kỹ sư, hưu trí, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM
19. Trần Minh Quốc, nhà giáo, CLB Lê Hiếu Đằng, TP.HCM
20. Đinh Hoàng Thắng, cựu Đại Sứ VN tại Hòa Lan, Hà Nội
2024.02.16
Giới hoạt động ở Hà Nội viếng Liệt sỹ chống Trung Quốc ở Nghĩa trang Vị Xuyên năm 2019. Fb Khang Pt
Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày Trung Quốc xua quân xâm lược sáu tỉnh biên giới phía Bắc (1979-2024), giới hoạt động kêu gọi Nhà nước Việt Nam hiện nay không im lặng về cuộc chiến tranh vệ quốc này.
Vào ngày 14/2, ba ngày trước ngày nổ ra cuộc chiến kéo dài hơn một thập niên, sáu tổ chức xã hội dân sự độc lập và hơn 20 nhân sỹ trí thức đã công bố “Tuyên bố 45 năm cuộc chiến tranh tự vệ chống xâm lược Trung Quốc (17/2/1979).”
Các tổ chức ký tên là Lập quyền dân, Diễn đàn Xã hội Dân sự, Câu Lạc bộ Nguyễn Trọng Vĩnh, Câu Lạc bộ Phan Tây Hồ, Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng, và Uỷ ban ĐT/CT CĐ Liên Châu.
Tuyên bố nhắc lại sự việc Trung Quốc đưa 60 vạn quân cùng nhiều trang thiết bị hiện đại để tấn công Việt Nam trong thời gian gần hai tháng và rút quân về nhưng vẫn bắn phá biên giới phía Bắc đến tận những năm cuối của thập niên 1980.
Tuyên bố cũng nhắc lại việc Trung Quốc xâm lược Gạc Ma ở Trường Sa năm 1988 cũng như thường xuyên gây hấn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông trong nhiều năm gần đây.
“Lịch sử 4.000 năm của Việt Nam đã được các thế hệ cha ông luôn luôn răn dạy con cháu. Trung Quốc không bao giờ từ bỏ âm mưu thôn tính Việt Nam, biến nước ta thành nô lệ. Cuộc xâm lược ngày 17/2/1979 là cuộc xâm lược thứ 18 của Trung Quốc với Việt Nam,” tuyên bố nói.
Tuyên bố khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia cộng sản, tuy nhiên, bằng việc xâm lược và đe doạ Việt Nam một cách liên tục trong nhiều năm qua, tinh thần quốc tế vô sản chỉ là tuyên truyền xáo trá lừa bịp.
Ông Lê Thân, chủ nhiệm Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 16/2.
“Giữa Việt Nam và Trung Quốc không hề có vấn đề cùng chung vận mệnh cũng không phải là đồng chí cũng không phải cùng ý thức hệ gì cả. Cho nên Trung Quốc khi nó cần đập Việt Nam thì nó cứ đánh thôi chứ nó không có cái chuyện đồng chí đâu.
Bây giờ nó chưa làm được thì nó vào hoà hoãn như thế, ru ngủ bằng những cái kiểu cùng chung vận mệnh để nhằm kéo Việt Nam đi xa khỏi những nước dân chủ tự do tiến bộ.”
Sau khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới, phía Việt Nam sau một thời gian bị động, đã chống trả quyết liệt. Quân đội Việt Nam khi đó tập trung ở Campuchia và phía Nam đã được điều động tới biên giới phía Bắc, bảo vệ thành công lãnh thổ và đẩy quân Trung Quốc về nước.
Sau 27 ngày, quân Trung Quốc đã tổn thất nặng nề. Một số nguồn tin cho biết Trung Quốc đã mất 28.000 quân và 280 xe tăng. Phía Việt Nam cũng chịu thiệt hại nặng nề, sáu tỉnh biên giới giáp Trung Quốc bị tàn phá hoàn toàn, hàng chục nghìn bộ đội và dân thường bị sát hại.
Cuộc chiến chưa dừng ở đó. Năm 1984, Trung Quốc còn chiếm cao điểm 1059 mà Bắc Kinh gọi là Lão Sơn ở Hà Giang. Hai bên thực sự chấm dứt chiến tranh trên bộ ở biên giới hai nước vào những năm cuối của thập niên 1980 sau khi phe cộng sản ở Đông Âu sụp đổ.
Sau khi Trung Quốc đánh Việt Nam, Nhà nước Việt Nam khi đó gọi Trung Quốc là “kẻ thù số 1.” Tuy nhiên, sau Hội nghị Thành Đô năm 1990, truyền thông nhà nước Việt Nam rất ít khi nhắc đến cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1979.
Trung ương và nhiều địa phương thường kỷ niệm rầm rộ các sự kiện xảy ra trong cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ cho dù Nhà nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao đối tác chiến lược với Pháp và đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ.
Trong khi đó, cuộc chiến 1979 hoàn toàn bị lãng quên ngoài việc trong một số dịp, một vài lãnh đạo quốc gia lên thắp hương ở Nghĩa trang Vị Xuyên, nơi yên nghỉ của phần lớn người lính ngã xuống trong cuộc chiến vệ quốc.
Nhà nước Việt Nam có nhiều danh hiệu phong tặng cho quân nhân, cán bộ và người dân đóng góp sức người sức của trong cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, tuy nhiên, cho đến nay, những người đã ngã xuống trong cuộc chiến chống Trung Quốc dường như bị lãng quên.
Thậm chí, cuộc chiến tranh này cũng chỉ được nhắc qua loa trong sách giáo khoa lịch sử. Một trí thức làm việc trong lĩnh vực xuất bản giáo dục cho RFA biết chỉ có sách lịch sử lớp 9 có nhắc đến cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1979 và chỉ vẻn vẹn có 9 dòng.
Cũng theo người này, bộ sách Lịch sử Việt Nam của Nhà Xuất bảo Giáo dục phát hành năm 2007 gồm bốn tập nhưng cũng chỉ có 9 dòng dành cho sự kiện này.
Ông Đỗ Như Ly, thành viên của hai tổ chức Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam và CLB Lê Hiếu Đằng, khẳng định hễ là người Việt hy sinh bảo vệ đất nước thì đều phải tôn vinh, không thể tôn vinh người này mà không vinh danh người khác. Ông khẳng định với RFA:
“Sách lịch sử và sách giáo khoa chưa được ghi chép vào (về cuộc chiến tranh chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc- PV) thì đây rõ ràng là một chủ trương của nhà nước, điều đó là điều mà người dân thấy rất không bằng lòng.
Không dám nói đến, muốn che lấp đi, đó là điều không được đối với lịch sử Việt Nam và về lâu về dài thì cái sự che đậy giấu diếm ấy cũng không thể tồn tại được và nếu càng cố tình lộ diện thì chỉ càng chồng chất thêm những tội lỗi đối với dân tộc mà thôi.”
Truyền thông nhà nước Việt Nam trong nhiều năm trước ít nhắc đến cuộc xâm lược của Trung Quốc. Trong một số năm gần đây, báo chí đã được nói đến một cách dè dặt. Thậm chí, có bài báo không dám chỉ đích danh Trung Quốc mà chỉ nói “quân xâm lược” hay “quân địch” mà thôi.
Một nữ giảng viên đại học ở Hà Nội, người không muốn nêu danh tính vì lý do an ninh, cho rằng việc Nhà nước Việt Nam đưa ít thông tin về cuộc chiến chống Trung Quốc năm 1979 vào sách giáo khoa và cũng né tránh hoặc nhắc đến rất ít trên truyền thông là một cách làm có lỗi với lịch sử.
“Chỉ những thế hệ người Việt trải qua thời kỳ chiến tranh năm 1979 mới biết nhiều và có kí ức về cuộc chiến chống Trung Quốc đó. Thế hệ 7x như chúng tôi ngày nhỏ còn thuộc bài hát ‘Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới’ nhưng sang đến thập niên 1990 khi giao lưu với Trung Quốc ngày càng nhiều thì dần dần người ta không nhắc đến cuộc chiến đó nữa.”
“Thế hệ chúng tôi trở về trước nghĩ đến Trung Quốc là nghĩ đến quân xâm lược. Nhưng thế hệ sau đó, đặc biệt từ 9x trở lại đây, nói đến Trung Quốc là nghĩ đến phim Tây du ký, đến hàng hoá qua biên giới, giờ thì là phim ảnh Hoa ngữ. Tôi cảm thấy buồn về điều này,” bà chia sẻ.
Theo nữ giảng viên này, mặc dù quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã bình thường hoá, giao lưu thương mại ngày càng nhiều, nhưng sự xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam vẫn còn nguyên, thậm chí tinh vi hơn.
“Khi nhà nước né tránh sự thật lịch sử, người dân không có thông tin, dễ nhầm thù thành bạn, dẫn đến việc mất cảnh giác và để vấn đề xâm lấn văn hoá trở nên trầm trọng.
Còn việc lãnh thổ của chúng ta mất bao nhiêu trong quá trình đàm phán biên giới với Trung Quốc thì gần như thông tin mật chỉ giới lãnh đạo chóp bu biết, người dân hoàn toàn không có thông tin gì.”
Tuyên bố của giới hoạt động nói là một quốc gia láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam cần một môi trường hoà bình, hợp tác bình đẳng, cùng phát triển nhưng lịch sử phải được đánh giá đúng và không lãng quên.
Các tổ chức và cá nhân ký tên vào tuyên bố yêu cầu Nhà nước Việt Nam đưa cuộc chiến tranh tự vệ 1979 vào sử sách như Bạch Đằng, Đống Đa..., giảng dạy trong các nhà trường, báo chí truyền hình thông tin rộng rãi trong ngoài nước, thể hiện trong các bảo tàng lịch sử.
Nhà nước cũng cần tổ chức công khai Lễ tưởng niệm đồng bào chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh tự vệ chống xâm lược Trung Quốc, tuyên bố nói.
15-2-2024
Tháng 2-2023, trong buổi ra mắt cuốn sách được viết bằng cả tâm sức của mình, tác giả Nguyễn Thái Long xúc động nói:
“Hôm nay cuốn sách Tiếng vọng đèo Khau Chỉa đã đưa tôi đến đây, trước quý vị cử tọa khả kính và các độc giả thân mến. Cùng tôi đến đây hôm nay là những đồng đội của tôi - CCB Trung đoàn 567, họ ngồi ở khán phòng này, bên cạnh tôi. Và, ngoài kia, vong hồn các liệt sỹ Trung đoàn 567. Hơn 500 con người, 44 năm trước đã vĩnh viễn nằm lại ở những cánh rừng, ngọn núi, ven suối, suốt một dải biên giới Cao Bằng, Vị Xuyên. Suốt mấy chục năm sau đó, không mấy ai biết đến họ, nhớ đến họ. Họ bị chìm đi trong quên lãng…”.
567 là một trung đoàn địa phương quân. Nhiệm vụ của họ là làm đường. Họ không được chuẩn bị về tinh thần, không được trang bị đủ vũ khí cho một cuộc chiến tranh như cuộc chiến Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến Biên giới vào rạng sáng 17-2-1979.
Nhưng ở Khau Chỉa, Tà Lùng, Cao Bằng, Trung đoàn 567 đã chặn đứng mũi tấn công của Quân đoàn 42, Quân khu Thành Đô, Trung Quốc, gồm 2 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn xe tăng T59, 1 lữ đoàn pháo binh. Chiến đấu trong một tương quan vô cùng chênh lệch, nhưng suốt 12 ngày đêm, họ đã không để cho quân xâm lược Trung Quốc vượt qua được đèo Khau Chỉa, hướng tấn công chủ yếu vào Đông Bắc Cao Bằng.
Trong cuốn “Mười Năm Chiến Tranh Việt Trung” [NXB Đại học Tứ Xuyên 1993], Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng này là những “khe núi đẫm máu”.
Khau Chỉa - Tà Lùng là những Bạch Đằng, Chi Lăng của Thế kỷ 20.
Chưa có cuốn sách nào viết về cuộc chiến tranh Biên giới khốc liệt và sống động như Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa. Cuốn sách tuy chỉ nói về những trận đánh của Trung đoàn 567 và tập trung ở mặt trận Cao Bằng, nhưng nó vừa rất cận cảnh vừa rất khái quát. Cuốn sách vừa đưa người đọc can dự cái ngột ngạt của những trận đánh, vừa chứng kiến những người lính quả cảm, vừa hình dung rất rõ kẻ thù và cuộc chiến tranh này.
Nhưng cuốn sách còn khiến ta lắng lại bởi rất nhiều thân phận, đặc biệt là câu chuyện của “Bố Hoan”, vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 567.
Bố Hoan quê ở xã Chính Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam. Ông nhập ngũ 1949. Ông cầm quân mưu lược, xả thân, sát cánh cùng những “đứa con” của mình. Ông trở về không phải đi qua những khải hoàn môn, mà một mình, lầm lũi trên một cỗ xe ngựa ông tự đóng.
Bố Hoan mang cỗ xe ngựa về để thỉnh thoảng chở thóc, chở ngô giúp bà con trong làng; tự chở dần vật liệu để thực hiện niềm khao khát có một căn nhà của riêng mình. Niềm khao khát của một người lính già trận mạc hơn ba mươi năm binh nghiệp.
Hình ảnh vị Trung đoàn trưởng xuất ngũ được một người lính lái xe bắt gặp trên Đèo Gió, là hình ảnh của một thế hệ:
“Bố Hoan, trong bộ quân phục cũ, bạc màu, chiếc mũ cối cũ, chiếc bình tông nước đeo bên người sứt sẹo và đôi dép rọ sĩ quan cũng cũ mòn vẹt gót. Chỉ có chiếc khăn mặt lính màu cỏ úa vắt trên vai là còn mới và ướt, không rõ là do mồ hôi hay cụ vừa rửa mặt. Khuôn mặt Bố Hoan đỏ bừng và đẫm mồ hôi lẫn bụi đường đỏ quạch trong cái nắng buổi trưa hè ngột ngạt oi nồng. Bên đường, dưới bóng cây là hai con ngựa đang uể oải nhai bó cỏ…”
Nguyễn Thái Long là một người lính 567 cầm súng trong ngày 17-2, không chỉ anh mà những người lính sống sót trong cuộc chiến ấy đã viết nên Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa.
Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa, có thể nói là cuốn sách đầu tiên của Việt Nam viết về cuộc chiến tranh năm 1979. Mấy năm trước đó cũng có một cuốn tự truyện của thiếu tướng Nguyễn Đức Huy. Cuốn sách cung cấp một tư liệu khá hay về Mặt Trận Vị Xuyên nhưng chỉ xoay quanh vai trò của ông và các chỉ huy trong một chiến thắng phá vỡ bế tắc ở Mặt trận này năm 1985. Cuốn sách của tướng Huy không nhắc đến vai trò của những người lính.
Những người lính làm nên chiến thắng ấy cũng của Trung Đoàn 567, họ đã đánh chiếm và bám trụ cao điểm A6b, “Lò Vôi Thế Kỷ”.
Sau Hội Nghị Thành Đô, người Trung Quốc vẫn cho xuất bản sách [khá phiến diện] về cuộc chiến tranh mà họ phát động, xâm lược nước ta [1993]. Nhưng, cho đến tận hôm nay, dù chỉ còn 2 ngày nữa là tròn 45 năm ngày nổ ra chiến tranh, chưa thấy báo đài Việt Nam nhắc gì về nó.
Bản thảo của cuốn sách này đã phải đi qua khá nhiều nhà xuất bản và chỉ Nhà Xuất Bản Phụ Nữ mới in nó nhưng vẫn rất dè dặt khi không có một dòng nhỏ ngoài bìa nói về nội dung cuốn sách. Khá nhiều người Việt Nam nhìn thấy Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa trên giá sách, nhưng có rất ít người Việt Nam biết là cuốn sách nói về cuộc chiến tranh 17-2, cuộc chiến mà người Việt đã đổ không biết bao máu xương để bảo vệ biên cương trước quân Trung Quốc.
Chính những người lính là những người khát khao hòa bình nhất. Nhưng không thể có một biên giới hòa bình bằng cách vụng về che đậy quá khứ. Chỉ khi hiểu trung thực về quá khứ mới kiến tạo được một nền hòa bình vững chắc.
16,02,2024
GETTY IMAGES. Lính Việt Nam tiến ra biên giới sau khi Trung Quốc nổ súng tấn công vào tháng 2/1979
Ngày 17/2/1979 được đánh dấu là thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biên giới hai nước. Đó là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu giữa những “đồng chí”, đồng minh một thời.
Lúc bấy giờ, Việt Nam vừa thống nhất đất nước sau Chiến tranh Việt Nam thì lại phải lâm vào cuộc chiến với Khmer Đỏ ở Campuchia. Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình gọi Việt Nam là “tiểu bá” và rắp tâm “dạy cho Việt Nam một bài học”.
GETTY IMAGES. Trung Quốc gọi đây là cuộc chiến tự vệ. Trong ảnh: Xe tăng Trung Quốc tập kết gần biên giới cách không xa thị xã Lạng Sơn của Việt Nam, ngày 1/2/1979.
GETTY IMAGES. Sơ đồ các mũi tấn công của Trung Quốc
Cuộc chiến nổ ra, mà phía Trung Quốc gọi là Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến (Chiến tranh tự vệ đánh trả Việt Nam), còn phía Việt Nam thoạt tiên gọi là Cuộc chiến chống bè lũ bành trướng Trung Hoa.
Khi đã hết chiến tranh, trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trước nhu cầu củng cố quan hệ với Trung Quốc, chính quyền Việt Nam đã tránh làm đậm thông tin cuộc chiến này, tên cuộc chiến cũng đã thay đổi.
Về sau, tên gọi thường được biết đến nhiều nhất là Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979. Tên của “kẻ thù Trung Quốc” cũng ít được nhắc đến một cách chính thức, như cách mà chính quyền Việt Nam hay nhắc tới Pháp, Nhật, Mỹ trong các cuộc chiến trước đó.
GETTY IMAGES. Lính Trung Quốc tiến vào Phong Thổ, Lai Châu
GETTY IMAGES. Lính Trung Quốc niêm phong một cửa hàng tại vùng biên giới vừa chiếm được của Việt Nam
GETTY IMAGES. Người dân Lạng Sơn chạy nạn tháng 3/1979
GETTY IMAGES. Một đơn vị pháo binh của Việt Nam sử dụng pháo 130mm của Liên Xô, Lạng Sơn, tháng 3/1979
Các lễ kỷ niệm cuộc chiến không được tổ chức long trọng, với sự tham gia của các lãnh đạo cấp cao nhất của trung ương như các “lễ mừng chiến thắng” thường thấy tại Việt Nam.
Trong khi đó, người dân hằng năm vẫn tưởng nhớ, với các hoạt động dâng hương tại Hà Nội và nhiều nơi.
Tinh thần chống Trung Quốc của người dân trong các dịp này thường được chính quyền Việt Nam theo dõi chặt chẽ với sự cảnh giác cao độ để không “bị thế lực thù địch lợi dụng” hoặc “tránh các diễn biến xấu, vượt kiểm soát”.
Trong những năm gần đây, báo chí Việt Nam nhắc đến cuộc chiến này nhiều hơn, với tên gọi “Trung Quốc” được đề cập, nhưng vẫn theo tinh thần chỉ đạo là “tránh làm căng thẳng quan hệ hai nước”.
Cuộc chiến giữa “những đồng chí xã hội chủ nghĩa” Việt Nam và Trung Quốc là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu và kỳ lạ, khi cả hai bên đều tuyên bố thắng lợi.
Trước và sau chiến tranh, quan chức hai bên vẫn gọi nhau là “đồng chí”, vẫn ôm nhau như những bằng hữu, huynh đệ.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung thường được xác định diễn ra từ ngày 17 tháng 2 đến 16 tháng 3 năm 1979.
Kết thúc, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành các mục tiêu chính trị, quân sự và kinh tế nên chủ động rút lui.
Trong khi đó, phía Việt Nam cho rằng họ đã đánh lùi được Trung Quốc.
GETTY IMAGES. Lính Trung Quốc bị bắt sống tại Cao Bằng, tháng 3/1979
GETTY IMAGES. Công nhân Nhà máy in Tiến Bộ tại Hà Nội sẵn sàng ra trận, ngày 19/2/1979
GETTY IMAGES. Một số người Úc tại Sydney biểu tình phản đối cuộc tấn công của Trung Quốc, ngày 19/2/1979
GETTY IMAGES. Lính Việt Nam tiến lên biên giới tháng 5/1984. Xung đột tiếp diễn cho tới năm 1991 mới kết thúc.
GETTY IMAGES. Tù binh Trung Quốc trả lời báo chí tại Lạng Sơn vào tháng 4/1984
.
AFP/GETTY IMAGES. Người dân Hà Nội tưởng niệm cuộc chiến vào năm 2016
Mỗi bên đưa ra các con số thiệt hại khác nhau, nhưng theo số liệu phương Tây, phía Trung Quốc có khoảng 20.000 – 28.000 người thiệt mạng, Việt Nam có khoảng 20.000 người chết hoặc bị thương.
Trên thực tế, cuộc xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc còn kéo dài suốt thập niên 1980, với các vụ đụng độ giữa bộ binh và các màn pháo kích liên miên giữa hai bên.
Xung đột chỉ thực sự chấm dứt khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1991.
GETTY IMAGES. Tổng Bí thư Đảng CSVN ôm lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hà Nội vào năm 2011. Vào năm 2023, Việt Nam đồng ý tham gia "cộng đồng chia sẻ tương lai", một sáng kiến do Trung Quốc đề xuất.
Từ đó đến nay, các mâu thuẫn về lãnh thổ, lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục tồn tại.
Tuy nhiên, lãnh đạo hai nước vẫn không ngừng nêu cao luận điệu về tình anh em, đồng chí.
Mới đây nhất, Việt Nam đã nhất trí tham gia xây dựng “Cộng đồng chia sẻ tương lai”, một sáng kiến do Trung Quốc đề xuất.
16-2-2024
Ảnh: FB tác giả
Ngày mai, cách đây 45 năm trước (17/02/1979), Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, buộc quân dân ta phải cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước. Đây là một cuộc chiến tranh khốc liệt trước sự tàn bạo dã man của quân Trung Quốc.
Hôm qua (mồng 6 Tết Giáp Thìn) chúng tôi xuất hành từ Hà Nội lên Hà Giang. Tháng 02/1979 Hà Giang (khi ấy còn nhập chung với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên) là một mặt trận ác liệt chống lại quân bành trướng Trung Quốc, mà ác liệt nhất là chiến trường ở huyện Vị Xuyên.
Chúng tôi đã đến hang Dơi, nơi đặt sở chỉ huy mặt trận Vị Xuyên.
Chúng tôi đã đến đền thờ các anh hùng liệt sĩ mặt trận Vị Xuyên xây dựng tại chính cao điểm 468 ác liệt năm xưa, giữa một vùng đồi núi mà trong vòng 10 năm đã phải hứng chịu hơn hai triệu quả đạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang và để bám giữ đỉnh 1509 (mà TQ gọi là Lão Sơn) có ngày hơn 600 chiến sĩ của ta đã phải hy sinh, khiến nơi đây được gọi là “lò vôi thế kỷ”.
Chúng tôi đã đến hang Nà Cáy nơi đặt trạm phẫu tiền phương của mặt trận Vị Xuyên (cách cửa khẩu Thanh Thuỷ giao tranh ác liệt 3km) mà bài thơ dưới đây của một cựu chiến binh sư đoàn 313 ngày ấy đã mô tả sự đau thương đau đớn vô cùng. Hang bây giờ đã bị xây tường chắn phía ngoài.
Thắp hương biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc 45 năm trước ở Vị Xuyên chúng tôi biết trang sử bi thương này của đất nước phải được nhớ và ghi.
HANG PHẪU NÀ CÁY, VỊ XUYÊN- MÙA THU… MÁU!
Trần Nam Thái
(CCB F313)
Mấy hôm rồi không một chuyến xe lên
Nà Cáy buồn quay quắt
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng
Gió từ dưới sông Lô và đường quốc lộ 2 thốc lên dè dặt
Gió từ đỉnh 812, đỉnh 673 phía trên kia đổ xuống ào ào
Những cơn gió vô tâm, những cơn gió vô tình như cuộn vào nhau
Xộc vào toang hoác xác thân những người lính đã ngã xuống
Xộc vào hoang hoải bần thần tim óc những người lính đang còn sống
Ngách đá kho hậu cần trống rỗng
Gạo mắm đã chia đến từng căn hầm
Khe suối mùa khô chắt nước âm thầm
Quần áo lính giặt xong càng đỏ bầm màu đất
Mảnh đạn dọc ngang chém áo quần rách nát
Suối cũng oằn mình đội pháo giặc suốt ngày đêm
Mấy hôm rồi không thấy xe lên
Cả thung lũng sặc sụa mùi khói đạn
Vách đá trên cao đạn cào trắng toát
Mặt đất dưới sâu đá lật ngổn ngang
Những căn hầm trúng đạn vỡ tan hoang
Những mái nhà âm cháy thành than trơ trụi
Thấp thoáng bóng người lầm lụi
Vác đá, chặt cây, đào đất khoét hầm
Hang phẫu ngổn ngang lính nằm
Những vết thương đỏ máu
Những cuộn băng đỏ máu
Áo Blu quân y đỏ máu
Khắp lòng hang sực lên mùi máu, mùi cồn
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền
Lại phải cho người chạy bộ xuống Làng Pinh
Lấy tạm vài cơ số thuốc
Bên kia bờ khe nước
Lính vận tải nối nhau lục tục lên đường
Ba lô đạn nhọn đè nặng trên lưng
Đòn tre cáng thương, dài ngoằng chổng ngược
Manh võng cáng thương ướt đẫm từ chuyến trước
Phập phờ rỏ nước thối xuống khắp người
Đường xe lên đất đá tơi bời
Hố pháo mới chồng lên hố pháo cũ
Mảnh đạn ngổn ngang bên cây cỏ xới nhào
Có mảnh lẹm sắc như dao
Có mảnh nhọn hơn lá lúa
Chạm vào là máu ứa
Chạm vào là rách thịt da
Những bàn chân mang giày vải vẫn xầm xập chạy qua
Lưng còng xuống, mặt ngẩng về phía trước
Nơi ấy đang cần đạn
Nơi ấy thương binh chờ
Vượt ngã ba cửa tử
Vào Hang Dơi, Làng Lò
Những gương mặt lính sáng lên, rồi lại thẫn thờ
Chẳng có gì đâu trong ba lô toàn đạn nhọn
Bởi mấy hôm rồi chẳng có chuyến xe lên
Những dấu hỏi hằn gương mặt sạm đen
Nỗi buồn tủi ẩn trong lời cảm thán :
“Hay là đã quên ? Hay là đã bán ?
Hay là đã chán ? Hay là phủi tay ?…”
Gạt đi giọt nước mắt cay
Tay khẽ khàng đặt thương binh lên võng
Lại vượt qua suối sâu, đường lộ thiên, bãi trống
Mang tai bập bùng tiếng nổ, tiếng rên đau
Mặc kệ đạn trên cao
Mặc kệ đạn dưới thấp
Nghe tiếng đạn quen mới nằm xấp xuống mặt đường
Đá đập vào người, đá thúc vào xương đau nhức
Đợi đến khi đạn dứt
Lại tất tưởi chồm lên, vai nặng trĩu đòn khiêng
Những thân người chạy liêu siêu ngả nghiêng
Hướng về phía Nà Cáy
Đoạn đường dốc lên đạn pháo cày nát bấy
Đã có lính nào sửa sang
Mùi máu, mùi cồn vẫn nồng nực trong hang
Lính bị thương nằm ngổn ngang dồn đống
Thở phào vì thương binh vẫn sống
Tay lại khẽ khàng gỡ khỏi võng với đòn tre
Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
Bê những mảng đá to đặt đè lên từng khuôn mặt
Che đi những quầng mắt đã lặng ngủ im
Che đi những con mắt không thể nào khép lại
Cơn gió mùa Thu như lồng lên quằn quại
Hình như gió cũng rưng rưng
Mấy hôm rồi mà chẳng thấy xe lên
Chẳng biết đêm nay có chuyến nào tới được
Để đón anh em về một chốn bình yên
Để đưa anh em về trước…
(Nà Cáy-Thanh Thủy-Mùa thu 1986)