logo-vuot

logo-LichSu

Trả lại Sự thật và Công lý cho Lịch sử

acrobat  📂  🏠   

Lịch sử - 9 - Quan điểm Phan Bội Châu

Tân Việt Nam - Phan Bội Châu

Bước chuyển tư tưởng của Phan Bội Châu từ bạo động cách mạng sang đấu tranh ôn hòa

Quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền (*)

Tân Việt Nam - Phan Bội Châu

chungta

Võ Văn Sạch dịch và chú thích

10:23 CH @ Thứ Tư - 15 Tháng Tư, 2015

Tân Việt Nam, tác phẩm còn ít được biết đến của Phan Bội Châu, viết có thể vào khoảng năm 1906-1907 ở Nhật Bản, là một cuốn sách mỏng trình bày quan niệm của tác giả về một nước Việt Nam mới, với mô hình chính trị dân chủ và mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa – hiểu theo thuật ngữ hiện đại.

Bố cục cuốn sách gồm hai phần. Phần đầu (Thập đại khoái) trình bày mười điều sung sướng trong một nước Việt Nam duy tân thành công. Đó là:

  1. Không có cường quốc nào bảo hộ
  2. Không có bọn quan lại hại dân
  3. Không có người dân nào mà không được thỏa nguyện
  4. Không có người lính nào mà không được vinh hiển
  5. Không có loại thuế nào mà không công bằng
  6. Không có hình pháp nào mà không thỏa đáng
  7. Không có sự giáo dục nào mà không hoàn thiện
  8. Không có nguồn địa lợi nào mà không được khai thác
  9. Không có ngành công nghệ nào mà không phát đạt
  10. Không có ngành thương nghiệp nào mà không được mở mang.

Phần cuối (Lục đại nguyện) bàn về sáu điều mong mỏi lớn để đạt được thành công đó.

Mười điều sung sướng lớn (Thập đại khoái)

Nếu như mà đường sắt dài muôn dặm làm rồi thì công việc buôn bán, trong chốc lát có thể tập trung đầy đủ được; từ các đô thị thôn ấp lớn có thể nối liền và đi tới khắp mọi nơi nhanh chóng. Ngồi ung dung nơi lầu chạm chiếu hoa mà có hiệu quả như vượt núi qua sông, thật sung sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu không chịu khó nhọc kinh doanh, xây đắp thì thành sao được? Bây giờ nói đến những việc phải khó nhọc gian nan như thế sao lại chùn tay lè lưỡi? Vì chưa biết rằng sau khi đường sắt làm rồi là sướng đó thôi!

Nếu như mà lầu cao muôn trượng xây rồi thì sao trời, trăng biển bên cửa sổ ngắm như ở trong bàn tay, khí mát gió trong vờn quanh dưới gót. Ngạo nghễ nơi cửa cao ghế đá mà nhìn thấy được ba đảo năm châu, sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu không chịu phí tổn, trù hoạch, khó nhọc thì thành sao được? Bây giờ nói đến việc làm những công trình lớn lao như thế sao lại cúi đầu thất sắc? Vì chưa biết rằng sau khi lầu cao đá xây rồi là sướng đó thôi! Biết sau này có sự ngọt bùi khôn cùng, thì cái cay đắng hôm nay phải chịu đựng chỉ là cái điểm tiến tới cái ngọt bùi đó, ta nguyện nếm cái cay đắng ấy. Biết sau này có sự vui mừng khôn cùng thì cái gian lao hôm nay là cái cơ sở dẫn đến sự vui mừng đó, ta nguyện nhận cái gian lao ấy. Biết sau này có cái sự lợi khôn cùng thì cái phí tổn hôm nay là cái vật gốc dẫn đến cái lợi đó, ta nguyện dùng những phí tổn ấy.

Bây giờ tôi xin nói cùng với đồng bào rằng: muốn tạo dựng được một nước Việt Nam mới có đường sắt muôn dặm và nhà cao muôn trượng như thế thì tất phải nếm chịu những cay đắng như vậy, nhận sự gian lao như vậy, và tất cả những phí tổn như vậy. Đồng bào ta há sợ cực khổ lắm sao? Nếu quả có thế là vì chưa biết rằng nước Việt Nam ta sau khi đã duy tân rồi là rất sướng, rất vui và có lợi không lường hết được đó thôi.

Bây giờ tôi xin thưa với đồng bào rằng: nước Việt Nam mới có 10 điều sung sướng lớn như sau:

  1. Không có cường quốc nào bảo hộ
  2. Không có bọn quan lại hại dân
  3. Không có người dân nào mà không được thỏa nguyện
  4. Không có người lính nào mà không được vinh hiển
  5. Không có loại thuế nào mà không công bằng
  6. Không có hình pháp nào mà không thỏa đáng
  7. Không có sự giáo dục nào mà không hoàn thiện
  8. Không có nguồn địa lợi nào mà không được khai thác
  9. Không có ngành công nghệ nào mà không phát đạt
  10. Không có ngành thương nghiệp nào mà không được mở mang.

Diện tích nước ta có 25 vạn dặm vuông Anh, không phải là rộng sao? Dân số nước ta hơn 50 triệu tráng đinh [1]không phải là đông sao? Đất đai mầu mỡ phì nhiêu, sản vật dồi dào, non sông tươi đẹp, nếu đem so sánh với các nước mạnh trong năm châu không thua kém mấy ai. Thế thì sao ta lại cam chịu để cho nước Pháp bảo hộ? Than ôi! Căn tính nô lệ đã ăn sâu, thói ỷ lại quá nặng rồi! Mấy ngàn năm cam bề nội thuộc các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh[2] xưng tôi tớ không còn có khí người. Giặc Pháp gian giảo, khinh ta yếu, dối ta ngu, thừa lúc con sư tử đương ngủ say mà nghiễm nhiên lấn át chủ nhà, giầy xéo con em ta, bắt cha anh ta làm kiếp trâu ngựa, lấy thành trì nước ta làm sào huyệt của chúng, moi hút máu mỡ dân ta. Thế mà chúng lại còn dám ngạo mạn công bố với thế giới rằng: nước Pháp là nước thống trị cõi Đông Dương. Chao ôi! Đồng bào ta ôi! Nước ta là nước ta, dân ta là dân ta, nước Pháp-lan-tây có gì ở đây mà trái lại chúng lại còn bảo hộ nước ta?

Từ khi người Pháp bảo hộ cho đến bây giờ, chúng nắm giữ hết thảy mọi quyền trong tay, muốn làm sống, làm chết ai cũng được. Tính mạng của muôn người nước Nam chẳng bằng một con chó Tây. Kìa những người mắt biếc xanh, râu sắc hồng, bay chẳng phải là cha anh ta, chẳng phải là thầy dạy của ta mà sao lại ngồi chồm chỗm, ỉa đái trên đầu ta? Đường đường các bậc nam nhi của nước Nam lẽ nào lại không biết xấu hổ, nhục nhã, phẫn uất giết bọn giặc được hay sao? Thân ta hãy còn thề phải dẹp bằng lớp sóng biển lớn, quyết giết chết bọn giặc ấy, để tỏ rõ khí tiết giống da vàng.

Khi đã duy tân rồi, tư cách nội trị do ta sắp đạt, quyền lợi ngoại giao tự ta nắm giữ. Sự nghiệp văn minh ngày càng tiến bộ, phạm vi thế lực ngày một mở mang. Ta sẽ có 300 vạn lục quân mạnh như cọp ngó nhìn bốn cõi; 50 vạn thủy quân dữ như cá kình thét trong biển lớn. Rồi ta phái các công sứ đi tới các nước mạnh ở Châu Âu, Châu Mỹ. Các nước mạnh như Nhật, Mỹ, Đức, Anh đều liên kết với nước Việt Nam ta, coi ta là đồng minh bậc nhất. Các nước Tiêm La [3], Ấn Độ và các nước ở quần đảo Nam Dương đều tôn nước ta làm minh chủ. Nước lớn nhất ở Châu Á là Trung Quốc cũng sẽ là nước anh em thân thiết với ta. Nước thù cũ của ta là nước Pháp-lan-tây cũng phải sợ ta, nghe theo ta và nguyện nhận sự bảo hộ của ta. Cờ nước Việt Nam ta phần phật, bay trên nóc thành Ba Lê và dung mạo nước ta lừng lẫy chói lọi ở hoàn cầu. Đến lúc ấy, người Việt Nam ta chỉ sợ không rảnh mà bảo hộ cho nước khác, lại sợ không dư sức lấy con gái nước Pháp, và sự nhục nhã vì người khác bảo hộ trước đây như là một phương thuốc hay để hoàn thành công việc duy tân đó mà thôi.

Đài kỉ niệm xây cao, muôn ngọn đuốc dẫn đường trong đêm tối. Gió tự do thổi mạnh, một luồng vui thấu tận trời xanh. Chúng ta ưu thắng đến thế, sung sướng biết chừng nào! Cái nọc độc hàng nghìn năm nay của bọn chuyên chế hại dân ấp ủ từ bên nước Thanh nhiễm sang nước ta để mà một tên độc phu [4] khống chế vài vạn kẻ dung nhân [5] làm cá thịt ức vạn dân ta. Rồi vài vạn tên dung phu lại thờ phụng một tên độc phu làm cá thịt ức vạn dân ta. Thế mà dân ta ngu muội không biết giành lấy dân quyền, không biết giữ lấy quốc mệnh, chỉ ngày đêm đem hết máu mỡ khô kiệt của mình cung đốn cho bọn độc phu và dung nhân uống nuốt. Than ôi! Thật đáng thương thay!

Khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ mở mang nhiều, dân khí sẽ lớn mạnh hơn, dân quyền tất phải phát đạt lớn; vận mệnh nước ta tất do toàn dân nắm giữ. Thủ đô nước ta đặt một tòa nghị viện lớn, tất cả những việc chính sự đều do công chúng quyết định. Thượng Nghị viện tất phải đợi Trung Nghị viện đồng ý. Trung Nghị viện tất phải đợi Hạ Nghị viện đồng ý. Hạ Nghị viện là nơi đa số công chúng có quyền phê chuẩn công việc của Thượng Nghị viện và Trung Nghị viện. Phàm đã là người dân nước ta, không kể sang hèn, giầu nghèo, lớn bé đều có nghĩa vụ bỏ phiếu bầu cử. Vua nên để hay nên phế, quan lại nên truất hay nên thăng, dân ta đều có quyền quyết định cả. Tất cả những tên vua bạo ngược, quan lại ô trọc không hợp với công đạo thì dân ta khi khai họp trong nghị viện cùng nhau bàn bạc quyết định thi hành trừng phạt chúng theo hiến pháp. Đến lúc ấy, bọn quan lại hại dân tất bị chôn vùi tiệt nọc mãi mãi không còn trên trời đất nữa. Đến lúc ấy, người nước ta chỉ ca múa thái bình, ngậm cơm vỗ bụng mà thôi. Ngẩng đầu thấy mặt trời, tiếng ca vui muôn năm còn vọng mãi: tiếng vỗ tay như sấm, điệu múa hay nghìn thu vẫn còn khen. Chúng ta vinh thịnh đến thế, sướng biết chừng nào!

Người Pháp cướp nước ta, khóa kín miệng ta, trói buộc chân tay ta, bịt kín tai mắt ta. Những việc như xuất bản, sách báo, hội họp luận bàn không kể ngày đêm, không kể đông hay ít, lớn hay nhỏ đều bị người Pháp áp chế ngặt nghèo. Người Pháp mà tức giận bắt ta phải coi cha làm thù; người Pháp mà ưa thích đặt chó làm vua cũng phải chịu. Ngay đến họ vua, nhà quan, kẻ giầu người giỏi nếu không được giấy của người Pháp cấp cho thì một bước cũng chẳng dám ra khỏi cửa. Không được người Pháp cấp thuế bài thì chủ nhà cũng giống như trộm cướp. Kìa những con chó Tây, ngựa Tây, vợ Tây và những kẻ bồi Tây thung dung tự do muốn nạt ai thì nạt theo ý mình so với người nước ta thật là khác biệt nhau như thiên đường, địa ngục. bất bình đẳng đến như thế, không công đạo đến như thế, hỏi nỗi oan khuất trong thế giới này còn có đâu hơn thế nữa hay không? Lẽ nào ta lại ngồi yên, không dám đứng lên mà réo muôn tiếng chuông độc lập. Đè nén cong nhiều tất phải bật thẳng, phải bẻ gãy vòng cường quyền áp chế mới thôi.

Khi đã duy tân rồi thì uy quyền nước ta, ta nắm trong tay; cái đạo của ta, ta cân nhắc. Nền văn minh rạng rỡ khắp nơi. Cửa tự do rộng mở không cùng, báo chí đầy đường, sách mới đầy ngõ. Người dân nghèo tha hồ kiện tụng, tiếng nói vang lên như sấm; kẻ văn sĩ được thả bút luận bàn chính sự. Bao nhiêu ẩn tình của chú phu xe, của người lính ngựa, của người mẹ góa, của đứa con côi, hết thảy đều đạt tới tai vua. Đến khi ấy, người nước ta yêu mến nước ta như biển lớn vô bờ mắt thu khó hết, lạ vì trời xanh sao quá thấp như chạm vào đầu. Chúng ta vẻ vang đến thế, sướng biết chừng nào!

Người nước ta khi chưa duy tân, thói dã man nhiễm đã quá thịnh, chí tiến thủ đã mất đi, tôn hư văn làm thánh làm thần, coi thực nghiệp như cỏ như rác. Từ vua cho đến quan lại xem tướng tá như con vật bỏ đi, coi ba quân khác chi chó dại, xem võ quan như vật để sai khiến chà đạp. Dân ta thì kiến thức ấu trĩ, tai mắt ngu tối, thấy người trên bỉ bác thì dưới xóm thôn cũng khinh rẻ. Khi sống làm lính chạy trước ngựa, bỏ xương chốn sa trường, khi chết làm quỷ ở ven đường, vùi danh nơi hoang vắng. Làm người lính đã vất vả nghèo hèn, phải chịu tiếng vô phúc như thế thật đáng thương thay! Đáng chán lắm thay! Đã đáng thương, đáng chán như thế thì ai muốn đi lính nữa, mà không ai muốn đi lính thì lấy ai ra giữ nước? Đến khi nước mất biết để lỗi cho ai? Than ôi! Vận mệnh một nước phần nhiều gửi gắm, trông mong ở ba quân, người lính tức là nước nhà ta vậy. người lính bị khinh rẻ đến thế, hỏi nước nhà còn tồn tại được không? Xe trước đổ gương còn soi đó, gọi to hồn người ném đá bắn tên [6]; tương lai kia hãy còn dài, đánh tiếng trống làm khí thiêng sông núi. Người lính ơi, người lính! Xin hãy xem từ nay về sau mình sẽ thế nào.

Khi đã duy tân rồi thì võ quan một đường, vua dân một thể. Nước nhà trông cậy và người lính bảo vệ, người lính được kính trọng vô cùng. Tôi cùng đồng bào cả nước đều biết rằng, nước là nước chung của tất cả mọi người thì ai ai cũng phải có trách nhiệm giữ gìn đất nước. Mọi người đều có trách nhiệm giữ nước thì ai ai cũng phải có nghĩa vụ vào lính. Mọi người có nghĩa vụ vào lính thì ai ai cũng phải có tấm lòng trọng người lính. Trong nước từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đã là có tai có mắt, không ai là không chú trọng tới người lính. Có bút mà viết, có lưỡi để nói, không thể nào nói hết, viết hết về cái hay của người lính. Người lính khi sống làm cho quốc sĩ được mở mày, gây oai hùng trong thế giới, đến khi chết làm quốc linh, hồn phách mãi mãi trường tồn với núi sông. Người trong nước đem máu thịt của mình mà sùng phụng những người chết vì Tổ quốc là người lính, vua trong nước lên tận đàn tế mà bái chúc những người hi sinh vì Tổ quốc là người lính (ở Đông Kinh nước Nhật Bản có lập một đàn tế gọi là “Tịnh quốc Thần xã” để tế những người lính tử trận, mỗi năm hai kì Thiên Hoàng phải thân hành đến tế lễ ở đàn ấy. Sau khi duy tân rổi ta cũng sẽ lễ theo cách đó). Kho tiền công, kho chứa lúa của Nhà nước phải được dùng đề nuôi nấng vợ con người lính chết trận. Triều đình và xã hội phải bảo toàn, lo lắng đến gia đình, họ hàng những người lính chết trận. Tượng đồng nguy nga ngất trời dành riêng để đúc chân dung người lính: mộ đá nhấp nhô trên mặt đất để dành đắp cho nơi yên nghỉ của người lính. Người lính ơi! Người lính! Vinh hiển trong nước thực chẳng ai bằng, danh dự muôn đời thực chẳng hề phai. Lúc bấy giờ, người nước ta chỉ có mở mắt mà ngắm trời đất, khen ông cha ta trước từng làm người lính mở đường, quay lại nhìn thôn xóm mới buồn rằng mình phải chết già dưới cửa sổ thật là như kẻ vô duyên vậy. Chúng ta hoan hỉ đến thế, sướng biết chừng nào.

Các triều đại vua trước ở nước ta, thu thuế của dân có phần khoan nhẹ, nhưng chưa thoát khỏi chế độ chính trị dã man như:

- Một là tệ quan lại tham lam gian trá

- Hai là tệ cường hào tàn ác hách dịch

- Ba là tệ hương lí lộng hành.

Trăm mối phiền nhiễu, dân không chịu nổi. Nhưng dù sao vẫn còn nhân đạo ít nhiều. Đến như người Pháp hiện nay thì coi dân ta như súc vật, trâu ngựa để buôn bán mà thôi. Xin hỏi các bậc cha anh, chú bác, con em dòng họ nước ta rằng: giặc Pháp thu dân ta mỗi người một năm phải nạp thuế công sưu hoặc 2 đồng, 3 đồng hoặc 4, 5 đồng thì so với một con trâu, con ngựa, con gà phải nạp bao nhiêu tiền hỏi có khác gì không? Than ôi! Người nước ta bị vắt kiệt đến hết cả mỡ màng, huyết mạch để cung đốn cho các ông Tây, bà đầm, chó Tây một năm biết mấy nghìn ức vạn. Tất cả vật gì có thể dùng để ăn uống được cũng đều phải có thuế. Bao nhiêu sự sinh sống gì cũng đều phải đóng thuế, bao nhiêu những nơi sinh hoạt, nơi nào cũng phải đóng thuế. Cho đến cái thân ta là do đất trời sinh thành, cha mẹ tổ tiên ta để lại: mỏi chân tay, hao tâm huyết để cung phụng, nuôi nấng bọn giặc Pháp mà rồi mỗi năm phải bỏ ra 4, 5 đồng bạc để chuộc tấm thân bảy thước của mình! Than ôi! Cái tấm thân ta! Thật chẳng bằng con trâu, con ngựa, con chó, con gà. Thật đáng thương thay! Thật đáng thương thay! Người nước ta bị giặc làm nhục đến thế mà còn không biết tự mình phấn kích lên là tại làm sao? Công sưu, thuế thân là những thứ thuế mà các nước trong địa cầu chẳng nước nào có cả, chỉ riêng có ở nước ta thôi. Người nước ta không phải gỗ, đá, đồng bùn mà sao cam chịu nhục hèn đến thế? Con thú kia khi khốn quẫn còn biết cắn mổ giương lông giương vuốt. Con sâu khi bị nhốt còn biết cách vươn mình tìm trốn thì con người phải biết tính sao đây để có ngày mở mày mở mặt?

Khi đã duy tân rồi về lâu dài phải trừ bỏ ngay những tệ phiền toái cũ kéo đến mấy triều vua trước, trước mắt phải sửa đổi, tẩy sạch hết phép chính trị hà khắc của người Pháp. Công sưu, thuế thân chẳng những không còn, mà tất cả những thứ thuế khác nữa đều phải xin nghị viện phê chuẩn. Việc thu các loại thuế, các khoản quyên tiền cứu trợ đều phải được nhân dân công nhận, coi đó là nghĩa vụ cần kíp để giúp đỡ cho công ích. Sau đó chính phủ mới được sức giấy xuống để trưng cầu ý của dân. Dân ta dù thiệt một đồng tiền, góp một hạt thóc đều vui vẻ thoải mái, xuất phát từ lòng yêu nước mà đóng góp hết sức nhiệt thành, không hề có một tí gì gọi là dã man cưỡng bức. Trời cao biển rộng ai ai cũng như thấy mình bay nhảy khôn cùng. Ngày ấm gió hòa, ai nấy đều vui vẻ, tự do nhảy múa. Chúng ta vui vẻ, có lợi đến thế, sướng biết chừng nào!

Hình luật nước ta trước kia, tay chân bị gông cùm, thân thể bị đè nén. Thân muốn động mà không dám động, miệng muốn nói mà không dám nói. Người tù khi ăn uống, thức ở so với con trâu ngựa, gà lợn không có gì khác biệt. Than ôi! Phàm đã là đồng bào ta đều là con em ta cả, ai mà không cùng chung cốt nhục với mình. Sự nhẫn nhục chịu cảnh khổ cực cũng không có lòng nào khác, việc xây dựng một đất nước, cũng đều không ngoài mục đích là được sinh ra và làm ăn trên đất nước của mình. Người nước ta ơi! Người nước ta ơi! Xin xem hình pháp sau khi duy tân.n

Khi đã duy tân rồi thì trong cả nước không một người nào là không có lòng yêu nước, không một người nào là không phụng sự việc công, không một người nào là không thương yêu nhau, không một người nào là không phục tùng theo phép tắc văn minh. Như vậy, cần gì phải có những hình pháp lôi thôi nữa. Tuy nhiên, nếu không may mà có một vài người phạm tội, tất cũng phải xử lí theo khuôn khổ hình pháp văn minh. Trong thời đại duy tân, hình pháp cũng bắt chước theo các nước như Nhật Bản và Châu Á. Tại kinh đô lập ra một Viện Cảm hóa có viên tài phán ở đại học đứng ra phụ trách. Phàm những người phạm tội, lập ra cho họ một trường học riêng khiến cho họ khi vào học ở đó sẽ mở mang lương thiện, tu dưỡng tư cách của một người dân; lập một xưởng thợ riêng, khi họ vào học, tùy theo sở trường của từng người mà dạy họ các nghề ở đó để họ có đủ tư cách làm việc trong khuôn khổ cuộc sống, khiến họ không thể tái phạm lầm lỗi nữa. Lại đặt một người thẩm phán công minh, những nhà giáo hiền lành có trách nhiệm, hàng ngày vào nhà giam mà thuyết giáo những điều phải trái, khiến cho phạm nhân biết ăn năn hối cải. Đến khi hết hạn giam, họ cũng như người vô tội, mọi thứ dân quyền đều được bình đẳng. Khi đương bị giam thì họ là con em thụ giáo, khi ra khỏi nhà giam thì là dân một nước cùng làm những việc hay giỏi, tự do như ngọn gió xuân thổi khắp trong ngoài có bệnh tật gì rồi cũng được mạnh khỏe. Đến lúc bấy giờ dân ta chỉ còn biết trị hóa mà không hề biết gì đến hình pháp. Đau đớn bệnh tật nhờ thuốc trời mà chữa khỏi, lòng dữ như con cọp beo, chim cú nhờ có nước thánh mà bị tiêu tán hết. Chúng ta sinh sống đến thế, sướng biết chừng nào!

Việc giáo dục là một cái lò đúc nên người để trị nước. Quan lại, binh lính cũng đều từ đó mà ra. Cho nên giáo dục là cái gốc trong di sản của chính trị. Thuế má, hình pháp cũng đều từ giáo dục định ra. Nền giáo dục của nước ta sở dĩ hủ bại, cũ nát là bởi vì trước đó chưa duy tân đó thôi, chẳng nên nói làm gì. Như cánh tay chín lần gãy mới biết thuốc tốt, cho đến bây giờ chỉ có nền giáo dục mới làm tan biến đi mọi sự ngu dốt được. Trong thời đại duy tân nền giáo dục sẽ mãi mãi hoàn thiện, điều đó không nói cũng biết, nhưng người nước ta còn có người chưa rõ. Vì thế xin nói ra để người trong nước rõ thêm.

Khi đã duy tân rồi thì triều đình sẽ dốc hết lòng, tận tụy trông nom nền giáo dục. Tinh thần toàn xã hội dồn hết cho giáo dục. Đức dục, trí dục, thể dục… tất cả đều được đề cao mà không bỏ điều gì. Phải học Trung Quốc, học Nhật Bản, học nước ngoài tất nhiều người sẽ hái lượm được đầy đủ kiến thức. Các vườn cho trẻ chơi, trường tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học từ kinh đô đến thôn quê nơi nào cũng có. Khi mới duy tân thì các giáo sư ở các học đường tất phải mời người Nhật Bản, người Châu Âu, người Mỹ dạy: trong thời duy tân thì người nước ta cùng với một số người nước ngoài tham gia giảng dạy, khi duy tân sắp xong rồi thì nhân tài nước ta trình độ sẽ hơn hẳn họ, nên không cần phải mời người nước ngoài dạy nữa. Tên gọi các trường học, tư cách của học sinh, đặt ra các môn học, sự nghiệp học hành đạt kết quả cao, cơ bản đều phải thu lượm theo cái hay, cái tốt của nước Nhật và Châu Âu, đồng thời phải tìm cách để tự hoàn thiện nữa. Trong các trường học, các môn như triết học, chính trị học, kinh tế, quân sự, hình pháp, ngoại giao, công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, nữ công, y học, lâm nghiệp, phàm tất cả những gì liên quan tới cuộc sống con người cần phải học tập và phải mời thày giáo dạy tại học đường đầy đủ. Người nước ta được vào học không kể sang hèn, giàu nghèo, nam hay nữ, cứ từ 5 tuổi trở lên thì vào học ở vườn trẻ chịu sự giáo dục của bậc trẻ em, từ 8 tuổi trở lên vào học bậc tiểu học chịu sự giáo dục của bậc tiểu học, từ 14 tuổi trở lên vào học ở trường trung học chịu sự giáo dục của bậc trung học; cho đến khi 18 tuổi tài chất đã khá rồi thì được nhận vào học ở các trường bậc cao học theo sự giáo dục của các ngành chuyên môn bậc đại học. Tất cả những phí tổn về việc giáo dục, do triều đình, xã hội đảm nhiệm. Nếu người dân nào nghèo túng quá không thể đủ tiền đóng học phí thì triều đình và xã hội phải giúp đỡ, chu cấp thêm khiến cho con em trong cả nước đều được học qua ở các trường tiểu học bậc cao. Trước khi vào học ở các trường tiều học, đều phải đặt các trường dạy quốc ngữ, quốc văn, khiến cho nhi đồng và phụ nữ đều có thể đọc được báo chí, để nghe biết được những tin tức mới, bàn luận về thời sự để mở mang dân trí. Trong các trường học, hết thảy phải dùng chữ Quốc ngữ khiến cho mọi người ai ai cũng đọc được, khi đọc được ai ai cũng hiểu biết được để đến khi vào học ở các trường tiểu học ai nấy đều có điều kiện và hết lòng lĩnh hội kiến thức, mới có thể có đủ tư cách trở thành một người dân tốt hơn được. Hơn nữa, các sách giáo khoa ở các trường tiểu học, trung học, đại học phải được Bộ Văn [7]kiểm định, nhưng có sự châm chước, xét duyệt, bàn bạc chung trong nghị viện. Nội dung cơ bản của sách vở đều là cội nguồn để mở mang lòng yêu nước, khai thông tình ruột thịt đồng bào, phát huy dân trí giúp dân quyền khiến cho mọi người ai ai cũng tiến bộ ngày hàng ngàn dặm.

Tựu trung việc đào tạo nhân cách con người là trên hết, nhưng đối với binh lính và phụ nữ thì việc giáo dục đó lại càng cần thiết hơn. Vì người lính có trách nhiệm bảo vệ người làm ruộng và người đi buôn bán; có nhiệm vụ đi mở đất, dời dân và tăng thêm thế mạnh, uy nghi của một nước. Nếu ngay từ ban đầu, giáo dục không chu đáo, sâu sắc thì người lính làm sao mà dám xả thân vì nước, làm sao mà có lòng yêu thương đồng bào và làm sao mà gây dựng cho nước nhà ngày một cường thịnh được? Sau khi duy tân rồi thì người lính ở nhà được giáo dục tại nhà, ở doanh trại thì được giáo dục tại doanh trại. Là pháo binh, kị binh, công binh thì được giáo dục về công việc của pháo binh, kị binh, công binh. Là lục quân, hải quân, sĩ quan thì được giáo dục theo cách thức của lục quân, hải quân, sĩ quan. Không chỗ nào, không lúc nào là không giáo dục người lính để làm cho người lính sẵn sàng chết, làm tướng thì có khả năng cầm quân, làm cho nước nhà trở thành cường quốc trong năm châu. Đó cũng là mục đích trên hết để giáo dục người lính vậy.

Phụ nữ là người có trách nhiệm làm một người mẹ hiền, một người vợ đảm, có trách nhiệm trong việc buôn bán, làm đồ công nghệ, có trách nhiệm dạy dỗ con em, giúp đỡ việc quân. Có người mẹ anh hùng thì mới có thể giúp cho người chồng thành người anh hùng được. Vả lại, trên các mặt nghệ thuật, kinh tế người phụ nữ thực sự sẽ nắm được những quyền lợi vô cùng. Chỉ có giáo dục người phụ nữ một cách sâu sắc thì mới tạo ra cho họ lòng yêu nước sâu sắc, bỏ được riêng tư mà theo công lợi, dám hi sinh vì việc nghĩa để làm nên một quốc gia cường thịnh được. Cho nên trong một nước mà không có người phụ nữ yêu nước thì cuối cùng nước ấy sẽ phải làm đầy tớ cho nước khác mà thôi. Sau khi duy tân rồi, tất phải chú ý đặc biệt tới sự giáo dục cho phụ nữ. Sách giáo khoa dạy cho chị em phụ nữ phải chọn những sách có nội dung thật tốt; trường học để dạy chị em phụ nữ phải khuyến khích, lựa chọn những giáo viên thật giỏi. Những trường công nghệ, bệnh viện, thương điếm, ngân hàng, bưu điện, xe hơi, tàu thủy… cùng tất cả những ngành gì có liên quan đến tài chính nên tuyển dụng phụ nữ có trình độ học vấn cao, khiến cho họ phát huy hết tài năng để giúp cho việc quân, việc nước và có nghĩa vụ bình đẳng với nam giới. Tất cả những gì mà quốc gia khen thưởng, những vấn đề thuộc về xã hội thì người phụ nữ cũng có giá trị bình đẳng với nam giới. Điều đó, khiến cho phụ nữ trong cả nước không ai là không mong muốn làm một người mẹ anh hùng, làm một người vợ anh hùng, làm một người phụ nữ giàu lòng yêu nước. Bia đá tượng đồng tạc phường khăn yếm, việc sử dụng súng ống, lưu danh tên tuổi, việc hội ước, xông pha nơi chiến trường thì người phụ nữ so với kẻ mày râu đều cùng giá trị. Do đó, việc giáo dục người phụ nữ là mục đích trên hết vậy.

Còn như trong khuôn khổ của một nền chính trị thì lấy việc học về công đức, học về lòng bác ái là một việc tối quan trọng. Nói người trong nước, đó là tiếng gọi chung người trong một nhà.

Nước ta phía Nam đến tận Hà Tiên, phía Bắc đến tận Lạng Sơn. Một dải núi sông, thực như nhà chung của mọi người. Cùng được sinh ra và lớn lên như trong một nhà, cùng sống và đoàn tụ như trong một nhà, cùng được trời che đất chở, thì sẽ là anh em đồng bào ruột thịt với nhau. Khi sống chơi với nhau một chốn, khi chết cùng chôn với nhau một gò. Huyết mạch từ nghìn năm, giống nòi ai để lại? Tên họ sau muôn thuở, người nào đến viếng thăm? Há đâu cứ nhìn vào các nước Hồ, Hán, Tần, Việt mà nói rằng người nước ta chẳng phải một nhà?

Đau khổ xót thương cũng đều có quan hệ xương thịt với nhau, ấp ủ, giúp đỡ nhau chẳng khác nào như thích mùa xuân vậy.

Nước ta đương buổi duy tân, tất phải khiến cho dân trong nước không có người nào là không có chỗ ở. Lại đặt viện từ thiện cảm hóa để giáo dục cho những người tàn tật đáng thương. Lập nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi dưỡng người già yếu, nhà hộ sinh cho phụ nữ. Tất cả những trường học đó đều nhằm giáo dục những người nghèo khó, cô đơn. Phàm tất cả những trường phải chọn học sinh nam nữ là những người tốt có đạo đức và những thày giáo giàu lòng bác ái để dạy bảo, chăm sóc, trông nom, khiến cho họ cùng với quốc dân, cùng hưởng thái bình, tự do và hạnh phúc. Đến khi ấy, nền giáo dục thật hoàn thiện, không có thiếu sót gì, cũng như trời mưa to vạn vật đều tươi tốt, biển lặng sóng yên cá tôm cùng nhảy múa. Chúng ta được thấm ơn như thế, sướng biết chừng nào!

Đất đai nước ta, phía Tây sát nước Tiêm La, phía Bắc thông đến xứ Việt – Điền [8], phía Đông liền biển lớn, phía Nam tiếp đến Côn Lôn, ở giữa là tỉnh Nghệ An có 4 trấn [9], xứ Bắc Kỳ có 10 châu, Quảng Trị có 2 xứ Cam [10], Nam Kỳ có hai Xá [11], đất đai đều có thể cày cấy được, rừng có thể chăn nuôi được, núi có thể khai khẩn được. Riêng những điều đó thôi thì nước ta đã không thể đứng dưới một nước trung đẳng được. Huống hồ nước ta lại có cả đồng bằng rộng lớn, có nhiều hồ lớn và vùng đất tốt đã được cày cấy từ lâu. Nhưng vì sao cũng vẫn còn có nơi nửa văn minh, nửa dã man? Là bởi vì dân trí chưa được mở mang, nhân tài chưa nhiều, chỉ mới dùng sức chân tay mà làm chứ chưa biết dùng máy móc. Lại còn mùa màng hạn hán, thiên tai hoành hành, mất hàng nửa công sức để khai khẩn ruộng đất, bỏ hoang, đến một đấu thóc, nửa thăng thóc mà dân cũng không có mà tích trữ. Mà đất đai thì có đến hàng ngàn, vạn mẫu bỏ hoang. Triều đình có thế lực mà không biết mở mang ra, xã hội có công cụ làm ăn mà không biết vun trồng lại, đất nước ngày càng nghèo, dân càng ngày càng khổ. Thật đáng thương thay!

Khi đã duy tân rồi thì việc nghiên cứu về nông nghiệp phát triển mạnh, nghề nông ngày một tiến tới. Sức người không đủ sẽ có máy móc bổ sung hỗ trợ cho. Thiên tai bất lợi sẽ có trí tuệ con người chinh phục. Một người khai khẩn chưa xong thì xã hội giúp tiền để cùng làm cho thành. Dưới dân mà làm không xong thì triều đình sẽ đốc thúc quan lại giúp đỡ thêm. Quan đại thần trông coi việc nông phải là bậc học sĩ cao cấp. Người nghiên cứu về nông nghiệp phải sử dụng những người sành sỏi, tài giỏi về nghề nông. Rồi thì khắp mặt đất mới chứa đầy mầm châu báu, trời rộng kia mới chở hết sự mạnh giàu. Trên rừng núi không bỏ sót nguồn lợi nào, ở làng xóm tài sản không bao giờ cạn. Lúc bấy giờ, đất đai ngày một mở rộng, thế nước mạnh như nuốt các nước láng giềng. Của cải, sản vật tràn trề khắp nơi, danh giá nước ta trên thế giới ngày càng được trọng vọng. Chúng ta sung túc, giàu có đến thế, sướng biết chừng nào!

Người nước ta có sự suy nghĩ khôn ngoan, có tai mắt thông minh, so với người Châu Âu chỉ có hơn chứ không thua kém. Thế mà bao nhiêu thứ hàng hóa, vật dụng đều phải mua của nước ngoài, bao nhiêu lợi quyền đều chịu để nước ngoài nắm giữ. Các thứ dùng để ăn uống, từ thuốc cho đến trà, rượu, các đồ mặc như gấm, nhung cho đến vải lụa, nếu chẳng phải là do người nước ngoài làm ra thì cũng do người Hoa đem đến, nếu chẳng phải từ bên Tây chở sang thì cũng từ nước Thanh mang lại. Vì vụng về ngu muội nên tiền của tiêu hao, sản vật của trời đất sinh ra để cho người nước ngoài ra sức mà ăn nuốt hết. Hôm nay mặc hàng Tây, ngày mai mua đồ Hoa, ví như người này mặc hàng Hoa, người kia mặc hàng Tây. Người nước ta há lẽ nào không biết suy nghĩ, không có tai mắt mà nhìn mà nghe hay sao? Đất nước ta lẽ nào lại không có khoáng sản, không có công trường hay sao? Mà sao lại ngu dại để cho máu mỡ của mình dần dần mất hết, sớm tối tay chân nhọc nhằn vất vả đến thế? Đó là bởi triều đình không có phương pháp khuyến thợ khen nghề, xã hội không biết đấu tranh cho lợi quyền đó thôi. Người Pháp lấy cái lợi của ta bởi rằng ta ngu, thường ngày lo tìm cách ngăn lấp tri thông minh của ta, khiến cho ta quên hết mọi điều cổ hủ vậy. Đó là trước kia.

Khi đã duy tân rồi thì tai mắt người nước ta được rộng hiểu. Tâm tư trí tuệ người nước ta tất phát triển phi thường. Trường học bách công mọc đầy khắp trong nước. Thợ tìm mỏ, thợ nấu vàng, thợ điện khí, thợ cơ khí, thợ chế tạo vật phẩm buôn bán, thợ chế tạo dụng cụ dùng cho nhà nông, thợ hội họa, mĩ thuật, thợ may, cho đến hàng trăm các phẩm vật khác phục vụ cho đời sống con người đều có thợ cả. Tất cả các trường dạy thợ, đều lấy những kiến thức tối ưu nhất của Châu Âu, của Nhật Bản để giảng dạy. Ngành học về khai mỏ ngày càng tiến bộ, nguồn lợi khai mỏ ngày càng nhiều, của cải dưới lòng đất khai thác ngày càng tăng, những công nhân giỏi ngày một đông đảo. Miền núi sẽ đẹp như gấm vóc, thôn quê cũng hóa đô thành. Đến lúc ấy người nước ta đầu óc thông minh, tay chân khôn khéo rong ruổi khắp non sông đất nước, vật phẩm tuyệt đẹp đến nỗi Châu Âu, Châu Mỹ cũng phải chịu thua giá trị. Chúng ta bay nhảy đến thế, sướng biết chừng nào!

Việc đi buôn mạnh như cọp, như cá kình thì trong thế giới nước nào mà không nuốt nổi. Đi buôn bán nhà mà có gươm súng thì trong thế giới dân nào chẳng bắt được. Thật đáng thương cho nền thương mại yếu kém của ta! Thật đau xót cho giới kinh doanh thương mại của ta bị đình đốn! Hàng hóa sản vật của cải có xuất mà không có nhập, như máu mỡ chỉ có mất mà không hề tăng lên. Nhà nghèo có điều kiện bôn tẩu đó đây, nhưng mà lại không đủ sức, nhà giàu có của thừa thãi mà lại chẳng có lòng làm. Không tâm không lực thì không thể mà sinh tồn nổi trong thời đại cạnh tranh buôn bán này được. Dò xét nguyên nhân mới hay rằng: một là người nước mình không có tinh thần tin yêu nhau, hai là người nước mình không có cái chí tiến thủ mạo hiểm. Không cò lòng tin yêu nhau thì người nghèo có trí mà không cùng bàn bạc với người giàu, người giàu có của mà không chịu giúp người nghèo. Như thế xã hội đến tan nát, của cải tiêu mòn. Không biết cách làm, không biết hợp của cải lại thì buôn bán làm sao được. Không có chí tiến thủ mạo hiểm thì một đồng tiền cũng chẳng dám rời tay, huống hồ đem của cải nhiều đến hàng vạn quan tiền! Một bước cũng không dám rời cửa, huống hồ phải vượt biển rộng đến ngàn trùng! Cầm túi giữ chặt, chôn của chờ tiêu, không dám đi buôn bán xa, không dám xông pha đây đó thì làm sao mà có thể đi buôn bán được?

Khi đã duy tân rồi, dân trí ngày càng phát đạt lớn, sự học tập về thương mại ngày càng phát triển nhanh. Người nước ta có tình cảm thương yêu nhau nhiều, hợp của cải muôn người làm của chung, hợp sức muôn người thành một sức chung thì việc buôn bán trong xã hội ngày một cố kết mà chẳng tách rời nhau. Người nước ta tất sẽ dũng cảm mà có chí tiến thủ mạnh. Nhà nào có thực nghiệp [12] thì được triều đình đặc biệt chú trọng, ai có tài kinh doanh được xã hội tôn vinh thì việc buôn bán sẽ mạnh mẽ như ngọn thủy triều không sức nào ngăn cản nổi. Đến lúc đó, người nước ta đồng lòng hiệp sức, quyên góp tiền vốn lại cùng với nước ngoài đua tranh buôn bán. Thóc gạo ê chề, tơ, gỗ lạt cùng các vật phẩm xuất cảng, so với các nước khác, hàng hóa Việt Nam ta sẽ chiếm mức tối đa.

Tất cả các công ti buôn bán lớn ở các thành phố như Pa-ri nước Pháp, Bá Linh nước Đức, Luân Đôn nước Anh, Nữu Ước nước Mỹ cùng với các nước khác hết thảy đều thấy rằng nền thương mại Việt Nam là thịnh vượng nhất. Tàu buôn các nước ra vào buôn bán ở các cảng Việt Nam mỗi ngày không dưới vài ngàn chiếc. Hàng hóa tiền bạc của các nước nhập vào kho thương mại của Việt Nam mỗi ngày không dưới ức vạn đồng. Chúng ta sẽ lấy của cải mà đắp nên thành trì, trên thế giới không có loại pháo nào mà công phá nổi. Chúng ta sẽ kết tàu làm trận, thì Châu Mỹ, Châu Âu cũng dễ lướt qua như sóng vậy. Người nước ta đầy đủ và mạnh đến thế, sướng biết chừng nào.

Nếu biết lấy việc thu hoạch mùa màng là sự vui sướng thì việc dầm mưa dãi gió, vất vả sớm hôm cũng không quản ngại: biết tụ họp xóm làng ca hát là vui thì thì việc chuyển đá dời non, đắp đường mở lối cũng không thấy nhọc nhằn. Sướng thay nước Việt Nam mới! Sướng như thế đó! Người trong nước ta có ai mà không đẹp lòng? Có ai mà không nhón gót giương mày ngẩng cổ mà trông?

Tuy nhiên, chợt nghe thì mừng, quá mừng lại ngờ vì cách thức để gây dựng nước Việt Nam, tiền của để xây dựng nước Việt Nam mới nước ta còn có người hoang mang chưa rõ. Tôi tuy là người hèn kém bất tài nhưng cũng may mắn được là người con yêu mến của nước ta, xin kính cẩn bày tỏ một số hiểu biết kém cỏi của mình sau đây để tất cả các bậc cha anh, chú bác, anh em lựa chọn lấy.

  1. Mong mọi người trong nước ai ai cũng có ý chí tiến thủ mạo hiểm.
  2. Mong mọi người trong nước ai ai cũng có tinh thần thương mến, tin cậy lẫn nhau.
  3. Mong mọi người trong nước ai ai cũng có tư tưởng tiến bước lên nền văn minh.
  4. Mong mọi người trong nước ai ai cũng có sự nghiệp thực hành yêu nước.
  5. Mong mọi người trong nước ai ai cũng có sự nghiệp thực hành công đức.
  6. Mong mọi người trong nước ai ai cũng có hi vọng về danh dự và lợi ích.


Sáu điều mong mỏi (Lục đại nguyện)

Tâm tư của người nước ta không phải là không thông minh, tai mắt người nước ta không phải là không tinh xảo, tay chân khí phách không phải là không hùng tráng, nhưng tại sao trong nước thì xưng là vua của dân, bên ngoài thì lại chịu làm bề tôi, cam chịu ở dưới của kẻ khác? Kể từ đời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh cho đến Pháp ngày nay thì sự nô lệ đã khá là đấy đủ rồi, thế là bởi tại sao? Là tại vì mọi người không có ý chí mạo hiểm, tiến thủ, cho nên an phận ngu hèn, tự vui bề mềm yếu. Chỉ biết lấy việc ăn uống, trai gái làm điều kinh bang tế thế tuyệt vời, coi cửa nhà, tấm phản là đất trời cao rộng. Người khác ngồi ỉa đái lên đầu mình mà vẫn lì lợm mà nói: “Ta chỉ biết an phận”. Dân tộc khác có nuốt hết giống nòi mình thì cũng cứ ngạo nghễ mà nói: “Ta sẽ chờ đợi thời cơ”. Than ôi! Gặp thời cạnh tranh xâu xé, lòng người dữ như con rắn độc, con chim chiên đuổi con chim sẻ, con rái cá đuổi bắt con cá, có ai là miệng Phật đâu? Các anh mà không lo tiến thủ thì người ta sẽ diệt các anh, các anh mà không chịu mạo hiểm thì ai người ta thương các anh! Người nước ta cho đến nay mà còn chưa biết phấn khích lên được hay sao? Xin mọi người hãy giương mày mở mặt, hãy vì non sông mà rửa thẹn. Người ta đều có thể trở thành anh hùng mà sao mình lại chịu thua kém hèn? Người ta đều có thể là bá vương, sao mình lại chịu làm tôi tớ? Mọi người đều có tấm lòng phấn đấu như thế thì mọi người đều có thể được độc lập. Chí tiến thủ càng mạnh, lòng mạo hiểm càng hùng, thì việc bắt sư tử, bắt cọp bằng tay không, câu cá kình ngoài biển lớn nếu sức một người không được thì hợp sức 10 người lại sẽ thành, sức 10 người không đủ thì hợp sức 100, 1000 người lại thì chắc chắn sẽ thành công. Nếu cả nước mọi người đều cùng ý chí, cùng anh hùng thì người Pháp một ngày không thể ở yên được trên đất nước ta. Đó là điều duy tân tiên phong thứ nhất.

Nước ta nhân khẩu không phải là không đông, đất đai không phải là không phì nhiêu, tài sản không phải là không dồi dào. Theo sổ công sưu của Pháp thì người nước ta có 25 triệu, nhưng kể toàn thể thì dân số không dưới 50 triệu người, thế thì dân phải nói là đông. Diện tích nước ta rộng hơn 25 vạn vuông Anh, năm thứ kim loại quý đều có cả, năm giống lúa cũng đều có, đất đai thì mầu mỡ phì nhiêu. Lúa gạo Sài Gòn (Nam Kỳ), của cải Bắc Kỳ có thể nuôi người Thanh, Ấn Độ, Mã Lai, Tiêm La, Diến Điện no đủ, huống hồ còn kể đến các ông Tây, bà đầm, chó Tây, ngực Tây, bồi Tây mặc sức bòn rút bóc lột ăn uống no say phè phỡn biết bao của cải nhà ta nữa. Thế thì phải nói của cải nước ta cũng lắm chứ. Người nước ta đông, đất đai phì nhiêu, tài sản dồi dào như thế, dù làm việc gì mà chẳng thành công được. Thế nhưng mà con người vẫn khốn nạn, chịu làm nô lệ, sản vật bị tan nát hao mòn, buôn bán thì quẫn bách, nghề nông thì đình đốn, bách công thì sứt mẻ vụng về! Ô hô! Trời có phải là eo hẹp với ta đâu? Đất có phải là hiểm trở đối với ta đâu? Xét lí do vì sao như thế mới hay rằng: Chẳng qua người trong nước ta không có tinh thần yêu mến, tin yêu nhau, cho nên mới coi anh em đồng bào như người nước Tần, nước Việt, đối xử đồng chủng như giặc thù. Nhà nào cũng đắp tường ngăn dậu, cửa nhà nào cũng khoét lỗ đắp hang, đưa nửa đồng tiền cho anh em mà nặng như 5 cân, bạn bè thân thuộc cách nhau gang tấc mà lòng xa vạn dặm, lại còn chửi bóng gió lẫn nhau; đau ốm không quan tâm lẫn nhau. Nhà tôi cứ hát xướng mặc cho nhà anh than khóc; xóm Đông cứ việc no say mặc cho xóm Tây đói khát. Đương khi giang sơn tro tàn cần cộng sức chân tay lại giúp đỡ mà sao lại còn riêng danh, riêng lợi, lìa đức, lìa lòng? Chủng tộc sắp bị diệt như sợi tơ sắp đứt, nỡ nào lại còn giơ cánh tay đánh nhau? Họa đã đến gần cả ba họ mà sao anh em vẫn đánh nhau ở trong nhà, ghen ghét nhau, ngờ nhau. Thật hết chỗ nói? Than ôi! Thế lực có đông đủ mới thành, cơ sở phải tập trung đầy đủ mới nên được vậy! Diễn một trò vui, làm một tiệc vui, chí ít cũng có tới vài mươi người, huống chi lo liệu cái lợi hàng ức triệu. Dựng công lao lại cho núi sông mà bảo lấy tâm lực của một vài người làm để làm, quyết không thể nào làm được! Chi bằng hãy kết đoàn thể, liên tính tình, tập trung mưu kế, hợp tiền của, vứt bỏ hết lòng ghen ghét nhau, cùng nhau một đường sống chết. Lấy của cải của nghìn vạn người làm của chung, lấy sức của ngàn vạn người làm sức chung, áo tôi anh mặc, cơm tôi anh ăn, anh đau ốm tôi mang thuốc cho anh uống, nhà tôi tối lấy đèn anh mà thắp sáng, ngàn vạn người chung vai mà gánh vác, nặng mấy cũng mang nổi. Ngàn vạn người chung tay mà đỡ, yếu mấy cũng vực lên được. Người nước ta ai ai cũng thành thực cùng thương yêu nhau, tin nhau như thế thì trong mắt ta còn thấy có người Pháp nữa hay không? Đó là điều duy tân tiên phong thứ hai.

Thời nay, người nước ta nói trong mắt không thấy có xe hơi, tàu thủy; trong tai không nghe tiếng súng Tây, pháo Tây, trong lòng không biết việc học theo Tây, kĩ xảo của Tây, thực không phải thế. Thế thì mắt thấy gì mà như mù, tai nghe gì mà như điếc, lòng biết gì mà như dại như say là tại sao? Xét nguyên nhân thì một là người nước ta sống một cách nhớn nhác, hai là sống một cách dằng dai theo nếp cũ mà không chịu đổi mới. Các môn học như quang học, động học, hóa học, lí học khi nghiên cứu tới chúng thì cho rằng khó khăn vất vả, có bắt chước theo thì cũng lơ mơ, mù tịt. Người lớn tuổi ngày càng không còn mấy, người trẻ tuổi thì vợ con trói buộc. Xe hơi, tầu thủy để cho người khác làm cả, còn ta thì làm đầy tớ cho người Pháp. Súng Tây, pháo Tây để cho người Pháp làm, còn ta thì làm chó cho người Pháp. Ta không có học thuật như Tây, nhưng cũng đường đường là một ông tiến sĩ, cử nhân Việt Nam! Ta không có kĩ nghệ như Tây, nhưng mà cũng đàng hoàng là người thông sự ở Phủ Toàn quyền, là người phán sự ở Tòa Công sứ! Suy ra như thế thì thấy rằng kiến thức, khả năng bàn luận của ta làm sao mà biết hỏi đáp được văn mình là cái gì? Vả lại mọi thứ vật dụng tinh xảo, bền đẹp, nếu mình không chế tạo ra thì ở trên trời rơi xuống chăng? Một cái đài cao đẹp nếu chẳng phải do xây đắp nên thì nó ở dưới biển trồi lên hay sao? Sự nghiệp văn minh nếu không từng bước thực hiện thì tự nó đến với mình sao được? Người ta có máy móc, sao ta không tự mình mà làm? Người ta biết đổi mới, sao chỉ riêng mình là cổ hủ? Viêc học tập tinh thông các nghề ở Anh, Nhật, Đức, Mỹ tuy nhanh cũng phải đến hai năm, ta cũng đừng cho đó là điều khó. Các khoa học về binh, công, nông, thương tuy họ học nhanh cũng phải đến năm năm, ta chớ cho rằng học tinh tường như thế mà chán nản. Muốn học kĩ năng của các nước, trước hết phải học ngôn ngữ, văn học, luyện cách phát âm, cách nói của các nước đó thật nhuần nhuyễn đã, hoặc một năm, hoặc hai năm, nếu là người có chí thì phỏng có khó gì. Ta muốn lên vũ đài của văn minh, muốn hấp thụ hết những tinh túy của nước ngoài, đều phải tự mình đi khắp các kinh đô, đô thành của các nước, dù phải chịu cảnh đắt đỏ gạo châu củi quế, dù tốn kém tiền bạc thì người có sức lực há sợ gì tốn kém. Ta muốn vượt lên trên chiến lũy của văn minh, nếu nước khác phải đi một tháng mới đến đích, thì ta phải gắng sức đi đến đích chỉ một vài tuần, người khác có đôi chân đi được ngàn dặm thì ta phải cố đi được vạn dặm. Mới đầu thì ta lấy họ làm thầy, sau ta sẽ lại làm thầy của họ. Nước Nhật Bản bân giờ, có khác gì nước Việt Nam ngày mai. Đó là điều duy tân tiên phong thứ ba.

Sóng gió lớn thì biển phải dâng, ai có mắt cũng đều thấy rõ. Mưa dông to sấm chớp rầm trời, hỏi hồn nào mà không tỉnh lại? Người nước ta bây giờ nói đến yêu nước, đánh chuông trống yêu nước cũng biết bao rồi. Tuy nhiên, chỉ nói thôi mà không làm, đó là lời nói ở đầu lưỡi vậy. Biết mà không làm thì sự hiểu biết đó có khác chi hồ bột ở trong lòng. Núi sông ta đã 50 năm nay như say mà chết. Ô hô! Có thể như vậy được sao? Chí khí của kẻ trượng phu còn đương sống đây, sao không biết bay nhảy theo thời? Tôi xin bái chúc đồng bào ta: kính xin bày tỏ cùng đồng bào ta có hai phương kế phải thực hành.

Tưới máu tươi mà trừng phạt kẻ gian nô, hãy vì việc nghĩa mà trả thù cho đồng bào;
Đem mồ hôi nghĩa mà mưu nghiệp tốt, hãy quyên góp tiền mà mưu nghiệp lớn.

Tôi rất hổ thẹn vì không có khả năng làm được như thế, còn như đồng bào ta đây có ai mà không được? Mười ông Nhiếp Chính, trăm ông Kinh Kha [13]thì trong thế giới này không có khả năng nào mà không làm được! Một ông Tử Phòng, hai ông Lỗ Túc [14] thì núi sông đều có thể chuyển xoay gánh vác được. Đó là điều duy tân tiên phong thứ tư.

Tiếng tăm về công đức, đường phố ngõ thôn đâu đâu cũng bàn tới, chỗ nào cũng cho là hay cả. Phong trào làm theo công đức, từ phụ nữ đến trẻ con nhi đồng, mọi người đều làm theo cả. Xin hỏi đồng bào ta ngay bây giờ: Da thịt đâu? Xương tủy đâu? Hồn phách đâu? Phải nên xem xét rõ để phân biệt hay không xét để phân biệt? Việc xem xét phải ở thực tế, việc nghiên cứu phải dựa vào hình ảnh có thực, không được bên Tây cái mâu và bên Đông cái thuẫn, không được như ngọc châu nước Tần với ngọc bích nước Triệu [15]. Cung của người nước Sở thì người nước Sở mới được dùng [16] không được lấy gì làm của riêng, dù là rất nhỏ cũng không được làm điều mờ ám. Từ một người cho đến một nước, hỏi có sự việc gì mà lại không thể làm được điều công đức? Ôi điều công đức! Đồng bào ai ai cũng nói đến công đức, mong mọi người hãy làm điều công đức. Người anh có lỗi lầm, không được hại người em. Người em có tài trí cũng phải dạy cho người anh cùng có. Tính mạng còn có thể đổi cho nhau được, huống hồ của cải tiền bạc lại không thể cho nhau được sao. Thân thể còn có thể cùng chung, huống chi là mảnh áo da ngựa không thể chung nhau được sao? Nước là nước ta, ta chỉ có biết có nước mà thôi. Mọi người ai ai cũng có tư tưởng hết lòng lo lắng, người nào cũng phải đem hết nghĩa vụ của mình ra đóng góp cho đất nước. Nếu anh đau ốm thì tôi thấy lo lắng buồn thương như cùng chung cái đau của một cơ thể, người kia cùng đi trên một con đường vất vả, há đâu phải hai con đường mà tính toán suy bì? Rồi sau đó sẽ tập hợp liên kết đông đảo tối đa con em ta lại để cùng tranh giành với một nhóm tối thiểu người Pháp, người Pháp liệu có may mắn thoát chết được không. Đó là điều duy tân tiên phong thứ năm.

Nói về đạo đức thì kẻ sĩ tránh nói về danh, nói về cốt cách của người anh hùng thì người ta tránh bàn tới điều lợi. Than ôi! Danh và lợi làm tổn thương tới đạo đức, cũng làm phương hại tới người anh hùng hay sao? Sợ rằng chưa biết rõ cái chân thực của những điều ham muốn đó thôi. Vì cái danh trong sớm tối mà xét rằng nó không bao giờ thay đổi, thì cũng tức là giữ lại một cái gì xấu xa nhất; vì cái lợi trước mắt nhưng một khi thế cục đã chuyển vần mà không chịu sửa đổi thì sẽ phải gặp một cái họa khôn cùng. Những điều ấy nếu gọi đó là danh thì không thể là cái danh thực được. Nếu thực sự ham muốn làm cái danh thực thì cái danh đó muôn đời cũng chẳng ai dị nghị. Cũng như các ông Hoa Thịnh Đốn [17], Tây Hương Long Thịnh [18] cũng là vì cái danh thực mà đô thành nước Mỹ rất trọng cái giá trị tự do của ông, nên ở Đông Kinh dựng tượng đồng ông như là một mẫu đài kỉ niệm. Lòng hi vọng danh dự của hai người ấy, thật là điều sung sướng vô hạn. Mong rằng người nước ta ai ai cũng làm theo cái danh như thế. Những cái đó mà gọi là lợi thì cũng chẳng thể gọi là cái lợi chân chính. Nhưng nếu ham muốn làm điều thực thì cái lợi tất sẽ đến với mình mà muôn dân cũng được nhờ ơn. Như việc mở mang Châu Phi hao tổn biết bao là tiền của, như việc đào Kênh Tô Di Sĩ [19] tốn biết bao mồ hôi xương máu. Hai việc đó rõ ràng là lợi phi thường vậy. Mất hơn mười năm phí tổn mà có được một châu lớn như thế, dời được nghìn vạn dân đến ở, tốn hơn 10 trăm triệu đồng mà chuyển được bao nhiêu hàng hóa từ biển Đông sang biển Tây. Con đường vận chuyển đó, tuy rằng đó là sự hi vọng lợi ích của một vài nước, nhưng cái lợi đã được thỏa nguyện. Mong người nước ta ai cũng đều làm được điều lợi.

Cơ bản mà nói thì danh một ngày với danh muôn đời, danh nào hơn? Có cái lợi riêng của mình với cái lợi của cả nước thì lợi nào lớn hơn? Chọn lấy cái danh hay thì dù muốn chết cũng chẳng từ; vứt đi nghìn vàng cũng không tiếc để cầu cho được cái danh dự cũng cứ phải mua, đó mới là làm theo cái danh thực. Chọn được cái lợi lớn thì dù cái quyền lợi của nước phải lấy sắt và máu để giành lại, văn minh phải lấy thân mình, nhà mình ra mua đề cầu cho được cái lợi ích cũng cứ phải hợp lại, đó mới là làm theo cái lợi ích chân chính vậy. Người nước ta đều có hi vọng về danh dự và lợi ích thì nước Việt Nam ta lại không giàu không cường thịnh được sao? Đó là điều duy tân tiên phong thứ sáu.

Có làm được sáu điều mong muốn ấy thì mới có được mười điều sung sướng. Thực hiện được sáu điều mong muốn ấy thì tất cả mọi quyền hành tự ta ta cầm, khuôn phép tự ta ta đúc. Trời không thể đoạt được cái mong muốn đó của ta, đất không thể giữ được cái then chốt đó của ta. Nếu người trong nước ta đều đồng lòng thì việc dời đất trời, xoay sông núi đều làm dư sức. Người nước ta há lẽ nào lại tụt lùi mà không làm được hay sao? Gom chí khí của muôn người để xây nên thành cao ngút trời, góp trí tuệ lớn rung chuyển cả núi cao thì biển nào mà không lấp nổi. Xin cúi đầu lạy, xin cúi đầu chào nước Việt Nam mới muôn muôn năm! Đồng bào nước Việt Nam mới muôn muôn năm!

------------------
(Nguồn: Phan Bội Châu, Tân Việt Nam. Bản điện tử được thực hiện từ ấn bản của Cục Lưu trữ Nhà nước năm 1989, do Võ Văn Sạch dịch và chú thích, Đinh Xuân Lâm viết lời giới thiệu, tr. 19-46)

Chú giải:
[1]Dân số nước ta lúc đó có lẽ chỉ khoảng 25 triệu dân.
[2]Ở đây cụ Phan Bội Châu không nhắc tới nhà Thanh. Chúng tôi cũng chưa rõ vì lí do gì. Nhưng có thể do nhà Thanh chưa đặt được ách nô lệ trên nước ta, hoặc do Phan Bội Châu có ý tránh không đụng chạm đến Trung Quốc ở đó đang có nhiều người yêu nước Việt Nam hoạt động.
[3] Chỉ nước Thái Lan ngày nay
[4]Chỉ tên vua
[5]Chỉ bọn quan lại
[6]Chỉ người lính đánh thành
[7]Tức Bộ Giáo dục
[8]Tức hai tỉnh Quảng Đông và Vân Nam của Trung Quốc

[9]Trấn Ninh, Trấn Định, Trấn Biên, Trấn Tĩnh

[10]Cam Lộ, Cam Linh

[11]Thủy xá và Hỏa xá

[12]Ở đây, ý chỉ một trong các ngành nghề như nghề nông, nghề công, nghề thương cùng tất cả các công việc làm cho mối lợi được phát triển mạnh.

[13]Nhiếp Chính, Kinh Kha: hai người kiếm khách đời Chiến Quốc. Nhiếp Chính đâm Hàn Tường, Kinh Kha mưu sát Tần Thủy Hoàng. Sau người ta thường gọi chung hai người là Nhiếp Kinh. (Các chú thích trong bài đều của người dịch.)

[14]Tử Phòng: tên tự của Trương Lương người nước Hàn. Sau khi Hàn bị Tần diệt, để báo thù, Trương Lương đã giúp nhà Hán diệt Tần, nhưng sau đó đã trả ấn phong hầu mà đi tu tiến. Lỗ Túc: tự là Tử Kinh, người nước Ngô thời Tam Quốc, là người có tráng tiết và hảo tâm, được Chu Du tiến cử lên Tôn Quyền. Có công giúp Chu Du đại phá Tào Tháo trong trận Xích Bích.

[15]Tần là tên một nước mạnh đời Chiến Quốc ở vào đầu địa phận tỉnh Thiểm Tây bây giờ. Theo Sử kí, vua Tần tin vua Triệu có ngọc bích quý, muốn đoạt viên ngọc đó, bèn sai đưa thư vờ xin đổi 15 thành. Nhưng nhờ có mưu thần Lạn Tương Như mà vua Triệu vẫn giữ được viên ngọc quý đó mà không bị mất vào tay vua Tần.

[16]Sở là một nước lớn đời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc – Hồ Nam bây giờ, nổi tiếng về giỏi săn bắn. Vua nước Sở đi săn bị mất cung, có người nói rằng cung đó lại do người nước Sở bắt được, không lạc đi đâu cả. Ý nói của ai thuộc người đó, không xâm phạm đến đất đai, tài sản của người khác.

[17]Hoa Thịnh Đốn: George Washington (1732-1799) là tổng tư lệnh trong cuộc chiến tranh giành độc lập cho nước Mỹ. Năm 1789 được cử làm Tổng thống đầu tiên của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

[18]Tây Hương Long Thịnh: Saigo Takamori (1828-1877) là người có công đầu trong cuộc Duy Tân của Nhật Bản, từng giữ chức vụ tham mưu đại đô đốc từ năm Minh Trị và từng làm đại tướng lạc quân, có nhiều công lao trong việc xây dựng nước Nhật hùng cường.

[19]Kênh Tô Di Sĩ: kênh Suez nối liền Địa Trung Hải với Hồng Hải, chiều dài 161 Km từ Port Said đến Cảng Suez. Việc đào kênh để rút ngắn con đường biển nối liền Âu Á do kĩ sư Ferdinand de Lesseps đế xuất thực hiện và khánh thành vào năm 1869.

🔝

Bước chuyển tư tưởng của Phan Bội Châu từ bạo động cách mạng sang đấu tranh ôn hòa

Kỷ niệm 150 năm ngày sinh chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu (26/12/1867 - 26/12/2017)

chungta

Đỗ Minh Tứ (*), Hoàng Thị Thu Huyền (**)

08:55 CH @ Thứ Ba - 26 Tháng Mười Hai, 2017

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển biến trong tư tưởng Phan Bội Châu từ bạo động cách mạng sang đấu tranh ôn hòa; làm rõ quá trình chuyển biến tư tưởng đó của Phan Bội Châu. Đồng thời, tác giả cũng đề cập tới hai khuynh hướng ủng hộ và phê phán - trong thái độ của người đương thời trước bước chuyển tư tưởng của Phan Bội Châu, nêu ra một số ý nghĩa trong bước chuyển tư tưởng của Phan Bội Châu từ bạo động cách mạng sang đấu tranh ôn hòa.

Phan Bội Châu (1867-1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.

Sau Chiến tranh thế giới thứ I, tình hình trong nước và thế giới có những diễn biến phức tạp đã tác động làm biến chuyển tư tưởng của Phan Bội Châu - nhà cách mạng yêu nước mang trong mình khuynh hướng bạo động, khiến ông có sự thay đổi trong tư tưởng, đi theo con đường cách mạng ôn hòa.

1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến chuyển tư tưởng của Phan Bội Châu từ bạo động cách mạng sang đấu tranh ôn hòa

Chiến tranh thế giới thứ I kết thúc, Hòa ước Vécsai – Oasingtơn (1919) đã công nhận độc lập của một số nước trước đây thuộc đế quốc áo – Hung và đế quốc ốttôman, một số nước thuộc địa của Đức cũng được đặt dưới quyền ủy trị của Hội quốc liên. Những điều này đã khiến Phan Bội Châu cho rằng, các chính khách cầm đầu các nước lớn đã bắt đầu biết “lẽ phải” và Cụ tin một ngày nào đó “họ sẽ tranh độc lập giúp ta”. Bên cạnh đó, đường lối cách mạng “bất bạo động, bất hợp tác” của Đảng Quốc đại ấn Độ cũng đã lan đến Việt Nam và Phan Bội Châu thấy đó là một đường lối hay, vì không đổ máu mà cũng có hy vọng giành được độc lập nên đã đi theo.(*)

Ở Việt Nam, thực dân Pháp thực hiện chính sách hai mặt: một mặt, chúng tăng cường đàn áp, làm cho phong trào yêu nước gặp phải những tổn thất nặng nề, khiến các nhà yêu nước theo con đường bạo động tỏ ra dao động và Phan Bội Châu cũng không phải là một ngoại lệ. Mặt khác, Pháp thi hành một số cải cách xã hội có tính chất nhỏ giọt để che đậy cho chương trình khai thác thuộc địa lần thứ 2 của chúng. Trong hoàn cảnh đó, nhiều nhà yêu nước Việt Nam, trong đó có Phan Bội Châu không thể không nghĩ đến việc thay đổi đường lối để thích nghi với thời cuộc.

Sáng ngày 26/12/2017, Bộ TT-TT đã phát hành bộ tem kỷ niệm 150 năm ngày sinh Phan Bội Châu (1867-1940)


2. Sự chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu từ bạo động cách mạng sang đấu tranh ôn hòa

Là người chủ trương con đường bạo động nhưng sau Chiến tranh thế giới thứ I, Phan Bội Châu đã rẽ sang con đường đấu tranh “ôn hòa”. Sự chuyển biến này được GS. Trần Văn Giàu đánh giá là “xu hướng kém đi” và ít nhiều gây ngỡ ngàng cho mọi người, vì đó là phương pháp mà trước đây Cụ hoàn toàn phản đối. Nhưng, có lẽ với Phan Bội Châu đây chỉ là điểm dừng tạm thời trên con đường tìm kiếm cách thức cứu nước mới mà thôi.

Điểm mốc đánh dấu sự chuyển biến này là năm 1917, khi Cụ viết tác phẩm Pháp – Việt đề huề luận ở Hàng Châu (Trung Quốc) và được xuất bản công khai năm 1929. Nói về sự thay đổi đột ngột này, trong Tự phê phán viết sau đó, Phan Bội Châu cho rằng mình bị Lê Dư lừa. ở Hàng Châu, Cụ đã nghe Lê Dư kể về một loạt chính sách tiến bộ của chính quyền thuộc địa, như lập trường học, sửa đổi luật pháp… Do đó, Cụ nghĩ “
nên tương kế tựu kế, chưa chắc không có đất xoay sở”(1). Sau đó, Cụ nghe lời Phan Bá Ngọc (con Cụ Phan Đình Phùng) “viết bài lý luận chuyên nói về “Pháp – Việt đề huề” thì hai bên đều có lợi, người Pháp xem sách này cho là ý chí đảng ta đã hòa hoãn, họ không chú ý đến đảng ta nữa; ta có thể phái người trong nước cùng với Pháp trao đổi ý kiến làm gián điệp cho đảng ta”(2).

Những giải thích trên của Cụ có phần không hợp lý. Là một người yêu nước chân chính, chẳng lẽ Cụ không dõi theo tình hình trong nước hay sao mà lại dễ dàng bị lừa, dễ dàng tin theo một tên bán nước như Lê Dư? Phải chăng sự ra đời của Pháp – Việt đề huề luận đã gây quá nhiều dư luận không đồng tình nên Phan Bội Châu phải tự bào chữa. Vì sau đó, khi bị giam lỏng ở Huế, Cụ đã nhiều lần khẳng định rằng mình có ý thức, có tính toán thay đổi phương châm, thay đổi chủ nghĩa và cho rằng như vậy là hợp thời, là đúng, là phải. Điều này thể hiện rõ trong bài Tuyên ngôn thông cáo cả toàn quốc đăng trên báo Khai hóa ngày 12/1/1926. Cụ viết: “
Tôi đã từng thí nghiệm trong 12 năm, biết rằng hậu thuẫn không nương tựa vào đâu thì chắc tiền đồ chỉ những là thất bại. Dục tốc bất đạt, lẽ ấy đã rành rành… Vì vậy tính đổi phương châm, chú lực về cái phương diện làm sao cho quốc dân ngày thêm tiến bộ; nhưng nghĩ rằng nếu muốn cho trình độ quốc dân ngày thêm tiến bộ, thì phải bắt tay lo về giáo dục mới được, mà muốn cải lương giáo dục không có thợ hay thầy giỏi thì cậy ai chỉ vẽ. Người Pháp chính là những bậc thầy tình cờ gặp gỡ trời đưa sang cho ta... Tôi ở ngoài thiên vạn lý chưa tỏ thực giả (về những sự cải cách của chính phủ bảo hộ), đói đã lâu ngày, nom thấy cơm mà mừng cuống, phương châm không thay đổi còn đợi lúc nào. Bởi vậy năm 1917 xướng ra bài luận Pháp – Việt đề huề”(3).

Như vậy, sự chuyển hướng của Phan Bội Châu được toan tính trước, không chỉ có Pháp – Việt đề huề luận mà tác phẩm Cụ viết sau đó cũng thể hiện rất rõ sự chuyển hướng này. Sự chuyển hướng đó đã tác động không nhỏ đến xu hướng phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

Vậy, tư tưởng ôn hòa được thể hiện trong các tác phẩm của Phan Bội Châu như thế nào?

Trước hết, trong tác phẩm Pháp – Việt đề huề luận Cụ đoán trước rằng một ngày nào đó, nước Nhật trở nên hùng cường sẽ tiến hành đánh chiếm Đông Nam Á, trong đó có Đông Dương. Đó là điều không thể tránh khỏi. Và, khi đối đầu với Nhật thì chắc chắn Pháp sẽ thất bại, bởi Nhật ở ngay sát Đông Dương có thể “sáng đi chiều về”, trong khi đó Pháp lại ở quá xa và không thể đưa toàn bộ quân đội sang phòng giữ Đông Dương được. Phan Bội Châu cho rằng, muốn giữ được Đông Dương thì Pháp phải hợp tác, nhưng vấn đề là hợp tác với ai? Nước Anh đã không thể giữ nổi quyền lợi của họ ở Đông Nam á, nên Pháp chỉ còn cách hợp tác với người Việt Nam mà thôi! Như vậy, xét ở góc độ dự báo thời cuộc, Phan Bội Châu không những đã có dự báo chính xác, mà còn vạch ra con đường đi tất yếu cho Pháp cũng như Việt Nam. Theo Cụ, một khi Đông Dương rơi vào tay Nhật, người Việt chẳng những mất chỗ làm ăn, mà còn mắc vào họa mất nòi. Do vậy, cách duy nhất để bảo vệ lợi ích của hai bên, như Phan Bội Châu chỉ ra, là “Pháp–Việt” phải “đề huề” với nhau.

Vậy, hợp tác như thế nào? Cụ cho rằng, “lấy lẽ thổ địa, nhân dân nguyên cớ mà bàn, thì người Nam là chủ mà người Pháp là khách. Lấy lẽ thế lực quyền hạn hiện tại mà bàn thì người Pháp là anh mà người Nam là em. Chủ khách biết hợp sức cùng lo thì dẫu trước mặt lửa bừng cháy chiếu, không sợ không thể dập được! Anh em đồng lòng cứu nạn thì dầu nửa đêm kẻ cướp vào nhà không sợ không đánh nổi”(4).

ở tiền đề thứ nhất thì có vẻ hợp lý, nhưng ở tiền đề thứ hai thì như chúng ta biết (và chính Cụ cũng đã từng nói trước đó), chúng ta đâu có chỗ làm ăn, trái lại đang bị hủy hoại giống nòi bằng rượu cồn, thuốc phiện, bằng chính sách ngu dân. Có lẽ vì tiền đề này thiếu thuyết phục nên đã gây ra những dư luận không đồng tình và Cụ mới nói là bị Lê Dư, Phan Bá Ngọc lừa để làm dịu dư luận chăng? Nhưng, nếu xét kỹ, chúng ta vẫn thấy ở Pháp – Việt đề huề cái cốt lõi yêu nước, tuy không quyết liệt như trước nhưng cũng đủ để phân biệt nó với cái gọi là chủ nghĩa cải lương: “Tôi muốn từ nay về sau, người Pháp chớ coi người Nam như tôi tớ, như trâu ngựa, mà coi người Nam như bạn bè, như thân thích. Người Pháp mà thật lòng coi người Nam như bạn bè thân thích… mà mình lại không biết coi người ta như bạn bè thân thích hay sao? Trong lúc vô sự thì dạy nuôi gồm đủ, đến lúc có sự thì họa phúc cùng nhau. Đem tất cả bọn con em khỏe mạnh hai nghìn năm trăm vạn người Việt Nam mà cùng bọn tướng tài quân giỏi của nước Pháp, cùng hợp sức chống giữ cửa ngõ, thì người Nhật có muốn cắn nuốt e cũng không sao trôi vào cổ họng được. Nếu không như thế mà trái lại, cứ hằng ngày coi người Nam như tôi tớ, trâu ngựa. Ô! tai không cần phải sáng, mắt không cần phải tỏ, tay chân không cần phải nhanh nhẹn, ăn miếng cơm thừa, nuốt giọt nước dãi, hành hạ sai khiến, làm những việc hèn, sớm theo Tấn được thì tối cũng có thể theo Tần…”(5), tội gì mà chịu quăng đầu bỏ xác “để giữ gìn cho cái chủ quyền của nước Pháp đó ru”?(6).

Như vậy, tuy có vẻ như cầu khẩn nhưng chúng ta cũng thấy ở đó có những nguyên tắc của sự đề huề, dù rằng chúng có thể không bao giờ được Pháp thực hiện. Dẫu sao những nguyên tắc đó cũng có vẻ rất cứng rắn và kiên quyết, đó là cái mà ta gọi là yêu nước, cái khác với cải lương chăng? Cụ hy vọng, khi thấy được những lợi ích thì Pháp sẽ dễ dàng chấp nhận và đời sống của dân ta sẽ bớt đi phần khổ cực. Và, có lẽ đoạn cuối của Pháp – Việt đề huề luận dẫn trên đã giúp chúng ta phần nào thấy được cái nhiệt huyết của Phan Bội Châu, do đó Cụ đã không bước sang ranh giới của cải lương mà dừng lại ở ôn hòa, đấu tranh từng bước với Pháp.

Tuy nhiên, so với tư tưởng “lấy máu rửa nhục”, “dị tộc bất tương dung” trước kia thì những gì mà Cụ thể hiện trong giai đoạn này quả là khác rất xa, đến nỗi người ta suýt không nhận ra Phan Sào Nam nữa. Để lý giải cho những thay đổi đó, Phan Bội Châu cho rằng, “suốt đời đã mưu tính việc gì cốt nhằm mục đích thắng lợi cuối cùng, dù phải thay đổi thủ đoạn, phương châm cũng không ngần ngại”(7). Theo GS. Trần Văn Giàu thì “câu nói này có phần có lý ở chỗ người yêu nước có thể đổi chiến thuật tùy thời thế nhưng lại chứa đựng cơ hội chủ nghĩa. Có những phương châm mà nếu thay đổi hẳn, thì mục đích cũng thay đổi. Người ta có thể xướng ra cuộc đấu tranh chính trị, kinh tế, từng phần, công khai hợp pháp, không bạo động để động viên, tổ chức, giáo dục nhân dân mà không chủ trương “Pháp - Việt đề huề”… Trái lại, khi chủ trương “Pháp – Việt đề huề” thì ấy là vứt bỏ đường lối cách mạng rồi đó”(8). Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét này, nhưng ở vào vị trí của Cụ, khi con đường bạo động Cụ từng theo đuổi không còn nhiều hy vọng, con đường mới chưa tìm ra, mà nhiệt huyết cứu nước vẫn chưa ngừng chảy, thì sự thoái lui cũng là điều dễ hiểu.

Tư tưởng ôn hòa còn được thể hiện trong tác phẩm Dư cựu niên lai sở tri chi chủ nghĩa của Phan Bội Châu viết năm 1920. Theo GS. Trần Văn Giàu, đây là bước lạc thứ hai của Phan Bội Châu. Trong tác phẩm này, Cụ tiếp tục chủ trương “cách mạng văn minh”, “cách mạng hòa bình”, coi đó là phương pháp đấu tranh duy nhất với mục đích làm cho trình độ dân trí nước ta ngang bằng với trình độ của người Pháp và “tới lúc ấy, người Pháp tử tế tất sẽ vui lòng làm anh em với ta, còn những người nào không tốt chắc cũng sẽ không dám khinh bỉ, chà đạp ta, không dám đặt ta vào vòng trâu ngựa nữa”(9). Bên cạnh việc cổ vũ cho cái gọi là “cách mạng văn minh”, Cụ bắt đầu phê phán phương pháp bạo động, dù không gay gắt như Phan Chu Trinh nhưng cũng coi đó là những “phương pháp cũ kỹ”, là “dã man cách mạng”, chẳng khác nào “lượm đá mà ném, cầm gươm mà khua” chứ không thể nhờ nó mà đạt mục đích cuối cùng. Theo Phan Bội Châu, bạo động chỉ là phương pháp bất đắc dĩ phải thực hiện khi đồng bào chưa thức tỉnh, nay đồng bào đã thức tỉnh thì đó là “việc của trẻ con”. Cụ viết: “Về mặt cách mạng văn minh mà nói thì cốt tinh thần sao cho mạnh bạo, quả quyết, chí khí sao cho bền bỉ lâu dài, hai thứ đó còn mạnh hơn, chẳng phải võ lực có thể sánh kịp được”(10).

Tuy nhiên, với chính sách ngu dân của thực dân Pháp mà Phan Bội Châu cũng biết, thì làm sao có thể thực hiện được cái gọi là “văn minh cách mạng”? Điều này Cụ cũng từng nói, từng viết trước đó. Cụ đã từng chủ trương dựa vào Nhật mà không thành công, nay dựa vào chính kẻ đang đô hộ mình thì sao thành công được? Phải chăng Phan Bội Châu quá tin tưởng vào những gì diễn ra ở Hội nghị Vécsai – Oasinhtơn và không biết rằng đó chỉ là sự kiềm chế, làm suy yếu lẫn nhau của các nước đế quốc? Có lẽ đó cũng là hạn chế thời đại của một nhà cách mạng xuất thân trong chế độ phong kiến, chịu ảnh hưởng của nền giáo dục và tư tưởng phong kiến. Bởi vào lúc này, Nguyễn ái Quốc - lớp hậu bối của Cụ, sau nhiều năm bôn ba cũng đã tìm ra con đường mới cho cách mạng Việt Nam, mà đó cũng lại là một con đường bạo động.

Biểu hiện của tính ôn hòa trong tư tưởng Phan Bội Châu còn thể hiện trong Cam địa (Gandhi) viết năm 1922. Trong tác phẩm này, Cụ đã hết sức ca ngợi chủ trương “bất hợp tác, bất bạo động” của Đảng Quốc đại ấn Độ, ca ngợi Cam địa “là một bậc thánh hùng có tài, có trí hơn đời” và coi Đảng đó là đảng cách mạng “nhưng theo chủ nghĩa hòa bình chớ không làm những cách mạng bạo động”(11). Cụ viết: “Cam địa một mặt bài xích bạo động, một mặt thì chủ trương việc độc lập, là Cam địa tự có cái phương pháp mới, không dùng đến sự chém giết, chỉ dùng cách hòa bình mà thành hiệu rất lớn”(12). Ca ngợi và ngụ ý noi gương Cam địa nhưng dường như Phan Bội Châu vẫn chưa nhận ra cái cốt lõi của phương pháp cách mạng mà Cam địa đang theo đuổi. Cam địa chủ trương “bất hợp tác” cùng với “bất bạo động” chứ không phải là “Pháp – Việt đề huề”, mang tính van xin và hợp tác với kẻ thù như Cụ. Cam địa đã thành lập được một chính đảng có chương trình, cương lĩnh, được tổ chức quy củ và quan trọng hơn, họ đã huy động được đông đảo nhân dân đi theo để thực hiện chủ trương của mình.

Cuối cùng, tính ôn hòa trong tư tưởng Phan Bội Châu còn thể hiện trong Thiên hồ! Đế hồ! (Trời ơi! Chúa ơi!) viết năm 1923. Tác phẩm này thể hiện sự chuyển biến của Phan Bội Châu từ mục tiêu độc lập sang yêu sách bộ phận. “Người Việt Nam chỉ yêu cầu lấy lại một phần cỏn con trong cái quyền làm người mà trời đất đã phú cho. Phần cỏn con ấy là gì? Xin thưa: Chúng tôi mong mỏi người Pháp thả mắt chúng tôi ra cho chúng tôi nhìn, thả tai chúng tôi ra cho chúng tôi nghe, cởi tay chân chúng tôi ra cho chúng tôi co duỗi, buông đầu óc chúng tôi ra cho chúng tôi được thỏa mãn…”(13). Về thực chất, đó là việc đòi quyền tự do dân chủ, nhưng tính ôn hòa có vẻ cao hơn và dường như Cụ sắp bước sang cái ranh giới của cải lương.

Tóm lại, dù không quên mục tiêu độc lập nhưng đường lối “nuôi giống chờ thời”, lấy giáo dục làm đầu của Phan Bội Châu nếu không thận trọng sẽ trở thành liều thuốc ru ngủ quần chúng và ảnh hưởng không tốt đến phong trào cách mạng.

Có điều là, tại sao đến đây tư tưởng của hai Cụ Phan dường như đã gặp gỡ nhau, nhưng hai Cụ vẫn không có một sự hợp tác? Có lẽ, đó chỉ là bước thụt lùi, điểm dừng chân tạm thời chăng? Và sự thoái lui đó, theo chúng tôi, cũng là hợp lý, bởi con đường cũ không thể tiếp tục, con đường mới chưa tìm ra. Vậy, cứ thử đi vào một con đường khó thành công nhưng chưa chắc đã là thất bại. Phải chăng đó là suy nghĩ của Phan Bội Châu và điều đó đã dẫn dắt Cụ đi theo một con đường không mới lúc bấy giờ, nhưng lại rất mới và rất khác với con đường mà Cụ đã từng đi.

3. Thái độ của người đương thời với tư tưởng ôn hòa của Phan Bội Châu

Những người ủng hộ cho rằng, “chuyện Pháp – Việt đề huề chính kiến thư mà Cụ đã thổ lộ ra đó chúng tôi nhận là phải, mà trước khi Cụ về nước, những trí thức trong nước cũng đã đề xướng lên rồi, những báo chương cũng đã từng cổ động”, “còn đôi điều chúng tôi nghĩ ngợi là muốn cho “Pháp – Việt đề huề” thì phải Pháp – Việt bình đẳng, có bình đẳng mới mong đề huề…Chúng tôi còn lo sợ không biết cái thuyết Pháp – Việt đề huề của Cụ có thực hành một cách chính đáng không?”(14).

Như vậy, tin thì có tin, theo thì có theo nhưng không phải không có hoài nghi và nó cũng tác động không tốt tới cách mạng Việt Nam. Trong bài Xin quan toàn quyền ghé mắt đăng trên Đông Pháp thời báo ngày 19/5/1926 đã hô hào “dân đảng” Việt Nam hãy bám vào quan toàn quyền Varen và yêu cầu Varen hãy dựa vào “dân đảng” Việt Nam cho “công việc làm có hiệu quả” và tuyên bố “quốc dân ta không xu hướng về sự bạo động nữa” để đi theo “cách mạng tinh thần” mà nội dung của nó là “hết lòng nâng cao cái trình độ lên, một mai giỏi bằng người Pháp, khéo bằng người Pháp thì hẳn cũng được cái địa vị tự chủ như người Pháp, cái giá trị làm người như người Pháp”(15). Con đường này “dẫu chậm một chút, song lần lần rồi cũng đến nơi”.

Những người phản đối thì cho rằng, “Pháp – Việt đề huề” là “chưa có thể được” và đó chỉ là “mộng tưởng” mà thôi. Bởi lẽ, “người Pháp sang đây chỉ biết lấy trịch lấy bề mà đối với ta, đem lòng kỳ thị… không bao giờ lại muốn giải phóng cho được mở mặt, mở mày, muốn cho ngu để dễ khiến, muốn cho dốt để dễ sai. Khi nào lại chịu đề huề cho kém mất cái oai quyền thần thánh?… Một dân thống trị và một dân bị thống trị, cái tư cách đã khác nhau như một vực một trời, như thầy với trò, như chủ nhà với đầy tớ, thì khi nào thầy lại đề huề với trò, chủ nhà lại đề huề với đầy tớ?”(16).

Ngoài ra còn có những tranh luận về cái không thể và chưa thể của “Pháp – Việt đề huề” trên các báo Chuông rèsố 107, L’Annam số 119, 121… Các tờ báo này đã đưa ra những bằng chứng để chứng minh cho cái không thể và chưa thể của “Pháp – Việt đề huề”, cũng có nghĩa là chứng minh tính không khả thi của con đường ôn hòa mà Phan Bội Châu ghé sang.

4. Ý nghĩa bước chuyển tư tưởng của Phan Bội Châu từ bạo động cách mạng sang đấu tranh ôn hòa

Bước chuyển từ tư tưởng đấu tranh bạo động sang đấu tranh ôn hòa nhưng không ly khai hẳn với con đường bạo động đã tạo ra hai khuynh hướng cách mạng song song tồn tại trong Phan Bội Châu. Mặc dù cái ôn hòa dường như lấn át cái bạo động nhưng hai xu hướng đó vẫn song song tồn tại, để rồi sau những trải nghiệm không thành trong những năm 1918 – 1923, Cụ lại quay về với con đường bạo động; song, bước chuyển không thành công ấy cũng chứng minh cho cái triết lý mà Cụ hằng theo đuổi trong suốt cuộc đời cách mạng của mình là “đã mưu tính việc gì cốt nhằm mục đích thắng lợi cuối cùng…”(17), đồng thời sự chuyển biến này cũng góp phần làm cho toàn bộ quá trình tư tưởng của Phan Bội Châu trở nên phong phú, đa dạng mà hiếm một nhà cách mạng đương thời nào có được. Cùng với các bước chuyển khác trong cuộc đời, bước chuyển sang chủ nghĩa ôn hòa khiến tư tưởng của Cụ dường như là sự tổng hợp tư tưởng của cả một thời kỳ - thời kỳ chuyển mình của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.(16)

Sự chuyển biến này cũng đã tác động không nhỏ đến tư tưởng cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó có cả những tác động tích cực và những tác động tiêu cực. Cái tích cực ở đây là nó đã để lại cho chúng ta một bài học, trong những điều kiện lịch sử nhất định, cần phải có những phương pháp nhất định để đạt được mục đích. Và trong mục tiêu cách mạng, cần phải xác định được mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, khi nào cần đề cao mục tiêu trước mắt, khi nào cần đề cao mục tiêu lâu dài. Điều này đã được Đảng ta vận dụng triệt để trong quá trình lãnh đạo của mình, tùy vào đặc điểm, tình hình từng thời kỳ mà Đảng đề ra những mục tiêu trước mắt và lâu dài, với những phương pháp đấu tranh phù hợp để đạt mục đích cuối cùng là giải phóng dân tộc.

Sự thể nghiệm không thành công của Phan Bội Châu cũng chỉ ra cho lớp hậu bối đi tìm một con đường mới, khác với những con đường mà Cụ đã đi và bước hẳn sang con đường mới một cách quả quyết, không do dự.

**************

(*)Thạc sĩ, giảng viên Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.

(**)Giảng viên, Bộ môn Mác - Lênin, Trường Đại học Lao động - Xã hội (Cơ sở II - Tp. Hồ Chí Minh).

(1)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, t.II – Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử. Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1993, tr.417.

(2)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sđd., tr.417-418.

(3)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sđd., tr.418.

(4)Phan Bội Châu. Toàn tập, t.3, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, tr.461 - 462.

(5)Phan Bội Châu. Sđđ., tr.462 – 463.

(6)Phan Bội Châu. Sđd., tr.463.

(7)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, t.II – Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Sđd., tr.422.

(8)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sđd., tr.422.

(9)Phan Bội Châu. Toàn tập, t.3, Sđd., tr.466.

(10)Phan Bội Châu. Sđd., tr.484.

(11)Phan Bội Châu. Sđd., tr.493.

(12) Phan Bội Châu. Sđd., tr.497 - 498.

(13)Phan Bội Châu. Sđd., tr.563.

(14)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, t.II – Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử. Sđd., tr.462.

(15) Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sđd., tr.462.

(16)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sđd., tr.463 – 464.

(17)Dẫn theo: Trần Văn Giàu. Sđd., tr.422.

Nguồn:Tạp chí Triết học

🔝

Quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền (*)

Nguyễn Văn Hòa

Tiến sĩ, Giám đốc trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế

03:13 CH @ Thứ Năm - 29 Tháng Mười, 2015

chungta

Bài viết trình bày và phân tích tư tưởng của Phan Bội Châu về dân quyền, cũng như ý nghĩa của tư tưởng dân quyền đó đôi với việc thực hiện quốc quyền , tức là quyền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Tiếp đó, bài viết trình bày và phân tích tư tưởng của Phan Bội Châu cho rằng: muốn thực hiện được quốc quyền, chế độ chính trị của Việt Nam khi đó phải chuyển từ quân quyền sang dân quyền theo xu thế phát triển tất yếu của thời đại, với việc nâng cao dân trí thông qua giáo dục.

Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng phương Tây, đặc biệt từ khi qua Nhật Bản và được chứng kiến một nước có truyền thống Nho học do biết tiếp nhận và vận dụng những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây vào công cuộc duy tân mà trở nên hùng cường; được nghiên cứu và trao đổi về nguyên nhân cách mạng xã hội, về chính thể của các nước, về tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân quyền, dân trí và các biện pháp duy tân của Môngtexkiơ, Vônte, Rút xô..., ở Phan Bội Châu đã hình thành nên một quan niệm mới - quan niệm về dân quyền. Quan niệm này chứa đựng một nội dung mới mẻ và không kém phần phong phú, thể hiện mục đích thiêng liêng cứu nước, giải phóng dân tộc để đem lại tự do, hạnh phúc cho dân, đem lại quyền lực cho dân, để cho người dân trở thành chủ thể của các quyền lực trong xã hội.

Vấn đề dân quyền là vấn đề mới mẻ đối với các sĩ phu yêu nước Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XX. Bởi lẽ, ở thời điểm đó, dân quyền là cái chưa có trong kho tàng tư tưởng của dân tộc ta, mà phải tiếp thu từ những trào lưu tư tưởng Âu Mỹ. Trước sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến, mà nòng cốt là tư tưởng Nho giáo trong việc bảo vệ đất nước nửa cuối thế kỷ XIX và yêu cầu giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, với lòng yêu nước nồng nàn, tài năng và sự mẫn cảm của mình, Phan Bội Châu đã tìm kiếm và tiếp nhận những trào lưu tư tưởng phương Tây, đặc biệt là tư tưởng dân quyền - một thứ vũ khí tư tưởng mới lạ trong thời đại "châu Á thức tỉnh" sau "giấc ngủ" quân chủ.

Dưới chế độ phong kiến, nửa thực dân, người dân Việt Nam chỉ có trách nhiệm và nghĩa vụ phục tùng vô điều kiện yêu cầu của kẻ bề trên. Họ bị tước bỏ tất cả mọi quyền hành, họ chưa bao giờ là chủ thể của quyền lực. Bằng sự trải nghiệm của mình, Phan Bội Châu cho rằng, không có dân quyền là một trong những nguyên nhân khiến cho nhân dân ta sống trong tủi nhục, cay đắng, khốn khổ và tăm tối. Trong Tân Việt Nam (1907), với sự khảo cứu lịch sử và hiện trạng của nước nhà, Phan Bội Châu đã vạch rõ: "Cái nọc độc chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đã hàng ngàn năm nay từ bên Trung Quốc lây sang nước ta, đến nỗi một tên độc phu (vua) và vài vạn kẻ dung nhân (quan) làm cá thịt trăm họ dân ta. Thế mà dân ta ngu ngốc khờ dại, không biết giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ ngày đêm lo hết lòng hết sức đem máu mỡ của mình cung đơn cho bọn độc phu, dung nhân uống nuốt? Than ôi! Thật đáng thương thay".(1)

Sự lạc hậu và bất cập của hệ tư tưởng phong kiến, sự thoái hoá của vua quan nhà Nguyễn, sự bắt chước chế độ chuyên chế của nhà Thanh là những chướng ngại lớn trên con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, giành lấy chủ quyền về tay nhân dân. Sự ngự trị của chế độ chính trị cũ kỹ đó cần phải thay thế bằng thể chế chính trị mới mà trong đó người dân có quyền. Theo Phan Bội Châu, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua hàng thế kỷ dưới chế độ phong kiến và thực dân nửa phong kiến, đã sống một cuộc sống không có tự do là bởi cái nọc độc chuyên chế đã đầu độc và giết chết dân quyền. Khi dân không có quyền thì cũng có nghĩa là, họ chỉ là một thứ công cụ để phục tùng quyền lực và ý chí của kẻ khác. Trong khi đó, theo yêu cầu của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và canh tân đất nước thì quyền lực phải thuộc về nhân dân, tức là người dân phải có quyền. Dân quyền vừa là mục đích hướng tới, vừa là điều kiện để huy động sức mạnh của toàn dân, để giải phóng và phát huy mọi năng lực sáng áo của con người.

Đấu tranh để giải phóng dân tộc, để giải phóng con người thoát khỏi sự áp bức, để xem lại quyền cho người dân luôn là điều răn trở, thôi thúc trong Phan Bội Châu. Ngay trong Việt Nam quốc sử khảo (1908), Phan Bội Châu đã dành không ít tâm tuyết để bàn về mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, về mầm mống dân quyền ở nước ta, về dân quyền ở nước ta bị hao mòn, về mối quan hệ giữa dân quyền và dân trí với nội dung khá phong phú. Tuy vậy, khái niệm "dân quyền" chưa được Phan Bội Châu định nghĩa một cách rõ ràng, có chăng chỉ là sự luận giải của ông về nữ quyền. Trong một tác phẩm về vấn đề phụ nữ, Phan Bội Châu dành một chương bàn về nữ quyền. Trong đó, ông viết: "Nữ quyền nghĩa là quyền của người đàn bà con gái, cũng như nam quyền nghĩa là quyền của người con trai. Nhưng, xét cho đến gốc chân lý, thẳm cho tới nguồn triết học thì nữ quyền với nam quyền tất cả thâu nạp vào trong hai chữ "nhân quyền". Nhân quyền nghĩa là quyền của người mà cũng nghĩa là quyền làm người. Rằng quyền của người tức là các quyền đó là người thời đáng được, rằng quyền làm người tức là đã một con người tất cả các quyền được làm con người mà không phải làm trâu ngựa. Con trai là người, con gái cũng là người, ở trong hai chữ "quyền người" đã bao bọc cả rồi không phải phân biệt nam quyền nữ quyền, nếu phân biệt nam quyền nữ quyền cũng là dư".(2)

Theo cách lập luận trên của Phan Bội Châu, có thể hiểu rằng, dân quyền là quyền của người dân; người dân có quyền đó là lẽ tất yếu, đã là con người dù nam hay nữ đều có quyền làm người và đó cũng chính là giá trị của con người. Do đó, không có dân quyền, hay nói cách khác, không có quyền làm người thì con người mất hết giá trị, con người không còn là con người mà trở thành trâu ngựa. Sự phân biệt nam quyền hay nữ quyền là không cần thiết, bởi là người tất phải có quyền, người dân phải có quyền, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật. Phan Bội Châu cho rằng: "Mọi thứ dân quyền đều được bình đẳng".(3) Chứ đâu phải chỉ có vua, cha, chồng mới có quyền, còn những người khác thì không có quyền. Quan điểm này chẳng những khác hẳn quan điểm của Nho giáo về tam cương vốn đã in dấu ấn đậm nét trong tâm thức của mọi người, mà còn có tác động thức tỉnh nhân dân ta đứng lên đấu tranh xoá bỏ dấu ấn đó, đứng lên đấu tranh phá bỏ sự áp chế vô lý đương thời để giành lại quyền làm người của mình.

Trân trọng và đề cao quyền làm người, quyền của người dân là một trong những biểu hiện sinh động trong quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền. Đồng thời, ở đây cũng cho chúng ta thấy rõ sự chuyển biến tích cực trong tư tưởng của Phan Bội Châu, ông đã vượt qua hệ tư tưởng phong kiến để tiếp nhận những giá trị tiến bộ trong các trào lưu tư tưởng phương Tây nhằm phát huy và tập hợp sức mạnh của mọi người dân hướng vào sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và canh tân đất nước. Hướng đến mục đích đó, Phan Bội Châu nhận thức được rằng, dân quyền có quan hệ với quốc quyền, dân quyền có quan hệ với sự thịnh suy và sống còn của đất nước.

Theo Phan Bội Châu, dân quyền trở thành tiêu chí quan trọng nhất để xem xét nước còn hay mất, nước mạnh hay yếu, giá trị của người dân cao hay thấp, người dân còn hay mất. Ngay những dòng đầu tiên luận giải về mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, Phan Bội Châu viết: "Theo công pháp vạn quốc đã định, được gọi là một nước thì phải có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách làm một nước. Trong ba cái đó thì nhân dân là quan trọng nhất. Không có nhân dân thì đất đai không thể còn, chủ quyền không thể lập; nhân dân còn thì nước còn; nhân dân mất thì nước mất. Muốn biết nhân dân còn mất như thế nào thì phải nhìn xem cái quyền của nhân dân còn mất như thế nào. Dân quyền mà được đề cao thì nhân dân được tôn trọng, mà nước cũng mạnh. Dân quyền bị xem nhẹ, thì dân bị coi khinh, mà nước yếu. Dân quyền hoàn toàn mất thì dân mất, mà nước cũng mất".(4)

Như vậy, dân quyền chẳng những là tiêu chí mà còn là hạt nhân chi phối các yếu tố cấu thành một nước, trong đó nhân dân là cái quan trọng. Cái quan trọng đó còn hay mất lại phụ thuộc vào dân quyền. Điều có ý nghĩa sâu sắc nhất ở đây chính là Phan Bội Châu đã xác định rõ vai trò và vị trí của dân quyền đối với vận mệnh của đất nước. Đó là điều mà hầu hết các nhà Nho yêu nước cùng thời với Phan Bội Châu không dễ gì có thể nhận thức được. Bởi theo họ, dân là gốc của nước, nhưng để đi sâu hơn xem cái gốc đó còn hay mất thì họ gặp phải những khó khăn nhất định. Những khó khăn đó đã ngăn cản họ, không cho họ đi đến nhận thức được vấn đề một cách đúng đắn. Còn Phan Bội Châu đã vượt lên trên những khó khăn đó để tiếp tục đi sâu và làm rõ vấn đề: "Dân còn hay mất là tuỳ thuộc vào dân quyền". Đây là một trong' những biểu hiện sinh động khác về chất so với hệ tư tưởng phong kiến. Điều này đã được Phan Bội Châu chỉ rõ như sau: "Trong đời này nếu không có ông Mạnh Tử thời cái nghĩa "Dân quý" không sáng tỏ ra; nếu không có ông Lư Thoa thời cây cờ "Dân quyền" ai dựng lên được. Nước ta mấy nghìn năm nay, quyền vua ngang dọc, quyền quan cũng theo đó mà tăng lên, lớn nhất không ai bằng một người, hèn nhất khôngai bằng trăm họ. . . , việc đáng thương đáng buồn cho thế đạo, còn có gì hơn cái ấy nữa".(5) Điều đó có nghĩa là, chỉ có vất bỏ ngọn cờ quân chủ, nắm lấy ngọn cờ dân quyền thì mới nhận thức được rằng, dân chẳng những là gốc của nước, mà còn là chủ của nước.

Nhận thức mới mẻ trên có tác dụng thức tỉnh, giác ngộ mọi người, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, phát huy tính tích cực, tự giác của mỗi con người vào trong mọi hoạt động chính trị, xã hội. Bởi thế, quan tâm đến dân quyền luôn là nội dung chủ yếu, là vũ khí mới lạ trong đường lối hoạt động của Phan Bội Châu.

Trong hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ, dân quyền là một điều mới mẻ, là một giá trị nhân đạo có sức hấp dẫn, lay động, cổ vũ mọi người đứng lên đấu tranh nên cần phải đem "hai chữ "Dân quyền" mà hò hét trong nước, như một tiếng sấm vang, làm cho bao nhiêu giấc mơ phải tỉnh dậy, mà dân ta từ nay dần dần mới biết mình có quyền". Thức tỉnh và giải thoát mọi người thoát khỏi ngực tối dã man, thoát khỏi thân phận trâu ngựa để tiến bước trên con đường đi tới văn minh, tự do, "dân là chủ nước, nước là của dân" là nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.

Trước thực tiễn của phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong những năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu là một trong những người đầu tiên sớm nhận thức được hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò lịch sử và là chướng ngại trên con đường tiến lên của dân tộc, ngọn cờ quân quyền cần phải hạ xuống để dương cao ngọn cờ dân quyền. Trong Việt Nam quang phục quân phương lược (1912), Phan Bội Châu đã tuyên bố và chỉ rõ cho mọi người thấy rằng: "Phải xoá bỏ chính thể quân chủ, vì đó là một chính thể rất xấu xa . . . Chính thể Dân chủ cộng hoà là một chính thể rất tốt đẹp . . Quyền bính của nước nhà là của chung toàn dân do nhân dân quyết định. Những dấu vết độc hại của chính thể chuyên chế không còn nữa. Rạng rỡ thay dân tộc Việt Nam ta! Trên mặt địa cầu, Việt Nam trở thành một dân tộc hùng cường, hoàn toàn tự do! Đó là một tôn chỉ tôi quan trọng" (7)

Với những bằng chứng cụ thể và sinh động của một số nước phương Tây, Phan Bội Châu đã chứng minh cho mọi người thấy mối quan hệ mật thiết giữa dân quyền và quốc quyền. ông viết: "Nhật, Anh, Đức, Pháp, Mỹ đều là những cường quốc, tức là đều là những nước mà dân quyền được đề cao. Hình pháp, chính lệnh, thuế khoá, tiêu dùng đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện thì đều do nhân dân tổ chức nên, Chính phủ không được can thiệp vào. Hàng năm đến kỳ nghị viện họp, các nghị viên tụ tập đông đủ, Chính phủ phải trình bày dự án trước nghị hội. Nghị hội tức là nhân dân. Những điều nhân dân cho là phải, chính phủ không thể không làm; những điều nhân dân cho là trái, chính phủ không được làm”.(8)

Theo Phan Bội Châu, dân quyền không thể tồn tại biệt lập với quốc quyền mà trái lại, giữa chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, trong đó dân quyền luôn được ông đề cao. Theo ông, quốc quyền không phải là một cái gì siêu tự nhiên mà thực chất là quyền lực của dân; dân tạo nên quốc quyền; "hình pháp, chính lệnh, thuế khóa... đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện đều do nhân dân tổ chức nên"; dân uỷ quyền cho nghị viện để thực thi quyền lực của mình - dân quyền; có dân quyền thì mới có quốc quyền; quốc quyền phải là công cụ để phục vụ dân; dân lập ra quyền lực công cộng để bảo vệ cho cuộc sống của mình, làm chỗ nương tựa cho mình. Quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi của nhân dân với chính phủ là quan hệ hai chiều, có đi và có lại, chứ không phải quan hệ một chiều khắc nghiệt như quan hệ vua với tôi trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo từ Đổng Trọng Thư trở đi. Bởi vậy, Phan Bội Châu cho rằng: "Chính phủ phải dựa vào nhân dân để mà được yên, nhân dân cũng nhờ vào chính phủ mà có giá trị. Nhân dân có nghĩa vụ giám đốc chính phủ. Nhân dân mà làm tròn nghĩa vụ của mình thì chính phủ không dám làm sai; chính phủ có nghĩa vụ bảo vệ nhân dân. Chính phủ mà làm tròn nghĩa vụ của mình, thì nhân dân không đến nỗi mất chỗ nương tựa. Chính phủ tức là chỉ đại biểu cho cả nước mà thôi. Còn cái căn bản, cái then chốt thì toàn là ở dân". (9)

Như vậy, dân quyền là cái cốt lõi, là cái cơ sở, là cái then chốt của quốc quyền, quyền lực của nhà nước phải là quyền lực của dân. Thể chế cộng hòa chỉ có được khi người dân là người chủ tối thượng của nhà nước. Chính phủ trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhân dân để cho dân quyền được tôn trọng mà không bị thoái hóa, biến chất trở thành quyền lực độc đoán của một số cá nhân. Quyền lực nhà nước phải tập trung thì nhà nước và chính phủ, tức là cả cơ quan lập pháp và hành pháp mới thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với dân; còn dân phải có nghĩa vụ kiểm tra nhà nước, giám đốc chính phủ. Chỉ có thực hiện những nghĩa vụ đó thì quốc quyền và dân quyền mới được đảm bảo. Bởi vì, xét về thực chất, dân quyền là cơ sở, nền tảng của quốc quyền, còn nhà nước không có quyền mà chỉ là thực hiện sự ủy quyền của dân.

Theo Phan Bội Châu, trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính phủ và nhân dân thì nhân dân là cái cơ bản và then chốt. Do đó, nhân dân phải có trách nhiệm giám sát hoạt động của chính phủ, có như vậy dân quyền mới được tôn trọng và đề cao. Phan Bội Châu cho rằng: "Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị viện phải đợi Trung nghị viện đồng ý, Trung nghị viện phải đợi Hạ nghị viện đồng ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số công chúng có quyền tài phán việc của Trung nghị viện và Thượng nghị viện. Phàm nhân dân nước ta không cứ là sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay nên truất; dưới là quan nên thăng hay nên giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả".(10) Ở đây, có thể thấy rằng, mặc dù Phan Bội Châu chưa nêu lên được cơ chế để thực hiện mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, giữa nhà nước và nhân dân, giữa nhân dân và chính phủ một cách rõ nét, vì nền kinh tế - xã hội của nước ta lúc bấy giờ chưa đủ điều kiện để làm cơ sở cho việc thực hiện cơ chế đó, nhưng qua những gì đã được trình bày ở trên cũng khiến chúng ta phải thán phục trước những yếu tố tích cực, tiến bộ trong quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền.

Kể từ năm 1905 trở đi, tôn trọng và đề cao dân quyền luôn là vấn đề được Phan Bội Châu quan tâm, bởi lẽ đây chẳng những là vũ khí mới lạ đối với Phan Bội Châu, mà còn là khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam, là yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Dân tộc phải độc lập, quyền lực phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng đó đã phát huy và tập hợp được sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân hướng vào phục vụ cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc và canh tân đất nước.

Theo Phan Bội Châu, dân quyền không tồn tại biệt lập với dân trí mà trái lại, dân quyền và dân trí có mối quan hệ mật thiết với nhau. Phan Bội Châu cho rằng: "Dân quyền được tôn trọng là do dân trí đã lên cao... Nền cộng hòa của nước Pháp, nước Mỹ là do dân trí mà có; nền lập hiến của Nhật, Anh, Đức cũng do dân trí mà ra".(11) Nghĩa là, nâng cao dân quyền phải đi đôi với nâng cao dân trí. Người dân phải hiểu và biết sử dụng quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát chính phủ, phải biết đề xuất các ý kiến với nhà nước để điều chỉnh, bổ sung, sửa chữa chính sách cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, phù hợp với yêu cầu chính đáng của mình. Đành rằng, "đã có tai thì có quyền nghe, đã có mắt thì có quyền dòm, đã có miệng thì có quyền nói, đã có tay chân thì có quyền hành động. Nhưng mà lại có một cái quyền rất là cao quý tức là cái quyền thẩm phán. Vị thần óc bảo rằng phải là phải. Vị thần óc bảo rằng trái là trái, điều gì trái chúng ta nên tránh, điều gì phải thì chúng ta phải nghe theo. Vị thần óc đó là một chúa tể cho trong toà pháp luật, người ta tự do ở trong pháp luật, ấy là chân chánh tự do; Người ta tự do ở ngoài vòng pháp luật ấy thì không phải là chân chánh tự do".(12) Nghĩa là, tự do là nhận thức được cái tất yếu và hành động theo cái tất yếu, vì thế mỗi bước tiến của nhận thức con người cũng chính là một bước tăng tiến của sức mạnh và quyền lực của con người. Nhận thức rõ vấn đề này, Phan Bội Châu đã từng thốt lên rằng: "Than ôi! Dân trí có công với dân quyền lớn vậy thay!".(13)

Theo Phan Bội Châu, dân quyền phải dựa vào dân trí. Người dân cho dù có quyền lực nhưng không có tri thức thì làm sao đủ điều kiện để nhận thức, để bàn luận, để đề xuất để kiểm tra? Nếu có thì cũng chỉ là hình thức mà thôi. Dân quyền phải gắn chặt với dân trí. Đó là yêu cầu vừa có tính cấp thiết, vừa có tính lâu dài. Do đó, nâng cao dân trí là một trong những nhiệm vụ chiến lược trong tư tưởng của Phan Bội Châu. Dân quyền sẽ được đề cao trên cơ sở nâng cao dân trí. Trước thực trạng của dân trí nước nhà, Phan Bội Châu cho rằng cần phải nhanh chóng xóa bỏ hủ tục, đổi mới giáo dục, xóa bỏ tính ỷ lại, xây dựng "não chất độc lập", xóa bỏ sự ngu dại, sự nghi kỵ, sự chia lìa, xây dựng niềm tin trên cơ sở khoa học để cùng hợp lực bàn tính, thực hiện những công việc chung, đấu tranh vì lợi ích chung. Bởi vì, thực tế cho thấy, không thể có dân quyền thực sự khi người dân chưa thoát khỏi sự mê muội và tăm tối về trí tuệ; trình độ dân trí thấp kém thì khó mà tôn trọng và đề cao dân quyền; trình độ dân trí thấp kém thì người dân khó mà sử dụng một cách chủ động và tối đa quyền lực của mình.

Quan điểm dân quyền nói trên thể hiện yêu cầu cần phải giải phóng mọi người thoát khỏi hệ tư tưởng phong kiến, thoát khỏi nạn "óc đói"; thức tỉnh mọi người, nâng cao trình độ và sự giác ngộ cho mọi người; chủ động tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân loại, đặc biệt là tư tưởng dân chủ và dân quyền của phương Tây. Quan điểm này còn thể hiện sự chuyển biến tích cực mới mẻ trong tư tưởng của Phan Bội Châu, từ quân chủ sang dân chủ, từ quân quyền sang dân quyền, từ tôn quân sang tôn dân. Và, ở một mức độ nào đó, xét theo khuynh hướng phát triển, có thể nói, từ xã hội thần dân sang xã hội công dân.

Dân quyền gắn liền với dân trí, vì vậy nâng cao dân trí là yêu cầu sống còn của dân tộc và là xu hướng phát triển tất yếu trên con đường đi đến văn minh, phú cường. Quyền lực của nhà nước thực chất là quyền lực của dân. Bởi thế, pháp luật của nhà nước nếu không dựa vào trí tuệ thì chỉ là cưỡng bức thô thiển và không thể tồn tại lâu dài được. Nếu không dựa trên trình độ dân trí thì dân quyền chỉ là hình thức, pháp luật của nhà nước chỉ là sự áp đặt từ bên trên và bên ngoài chứ không phải do nhu cầu nội tại của mỗi người dân trong đời sống xã hội. Theo Phan Bội Châu, hình pháp văn minh phải dựa vào giáo dục, dựa vào trình độ dân trí thì mới lâu bền và tạo được sự tự giác từ bên trong. ông viết: "Giáo dục cũng là cái gốc để gây dựng nền chính trị. Thuế khoá, hình pháp mọi sự đều do đó mà định". (14) Hoạt động chính trị phải dựa trên tri thức, nâng cao trình độ học vấn của người dân là cơ sở vững chắc để xác lập vị thế, sự sống còn, sự giàu mạnh của đất nước cũng như của mỗi người dân. Phan Bội Châu viết: "Phàm người trong một nước mà giàu mạnh được có thể cùng thế giới tranh đua, giành sự sống còn, tất phải lấy giáo dục làm cơ sở." (15)

Tư tưởng của Phan Bội Châu về vấn đề dân quyền cần trí tuệ, dân quyền phải đồng hành với dân trí, thể hiện tầm nhìn chiến lược của ông trong việc xây dựng thực lực phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu cho rằng, dân trí lên cao thì dân quyền được tôn trọng, dân quyền được tôn trọng thì nước mạnh. Điều đó có nghĩa là, dân trí cao thì nước mạnh, dân trí thấp thì nước yếu. Tương đồng với tư tưởng đó, sau này, Hồ Chí Minh có quan điểm: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".

Dân quyền, dân trí, văn minh của nước nhà là một thể thống nhất không thể chia cắt và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nước Việt Nam phải do người Việt Nam làm chủ bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình.

Trí tuệ cần phải được nâng lên thông qua con đường giáo dục. Bởi vì, "dân là chủ nước, nước là của dân". Với khẳng định đó, Phan Bội Châu tin tưởng rằng: "Sau khi duy tân rồi, thì dân trí sẽ mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt; vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ".(16)Nâng cao dân trí cũng là giải pháp để đòi lại dân quyền. Vậy làm thế nào để nâng cao dân trí? Theo Phan Bội Châu, giáo dục là cái gốc để gây dựng nền chính trị, là khuôn đúc người, là biện pháp hữu hiệu nhất, là phương thuốc tốt nhất để nâng cao trình độ dân trí. Vì thế, xã hội phải quan tâm đến giáo dục, giáo dục là quyền được học của người dân. Phan Bội Châu viết: "Mọi việc mà dân ta cần học đều mời thầy, mở trường để cho người nước ta bất kỳ giàu nghèo sang hèn, trai gái hễ từ năm tuổi trở lên, thì vào học ở trường ấu trĩ viện; để chịu sự giáo dục của bậc ấu trĩ; tám tuổi trở lên, thì vào học ở trường tiểu học, để chịu sự giáo dục của bậc tiểu học; mười bơn tuổi trở lên, thì vào học ở trường trung học, để chịu sự giáo dục của bậc trung học; đến tuổi mười tám thì tài chất đã khá, thì vào trường cao đẳng, để chịu sự giáo dục của trường cao đẳng chuyên nghiệp". (17)

Nhận thức được rằng, tri thức đem lại quyền lực và sức mạnh cho con người, còn học tập được coi là sự tạo lập quyền lực của người dân, Phan Bội Châu cho rằng, mọi người trong nước ai cũng phải đi học, chi phí học tập cho mọi người đều do nhà nước và xã hội gánh chịu; nội dung giáo dục phải gắn với cuộc sống, phải hướng đến bồi dưỡng lòng yêu nước, khai dân trí, giúp dân quyền. Giáo dục phải giúp cho con người làm chủ vận mệnh của nước nhà, chứ không phải giống như nền giáo dục đương thời mà thực dân Pháp thực hiện ở nước ta nhằm biến người dân Việt Nam thành những con trâu, con ngựa ngoan ngoãn những tên nô lệ mắt mù, tai điếc, chân tay tê liệt, những kẻ chỉ biết cúi đầu phục tùng. Quan niệm này của Phan Bội Châu không những có tác dụng lay động, thức tỉnh nhân dân ta, mà còn dấy lên các phong trào Duy tân, Đông du hoạt động khá sôi nổi ở nước ta, trong hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Nó còn đáp ứng được khát khao cháy bỏng về một nước Việt Nam mới do người Việt Nam làm chủ.

Theo Phan Bội Châu, dân quyền là quyền lực và nhu cầu của người dân, là giá trị của con người cần phải được khẳng định bằng các văn bản nhà nước nhằm đảm bảo và tăng cường hiệu lực thực hiện. Do đó, Phan Bội Châu thấy rằng, cần phải có một bản Hiến pháp của nước Việt Nam. Năng 1929, ông đã soạn thảo xong bản Hiến pháp đó. Tiếc rằng, bản Hiến pháp này được soạn thảo trong điều kiện nước nó chưa giành được độc lập. Song, điều đáng nói ở đây chính là sự nhạy cảm trong tư duy chính trị - pháp lý của Phan Bội Châu so với những người cùng thời ông. Tóm lại, mặc dù có những hạn chế nhận định, nhưng quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền chứa đựng một nội dung kỳ phong phú và đặc sắc. Quan niệm đó góp phần đưa trình độ nhận thức của dân tộc ta chuyển biến và phát triển lên mà bước mới, đồng thời để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.


(1) Phan Bội Châu. Toàn tập, t.2. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, tr.89.

(2) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.89.

(3) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.261.

(4) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.286.

(5) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.32.

(6) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.32.

(7) Phan Bội Châu. Sđd., t.3. tr.135.

(8) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.357.

(9) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.387.

(10)Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.255 - 256.

(11) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.391 - 392.

(12) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.60.

(13) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.392.

(14) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.261.

(15) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.525 - 526.

(16) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.255.

(17) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.262.

Nguồn:Tạp chí Triết học (2008)

🔝