Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
Điện Thư - Số 25
Tháng 8 năm 2004
Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com
Tin Ghi Nhận:
----- O -----
Tướng quân Trần Độ
" Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo "
Trước khi được biết tương đối tường tận về con người quân sự qua những sứ mệnh : Chính trị viên Bộ chỉ huy Vệ quốc đoàn khu Hà Nội, Phó Chính uỷ quân giải phóng Miền Nam …, con người chính trị qua những đảm trách : Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội …, tôi đã từng trân quý con người học thuật Trần Độ qua tầm vóc khái quất của một định nghĩa của ông về văn hoá : " … Văn hoá là những quá trình hoạt động sáng tạo của con người theo hướng chân, thiện, mỹ và các sản phẩm của hoạt động đó được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Những cái đó có tác dụng phát triển các lực lượng bản chất của con người, bao gồm cả lực lượng thể chất và lực lượng tinh thần ( ý thức, khả năng sáng tạo ); do đó, làm cho xã hội tiến bộ" (1).
Trong đôi câu đối tặng Trần Độ, tiến sỹ sinh vật học Hà Sỹ Phu viết :
" Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm .
Băc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm ".
Ở Trần Độ, cái vóc dáng bề thế " thế sự song kiên, song trọng đảm " không chỉ biểu hiện ở " văn võ tung hoành ", mà còn ở cái lẫm liệt " hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm " .
Rồi đây không biết người đời sẽ nhớ Trần Độ võ tướng quân hay Trần Độ văn nhân nhiều hơn. Riêng tôi, tôi ghi tạc thật đậm sâu cái tư chất văn hoá dân chủ trong con người Trần Độ. Tại buổi tiễn đưa ông về chốn vĩnh hàng, tôi đã từng chiêm nghiệm :
Tôi thắp nén nhang trước linh cữu của Người
Thấy vòi vọi vong linh Trần Độ
Thấy bay lên ngọn cờ Dân chủ
Trong tim tôi, rừng rực duốc thiêng
Trần Độ tên khai sinh là Tạ Ngọc Phách, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1923 tại vùng quê Tiền Hải, Thái Bình. Khác với những kẻ là cai phu đồn đièn, là chàng hoạn lợn lang thang … nhưng cứ khai vấy là thành phần công nhân, Trần Độ thành thật ( và có vẻ như tự hào ) nói về nguồn gốc quan lại, trí thức của mình : " Tôi sinh ra trong một gia đình công chức. Hồi năm sáu tuổi, tôi nghe người làng gọi bố tôi là quan phán. Thời ấy các công chức đều là quan, quan thông phán tức thư ký các toà, quan tham tá thuộc bậc cao hơn. Bố tôi là quan phán vì ông là thư ký ở toà thông sứ tại Hà Nội. Bố tôi xuất thân từ một gia đình nho giáo ở quê Thái Bình. Khác với bác tôi đã nối nghiệp nhà trở thành một nhà nho, bố tôi lớn lên giữa buổi chữ Hán không còn được trọng dụng, ông đã chuyển sang học quốc ngữ để mưu cầu việc kiếm sống. Nghe bạn bè bảo phải biết cả tiếng Pháp mới hòng có cơ may, ông đã tìm học tiếng Pháp đến mức viết và nói được. Rồi ông nhờ cậy chạy được một chân thư ký ở toà thống sứ Bắc kỳ. Từ đó mỗi lần về quê, dân làng cứ trọng vọng gọi ông là quan phán " (2).
Tuy nhiên, tình cảm thắm thiết hơn, ông dành cho người mẹ lam lũ, vất vả. Ông nhớ lại hình ảnh mẹ khóc :
" Đến đoạn đường cái quan mà người làng tôi vẫn đi chợ, tôi lần xuống men thềm bờ ruộng để tránh gặp phải người quen. Được một đoạn thì tôi nhìn thấy mẹ tôi đang đi trên dường cái, đầu đội thúng, hai tay vung vẩy, bước thong dong, có lẽ bà từ chợ về. Tôi bối rối quá. Bụng dạ thúc tôi chạy lên với mẹ. Nhưng gặp giữa đường, lại đột ngột thế này thì cụ xúc động quá, làm sao dấu được bình tĩnh. Lỡ cụ khóc thì rầy rà to. Đang suy tính thì cụ nhận ra tôi. Cụ giơ tay vẫy. Tôi vẫy lại ….
Để hoá trang, tôi phải bôi đen răng và đội nón cời sùm sụp giả dân quê đi làm ruộng, nhưng không thể mất cảnh giác.. Nét mặt mẹ tôi rất bịn rịn cứ nhìn tôi như muốn giữ chặt lấy đứa con trai, song miệng lại thốt lên : " Thôi con đi đi ! ".
Đi được một quãng, tôi quay lại nhìn, mẹ tôi vẫn đứng nguyên đó, im lìm. Tôi nhớ lại, thấy mẹ tôi tay lần bao thắt lưng, tôi hiểu bà muốn cho tiền nên đã xua tay, lắc đầu. Liền đó, mẹ đưa giải yếm lên chấm mắt …". (2)
Cho đến năm tuổi đã ngoại 70, Trần Độ vần còn như thơ bé trước mẹ ngày nào khi viết hồi ký:
" Tôi chẳng bao giờ quên được cảnh nằm ổ rơm cùng mẹ, nó thần tiên như chuyện cổ tích. Về mùa đông, ổ rơm là thứ sang trọng cuả người nghèo. Mẹ tôi cũng quây một ổ ở bếp. Sau một ngày lam lũ, bà lại ổ rơm nằm nghỉ, kéo chiếc chăn chiên phủ lên người tôi. Tôi chui vào nằm gọn trong lòng mẹ sực mùi rơm, lắng nghe bà rỉ rả kể Truyện Kiều, truyện Lục vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa. Cảnh gà mẹ ấp con nẩy trong hương lúa lan toả đưa tôi tới những giác mơ thần tiên ngày ấy, và cả đến bây giờ. Tình mẫu tử ấp ủ tôi suốt đời ". (2)
Cái chất đằm thắm trong con người Trần Độ không chỉ thể hiện nơi tình cảm mẹ con mà ngay cả với người dì ghẻ :
" Mỗi lần ghé quê, tôi đều tới thăm dì. Thấy tôi, bà lại dấm dứt khóc. Bà bảo tôi :
- Nếu nó còn thì chắc chắn em nó sẽ theo anh, theo anh thì bây giờ cũng khá …
Tôi xót xa an ủi bà
- Dì ơi, dì đừng khóc thêm đau khổ. Đằng nào em nó cũng đã yên phận. Bây giờ con là con dì, con về thăm dì cũng là em nó vẫn nhớ dì đó … " (2)
Lòng hiếu đễ của ông không chỉ dành cho mẹ, cho dì ghẻ mà cả cho Đảng, ngay cả khi cái Đảng này nó phụ bạc ông, khai trừ ông. Ông ngậm ngùi : " Tôi đã là đảng viên 58 năm (1940 – 1998). Tôi không có gì ân hận trong 58 năm đó. Đối với tôi như thế cũng là đủ cho tôi báo đền Tổ quốc và dân tộc, và tôi cũng đã được đền bù xứng đáng … Tôi vào Đảng là để tự nguyện phục vụ nhân dân và phụng sự Tổ quốc … Tôi không ở trong Đảng nữa, nhưng tôi vẫn là một công dân có trách nhiệm. Tôi nguyện vẫn vì Tổ quốc, vì nhân dân, vẫn suy nghĩ và sống với tất cả tâm lực của mình. Tôi kiên trì những ý kiến mà tôi đã phát biểu trong các bài viết và sẵn sàng đón nhận những lời phán xét của công luận "
Có lúc ông đã dằn vặt mình :
" Với gia đình, tôi là một người chồng, người cha tồi, một người con bất hiếu vì suốt đời đi xa, gần như không lúc nào sống với gia đình để chăm sóc vợ con, cha mẹ. Chiến tranh kết thúc thì đã quá ngũ tuần. Khi sống với gia đình thì lại ốm đau … Trước đây, trong chiến đấu ác liệt phải di chuyển nay đây mai đó, tôi không giữ được tập thư của các quyết tử quân. Tôi ân hận mãi về điều này … " (2).
Ông tự dằn vặt với cả sự thăng tiến của mình. Ông kể :
" Năm 1945, trước cách mạng Tháng tám, tôi hoạt động bí mật ở một vùng ngoại thành Hà Nội ( huyện Đông Anh ) . Tôi ở một nhà cơ sở cách mạng. Gia đình có một bà mẹ và 2 người con gái. Chị lớn đã có chồng và con. Chị nhỏ hơn sau này lấy một anh trong đội của tôi. Bà mẹ nuôi nấng và che chở cho tôi như một đứa con, nhiều lúc cũng âu yếm mắng mỏ, dành cho tôi từ bát cơm nguội, bắp ngô, củ khoai ... Chị lớn cũng thế. Chị coi tôi là em trai. Các con chị gọi tôi bằng cậu rất thân mật tự nhiên và hay bắt rận, giặt quần áo cho cậu. Khi tôi vô ý ngồi trong buồng làm nổ súng, chị rất nhanh ý vào bếp đập vỡ cái nồi rang bằng đất để có cớ nói chuyện với hàng xóm, nếu có người nghe tiếng nổ mà sang hỏi thăm. Sau đó chị mới chạy lên xem tôi, chị nghĩ rằng có thể xẩy ra tai nạn : tôi bị thương hoặc chết. …
Thế mà sau ngày 19 táng Tám ít lâu, tôi đã nhận công tác ở Hà Nội, trở lại thăm bà cụ và chị, thì tôi gặp một tình huống ngỡ ngàng. Cố nhiên, lúc này tôi ăn mặc sang trọng hơn, và đi xe hơi. Bà cụ mắt kém mãi mới nhận ra tôi. Bà cụ mừng rỡ, chào mời tôi : " Mời ông ngồi xơi nước". Bà cụ rất lễ phép rót nước mời tôi. Chị lớn cũng thế, không gọi tôi là cậu nữa, mà cũng lễ phép gọi tôi bằng ông. Tôi không thể tự nhiên được như xưa, không vui được và cũng không thích ứng được với danh vị " ông khách ". Lúc ấy, tôi chỉ thấy lúng túng, tiếc nuối một thời trước đây" (3).
Nghe đoạn kể ấy ta mới có cơ sở để tin được vào một đoạn hồi ký khác của ông :
" Chúng tôi tôn anh Tô hữu Hạnh, người lớn tuổi nhất làm huynh trưởng của chúng tôi và dự kiến sau này chúng tôi sẽ tổ chức thành một nhóm tướng lĩnh đánh Tây để phục quốc. Thành công rồi thì anh Hạnh sẽ làm vua, các anh khác là tể tướng, nguyên soái, riêng tôi, tôi xin đến lúc đó sẽ đi tu. Không phải tu Phật, mà tu Tiên ở trên núi để được ẩn dật, sống cuộc đời của các Tiên ông ở nơi hoang vắng " (2).
Chúng ta cũng hoàn toàn có cơ sở để tin đoạn tự sự trong bài viếng đại tướng Lê Trọng Tấn :
" Mục đích cuộc sống của anh và của tôi chỉ là một. Chúng ta đánh giặc mà không hề nghĩ rằng chúng mình sẽ làm tướng, cho dù bây giờ anh là đại tướng. Chúng ta làm tướng để đánh giặc, chứ không phải đánh giặc để làm tướng. Và đó là điều gắn bó anh với tôi, không có sức mạnh nào phá vỡ nổi sự gắn bó đó.
Chúng ta sống với nhau tự nhiên, hồn hậu không cần phải bàn luận và nói nhiều điều to lớn về đoàn kết.
Nghĩ đến đây tôi bỗng thấy mình ngớ ngẩn mà tự hỏi mình rằng : Tại sao có những người không chấp nhận được nhau, không chấp nhận được những ý tưởng, thậm chí quan điểm khác nhau và cả những điều khác nhau trong cách sống. Người ta phải gào to lên : Đoàn kết ! mà thật sự lại sống với nhau " không đoàn kết ". Phải chăng người ta có thể tự tin vào ý tưởng và phương pháp của mình, cho nó là đúng nhất, là duy nhất cần thiết cho mục đích của cách mạng mà không nhận bất cứ ý kiến nào khác. Nếu họ thành thật nghĩ như vậy thì có thể cho rằng đó là cách nghĩ ngu ngốc nhất. Còn nếu không thì hẳn là phải có những động cơ cá nhân rất xấu xa, tồi tệ mà họ không dám nói ra, không dám thừa nhận.
Và khi người ta đã có những động cơ xấu xa, người ta không từ bỏ một thủ đoạn hiểm độc nào, kể cả thủ đoạn lừa lọc, cạm bẫy nhau và vu cáo, xuyên tạc … Đó là một nỗi đau cho mỗi chúng ta. Chúng ta không như vậy. Và chúng ta có quyền tự hào về những điều đó " (2).
Cho nên, bằng trái tim nhân hậu, Trần Độ đã hơn một lần gào lên thống thiết : " Dân chủ, dân chủ, và dân chủ. Tiếng thét của lương tri cộng sản và lương tri dân tộc là như vậy đó … Càng nghĩ đến thế kỷ 21 sắp tới và đến thực trạng Đảng ta, tôi càng lo lắng bồn chồn, đến nỗi nhiều lúc phải chống bút mà ứa nước mắt, không cầm được " (3).
Giáo sư Nguyễn văn Hạnh, nguyên phó ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương Đảng đã viết về Trần Độ như sau :
" Anh Độ tự tin và quyết đoán. Nhưng anh biết bình tĩnh lắng nghe ý kiến của người khác, kể cả ý kiến khác mình. Tôi chưa bao giờ thấy anh tỏ vẻ khó chịu khi những ý kiến trái với mình trong hội nghị, hoặc dùng quyền chủ toạ để cắt đứt ý kiến những người đang phát biểu. Khi nhận thấy ý kiến của người khác đúng hơn, hay hơn, anh chấp nhận vui vẻ, tự nguyện, không chút mặc cảm, sỹ diện, bất kỳ ý kiến đó là của ai.
Anh Độ thích tổ chức và tiến hành các cuộc thảo luận, tranh luận công khai trên báo chí về những vấn đề văn hoá, văn nghệ, khoa học. Anh tin rằng qua những cuộc thảo luận, tranh luận công khai, dân chủ, trung thực, nghiêm túc, nhiều điều sẽ được sáng tỏ; cái giả, cái ác sẽ bị phơi trần; cái thật, cái thiện sẽ được khẳng định " (2).
Trần Độ có 4 câu thơ giãi bầy tâm sự thật ngao ngán :
" Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ac xoá đi, thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi "
Ông có cùng một nỗi băn khoăn day dứt đến trở thành ân hận, cũng như nhà thơ - chiến sỹ Bùi Minh Quốc :
" Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này "
Trần Độ quả đã phó thác cả tuổi xuân, cả tính mệnh của mình cho " Những mơ xoá ác ở trên đời".
Năm 1939, ông tham gia làm báo " Người Mới " cùng với Nguyễn Thường Khanh, tức Trần Mai Ninh ở Hà Nội. Trong cuộc ruồng bố năm đó, ông bị Pháp bắt giữ nhưng không có chứng cứ để buộc tội nên ông lại được thả. Cuối năm 1941, ông lại bị bắt. Toá án Thái Bình xử án 15 năm tù giam. Ông kể :
" Mỗi nhát roi quất xiết lên da thịt rát bỏng như có lửa táp, dao cắt; nhưng chẳng mấy chốc chỗ đó tê đi. Thằng Talông đổi chỗ quất, khai thác cho hết sự đau đớn của cơ thể con người. Người tôi đầm đìa mồ hôi và máu, quằn quại dưới làn mưa roi … đến mức vãi phân, vãi đái lênh láng. Bẩn thỉu hôi thối quá, thằng Talông phải ra lệnh đưa tôi đi … Đến một hôm, chúng điệu tôi đi tra khảo. Vẫn những câu hỏi ấy và roi cặc bò vung vãi lên cơ thể tàn tạ của tôi. Rồi chúng mang ra một bát cơm trắng cùng một bát cứt và đôi đũa
- Mày muốn ăn gì hả ? Cơm đó, nói thì ăn. không thì ăn cứt đi
Tôi giận sôi lên buồn nôn nhưng quyết không để chúng kéo dài trò tra khảo này. tôi bảo:
- Tôi không biết, làm sao mà nói !
Rồi tôi thản nhiên bưng lấy bát cứt, cầm đôi đũa ghém lại như sắp và vào miệng. Thằng Talông thấy thế ngoảnh mặt đi. Tôi tiếp tục vun vén bát cứt. Lòng căm tức cũng giúp tôi bớt kinh tởm, càng nung nấu ý chí làm thất bại sự đểu cáng của chúng. Bữa đó mồm mép, mặt mũi tôi đầy cứt và tôi cố tình làm vung vãi bát cứt, buộc chúng phải bỏ ra khỏi phòng " (2).
Từ Hoả Lò, cuối năm 1941, Trần Độ bị đầy lên Sơn La. Tại đây, cùng thời gian này có các ông Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ … Năm 1943, trên đường giải từ Sơn La ra Côn Đảo, Trần Độ đã trốn thoát để ra ngoài tiếp tục hoạt đông cách mạng.
Từ những hoạt động vận động cứu đói, tổ chức ám sát tên Việt gian lý Khanh trong đoàn thanh niên ở các địa phương, lãnh đạo giành chính quyền ở Đông Anh …, ông chính thức bước vào cuộc đời binh nghiệp sau khi từ chối lời gợi ý làm Bi thư tỉnh uỷ Vĩnh Yên ( Đào Duy Tùng làm phó ) của trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ.
Thế là : 18 tuổi vào Đảng, 19 tuổi là tỉnh uỷ viên dự khuyết ở Thái Bình, 23 tuổi là chính uỷ Mặt trận Hà Nội, 27 tuổi là chính uỷ Đai đoàn, 32 tuổi là chính uỷ Quân khu, 35 tuổi được phong quân hàm thiếu tướng …, ông tả xung hữu đột, hết đánh đông dẹp bắc lại xung vào Miền Nam đảm nhận trọng trách Phó Chính uỷ Quân Giải phóng Miền Nam. Ông cứ vậy mải mê với lý tưởng vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân ….
Nhưng … cho đến một ngày ông ngỡ ngàng nhận ra, ta : " đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo nhục nhã. Nhưng xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế của một chế độ độc đảng và toàn trị. Nhiều thói xấu giống như và cao hơn là chế độ cũ. Thế là ta đập tan một cái xấu xa và lại phải chấp nhận một cái xấu xa mới giống như hoặc tệ hơn tất cả những xấu xa mà ta từng chửi rủa, từng căm thù " (4). " Cái không giống với mơ ước thì nhiều, những cái giống với cái đã được đánh đổ cũng càng ngày càng nhiều. Và những gì trước đây ta khinh bỉ, chửi rủa và chống phá thì ngày nay những cái đó lại xuất hiện nhiều và ngày càng nâng cao " (4)
Tâm trí ông như bị cày xới tung lên khi thấy ta đã " tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ lừa dối, làm ăn giả dối, giáo dục dối lừa, bằng cấp giả dối, đến gia đình cũng lừa dối; lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối, hứa hẹn lừa dối. Ôi, cay đắng thay ! " (4).
Lừa dối đến mức " Về mặt quyền lực, tuy trên các văn bản chính thức đều nói quyền lực chính trị nước ta là " do dân, vì dân, và của dân " , rồi " dân biết, dân bàn, dân làm, dan kiểm tra" nhưng trên thực tế không phải như vậy. Tất cả mọi cái đều do Đảng- nói cho đúng, do những đảng viên có quyền chức quyết định. Việc bầu các cơ quan đại diện của dân, kể cả cơ quan quyền lực tối cao, đều vẫn thực hiện theo lối " Đảng cử, dân bầu" cố hữu ". Thế rồi " Hiến pháp thì quy định sự lãnh đạo độc tôn của Đảng, nhưng không hề quy định những trách nhiệm về mặt pháp lý của Đảng đối với nhân dân. Đảng làm đúng, dân nhờ, Đảng làm sai, dân chịu" (3).
Sở dĩ ngợp ngụa những dối lừa như vậy vì ngày nay " người Việt Nam phải sống trong một môi trường đầy ắp khẩu hiệu cổ động chính trị. Xã hội Việt Nam có quá nhiều hội họp, quá nhiều đại hội, quá nhiều diễu hành, cờ quạt, quá nhiều kỷ niệm, quá nhiều chào mừng, quá nhiều diễn văn quan trọng, và cả những diễn văn đọc nhầm " (3).
Ông đau khổ nhận ra " Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam … tàn phá cả một dân tộc, huỷ hoại tinh anh của nhiều thế hệ … không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống của con người mà nó huỷ hoại cuộc sống rất người của người, đó là cuộc sống tinh thần, cuộc sống tư tưởng. Nó đang làm hại cả một nòi giống " (4).
Càng đau khổ nữa là cái Đảng lý tưởng của ông ngày nay cũng không còn như xưa. Ngày nay " Không những Đảng với dân đã là hai, mà ngay trong Đảng cũng thành hai : một đảng gồm những người không có chức vụ, hoặc chức vụ thấp. Một đảng gồm những người có chức vụ cao và quyền lực quyền lợi cao. Hàng triệu chiến sỹ và nhân dân hy sinh đều không hề nghĩ rằng một kết quả quan trọng của sự hy sinh của họ lại là tình trạng thế này " (3).
Ông nghẹn ngào : " Đất nước thì tụt hậu với thế giới, còn Đảng thì tụt hậu với xã hội và dân tộc" (3).
Ngậm ngùi sao khi mở đầu tập Nhật ký Rồng Rắn, tác phẩm cuối đời, Trần Độ viết : " Đây là những ý nghĩ nung nấu trong những ngày cuối năm Rồng, đầu năm Rắn và cũng là những ý nghĩ nung nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến cả sang thế giới bên kia. Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người " (4)
Cho đến bây giờ, trên cõi niết bàn ta vẫn thấy Trần Độ như cứ ngẩn ngẩn, ngơ ngơ : " Tôi đã tham gia đập phá và phá tan một thứ chính quyền và cuộc sống như thế nào ? Và tôi đã tham gia vào việc lập nên và củng cố một chính quyền thay thế như thế nào ? " (3)
Nghĩ đến hoàn cảnh ấy, tôi càng xót thương Trần Độ, xót thương mình, xót thương cả một dân tộc quằn quại gian nan suốt nhiều thập kỷ qua, rồi để hàng triệu sinh linh vẫn cứ còn thao thiết mãi về nhũng hoài vọng đắng cay.
Theo Trần Độ " nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng" (3)
Nguyên nhân này bắt nguồn từ : " một sự biến động, sự biến chuyển và biến dạng, là một Đảng từ là một tổ chức và những con người hy sinh gian khổ, phấn đấu để đập tan một bộ máy thống trị gian ác, giải phóng nhân dân sau khi đập tan được rồi thì lại trở thành một bộ máy cai trị, thống trị nhân dân. Nói thật gọn là từ người giải phóng, biến thành người thống trị " (4).
Ở đây nhiều học thuyết như học thuyết về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản được khai thác triệt để và " cái người vận dụng nó lại đưa tới những chủ nghĩa kinh khủng như : "chủ nghĩa thành phần ", " chủ nghĩa công nông", " chủ nghĩa lý lịch" … các thứ chủ nghĩa ấy làm cho học thuyết giai cấp bị méo mó thành bất nhân bất nghĩa " (4).
Ở đây " Đảng đã thực hiện một nền thống trị khe khắt, kiểm tra từng người trong toàn xã hội, kiểm soát và can thiệp mọi chi tiết trong cuộc sống của xã hội. Và điều dã man tàn bạo nhất là độc tài về ý thức hệ. Bất cứ một sự khác biệt nào đều được quy vào là chống đối, là phản động, là tội phạm. Cái chế độ này có những hệ quả là trong xã hội không ai dám nói khác, không dám có ý nghĩ khác, không dám suy nghĩ khác, hoặc ít nhất thì dù có nghĩ một đằng cũng phải nói một nẻo. Như vậy xã hội bao trùm một sự giả dối, lừa bịp, bao trùm một sự sợ hãi, bao trùm một sự tê liệt về tư duy và tình cảm " (4). " Nền chuyên chính tư tưởng này đang làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ gì, nói năng gì,. Thực ra nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt đời sống tinh thần của cả một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ, giáo điều " (4) " Sự chuyên chính tư tưởng được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là những " lưu manh tư tưởng ". Chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiéng nói
Về vấn đề Đảng lãnh đạo, Trần Độ phát biểu : " Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa " (3).
Ông kêu gọi " Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ " hiệp thương " mà thực chất là gò ép " (3).
Ông yêu cầu " Đảng cần phải khắc phục những nhận thức máy móc và sai lầm như : " Dân chủ phải có lãnh đạo ". Câu đó có nghĩa là dân chủ phải có " không dân chủ ". Lãnh đạo giỏi nhất là đảm bảo được dân chủ cho mọi người. Không phải Đảng là người có cái dân chủ rồi ban phát cho mọi người. Không phải là người dân phải xin xỏ từng tý dân chủ một ở Đảng. Đảng chỉ là một bộ phận nhỏ của nhân dân, của dân tộc. Đảng tự nguyện lãnh đạo để đảm bảo và mang lợi ích đến cho nhân dân và dân tộc như Hồ Chí Minh đã nói là công bộc của nhân dân. Vì vậy không thể lúc nào và ở đâu Đảng cũng tự nhận là người thay mặt nhân dân. Bất cứ lúc nào và ở đâu Đảng cũng không được nhân danh nhân dân mà cai trị nhân dân " (3).
Ông phản ứng gay gắt khi đọc dòng này trong Dự thảo báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng năm 1995 : " Một nhà nước với bản chất và sứ mệnh lịch sử như vậy, về thực chất là nhà nước chuyên chính vô sản. Trong nội bộ Đảng, nhận thức đó cần được khẳng định rõ ràng " : " Tôi hết sức ngạc nhiên về điều này. Vì ai cũng biết rằng trong cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ 7, khái niệm " chuyên chính vô sản " đã bị từ bỏ … vì trong khái niệm chuyên chính vô sản đã mang sẵn những yếu tố cơ bản của nhà nước toàn trị rồi. Khi toàn bộ quyền lực của nhà nước tập trung vào một nhóm nhỏ hoặc có khi vào một cá nhân khiến cho " dân chủ vô sản " chỉ còn là thuần tuý hình thức" . (3) Ông nói : " Theo tôi, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm thực hiện một cách đầy đủ và triệt để Hiến pháp và luật pháp, chứ không phải ngược lại. Nếu muốn đặt Bộ Chính trị thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất như đã nói trong dự thảo thì phải sửa đổi Hiến pháp và ban hành những luật có giá trị pháp lý. Chẳng hạn cần có những điều khoản trong Hiến pháp để cố định những nội dung do dự thảo đề ra mà về thực chất cũng như về pháp lý đó là khẳng định chế độ đảng trị. Còn nếu không làm như vậy, thì phải coi những nội dung trong dự thảo về quyền hành của Bộ Chính trị là không hợp hiến " (3).
Tự cho mình cái quyền đứng trên Nhà nước, lại lợi dụng chuyên chính vô sản, Đảng còn chà đạp lên cả pháp luật. Trần Độ nghiêm khắc tố cáo : " Trong khi có sự tuyên truyền cho khẩu hiệu " Sống theo pháp luật " thì Đảng là người sống ngoài pháp luật, trên pháp luật trắng trợn nhất. Và Đảng cũng chỉ đạo các cơ quan Nhà nước làm như vậy. Xã hội ta ở trong tình trạng vô pháp luật thì người đầu têu là Đảng " (4)
Ông kêu gọi Đảng phải đổi mới, đổi mới thực sự, đổi mới triệt để, đổi mới toàn diện về :
Ông cho rằng " Phải trở lại bàn quan niệm " Đảng lãnh đạo " Nhà nước hay chính quyền là lãnh đạo những gì và lãnh đạo thế nào ? Làm thế nào để Nhà nước là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự và trong thực tế. Muốn thế, Đảng phải trở thành nơi tập hợp và thu hút toàn bộ trí tuệ trong xã hội, bàn và quyết định những vấn đề phương hướng, đường lối, chính sách cơ bản và được toàn dân biết rõ và ủng hộ. Rồi các cơ quan nhà nước ( cả ba mặt ) đều dùng quyền hạn và quyền lực của mình thực hiện một cách độc lập và có giám sát " (3) . " Đảng lãnh đạo thì phải có bộ máy nhà nước tương đối độc lập. Phải bảo đảm cho bộ máy nhà nước có hiệu lực, dân chủ và thực hiện được dân làm chủ. Như vậy phải có một nhà nước dân chủ pháp quyền. Dó mới thật là nhà nước do dân, vì dân và của dân chứ không phải nhà nước của Đảng, do Đảng, vì Đảng " (3).
Một cách tổng quát, Trần Độ phán định :
" Đảng này, ngày nay muốn bước ra khỏi con đường phản bội cách mạng thì phải :
" Phải đặt ra nghiên cứu cải cách lại toàn bộ hệ thống chính trị hiện có, xoá bỏ chế độ Đảng độc tôn lãnh đạo. Phải thực hiện đa nguyên, đa đảng " (4)
Ngoài nguyên nhân đảng trị độc tài còn một nguyên nhân cơ bản nữa dẫn đến nỗi thất vọng chua xót đối với cuộc cách mạng nước ta là do sự luẩn quẩn, hết " Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội ", lại " Định hướng xã hội chủ nghĩa " !
Về vấn đề này Trần Độ nêu lên một thực tế hiển nhiên bằng một giọng rất hài hước : " Rõ ràng là, từ năm 1975 đến 1985 ta đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước thống nhất. Và kết quả là những năm đầu của thập kỷ 80, cả nước ngắc ngoải. Bây giờ nhân dân ta tươi tỉnh được một chút, lại cứ nhất định phải " Định hướng xã hội chủ nghĩa ". Vậy định hướng vào cái " suýt chết " đó mà làm gì ? " (3).
Và ông chất vấn : " Ta cần đất nước phát triển có đầy đủ cơm áo, tự do, hạnh phúc ( tức là dân chủ ) dù không có cái " Định hướng xã hội chủ nghĩa "; hay là ta cần một đất nước có "mác" xã hội chủ nghĩa, còn nghèo đói như cuối những năm 70 và đầu những năm 80 cũng được ? " (3).
Ông khuyến nghị " Nếu đừng nói định hướng XHCN mà chỉ nói xây dung CNXH thêm cái ngoặc vào là ( dân giàu nước mạnh, xã hội cong bằng, dân chủ và văn minh ) với ngụ ý rằng cái CNXH ta xây dụng là cái xã hội đó. Hết sức quan trong là ở chữ xã hội công bằng và dân chủ vì đã dân chủ thì phải đả phá chuyên chính, đả phá toàn trị, đả phá độc quyền. Nếu đúng như vậy thì tôi vẫn hô : " Muôn năm chủ nghĩa xã hội ", và tôi vẫn phê phán cái CNXH công hữu, bao cấp và quan liêu, hoặc là chống lại thứ CNXH đó thì cũng dược " (4) " Có một cách hiểu CNXH thô thiển và nóng vội : chỉ cần xoá tư hữu và thực hiện công hữu thì có CNXH. Cách hiểu đó ngược lại tinh thần chủ nghĩa Mác. Mác thấy rằng sức sản xuất xã hội phải phát triển ở mức cao, cao đến độ không xã hội hoá không được, cao đến mức của cải thừa mứa, cần tổ chức sự phân phối cho công bằng hợp lý. Lúc ấy cần thực hiện những nguyên tắc của CNXH và mới có CNXH, còn nếu cứ gượng ép có CNXH trước khi đủ điều kiện thì chỉ có CNXH nghèo khổ và bất công … Trung Quốc nói thời kỳ quá độ dài đến hàng trăm năm. Cách nói đó cũng không đúng; quá độ là từ cái gì " quá độ " sang cái gì. Mác nói đó là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, còn ta hiện nay phải quá độ từ tiền tư bản chủ nghĩa lên thẳng hậu tư bản chủ nghĩa, từ tiền công nghiệp lên thẳng hậu công nghiệp, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa ( đúng hơn là không qua chính quyền tư bản chủ nghĩa ) " (4)
Để cưỡng bức dân tộc này phải chấp nhận chủ nghĩa xã hội một cách hình thức và giả dối, người ta tung ra luận điệu " Độc lập dân tộc phải thống nhất với CNXH ", " yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội " ! Thế là Trần Độ lại mỉa mai :
" Thế thì :
a ) Các cụ Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu … sinh vào thời chưa có xã hội chủ nghĩa thì các cụ có XHCN đâu mà yêu. Vậy các cụ đó có phải là người yêu nước không ? Hay là các cụ đó cũng phạm tội chống CNXH ?
b ) Các nước Nga và Đông Âu từ bỏ XHCN, vậy các nước đó có còn độc lập không và nhân dân các nước đó có còn là yêu nước không ? Hay là hết mấy trăm triệu người đó cũng thành tay sai đế quốc cả ?
c ) Thế giới ngày nay có mấy nước là độc lập phải XHCN và bao nhiêu nước không có CNXH vẫn cứ độc lập như thường " (3)
" Chúng ta phải làm một sự lựa chọn ( khá khắc nghiệt đối với những người chủ trương "Định hướng xã hội chủ nghĩa " ) để có những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế và sự lựa chọn này không thể thực hiện theo lối nhập nhằng : " Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Giữa 2 cái phải chọn lấy một. Không thể bắt cá hai tay. Lấy sự phát triển đất nước hay lấy định hương xã hội chủ nghĩa ? Câu trả lời sẽ không khó nếu lấy lợi ích đất nước mà không phải là lấy lợi ích của Đảng làm đầu. Nói cách khác, sự phát triển kinh tế buộc phải từ bỏ sự lựa chọn theo " hệ tư tưởng " do Đảng đè xướng, và thực chất do Đảng áp đặt lên toàn xã hội " (3).
Trần Độ từ lâu dã thấu hiểu tầm quan trọng của trí thức đối với cách mạng. Ông trăn trở mãi :
" Đáng lo thay cho bộ phận lãnh đạo mà tài và tầm nhìn thì dưới trung bình mà đức thì cũng không hơn mức thông thường trong nhân dân, mà ngày càng kém đi " (4).
Đối với ông, " Nhất thiết cần nghiêm khắc phê phán và xử trí nghiêm minh những cán bộ hư hỏng, thoái hoá biến chất. Dồng thời cũng cần có thái độ như vậy đối với loại cán bộ cơ hội, bất tài, bảo thủ và vô vị, có khi không có khuyết điểm nào nhưng chỉ có một khuyết điểm là chỉ biết nhắc lại chỉ thị nghị quyết như con vẹt và không hề làm được việc gì có ích cho xã hội, đã như thế lại còn chiếm chỗ quan trọng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, và có lúc là đầu mối cho sự bất hoà, xích mích " (5).
Ông chỉ rõ rằng : " Cái ý thức giai cấp trong xã hội ta có những đặc điểm sau :
" Ai cũng hiểu rằng, sức mạnh trí tuệ của toàn dân tộc chỉ có thể phát huy trên nền tảng những thể chế dân chủ, không có những thể chế này thì không thể có sự tồn tại của sức mạnh trí tuệ nữa, chứ không phải chỉ là không thể phát huy. Tôi nhấn mạnh mấy chữ " thể chế dân chủ ", nghĩa là các quyền dân chủ được thể chế hoá về mặt pháp luật một cách đầy đủ và buộc mọi người phải tuân theo những thể chế ấy. Mọi lời hô hào về " ý thức dân chủ ", về " vai trò làm chủ của nhân dân " đều trở thành vô nghĩa nếu không có những thể chế dân chủ vững chắc " (3)
Ông thực sự tôn trọng trí tuệ, tôn trọng tài năng và người tài. Ông nhấn mạnh : " Tài năng là của hiếm. Tài năng là của tất cả nhân dân. Vì vậy phải ứng xử với tài năng như là của hiếm, và của hiếm đó là tài sản quý của tất cả mọi người. Ngày xưa, vua chúa còn có khi giảm tội hoặc xoá tội cho người tài " (3).
Ông khẳng định :
" Chúng ta có thể có rất nhiều bộ trưởng, thứ trưởng thậm chí có thể có nhiều thủ tướng và phó thủ tướng, nhưng chúng ta chỉ có mỗi một Xuân Diệu, một Nguyễn Tuân, một Chế Lan Viên … Không ai có thể thay thế được. Đó là nói trong lĩnh vực văn học, còn trong các lĩnh vực khác cũng như thế, chúng ta có những nhân vật nổi tiếng như : Văn Cao, Trần văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái … " (5)
Tại Hội nghị 4 Trung ương V, Trần Độ đã phát biểu rất sôi nổi :
" Cần khẳng định mạnh mẽ một phương hướng tuyển chọn và bố trí cán bộ : Khuyến khích những người có kiến thức, trung thực, năng động, sáng tao, dám chịu trách nhiêm, đạt tới những hiệu quả cụ thể trong phạm vi công tác phụ trách. Thực tế, trong xã hội cũng đang xuất hiện các loại cán bộ có những phẩm chất như vây.
Có thể chắc chắn rằng trong xã hội ta, về tất cả mọi mặt không thiếu nhân tài, nhân tài kinh tế, nhân tài quản lý, nhân tài sáng tạo khoa học và văn học.
Cần có những chính sách khuyến khích nhân tài, chiêu hiền đãi sỹ, dám nghe những điều nói ngược tai, mới lạ để cho sỹ tử gần xa náo nức đem tài năng ra thi thố, giúp ích cho dân, cho nước
Cần có những chính sách thi cử, ứng cử để thực hiện được việc phát hiện nhân tài và sử dụng nhân tài. Đối với loại cán bộ mới, có tài nên có thái độ độ lượng với điểm gọi là khiêm tốn. Thật ra ai có tài mà khiêm tốn thì thật là tốt và hoàn hảo. Nhưng thông thường những người có tài thường kèm theo một cá tính là tự tin một cách mạnh mẽ. Do tự tin nên có những biểu hiện thiếu khiêm tốn, nhưng lòng tự tin lại là một đức tính nên khuyến khích, vì đó cũng là một mặt của tinh thần dám chịu trách nhiệm … " (5).
Tháng 2 năm 1990, có chân trong ban dự thảo cương lĩnh Đại hôi VII, Trần Độ đã tranh thủ đề xuất một số vấn đề mới cho văn hoá Việt Nam thông qua bản " Phác thảo cương lĩnh văn hoá Việt Nam những năm 1990 ". Ơ đây ông đã đưa ra nhiều điểm đột phá như :
Điểm 8 : Phát triển nền văn hoá nghệ thuật Việt Nam XHCN dựa trên cơ sở quan niệm đúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương tri và đạo đức cho xã hội. Thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo, tự do phê bình.
Điểm 9 : Ra sức bảo tồn mọi di sản văn hoá của dân tộc bao gồm cả nền văn hoá của từng dân tộc ít người. Kết hợp kế thừa văn hoá cổ truyền với giao lưu văn hoá thế giới, làm cho văn hoá ngày càng dày thêm giàu thêm.
Đánh hơi thấy mùi " chệch đường lối " này những kẻ cơ hội trong Ban Văn hoá - Văn nghệ Trung ương Đảng bấy giờ vội vàng xuyên tạc, ton hót với trưởng ban tổ chức Lê Đức Thọ. Thế là một cuộc họp với đầy đủ thành phần trong ban cán sụ Bộ Văn hoá được triệu tập tại Văn phòng Trung ương, 4 Nguyễn Cảnh Chân do Lê Đức Thọ chủ trì. Ông Lê Đức Thọ tuyên bố : " Tôi biết các đồng chí trong ban cán sự cũng đã họp, đã kiểm điểm đồng chí Độ rồi, nhưng gần đây có nhiều dư luận về đồng chí Độ, trong đó có những vấn đề về quan điểm, phong cách nên tôi mời các đồng chí lên đây, tôi sẽ trực tiếp chủ trì đẻ cuộc kiểm điểm đạt kết quả tốt ".
Ông Lê Đức Thọ vừa dứt lời thì Hà Xuân Trường xin phát biểu ngay tức khắc. Với một cuốn sổ đã chuẩn bị sẵn trong tay, ông này liến láu suốt gần tiếng đồng hồ. Ông lên án Trần Độ muốn tách văn nghệ khỏi chính trị; thậm chí có đôi lúc còn chế riễu sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá-văn nghệ, cho rằng Ban Tuyên huấn của Đảng chỉ thích làm nhiệm vụ một người lính gác cần mẫn, chỉ nhăm nhăm gọt đầu cắt đuôi các tác phẩm văn nghệ để cuói cùng chỉ con hai chữ lập trường và coi thế là hoàn thành nhiệm vụ. Ông quy kết những lời phát biểu của Trần Độ rất gần quan điểm của Garodi – người đang bị đảng Cộng sán Pháp và các nước XHCN lên án. Hà Xuân Trường còn phê phán Trần Độ là bênh vực quần loe, tóc dài khi ông nói : Bác sỹ Tôn Thất Tùng có bộ tóc rất dài nhưng ai dám bảo Tôn Thất Tùng là kém đạo đức. Ngược lại, ông là một nhân tài cống hiến rất lớn cho cách mạng.
Tất nhiên, thế là Hà Xuân Trường được thưởng cho cái ghế của Trần Độ, mặc dù ngay trong hội nghi đó có những ý kiến chân thành như ý kiến của ông Cù Huy Cận: " Không biết có phải do tên anh là Độ hay không mà trong cuộc sống đời thường anh tỏ ra rất độ lượng, đầy lòng nhân ái, giải quyết vấn đề gì cũng có lý, có tình, mà chủ yếu là thuyết phục bằng tình cảm. Có lẽ vì thế mà một số người cho anh Độ là lỏng lẻo. Theo tôi thì đây là đức tính cần có của một người lãnh đạo văn hoá văn nghệ. Thuyết phục con người bằng tình cảm chứ không phải bằng mệnh lệnh " (5).
Sau khi dùng quyền trưởng Ban Tổ chức Trung ương tước đoạt chức Trưởng ban Văn hoá - Văn nghệ Trung ương Đảng cho người khác, ông Lê Đức Thọ còn đi rêu rao : " … gần đây có người lại phát hiện một sai lầm còn lớn hơn. Cụ thể là ở một hội nghị, có một văn nghệ sỹ phát biểu công khai rằng thần tượng Đảng đã đổ rồi, thần tượng Bác Hồ đã đổ rồi, thế mà anh Độ có mặt ở đấy vẫn cho qua, không nói gì " (5), nhằm đuỏi Trần Độ ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương V. Trớ trêu thay, Lê Đức Thọ không làm nổi việc này.
Sau Đại hội VI, Trần Độ lại được tái nhiệm chức Trưởng Ban Văn hoá-Văn nghệ TW Đảng và giáo sư Nguyễn văn Hạnh làm Phó Trưởng ban cho ông.
Nhờ sự cộng tác rất gắn bó và đắc lực của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, tranh thủ tình cảm thân thiết giữa ông với tổng bí thư Nguyễn văn Linh, một cuộc gặp mặt thân thiết, đối thoại đầy trí tuệ, chưa từng có trong lịch sử giữa non 100 văn nghệ sỹ với Tổng Bí thư đảng Cộng sản đã được tổ chức suốt trong 2 ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1987. Tham gia cuộc đối thoại này, ngoài các văn nghệ sỹ nổi tiếng như : Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ, Tào Mạt, Phan Kế An, Trần văn Thuỷ … còn có các nhà văn hoá, nhà khoa học như : Nguyễn Khắc Viện, Phan Đình Diệu, Hồ Ngọc Đại … Tại hội nghị này TBT Nguyễn văn Linh đã nhắc nhở người cầm bút phải có trách nhiệm và sự suy nghĩ chín chắn và với trách nhiẹm đó đừng bao giờ uốn cong ngòi bút của mình. Ông mở cửa cho các văn nghệ sỹ " tự cứu lấy mình trước khi trời cứu ".
Nhận thấy " khu Trung Nam Hải số 10 Nguyễn Cảnh Chân " kín cổng cao tường quá, hai đầu đường hai rào chắn thường xuyên có lính gác, ai muốn vào lại phải qua thường trực kiểm soát giấy tờ nghiêm ngặt, Trần Độ đã tìm cách đưa trụ sơ Ban Văn hoa-Văn nghệ ra ngoài. Ngôi nhà xinh xắn 49 Phan Đình Phùng từ đấy trở thành địa chỉ lui tới dễ dàng của các văn nghệ sỹ. Cũng từ đây Nghị quyết 05 lịch sử của Bộ Chính trị khoá VI đã ra đời ngày 28 tháng 11 năm 1987.
Nghị quyết có một số quan điểm nhận thức mới quan trọng như :
Kèm theo đấy là những quy định đảm bảo cho tự do sáng tác : " Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động, không đồi truỵ, truyền bà tội ác, không sa đoạ, phá hoại nhân phẩm đều có quyền lưu hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của công luận và sự phê bình ".
Nhờ tinh thần dân chủ sáng ngời của Trần Độ, nhờ những hoạt động tranh đấu thông minh, dũng cảm không mệt mỏi của Trần Độ, nhờ Nghị quyết 05, nền văn học nước nhà có một thời gian khỏi sắc, sôi động hẳn lên. Báo Văn Nghệ hấp dẫn bạn đọc với số ấn bản tăng vọt. Hàng loạt tác phẩm hay của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ, Trần Văn Tuấn, Phùng Gia Lộc, Hoàng Hữu Các, Nguyễn Khắc Trường, Trần Huy Quang … xuất hiện.
Đấu tranh cho sự nghiệp dân chủ hoá đất nước, tự do hoá cho sáng tạo nghệ thuật bằng tư tưởng đột phá, bằng hành động kiên trì, dũng cảm, Trần Độ đã gặp không biết bao nhiêu gian nan, thách thức, thậm chí hiểm nguy. Người ta tổ chức hết chiến dịch này đến chiến dịch khác đả phá, bôi nhọ ông trên hàng loạt báo Đảng : Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Tạp chí Cộng sản … Người ta thúc đẩy mấy anh " lính dõng " xỉa xói láo xược : " Tôi đã nhân đạo lắm với ông X. ( một người đòi dân chủ ) rồi. Tôi không bắt ông ấy, lại để nguyên cho ông ấy được hưởng các tiêu chuẩn đã có … ". Người ta vây ráp ông tàn nhẫn đến nỗi ông phải thốt lời phàn nàn nghe rất thương tâm : " Kẻ viết những dòng này trong năm 1998 từ 25 tháng 7 vào ở ngôi nhà của con trai út só nhà 126/33 Hoàng Hoa Thám, phường 12, thành phố Hồ Chí Minh. Ở đó dự định cho đến hêt tháng 10. trong hơn 100 ngày đó, ngôi nhà luôn luôn từ sáng đến tối, mỗi ngày đều có từ 1 đến 3 nhân viên an ninh mặc thường phục, hoá trang là người chữa xe đạp, lái xe ôm, lái xe tăcxi … canh chừng, giám sát, ghi chép và có lúc chụp ảnh ... Khi kẻ này đi Huế cũng có nhân viên an ninh từ Hà Nội bay vào Huế ở cùng khách sạn và theo giõi những người quen đến thăm kẻ này để theo giõi họ " (3). Người ta còn bố trí phụ nữ đến xoa bóp cho ông để quay phim chụp ảnh, ghép ảnh nhằm bôi bẩn ông rồi đem đi phổ biến, tuyên truyền ở các hội nghị quan trọng, các câu lạc bộ lão thành cách mạng hòng xuyên tạc về ông …
Khi ông đi photocopy tập " Nhật ký Rồng Rắn " trở về, hai công an ép hai bên, áp giải và tịch thu tác phẩm cuối đời của ông. Hành động thô bỉ, tàn bạo này khiến ông uất ức, cơn bạo bệnh bột phát mạnh, dẫn đến cái chết của ông.
Vào thăm Trần Độ ở bệnh viện, đại tướng Võ Nguyên Giáp không nén được xúc đông đã nắm tay Trần Độ nói trong nước mắt : " Trần Độ ơi ! mình thương cậu lắm ". Trần Độ lại càng nức nở : " Anh Văn ơi ! Tôi và mọi người cũng thương anh lắm "
Ngày 15 tháng 7 năm 2002 ông đã phải mở khí quản để thở bằng máy nhưng vẫn còn tỉnh táo. Giữa gần hai chục người, vừa con cháu, họ hàng, bè bạn đến thăm, vây quanh ông, ông ra hiệu gọi riêng tôi. Ông nắm tay tôi nói thật lâu. Tôi cúi mãi mỏi quá phải vươn thẳng người. Ông lại kéo tôi xuống áp sát vào tai nói tiếp. Rồi, xúc động quá, bỗng ông nấc lên. Bác sỹ vội ào tới và tôi bị yêu cầu phải ra ngoài. Khi ông nói, tôi phải giả vờ gật đầu để ông khỏi thất vọng. Thật ra tôi không nghe được gì vì lúc đó ông không còn được nói qua thanh quản nữa. Tôi cứ áy náy mãi về chuyện này. Không biết ông đã trăng trối với tôi những gì. Có thể là hệ trọng lắm chăng ?
Biết cõi trần không thể còn níu kéo ông lâu thêm nữa, dự đoán rằng người ta sẽ tổ chức tang lễ cho ông không xứng đáng, tôi đã phải mạo hiểm đưa lên internet lời kêu gọi như sau :
" Hà Nội ngày 21 tháng 7 năm 2002
Kính thưa Quý vị
Tướng Trần Độ có lẽ sắp ra đi! Đây là hậu quả của sự đàn áp dã man. Nỗi uất ức tột độ do cuộc chặn bắt cưỡng đoạt tập " Nhật ký Rồng Rắn" ở thành phố Hồ Chí Minh đã đẩy ông vào bệnh viện cấp cứu và từ đấy thể trạng suy sụp không thể nào vực dậy được nữa
Nhà cách mạng lão thành Trần Độ mất đi là một tổn thất lớn cho công cuộc đấu tranh dân chủ hoá đất nước. Nhà cầm quyền chắc sẽ tổ chức tang lễ qua quýt. Để bù lại, tôi tha thiết kính mong quý vị vận động tất cả những ai quan tâm đến Việt Nam hãy tham gia tổ chức tưởng niệm tướng Trần Độ một cách thật trọng thể. Đưa tin tang lễ ông rộng rãi trên tất cả các phưong tiện thông tin đại chúng. Đăng tải những bài viết về ông và những bài viết, bài nói của ông trong dịp lễ tang này, dịp giỗ 49 ngày và giỗ hàng năm.
Tổ chức trọng thể lễ tưởng niệm và vinh danh xứng đáng tướng Trần Độ sẽ có tác dụng cổ võ các lão thành cách mạng noi gương ông xả thân cho sự nghiệp đấu tranh dân chủ hoá đất nước. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng nhằm cứu Việt Nam khỏi cơn suy thoái trầm trọng với một xã hội ngày càng chất chứa đầy rẫy những tệ nạn xấu xa.
Vì trân quý một nhân cách và cũng vì quan tâm đến sự phát triển bền vững, lành mạnh của Việt Nam, một trong những cộng đồng rất đáng trân trọng của nhân loại, tôi kính mong quý vị quan tâm đén lời thỉnh cầu này .
Nguyễn Thanh Giang "
Quả nhiên. Không những người ta không tổ chức một tang lễ tương xứng mà còn quá tồi tệ. Có thể nói việc tổ chức tang lễ Trần Độ là một vết nhơ khó rửa của lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam. Người ta không chỉ lấy vải đen bịt dòng chữ " Vô cùng thương tiếc " đã khảm vào bức tường nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông mà còn bắt lột bỏ tất cả các dải băng trên các vòng hoa viếng có ghi " Vô cùng thương tiếc ". Kể cả vòng hoa của đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Hành động táng tận lương tâm đến mức quái vật này là kết quả của sự trả thù hèn hạ của bọn quyền thé có tư thù với Trần Độ.
Ông Trần Dũng Tiến mô tả cảnh bàn luận của Bộ Chính trị chuẩn bị lễ tang Trần Độ để tố cáo : " Đỗ Mười đứng dậy, khuôn mặt bự thịt sát khí đằng đằng, dang tay chém lia lịa vào không khí, hình như để trả thù Trần Độ. Khi Trần Độ là thiếu tướng- Chính uỷ Quân khu Ba, Đỗ Mười chỉ là một anh thủ trưởng quèn, một lần, trong một buổi làm việc đã bị Trần Độ mắng cho là ngu dốt mà phải ngồi im như thóc, vì trí tuệ và tài năng của Trần Độ hơn hẳn Đỗ Mười một cái đầu.
Đỗ Mười vừa chém tay vào không khí, vừa nói :
" Chúng ta phải tim mọi cách, kể cả thủ đoạn nếu cần để nhân dịp này hạ uy tín Trần Độ đến mức thấp nhất. Vì vậy, tôi không đồng ý giao cho Bộ Quốc phòng hoặc Tổng cục Chính trị đứng ra tổ chức. Bởi vì nếu giao cho BQP hoặc TCCT đứng ra tổ chức thì hàng vạn cựư chiến binh, hàng trăm tướng lĩnh sẽ có cớ kéo về Hà Nội dự tang lễ Trần Độ, như vậy thì nguy hiểm lắm ...
Tôi nhắc lại, phải nhân dịp này hạ uy tín Trần Độ xuống mức thấp nhất. Nếu không, chúng ta sẽ có nguy cơ mất Đảng ". " (6).
Sự hèn hạ đểu cáng ở mức tột cùng của những người chủ trương và bọn thực thi tang lễ này đã làm bùng phát nỗi căm uất bị dồn nén cao độ của những người có mặt trong lễ tang. Một cuộc biểu tình tại chỗ đã nổ ra. Tiếng vỗ tay rầm rầm. Lời chửi rủa lãnh đạo và tiếng hô " Tinh thần Trần Độ bất diệt " vang lên ngút trời.
Lòng bác ái Trần Độ, dũng khí Trần Độ, tinh thần dân chủ sáng ngời của Trần Độ đã được thể hiện và mãi mãi còn lưu truyền qua các bức trướng, qua thơ văn của nhân dân, của đồng chí, đồng đội. Ở đây chỉ có thể ghi lại một phần nhỏ :
Nhân văn danh tướng
Trung dũng vẹn toàn
Bức trướng của đoàn chiến sỹ đấu tranh cho tự do dân chủTuệ mục tuệ tâm
Văn nhân võ tướng
Bức trướng của câu lạc bộ Lịch sử Quân độiVị Dân tâm
Bức trướng của Viện nghiên cứu Hán NômTrọn nghĩa nước non
Vẹn tình đồng đội
Bức trướng của Ban Liên lạc truyền thống Báo Quân đội Nhân dânCông thành không làm phách
Danh toại không cầu nhàn
Bút thần vung mấy độ
Đáng mặt đại nghĩa nhân
Bức trướng của học giả Trần KhuêTrung dũng vì dân
Bức trướng của nhóm Nguyễn Vũ BìnhCấm chợ ngăn sông, cấm báo chương
Còn như khi chết cấm tình thương
Xưa nay thế giới chưa hề có
Phát xít Hitle cũng phải nhường
Cụ Xít thủ tiêu trăm tướng lĩnh
Cụ Mao tàn sát triệu dân thường
Đều thua ‘ Thương tiếc vô cùng ’, cấm
Khi tiễn tướng quân tới hoá đường
Hoành chỉ Trần Doãn Hoài - 7/30 Thái Hà- Đống Đa – Hà NộiVì đại nghĩa chân nhân
Thân mấy độ trần thân
Tướng dẫu không nguyên Giáp
Hồn vẫn vẹn tình dân
Nhà thơ Bùi Minh QuốcAnh đi trời đất mịt mù
Những ngày trong sáng bây giờ hiếm thay
Đấu tranh dân chủ lúc này
Thiếu anh, thiếu một cánh tay vững vàng
Anh đi tình nghĩa phố phường
Càng yêu càng quý, càng thương anh nhiều
Đỗ Việt Sơn – 26/114-125- Tô Hiệu- Hải PhòngKhí Phách hiên ngang giữa cõi Trần
Văn tài tướng dũng đáng danh nhân
Nguyễn Trang Châu - Đống Đa- Hà nộiTiễn lão tướng về sâu ba thước đất
Mắt vẫn trừng …
Lo vận nước mất còn
Để giữa trời xanh một tấm lòng son
Để giữa lòng đời tấm gương trung liệt
Để cháu con, để bạn bè thân thiết
Ngàn năm ghi tạc
Một Trần Độ vô song
Một Trần Độ anh hùng
Vũ Cao Quận - Hải PhòngHương ba nén … lệ rơi thương mến
Người lính xưa gửi đến viếng Anh
Bưng biền rừng lá vẫn xanh
Anh vẫn xanh lá, xanh cành trong dân
Tiếc thương Trần Độ ngàn lần
Tên Anh không chết trong dân bao giờ
Nguyễn Danh – Hồng Bàng- Hải Phòng
Kỷ niệm 2 năm ngày mất của tướng quân Trần Độ
9 tháng 8 năm 2002 – 9 tháng 8 năm 2004
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm - Hà Nội
Điện thoại : 5 534370
----- O -----
Hà Nội, ngày 23 tháng 7 năm 2004
Đại Tá Nhà Báo Phạm Quế Dương Đã Trở Về
Ghi chép của nhà văn Hoàng Tiến
Tin nhận được, sáng 29-7-2004, đại tá nhà báo Phạm Quế Dương sẽ được trả tự do. Từ 8 giờ đến 8 g 30 làm thủ tục ra trại. Gia đình đến đón vào giờ đó. Nếu không lo được ô-tô thì Bộ Công an sẽ điều xe của Bộ đưa về. Trước đó có hai đoàn của Bộ Công an vào tận trại giam thăm ông Dương, có mang quà, và gợi ý về xe cộ. Gia đình đã chọn phương án một, để đỡ phiền toái đến cơ quan nhà nước. Thuê một chiếc taxi 4 chỗ. Bà Dương và cô con gái cả, cùng người em trai ông Dương thay mặt họ Phạm, ba người lên xe ô-tô đi từ 7 giờ sáng.
Tại khu tập thẻ quân đội 37 Lý Nam Đế, nơi cư trú gia đình đại tá PQD, sáng hôm 29 đông đúc người đến. Gia đình phải trải chiếu trên sàn mới đủ chỗ ngồi. Các cựu chiến binh, các vị lão thành cách mạng, các nhà ngoại cảm tâm linh, các bè bạn dân chủ của ông Dương, các người làng Tử Dương, họ hàng xa gần, có một người trong vụ bảo vệ chùa Cảnh Phúc ở tận Đồng Văn-Phủ lý, nghe tin ông Dương trở về cũng đến chúc mừng. "Ông Dương là ân nhân của chúng tôi. Nhờ ông mà chùa Cảnh Phúc không bị xâm phạm. Tôi thay mặt bà con đến để cảm ơn ông. Làng chúng tôi còn chùa là nhờ ở ông Dương." Ông người quê Đồng Văn nói thế.
Người đến ngày càng đông. Người mang hoa. Người mang sâm-banh. Người mang câu đối. Người mang thơ chúc mừng. Có cả những hộp bánh được giới thiệu là lộc Phật mang đến để liên hoan.
Nhiều người lần đầu tiên gặp nhau. Nhưng đều thân mật hồ hởi, bởi họ đều cùng quí mến ông Dương, cùng đến để chúc mừng ông Dương từ cõi chết trở về.
Chuyện nở như hoa phượng vỹ mùa thi. Chuyện tâm linh của các nhà ngoại cảm. Chuyện trong tù của cụ Hoàng Minh Chính. Chuyện thời sự về bức thư của thượng tướng Nam Khánh kiến nghị Bộ Chính trị phải xử lý vụ T4. Đâu đâu cũng xôn xao bàn tán về bức thư này, nhất là những khu vực của cán bộ quân đội.
Bỗng có người nói: "Xem kìa!". Mọi người đều ngẩng nhìn lên ban thờ. Bát hương thờ Phật nhà ông Dương bốc khói nghi ngút. Lúc ấy là khoảng 9 g 30
Nói chính xác là 9 g 22 phút. Từ ngày ông Dương bị bắt đến nay đúng 19 tháng, bát hương không bao giờ hoá. Bà Dương ở nhà vẫn chăm lo cúng lễ. Bà vừa bao sái ban thờ mấy hôm nay (theo nghĩa nhà Phật là quét dọn bàn thờ Phật). Các chân hương cũ bị bỏ đi, các chân hương mới chưa có gì nhiều lắm. Ấy thế mà cháy, mà bát hương hoá, thế mới lạ. Các nhà tâm linh thì hiểu ngay sự việc: ông Dương đâu phải người thường. Chuyện ông trở về là sự cảm ứng của trời đất chuyển vận hạn con người trong cõi tâm linh, nó báo hiệu một giai đoạn mới của ông.
Câu chuyện quay về đề tài tâm linh. Một cõi giới vô hình song hàng với cuộc sống chúng ta, có hay không ? Những ngày Bác Hồ mất, trời u ám, mưa tầm tã. Ông Hoàng Phương đã cảnh báo lãnh đạo Đảng và Nhà nước về chiến tranh tâm linh tương lai. Họ dùng các nhà ngoại cảm tập trung năng lượng chi phối các hoạt động não bộ của các nhà lãnh đạo các nước, sai khiến làm theo ý họ, chứ không cần đưa quân xâm chiếm. Ông Hoàng Phương vừa mới mất. Ông là nhà nghiên cứu lý luận tâm linh số một Việt Nam. Nước mình đâu thiếu người tài. Tiếc rằng chưa biết dùng người tài mà thôi.
Đã 10 giờ. Rồi 10 g 30. Vẫn không thấy xe ông Dương về. Trục trặc cái gì ? Câu chuyện lại dính sang Lê Chí Quang, cử nhân luật, tác giả bài viết "Hãy cảnh giác với Bắc triều". Lê Chí Quang bị bắt. Kết án 4 năm tù và 3 năm quản chế. Vừa rồi, khoảng trung tuần tháng 6, bỗng được tha. Buổi tha Lê Chí Quang ở trại tù Ba Sao có làm mít-tinh, treo biểu ngữ, kê bàn phát biểu, lọ hoa, quay phim, chụp ảnh đủ cả. Có thể việc ông Dương chậm trễ sáng nay cũng do quay phim. chụp ảnh, ghi cảm tưởng chăng. Để có chứng cớ còn báo cáo, còn tuyên truyền. Công an họ nhiều mưu mẹo lắm. Lãnh đạo bị họ lừa nhiều lắm. Thì đấy, như Tổng cục 2 bịa ra vụ T4, dính toàn những cán bộ cao cấp, đánh lừa cả Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TW, Ban Kiểm tra TW ... với những chứng cớ băng ghi âm, ảnh chụp, tin tức của CIA, thì những vị quan liêu chỉ ngồi ban giấy, ai mà chẳng gật gù, khiếp thật, ghê thật, phải trấn áp thôi, phải thẳng tay trấn áp thôi.
11 giờ. Rồi 11 g 30. Xe vẫn chưa về. Phải có điều gì xảy ra ? Bát hương hoá là điềm lành cơ mà ? Rồi 12 giờ. Lạ nhỉ ? Cũng có khi công an họ chơi trò đến hết buổi chiều mới cho về cũng nên. Hoá ra phỏng đoán gần đúng, vì công an được tin mọi người đến nhà ông Dương đông lắm, nên họ kéo dài thời gian lưu ông Dương lại, cho hai ông giám thị lên tiễn biệt, cứ con cà con kê mãi. ở 37 Lý Nam Đế hàng chục công an mặc thường phục đến ngồi uống nước ở trước cửa khu tập thể.
12 giờ hơn, cháu Quỳnh Anh (con ông Dương) vào báo: "Kính thưa các bác, các chú, các cô, các anh công an vừa bảo cháu: chỉ độ 20 phút nữa xe bố cháu về đến đây. Công an có đề nghị với các bác, các chú, các cô, tiếp đón nhau vui vẻ thân mật, còn không nên hô hào điều gì cả. Mong các bác, các chú, các cô thông cảm."
Rõ là công an cứ suy bụng ta ra bụng người. ở đây toàn là các bậc lão thành, các cựu chiến binh, trình độ chính trị đâu có tầm thường, ai đi làm thế. Mà sao công an không vào nói, lại phải thông qua người khác ?
Thôi! Thôi! Thông cảm cho họ. Nói với các cụ họ cũng ngại, cũng sợ.
Cụ Hoàng Minh Chính nói: "Họ cấm hô hào, nhưng họ không cấm hoan hô. Vậy thì chúng ta hoan hô bạn ta trở về. Chúng ta không hô hào lật đổ chế độ, không hô hào bạo loạn là được. Ta chỉ hoan hô bạn ta." Mọi người đều cười vui vẻ.
12 gìơ 30, xe ông Dương về đến cổng khu tập thể. Mọi người đều đứng dậy, đổ ra hành lang. Một số người nhanh chân chạy xuống đón dưới sân.
Đại tá Phạm Quế Dương kia rồi. Ông vẫn mặc bộ quần áo giản dị như ở nhà hồi nào (áo sơ-mi, quần dài) bị bao vây giữa họ hàng, bè bạn ngoài hành lang. Bắt tay nhau. Ôm nhau. Cười. Nhiều người chảy nước mắt. Sức khoẻ ông giảm sút. Nước da trắng nhợt. Đi hơi lêt bệt. (19 tháng trời trong phòng giam không được ra tắm nắng, tiếp xúc với khí trời, chỉ riêng chuyện ấy cũng đủ làm con người oải ra, hao mòn sinh lực, huống hồ còn luôn luôn bị những đòn tấn công cân não hỏi cung).
Mọi người cứ đứng ngoài hành lang ôm nhau, bắt tay nhau. Nhà văn Hoàng Tiến tặng hoa. Rồi có người nói: "Mời mọi người vào nhà! Mời mọi người vào nhà! Còn lấy chỗ cho bà con đi!"
Quanh bàn nước lại tíu tít. Ai cũng muốn được bắt tay đại tá Phạm Quế Dương, được chúc mừng ông một câu, được giới thiệu tên mình, sợ rằng ở trong tù 19 tháng cách biệt, bị hành hạ hỏi cung, ông có thể giảm sút trí nhớ.
Nhà thơ Tú Sót viết một câu đối chữ thư pháp trên phôi lụa trắng mừng ông Dương trở về. Mọi người đề nghị đọc to. Phôi lụa trắng được giơ cao bên cạnh ông Dương để chụp ảnh. Nhà thơ Tú Sót đọc theo âm Hán-Việt:
"Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Tu tựu Thăng Long vấn Quế Dương."
Nhà văn Hoàng Tiến dịch sang tiếng Việt:
"Đừng buồn trên đời này không có người tri kỷ
Hãy đến vùng đất Thăng Long tìm hỏi ông Quế Dương"
Mọi người vỗ tay hoan hô. Sâm-banh nổ đánh bốp ! một tiếng rõ to, khiến mọi người lại ồ lên reo. Những chiếc cốc được ngửa ra. Màu mậm chín sâm-banh rót vào lóng lánh đẹp.
Cụ Hoàng Minh Chính đề nghị nâng cốc chúc mừng đại tá Phạm Quế Dương người anh hùng đấu tranh dân chủ từ cõi chết trở về. Mọi người lại reo lên vui vẻ. Cốc chạm vào nhau. Những tiếng cười trên những khuôn mặt ròng ròng nước mắt.
Nhà ngoại cảm Nguyễn Đình Soạn kể với ông Dương về hiện tượng bát hương hoá trên bàn thờ Phật sáng nay, và đề nghị ông Dương ra làm lễ Phật. Đại tá Phạm Quế Dương như một người học trò ngoan ngoãn nghe theo lời thầy, ra trước bàn thờ Phật chắp tay cung kính. Mọi người đều đứng cả dậy. Im phăng phắc. Lúc này là thế giới tâm linh ngự trị. Mùi hương toả ngát. Không khí bỗng trong trẻo. Như cảm thụ được cả mùi hoa ngâu, hoa sói, ở những chậu hoa bày trước cửa nhà.
Vị đại tá suốt cả thời trai trẻ nam chinh bắc chiến, đánh Pháp, đánh Mỹ, rồi tham dự cả đánh Tàu xâm phạm sáu tỉnh biên giới, nay mái đầu hói bạc, thành kính lễ Phật, rồi quay sang ban thờ bên cạnh lễ cụ Vỵ (ân nhân và thầy dạy của ông Dương), song ông lại ra ngồi bàn nước. Ông nói, giọng rất chân thành:
- Tôi gần cả đời chinh chiến. Mười chín tháng trong tù, tôi mới có điều kiện chiêm nghiệm tâm linh. Tôi nhận ra rằng có một thế giới tâm linh hiện hữu thật sự. Nhờ cõi giới ấy phù hộ, tôi mới sống được tới hôm nay.
Ông vén quần lên cho mọi người thấy, chiếc đầu gối gầy guộc của ông đã thành chai, vì ông thường quỳ nguyện cầu và thiền nhiều tiếng đồng hồ trong ngày. Ông nói tiếp:
- Tổ tiên mình thường bảo dương phù âm trợ. Được dương phù âm trợ thì tai qua nạn khỏi, mọi việc hanh thông. Tôi tuổi Tân Mùi, tân biến vi toan, sướng vui thì ít gian nan thì nhiều. Nhưng đựơc dương phù, là bè bạn không bỏ tôi lúc hoạn nạn, các cựu chiến binh, các vị lão thành cách mạng, các tướng lĩnh quân đội, họ hàng làng mạc ... và cả các bè bạn nước ngoài, các Việt Kiều, các tổ chức quốc tế ... đều lên tiếng bảo vệ tôi. Còn âm trợ là thế giới tâm linh, các đức Phật, các vị anh hùng tôi thường cầu nguyện như đức Trần Hưng Đạo, đức Nguyễn Trãi, các công thần bị oan trái như cụ tiến sĩ Lê Văn Thịnh, các tài nữ bị oan trái như bà Nguyễn Thị Lộ ... , tôi đều được sự phù hộ của các vị đó. Nhờ đó mà tôi đã tai qua nạn khỏi, được trở về với gia đình, được gặp lại bè bạn đổng đảo như thế này.
Ông nói trong giọng nghen ngào: "Tôi thật không ngờ, mọi người đối với tôi chân tình đến như thế này. Tôi chỉ còn biết cảm ơn. Hết sức cảm ơn."
Bà Đỗ Thị Cư tức bà Dương tiếp lời chồng:
- Thay mặt vợ chồng tôi, chúng tôi xin vô cùng cám ơn các bác, các vị lão thành cách mạng, các cựu chiến binh, các bạn bè của ông Dương, xin cám ơn bà con làng Tử Dương, cám ơn họ hàng xa gần. Xin cám ơn bà con Việt kiều hải ngoại, các tổ chức quốc tế, các nhà báo quốc tế, chính phủ các nước đã lên tiếng bênh vực chồng tôi. Xin đặc biệt cám ơn 4 ông luật sư nước ngoài đã xin sang Việt Nam để bào chữa cho chồng tôi. Xin cám ơn tất cả mọi người.
Bà Đỗ Thị Cư cũng nghẹn ngào. Đôi mắt đỏ hoe.
Nhà ngoại cảm Nguyễn Đình Soạn báo một tin vui, có một vị nhân sĩ Bắc Hà (xin được giấu tên), có một ngôi biệt thự bên Hồ Tây khá đẹp, xin sẵn sàng nhường ngôi biệt thự để đại tá Phạm Quế Dương lên nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Muốn ở bao lâu thì ở. ở miễn phí.
Mọi người lại reo lên. Ông Tú Sót lại xuất khẩu thành thơ mấy câu:
"Được gần bác, tôi hay tính bác
Giản đơn, không nhếch nhác là xong
Việc gì cũng cứ ung dung
Gươm kề tận cổ cũng không là gì!
Mần chi cũng chẳng mần chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng mần răng
Mần răng cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng mần chi!"
Mọi người đều cười ồ rất vui.
Lúc bấy giờ đã quá 13 giờ 30, gần đến giờ làm việc buổi chiều. Bà Cư cho biết ông Dương sáng chưa ăn gì. Mọi người hiểu ý. Cũng cần để ông Dương nghỉ ngơi. Thời gian còn dài, còn nhiều điều kiện để hàn huyên tình cảm.
Lại bắt tay ôm nhau thắm thiết, tạm biệt ra về.
Hôm sau, tôi đang ngồi ở nhà cụ Hoàng Minh Chính, để nghe lại băng ghi âm cụ Chính ghi buổi đón tiếp ông Dương trở về, thì nhận tin điện thoại từ Sài Gòn gọi ra. Là giọng ông Trần Khuê báo tin vừa ra khỏi trại giam đã trở về nhà.
Nhà văn hoá Trần Khuê, người chiến sĩ đấu tranh dân chủ, bị bắt sau ông Dương một ngày, cũng bị kết án 19 tháng tù, và cũng được trả tự do sau ông Dương một ngày. Qua điện thoại không nói với nhau được nhiều, ông Trần Khuê đọc cho nghe hai đôi câu đối ông làm trong tù dịp tết Giáp Thân năm nay. Một câu chữ Hán. Một câu chữ Nôm.
Câu chữ Hán:
Chính trực ngoan cường phù Tổ quốc
Nghiêm minh chung thủy hộ dân quyền.
(Không cần phải dịch mà mọi người đều hiểu)
Câu chữ Nôm:
Mừng đất nước vào Xuân, tham nhũng dẹp tan, nhà nhà tưng bừng hạnh phúc;
Chúc nhân dân vui Tết, quan liêu quét sạch, người người thanh thản tự do.
Rõ ra giọng một sĩ phu luôn luôn quan tâm đến lợi ích của dân của nước ngay cả khi thân mình còn trong tù ngục.
Trần Khuê cười khà khà, giọng hơi khàn khàn, cái giọng cười đã thành quen thuộc với tôi. Trần Khuê kể, họ bảo tôi là không chịu thành khẩn nhận tội, lại hay kết tội lại những người hỏi cung. Ông lại cười khà khà. Ông không chịu ăn cơm tù, không chịu mặc áo tù, không chịu còng tay, ông vẫn mặc bộ đồ ký giả và đeo kính râm, vì ông cho mình vẫn là một công dân chưa được đưa ra xét xử thì pháp luật vẫn phải bảo vệ và tôn trọng. Ông chống tham nhũng, chống những kẻ bán rẻ đất đai Tổ quốc, bôi nhọ lịch sử đất nước và bẻ queo lịch sử Đảng. Ông không có tội. Họ đòi ví dụ. Ông đưa ra tên danh Đào Duy Quát, phó ban Tư tưởng-Văn hoá, tổng biên tập Báo Điện tử trên trang Website—Đảng CSVN, đã dám bỏ tổng bí thư đầu tiên Trần Phú thay bằng Lê Hồng Phong. Việc làm này đã được Bộ Chính trị công nhận chưa ? Đã được Ban Chấp hành TW Đảng công nhận chưa ? Đã được Hội đồng lý luận TW công nhận chưa ? Đã được Ban nghiên cứu lịch sử Đảng công nhận chưa ? Và đã được các nhà học giả, nhà nghiên cứu tầm cỡ đất nước trong một hội thảo nào đó công nhận chưa ? Cho nên ông mới có mấy vần thơ nói về việc này, (đọc qua điện thoại, gồm hai khổ, tôi ghi lại cung cấp độc giả nghe vui):
Khổ 1: Thoắt biến ông Trần Phú
Thoắt hiện ông Hồng Phong
Khám ngay Đào Duy Quát
Xem hắn điên thật không ?
Khổ 2: Phát tán Internet
Sử Đảng đảo lung tung
Cả hành tinh cười nhạo
Tim đen một lũ khùng.
Thế đấy! Nhà văn hoá Trần Khuê, người bạn văn chương của chúng tôi ở trong tù vẫn là như thế đấy!
Vài lời để kết:
Tiện đây xin nói vài lời để kết thúc bài viết. Trước đây Ban Tư tưởng-Văn hoá có đăng thông báo gửi khắp nước kết tội hai ông Phạm Quế Dương và Trần Khuê là gián điệp thuộc loại tội phạm nguy hiểm khung hình phạt từ 12 năm tù cho đến chung thân và tử hình. Bây giờ toà chỉ xử hai ông ấy về tội lợi dụng dân chủ (Điều 258 Bộ luật hình sự. Mà thực ra hai ông cũng không mắc tội này. Các ông không lợi dụng tự do dân chủ, các ông chỉ sử dụng quyền công dân về tự do dân chủ đã ghi trong Hiến pháp và luật pháp, viết kiến nghị cũng như trình bày những suy nghĩ của mình trước tình hình đất nước, gửi Đảng và Chính phủ một cách công khai đàng hoàng).
Vậy Ban Tư tưởng-Văn hoá nghĩ sao đây về việc làm vi phạm pháp luật của mình ? Không thể vin vào quyền thông báo trong nội bộ Đảng. Ông Dương và ông Khuê không phải là đảng viên hoặc không còn là đảng viên (ông Phạm Quế Dương đã trả lại thẻ Đảng để phản đối việc khai trừ tướng Trần Độ). Mà có là đảng viên thì cũng không thể làm như vậy, vì trước hết họ cũng là một công dân, họ cũng được pháp luật bảo vệ. Đảng và các cơ quan của Đảng phải gương mẫu hành động theo đúng Hiến pháp và pháp luật. Điều 72 Hiến pháp nước CHXHCNVN ghi: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật."
Như vậy Ban Tư tưởng-Văn hoá chẳng những vi phạm luật pháp, còn mắc tội vu khống, xúc phạm danh dự cá nhân. Không thể bỏ qua việc này. Chí ít, theo tôi, Ban Tư tưởng-Văn hoá phải kiểm điểm và kỷ luật những ai đã viết ra thông báo ấy. Thứ hai, Ban Tư tưởng-Văn hoá phải xin lỗi ông Phạm Quế Dương và ông Trần Khuê, và, thứ ba, Ban Tư tưởng-Văn hoá phải hứa không bao giờ lặp lại những việc như thế nữa.
Nếu Ban Tư tưởng-Văn hoá không chịu tự kiểm điểm phê bình, thì Bộ Chính trị phải có ý kiến xử lý, có thế mới giữ được kỷ cương phép nước, mới lấy lại được niềm tin trong nhân dân.
Rất mong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành TW Đảng khoá IX lưu ý.
Hà Nôi ngày 31 tháng 7 năm 2004
Hoàng Tiến, nhà văn.
Địa chỉ:
Nhà A 11 Phòng 420
Thanh Xuân Bắc—Hà Nội.
Nơi gửi:
+ Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội,
+ Ban Tư tưởng-Văn hoá TW,
+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
+ Toà án nhân dân tối cao,
+ Các cơ quan thông tấn, báo chí,
+ Gia đình ông Phạm Quế Dương
+ Gia đình ông Trần Khuê,
+ Các bè bạn quan tâm.
----- O -----
Kính gửi các đồng chí:
Tổng bí thư,
Uỷ viên bộ chính trị,
Uỷ viên ban bí thư,
Uỷ ban kiểm tra trung ương khoá 9,
Chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra trung ương khoá 7 và 8.
Thời gian gần đây, chúng tôi đã được đọc bức thư dài đề ngày 17 tháng 6 năm 2004 của đồng chí Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh gửi Ban Chấp hành Trung ương và các đồng chí. Bức thư đã tố cáo rất cụ thể và chi tiết sự thật các hành vi phạm tội và tính chất nguy hại có hệ thống rất nghiêm trọng của lãnh đạo Tổng cục 2, kể từ khi đồng chí Tư Văn và Vũ Chính, Nguyễn Chí Vinh nắm cương vị lãnh đạo Tổng cục 2. Với vụ T4, Tổng cục 2 bịa đặt ra một nhân mối của CIA, một cơ quan đặc tính "ma" lấy bí danh là T4 dựng ra hàng trăm bản tin bịa đặt, lừa dối, vu khống chính trị nhiều cán bộ cấp cao và nhiều cán bộ khác của Đảng và Nhà nước. Trong bức thư trên, đồng chí Nam Khánh đã dẫn chứng cụ thể nội dung một số bản tin bịa đặt và vu khống.
Trong những năm 1996,1997,1998 và 1999 của Tổng cục 2 đối với các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Phan Văn Khải, Trương Tấn Sang, Võ Viết Thanh, Năm Xuân, (Mai Chí Thọ), Võ Thị Thắng, Vũ Quốc Hùng (Uỷ viên Trung ương Đảng khá 8), Phan Diễn, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Trần Tiến Cung (Thiếu tướng, Tổng cục phó, Tổng cục 2) ....
Đồng chí Nguyễn Nam Khánh nêu rõ nội dung Tổng cục 2 vu khống chính trị là đưa tin: CIA đã nắm được, CIA đã tiếp cận được, đã cho người liên hệ, đã chỉ đạo các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Võ Văn kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Mai Chí Thọ, Trương Tấn Sang, Võ Trần Chí, Bùi Thiên Ngộ, Trương Vĩnh Trọng, phạm Gia Khiêm, Võ Thị Thắng, Vũ Quốc Hùng, Nguyễn Khánh Toàn (Thứ trưởng thường trực Bộ Công an), Phan Diễn, Lê Văn Dũng, Phan Trung Kiên, (Uỷ viên Trung ương Đảng, Thiếu tướng, Chỉ huy trưởng Quân sự TP Hồ Chí Minh), Võ Viết Thanh, Đoàn Mạnh Giao ...; Vu khống cả một số tướng lĩnh trung thành và kiên cường chiến đấu trong kháng chiến: Thượng tướng anh hùng Nguyễn Chơn (Phó tổng tham mưu trưởng QĐND, Uỷ viên Trung ương khoá 7), Trung tướng Nguyễn Huy Chương (Uỷ viên Trung ương Đảng khoá 6), Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh (Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Uỷ viên trung ương Đảng các khoá 5,6,7). Ngoài các đồng chí bị vu khống trên đây, đồng chí Nam Khánh còn nêu nhiều vụ vu khống chính trị khác do Tổng cục 2 thực hiện: Từ vụ Sáu Sứ, Cục 2 đã nguỵ tạo tài liệu dựng chứng cứ giả, nặn thêm tình tiết, đánh lừa Bộ chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thực chất là vu khống 2 đồng chí Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà,đến các vụ vu khống các đồng chí Nguyễn Văn Thắng (Thường vụ quận 6 TP Hồ Chí Minh), Phạm Chánh Trực, các vụ tung tin về các đồng chí Nguyễn Văn An, Tô Kỷ, Đồng Văn Cống, v.v.., các vụ làm tài liệu giả khác, vụ quân báo liên quan đến bè lũ Năm Cam, v.v...
Đồng chí Nam Khánh đã khẳng định: Đây là một vụ án chính trị cực kỳ nghiêm trọng, nghiêm trọng hơn gấp nhiều lần các vụ Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh, liên quan đến sự mất còn của chế độ Xã hội Chủ nghĩa và Tổ quốc, đến sinh mệnh chính trị, uy tín hạnh phúc của rất nhiều đồng chí, cả những đồng chí lão thành. Do đã được sự tham gia lãnh đạo của Trung ương Đảng 15 năm, tham gia lãnh đạo về công tác tư tưởng, tổ chức bảo vệ chính trị nội bộ quân đội hơn 20 năm , đồng chí Nam Khánh đã yêu cầu và kiến nghị với đồng chí Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương, Ban chỉ đạo liên ngành:
Chúng tôi nêu lại nội dung chính về bức thư ngày 17/6/2004 của đồng chí Nam Khánh với sự nhất trí đồng tình về những kiến nghị hoàn toàn chính xác của đồng chí Nam Khánh với lòng căm phẫn mong muốn nghiêm trị thích đáng bọn tội phạm trong Tổng cục 2 và kiên quyết xử trí bọn người bao che ngăn cản việc giải quyết triệt để những vụ việc rất nghiêm trọng trên đây. Chúng tôi tha thiết yêu cầu các đồng chí Tổng bí thư, Bộ Chính trị, Ban bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương khoá IX làm đầy đủ trách nhiệm cao cả của mình trước toàn Đảng và toàn thể nhân dân trong việc giải quyết triệt để những vụ việc trong thư của đồng chí Nam Khánh ... Đảng cộng sản Việt Nam chúng ta sẽ thực sự trong sạch vững mạnh do trách nhiệm và việc làm cụ thể của tất cả các đồng chí về vụ án chính trị " Siêu nghiêm trọng này" bức thư ngày 17/6/2004 của đồng chí Nam Khánh được lan truyền rộng rãi sẽ chỉ làm cho toàn Đảng, toàn dân củng cố thêm lòng tin tưởng và sức mạnh của Đảng ta ngày càng được nâng cao, nhất định bọn phản bội, bọn phá hoại và thoái hoá biến chất, nêu trên sẽ phải chịu những hình phạt thích đáng và nghiêm minh!
Cuối cùng, với bức thư này, chúng tôi trân trọng đề cập tới việc cơ quan Công an đã đột ngột xâm phạm, khám xét trái pháp luật chỗ ở của gia đình đồng chí Lê Hồng Hà ( nguyên uỷ viên thường trực Đảng Đoàn Bộ Công an 1956-1974, nguyên Chánh Văn phòng và Vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Công an, cán bộ lão thành ngành Công an tháng 8/1945, Quân hàm Đại tá Công an ...) tại số nhà 62 phố Ngô Quyền – Hà Nội vào đêm ngày 10/7/2004, đã xâm phạm thô bạo quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân và vi phạm trắng trợn Điều 24 bộ luật hình sự nước ta về tội xâm phạm chỗ ở của Công dân.
Điều 140 Bộ luật tố tụng hình sự về căn cứ khám chỗ ở, đã quy định rõ: " Việc khám chỗ ở chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong chỗ ở của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật tài sản do phạm tội mà có, hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án". Điều 143 Bộ luật này còn quy định rõ: " Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn ..." Đại tá Đào Trọng Sĩ ( Phó Giám đốc Công an Hà Nội) đã giải thích khi khám chỗ ở gia đình đồng chí Lê Hồng Hà là với mục đích chỉ tìm bức thư ngày 17/6/2004 kể trên của đồng chí Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh mà cơ quan Công an nghi rằng có bức thư này tại nhà đồng chí Lê Hồng Hà. Nhưng Đại tá Đào Trọng Sĩ đã không nêu được cụ thể việc khám chỗ của gia đình đồng chí Lê Hồng Hà có liên quan đến vụ án nào ? Và tại sao phải khám vào ban đêm ?
Điều 149 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định rõ: " Người ra lệnh, người thi hành lệnh khám xét, thu giữ đồ vật, tài liệu ... trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự ?
Việc khám xét, truy tìm bức thư ngày 17/6/2004 của đồng chí Nam Khánh phải chăng là nhằm bao che, ngăn cản việc giải quyết xử lý các vụ việc rất nghiêm trọng mà đồng chí Nam Khánh đã nêu công khai với các đồng chí lãnh đạo của Đảng ? Chúng tôi khẳng định việc khám xét trái pháp luật chỗ ở của gia đình đồng chí Lê Hồng Hà chứng tỏ rằng các thế lực đen tối (muốn bao che ngăn cản việc xử lý nghiêm minh vụ án chính trị cực kỳ nghiêm trọng này) đã thực sự trà đạp rất thô bạo pháp luật Nhà nước ta. Họ đã không nắm được những nguyên lý cơ bản của bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự vì những hành động bao che ngăn cản của họ không chỉ là trốn tránh trách nhiệm đấu tranh chống tội phạm, mà còn là những hành vi phạm pháp thực sự, mang tính chất tòng phạm, che dấu tội phạm, không tố giác tội phạm, cản trở việc phát hiện tội phạm, cố tình bao che người phạm tội, hoàn toàn làm tổn hại lợi ích của tổ quốc và nhân dân – thực chất họ đã trở thành những kẻ tòng phạm cùng với bọn tội phạm trong Tổng Cục 2.
Chúng tôi chân thành kiến nghị đồng chí Lê Hồng Anh ( Bộ trưởng Bộ Công an) với vị trí và trách nhiệm của mình, cần tích cực góp phần vào việc xử lý nghiêm minh những vụ việc rất nghiêm trọng do đồng chí Nam Khánh đã nêu trước tập thể lãnh đạo đảng, đồng thời cần tiến hành kiểm tra và xử lý kịp thời những người có liên quan đã không chấp hành đúng luật hình sự và luật tố tụng hình sự trong việc khám xét trái pháp luật chỗ ở của gia đình đồng chí Lê Hồng Hà đêm ngày 10/7/2004.
Một số hội viên câu lạc bộ
Sĩ quan công an hưu trí tại Hà Nội
Đồng kính gửi:
- Các đồng chí đã bị vu cáo, bịa đặt trong vụ T4 có tên trên đây
- Các cơ quan báo chí
- Các ban bạn bè quan tâm
----- O -----
Lời nói đầu: Những bê bối chính trị từ lâu đã hiện diện trong nội bộ ĐCSVN, nhưng vì những lý do nào đó, không ai dám công khai đưa ra công luận. Những chuyện được tiết lộ từ “nội cung” chỉ là những bí mật cung đình, không ai biết thục hư ra sao. Nhưng như một tất yếu của lịch sử, "cái kim trong bọc mãi cũng phải lòi ra", những tội ác, những bê bối không thể mãi giấu mình trong bóng tối.
Thời gian qua, điện thư đã lần lượt giới thiệu đến qúy độc giả hàng loạt các tiết lộ về nội tình ĐCSVN, do chính những người trong cuộc nói ra. Điều đáng ghi nhận là ngày càng có nhiều cán bộ cao cấp của ĐCSVN dũng cảm lên tiếng đòi hỏi phải giải quyết dứt khoát những vụ bê bối, những tội ác mà đảng đã gây ra.
Năm 2001, ba nhân vật cao cấp thuộc quân đội nhân dân Việt Nam là các ông Thượng tướng Phùng Thế Tài, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo và Trung tướng Lê Tự Đồng đã viết một bức thư chung, gửi lãnh đạo ĐCSVN yêu cầu giải quyết dứt khoát một số chuyện bê bối của cựu chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng phe phái của ông ta. Tuy nhiên ngay sau khi bức thư được gửi lên lãnh đạo, nó đã bị ém nhẹm, và những người quan tâm không thể tìm thấy ở đâu. Chúng tôi xin đăng lai nguyên văn bức thư đó hầu giúp độc giả có thêm những dữ kiện để đánh giá, phân tích về nội tình và những chuyển biến của ĐCSVN trong thời gian sắp tới.
Hà Nội, ngày 02 tháng 04 năm 2001
Kính gửi:
- Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 12
- Đồng chí tổng bí thư Lê Khả Phiêu
- Uỷ ban kiểm tra trung ương đảng
Chúng tôi là Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo và Lê Tự Đồng nguyên cán bộ cấp cao Quân đội Nhân dân Việt Nam khẩn thiết báo cáo và đề nghị với lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, với uỷ ban kiểm tra Trung ương Đảng có kết luận và nghiêm trị những đồng chí đã vi phạm nguyên tắc, điều lệ mang tính bè phái, lật đổ các Cố vấn - đứng đầu là Cố vấn Lê Đức Anh và những kẻ cơ hội theo đuôi Lê Đức Anh với những lý do như sau:
Lê Đức Anh đã cho tay chân đi gặp nhiều người đặt điều bêu xấu và vận động lật đổ đồng chí Lê Khả Phiêu như: Đưa thư cho đồng chí Nguyễn Quyết đã bị đồng chí Nguyễn Quyết phản đối và đã báo cáo với đồng chí Phạm Thế Duyệt trong một cuộc họp do đồng chí Phạm Thế Duyệt chủ trì; cho người cầm thư đến vận động đồng chí Trần Văn Quang, Chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam đã bị đồng chí Trần Văn Quang từ chối; cho người đưa thư tới vận động đồng chí Hoàng Minh Thảo và cũng bị đồng chí Hoàng Minh Thảo khước từ ...
Chúng tôi thiết nghĩ: Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt là những cán bộ cao cấp, là Cố vấn của Ban chấp hành Trung ương Đảng mà lại có những hành động như vậy thật là quá đáng, cần được lên án và cần có kỷ luật nghiêm khắc; tội này còn nặng hơn tội của những người có sai phạm về quan điểm, tư tưởng. Sai phạm của các Cố vấn còn kéo theo một số người cơ hội "theo đóm ăn tàn" như Trưởng ban Văn hoá Tư tưởng đã lạm dụng cương vị của mình để tung dư luận, vận động công khai trong cuộc họp báo mà chúng tôi đã có dịp trình bày (xin gửi kèm theo bài của báo Thanh Niên số 15, thứ tư ngày 17/01/2001)
Cuộc vận động chỉnh đốn Đảng mà Ban chấp hành Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư phát động đã góp phần khôi phục niềm tin của Nhân dân và Đảng lãnh đạo, tuy chỉ mới bước đầu, đáng lẽ phải củng cố niềm tin hơn nữa thì việc làm của các Cố vấn chẳng khác gì một gáo nước lạnh giữa mùa đông!
Chúng tôi cũng đã được tham dự một số lần Đại hội của Đảng ta nhưng chưa lần nào có sự lộn xộn như lần này. Nó đã gây mất ổn định chính trị - xã hội mà tình hình đó lại do các Cố vấn gây nên. Tình hình này ngày càng kéo dài, càng lan rộng bao nhiêu thì kẻ thù của chúng ta càng hý hửng bấy nhiêu.
Ngoài những điểm trên, chúng tôi xin hỏi Uỷ ban kiểm tra Trung ương có nghe đồn về việc Lê Đức Anh đã khai man lý lịch để nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và đã có thời kỳ làm cai phu Đồn điền. Nghe đâu đã có một đồng chí đã tố giác việc này. Thực hư ra sao chúng tôi không rõ, nhưng đây là vấn đề bảo vệ trong sạch của Đảng và cũng là sinh mệnh chính trị của đảng viên, rất mong Uỷ ban kiểm tra Trung ương có xác minh, kết luận rõ ràng.
Với lòng thiết tha Đảng ta luôn luôn trong sáng, đoàn két như di chúc của Bác kính yêu, xứng đáng la đội tiên phong theo chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xin gửi lời chào tin tưởng và mong được hồi âm.
Phùng Thế Tài - Hoàng Minh Thảo - Lê Tự Đồng