Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư - Số 27
Tháng 9 năm 2004

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com

Tin Ghi Nhận:

  • Mới đây, Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã tổ chức một buổi họp các tướng lĩnh cao cấp. Mục đích của buổi họp này là bàn về việc thi hành kiểm điểm đối với những người thuộc tổng cục II, có dính líu đến vụ bê bối T4. Có tất cả 8 nhân vật được đề nghị xem xét kiểm điểm, đứng đầu danh sách là các ông Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh. Các ý kiến về việc xử lý vẫn chưa thống nhất. Buổi họp đã diễn ra trong không khí rất căng thẳng.

    ----- O -----

    Thư Thượng tướng, Nguyễn Nam Khánh

    Ngày 15 tháng 7 năm 2004

    Kính gửi:
         Ban chấp hành trung ương
         Đồng chí tổng bí thư và các uỷ viên bộ chính trị, uỷ viên ban bí thư
         Uỷ ban kiểm tra trung ương,
         Ban nội chính
         Ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương
         Đ/c chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra khoá 7, khoá 8.

    Hồi 16 giờ 30’ ngày 8/7/2004, đồng chí Phan Diễn, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên thường trực Ban Bí thư có mời tôi đến gặp, tại phòng làm việc của đồng chí Phan Diễn (số 4 Nguyễn Cảnh Chân). Dự họp có đồng chí Thọ, Uỷ viên Trung ương, Trưởng ban bảo vệ chính trị nội bộ.

    Do tính chất quan trọng của cuộc gặp và theo đúng Điều lệ Đảng về quyền hạn của đảng viên, tôi viết thư này kính gửi các đồng chí. Trước hết tôi nêu lại các ý kiến của đồng chí Phan Diễn và ý kiến của tôi về những việc liên quan đến vụ T4 đã phát biểu trong cuộc họp đó.

    1- Ý kiến của đồng chí Phan Diễn

    Tôi (đồng chí Phan Diễn) và đồng chí Tổng Bí thư đã nhận được văn bản của các đồng chí về vụ T4.

    Tôi (đồng chí Phan Diễn) đồng ý một số nội dung trong văn bản của đồng chí.

    - Vụ T4 là một vụ án chính trị nghiêm trọng. Bộ Chính trị đã tổ chức Ban kiểm tra liên ngành để xem xét. Ban kiểm tra liên ngành đã đề nghị Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đã xác định là vụ án chính trị nghiêm trọng. Bộ Chính trị đã giao cho cơ quan Pháp luật truy tố, đưa ra xử 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà từ 5 năm tù trở lên, đã giao cho Đảng uỷ Quân sự Trung ương xem xét các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II. Đảng uỷ Quân sự Trung ương đã báo cáo lên Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đang xem xét.

    - Tôi (đồng chí Phan Diễn) đồng ý với đồng chí (Nguyễn Nam Khánh) trong Pháp lệnh Tình báo và Nghị định 96/ CP về Tình báo quân sự có nhiều nội dung sai phạm, Bộ Chính trị đã giao cho Thường vụ Quốc hội xem lại Pháp lệnh Tình báo và giao cho Văn phòng Chính phủ xem lại Nghị định 96/CP. Đồng thời đã chỉ thị cho Bộ quốc phòng hướng dẫn cho Tổng cục II xác định một số quy định và chỉ thị cho Tổng cục II không được theo dõi nội bộ.

    - Sẽ cho kiểm tra, xem xét Tổng cục II từ tổ chức, nguyên tắc, thủ tục hoạt động. Việc này phải mất một thời gian.

    - T4 là một vụ án nghiêm trọng nhưng Bộ Chính trị phải chọn vấn đề gì trực tiếp ảnh hưởng đến nội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội mới làm, báo cáo cho Bộ Chính trị rõ chứ không báo cáo cho Trung ương, có việc không nói cụ thể cho Trung ương và không thảo luận.

    Trong văn bản của đồng chí có đề cập đến sự liên quan của một số đồng chí lãnh đạo trước đây. Vì đã lâu rồi và không ảnh hưởng trực tiếp đến nội bộ Đảng hiện nay nên không làm. Vì đưa ra vấn đề này, sẽ tranh cãi rồi không kết luận được, sẽ làm cho tình hình phức tạp thêm.

    Trong vụ T4, có ý kiến anh Giáp, anh Mân, anh và một vài đồng chí nữa, nhưng Bộ Chính trị không báo cáo ý kiến của các anh với Ban Chấp hành Trung ương, ngay cả ý kiến anh Phiêu cũng không báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương. ý kiến đề nghị có rất nhiều ý kiến khác nhau. Nếu đã đưa là đưa hết thì Ban Chấp hành Trung ương khó khăn trong việc xem xét, và không thể kết luận được, làm cho nội bộ phức tạp thêm.

    - Các vấn đề mà đồng chí nêu trong bản tài liệu gửi Bộ Chính trị thì nhiều, có cái thuộc số người nói trên (ý nói là của Nguyên, Chấp, Vinh, Đặng Diệu Hà), không chính thức của Tổng cục II, có cái của chỉ huy Tổng cục II. Tôi biết, trong số bản tin này, Tổng cục II có đoạn đưa ra 10 bản tin có ký tên, một số không ký tên. Như vậy là thuộc về tài liệu mật và tài liệu không phổ biến. Nếu tài liệu này lộ ra ngoài, kẻ địch sẽ lợi dụng phá hoại Đảng. Nên tôi phê bình đồng chí là không tuân thủ nguyên tắc giữ bí mật tài liệu.

    2- Ý kiến của tôi (Nguyễn Nam Khánh)

    Trước hết tôi (Nguyễn Nam Khánh), cám ơn Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cho tôi biết ý kiến của Bộ Chính trị và Ban Bí thư về văn bản của tôi gửi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra và các cơ quan chức năng.

    Sau đây tôi xin nói rõ ý kiến của tôi về các ý kiến của Bộ Chính trị và Ban Bí thư mà đồng chí vừa nêu lên.

    1- Tôi đồng ý ý kiến nói rằng các nội dung trong văn bản của tôi nêu ra mà địch biết, địch có thể lợi dụng. Nên tôi đề nghị gặp đồng chí Tổng Bí thư để trực tiếp nói rõ vụ T4 với đồng chí Tổng Bí thư, tôi chờ hơn 1 tháng nhưng không thấy đồng chí Tổng Bí thư trả lời lúc nào gặp được. Những sự thật mà tôi nêu ra chỉ gửi Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan chức năng. Tôi biết tại Hội nghị trung ương lần thứ 10 (khoá 9), Bộ Chính trị sẽ báo cáo với Trung ương vấn đề T4. Như tôi đã viết trong văn bản: - Với tầm quan trọng của vấn đề và theo đúng Điều lệ Đảng, tôi đã viết thư gửi cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương và cơ quan chức năng. Tôi trực tiếp niêm phong mang đến văn phòng Trung ương nhờ văn phòng Trung ương chuyển và ngoài bì tôi ghi rõ: - Chỉ người có tên mới được bóc. Như vậy là hết sức cẩn thận về bảo mật. Tôi gửi cho Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cơ quan chức năng, chứ không gửi cho địch. Nếu làm lộ tài liệu là do về các đồng chí nhận tài liệu, chứ tôi không làm lộ.

    Việc tôi làm vừa qua là đúng nguyên tắc, đúng Điều lệ: “Đảng viên được phê bình, chất vấn về hoạt động của Tổ chức Đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức, báo cáo kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời".

    Tôi không đồng ý ý kiến đồng chí phê bình tôi là sai nguyên tắc giữ bí mật tài liệu nội bộ.

    Đảng viên có quyền kiến nghị, đề nghị tới lãnh đạo các cấp, đến Bộ Chính trị, đến Ban Chấp hành Trung ương, đến Đại hội toàn quốc.

    2- Tôi đồng ý là Bộ Chính trị, Ban Bí thư có quyền lựa chọn vấn đề để giải quyết. Nhưng lựa chọn vấn đề gì để giải quyết là trên nguyên tắc bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Chế độ. Không phải trên nguyên tắc cơ hội, hữu khuynh.

    Trong văn bản của tôi gửi Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra, các cơ quan chức năng, tôi nêu cả vấn đề T4 và chấn chỉnh Tổng cục II, một ít đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng vừa qua có liên quan đến Tổng cục II và T4, mục đích là để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Chế độ. Vì nếu không làm rõ vụ T4, những người chỉ huy Tổng cục II hiện nay và người lãnh đạo cấp cao liên quan đến T4 và Tổng cục II thì sẽ ảnh hưởng đến Đại hội 10, ảnh hưởng trực tiếp đến lựa chọn nhân sự cho Đại hội 10 và về sau nữa.

    3- Vụ T4 với những bản tin vu khống của nó không chỉ do một nhóm người: Chấp, Nguyên, Vinh, Đặng Diệu Hà làm mà có sự chỉ đạo của chỉ huy Tổng cục II. Như vụ vu khống đồng chí Phạm Chánh Trực, Nguyễn Văn Thắng (thường vụ quận uỷ quận 6 – TPHCM), những đề nghị lập chuyên án người này, người kia là CIA đâu phải do Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà đưa ra mà do lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II hiện nay (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh), 255 bản tin dù có ký hay không đều do chỉ huy Tổng cục II gửi lên lãnh đạo cấp cao. Không phải do Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà gửi. Cho nên không chỉ đưa ra 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà xử trước pháp luật, còn số chỉ huy, lãnh đạo Tổng cục II hiện nay (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh) xử lý nội bộ là không đúng.

    4- Trong vấn đề dân chủ nội bộ, phải xuất phát từ động cơ quan điểm đúng, là vì lợi ích xây dựng và bảo vệ Đảng thì mới đi đến nhất trí; nếu vì động cơ cá nhân: "Phê bình đả kích cấp trên hoặc răn đe khống chế Đảng viên" thì không giải quyết được. Theo tôi, lãnh đạo cùng với Đảng viên bàn bạc dân chủ thì công việc mới kết quả.

    Tôi cảm ơn đồng chí đã nghe tôi phát biểu.

    3- Đồng chí Phan Diễn có ý kiến trở lại

    Cũng cho tôi cảm ơn đồng chí đã có ý kiến trở lại về các ý kiến của Bộ Chính trị và Ban Bí thư.

    Đến đây kết thúc cuộc gặp giữa tôi và đồng chí Phan Diễn.

    Đồng chí Thọ ra trước. Tôi ra sau, bắt tay đồng chí Phan Diễn và nói thêm: Nếu các đồng chí không gửi tài liệu của tôi đến Ban Chấp hành Trung ương khoá 9 thì tôi có quyền và tôi có cách đến Hội nghị Trung ương lần 10/khoá 9 hoặc Hội nghị Trung ương sau đó để trao văn bản rồi ra về.

    Đồng chí Phan Diễn nói lại: - Làm thế thì phức tạp quá.

    Thưa các đồng chí

    Tôi ghi lại những ý kiến chính liên quan đến vụ T4 trong cuộc gặp với đồng chí Phan Diễn, thay mặt Bộ Chính trị và Ban Bí thư gặp tôi và tôi đề nghị mấy ý kiến :

    1- Theo Điều lệ Đảng và quyền hạn của đảng viên, tôi có quyền gửi kiến nghị, chất vấn đến Trung ương và Đại hội Đại biểu Đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất Đảng. Tôi làm việc này trong tổ chức. Tôi làm đúng nguyên tắc. Tôi có nghe nói: - Khi báo cáo với Trung ương có đồng chí nói đã phân tích với tôi là tôi vi phạm nguyên tắc. Tôi đã trả lời đồng chí Phan Diễn: - Tôi không vi phạm nguyên tắc. Tôi làm theo đúng Điều lệ Đảng. Tôi khẳng định một lần nữa như vậy.

    2- Như tôi đã phát biểu khi tôi còn làm nhiệm vụ Uỷ viên Trung ương rằng: Ban Chấp hành trung ương bầu ra Bộ Chính trị, Bộ Chính trị không được đặt mình cao hon Trung ương, Ban Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ Chính trị, kiểm tra và giám sát Bộ Chính trị. Bộ Chính trị phải báo cáo với Trung ương các công việc xây dựng, củng cố Đảng, những vấn đề nội bộ Đảng, liên quan đến sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, Chế độ. Cho nên một lần nữa, yêu cầu Bộ Chính trị gửi toàn văn bản của tôi đến Trung ương. Vấn đề T4, các vấn đề của lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II rất nghiêm trọng, có hệ thống, rất nguy hiểm, liên quan đến sự trong sạch vững mạnh của Đảng, hạnh phúc của dân tộc nói chung và của các đảng viên là nạn nhân của sự vu khống chính trị của lãnh đạo Tổng cục II hiện nay. Không phải chỉ là của nhóm 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà.

    Kể từ vụ Sáu Sứ (1991), các vụ án dựng lên có bài bản, công phu đã gây hậu quả rất nghiêm trọng. Vụ Sáu Sứ, khoá 6 bàn giao cho khoá 7. Khoá 7 không làm. Khoá 8 bị ngăn cản, nên các người lãnh đạo Tổng cục II hiện nay lại tiếp tục gây ra các vụ án chính trị nghiêm trọng tiếp theo cho đến Đại hội 9.

    Những tài liệu về vụ Sáu Sứ, các vụ liên quan đến Tổng cục II: vụ Ngọc sọ não, vụ người của Tổng cục II đưa lên mạng nói xấu lãnh đạo cấp cao của Đảng, vụ tên Vinh bán kế hoạch phòng thủ bầu trời cho địch, tên Kê làm pa-ra-bol để ăn cắp tiền, vụ đưa ảnh và tài liệu vu khống đồng chí Lê Khả Phiêu trước Đại hội 9, vv... là những tài liệu về những kẻ phạm tội. Đó không có gì là bí mật với Trung ương, với Uỷ ban kiểm tra các khoá liên quan, với các đồng chí Nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư các khoá. Dấu diếm, ngăn cản, không làm rõ sự thật của tội phạm là phạm pháp, vi phạm đường lối, bản chất, truyền thống, và Điều lệ Đảng. Phát hiện kẻ tội phạm là có công. Vì có hiện tượng bao che, bịt kín sự thật về những tội phạm nghiêm trọng cho nên tôi phải làm rõ với Trung ương, Uỷ ban kiểm tra, các cơ quan chức năng và rồi đây báo cáo với các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư các khoá. Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh là những kẻ đồng chủ mưu các vụ vu khống của lãnh đạo hiện nay của Tổng cục II. Phải đưa ra Pháp luật. Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh không phải là người có công trong vụ "khủng bố Võ Thị Thắng".

    Quan điểm của Đảng là: - Thi hành Pháp luật, không trừ một ai dù người đó ở cương vị gì, dù tuổi tác bao nhiêu, dù trước đây đã giữ những chức vụ nào. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, dưới sự chỉ đạo của các đồng chí thế hệ trước, Cục II đã có một đóng góp. Nhưng từ ngày Tư Văn, Vũ Chính nắm Cục 12 và Tổng cục II thì một bộ phận quan trọng Tổng cục II đã trở thành một công cụ vu khống chính trị. Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh đã phản bội lại truyền thống Tổng cục II.

    3- Uỷ ban Kiểm tra Trung ương là do Trung ương bầu ra, Uỷ ban kiểm tra Trung ương có trách nhiệm độc lập của mình, phải kiên quyết, trung thực, dũng cảm vạch ra sự thật, vạch ra tội phạm. Nếu có điều gì Uỷ ban Kiểm tra không thống nhất với Bộ Chính trị thì có quyền báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương.

    4- Trong các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư, nguyên Phó Thủ tướng có thể có ý kiến khác nhau về một số vấn đề. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Trong các đồng chí ấy có 3 loại ý kiến: - Một số thấy rõ sâu sắc sự nghiêm trọng và thật nguy hiểm có hệ thống của các người lãnh đạo Tổng cục II hiện nay, - Có người bao che muốn dấu sự thật, - Một số người chưa rõ. Cho nên phải có thảo luận, tranh luận, sòng phẳng, thật sự dân chủ phân biệt đúng sai trong các đồng chí ấy. Bộ Chính trị cần lắng nghe tất cả, phân biệt đúng sai trên quan điểm của Đảng, chứ không vì lý do có những ý kiến khác nhau mà xếp lại những vụ việc nghiêm trọng. Trung thực mà nói, ngay trong số đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư, cũng có người, cá biệt dính líu đến các vụ của lãnh đạo Tổng cục II hiện nay.

    Xếp lại những vụ nghiêm trọng liên quan đến việc xây dựng chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là thiếu trách nhiệm chính trị đối với Đảng, nhân dân, Tổ quốc, thiếu trách nhiệm với những đồng chí bị vu khống chính trị. Lịch sử của dân tộc và của Đảng đã chứng minh rằng: Không ai có thể che dấu và bịt kín được sự thật. Sự thật sẽ tự mở đường mà đi.

    Xin chúc các đồng chí sức khoẻ, làm đúng tinh thần của Đảng: Kiên quyết làm đúng Pháp luật, không trừ một ai. Xin chân thành cảm ơn.

    Thượng tướng, Nguyễn Nam Khánh
    Nguyên Uỷ viên Trung ương khoá 5, khoá 6, khoá 7
    Nguyên phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị

    ----- O -----

    SỰ TRÍ TRÁ CỦA QUYỀN LỰC & CÁI KẾT CỤC TẤT YẾU ?

    QCTS

    Trong những thể chế độc tài, quyền lực được xây dựng từ một cá nhân; sau đó, quyền lực được củng cố bằng cách triệt hạ và tiêu diệt những con người đối kháng, làm cho người hiền phải bỏ xứ ra đi hoặc chết già ở xó xỉnh nào đó. Hậu quả, bộ máy độc tài gồm toàn những con người làm ít, nói nhiều; cái kiểu nói a-dua, tung hô khẩu hiệu. Như vậy, chính thể chế độc tài đã tạo cho guồng máy của họ những con người bất tài nịnh bợ, bàn luận viển vông; những ý kiến xây dựng của dân chúng đã bị các tầng lớp quan lại trung gian vất bỏ hoặc méo mó. Những con người ngồi ở trên cao, chẳng biết mình đang ở đâu và lương dân đang nghĩ gì ? Sưu cao thuế nặng; dân chúng phải đóng nhiều thứ thuế, góp nhiều thứ nghĩa vụ, nhưng họ chẳng có một thứ quyền lợi nào cả. Cái gì cũng nằm trong cơ chế xin-cho; xin thì chưa cho, mà chưa cho thì không được làm. Hậu quả là nhân dân ngày càng chán ghét chế độ độc tài đó, chẳng muốn đóng góp điều gì để xây dựng quốc gia; cuối cùng, thể chế độc tài rơi vào suy thoái và sụp đổ. Đó là công thức chung cho những chế độ độc tài ở phương Đông, cũng như đã xãy trong lịch sử cổ đại phương Tây.

    Không có một vị đế vương nào có thể trị vì thiên hạ mãi mãi được. Tần Thủy Hoàng là người có công thống nhất đất nước Trung Hoa, nhưng ông ta là kẻ độc tài. Ông ta cho người đi tìm thuốc trường sinh để mong kéo dài sự sống, nhưng cuối cùng cũng chết trên đường đi tuần thú. Tình hình bát nháo, hỗn loạn và tha hóa về đạo đức của xã hội VN hôm nay là có nguyên nhân từ sự cai trị quá lâu và quá hà khắc của độc tài CS.

    Sự độc tài của Cộng Sản Việt Nam (CSVN) có nhiều điểm đặc biệt hơn những nước khác là: Ngoài sự tàn bạo của các vua chúa phong kiến Trung quốc; họ còn có thêm chính sách mị dân của Lê-nin, guồng máy tuyên truyền của Phát xít Đức, sự xúi giục của chiến tranh nhân dân và cách mạng văn hóa của Mao Chủ tịch … Thể chế độc tài của CSVN không phải do một người tạo nên mà là sự hỗn tạp, lai căng như một thứ tạp phí lù, nhưng lại có mùi tanh và màu đỏ của máu. Ngày xưa, Mác đặt ra lý thuyết CS chỉ nói đến giá trị thặng dư, sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản; Mác chỉ nói đến tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất … chứ Mác đâu có nói đến mọi người dân trong chế độ CS đều “bị” sống trong những tổ chức do đảng CS quản lý ?. Người dân sống trong một nước XHCN là bị quản lý từ lúc lọt lòng cho đến khi chết; từ nhỏ thì có Đội thiếu niên nhi đồng Hồ Chí Minh, lớn lên thì đoàn thanh niên … còn về già thì có hội lão thành cách mạng. Không chạy đâu cho thoát ?. Để cai trị dân và dập tắt những tư tưởng đối lập từ trong trứng nước; họ xây dựng mạng lưới an ninh, rất chặt chẽ, từ trung ương đến tận tổ dân phố; mọi hành vi cho đến lời ăn tiếng nói của dân chúng đều bị theo dõi, giống như mạng lưới an ninh dưới thời Hô-nếch-cơ của Đông đức. Ở nước Đức, ranh giới Cộng Sản-Tư Bản chỉ cách nhau một bức tường, bên này nói bên kia nghe; cho nên người ta mới xây dựng mạng lưới an ninh theo kiểu đó. Còn ở VN, dưới là biển trên là núi; dù dân chúng có la làng cũng chẳng có ai nghe đâu, mà phải theo dõi chặt chẽ như vậy ?.

    Trong guồng máy đảng của họ, cũng có Ban tổ chức chính quyền hay là Ban an ninh nội chính, chuyên theo dõi tư tưởng và hành vi của các viên chức đảng. Ở một thể chế như CSVN, không có đảng có nghĩa là không có con đường công danh ?. Công danh là cái sự nghiệp mà người đàn ông phải tìm cho ra trong suốt cuộc đời của mình, nhưng công danh cũng không cần thiết bằng miếng ăn. Khi đói con người ta phải tìm miếng ăn trước đã !

    Trước đây, VN là một đất nước không có nền kinh tế thị trường; con người ta muốn sống không có cách nào khác, là phải chui vô bộ máy nhà nước. Đôi khi biết rằng; cái cơ chế nhà nước CS không phù hợp với tính khí và công việc của mình, nhưng cũng phải vô để mà sống, để mỗi tháng được mười mấy cân gạo; còn hơn là lang thang chết đói. Cho nên có câu khẩu hiệu: “Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói”. Tôi vẫn nhớ, mỗi chạng vạng tối, trên đường vác cuốc từ đồng về nhà là trong đầu tôi lại vang lên câu: “Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói”. Tôi không phải là kẻ tâm thần, nhưng đó là cách tự an ủi mình trong thời buổi khắc nghiệt vì miếng ăn. Nếu tôi không lẩm bẩm được như vậy; có lẽ, tôi sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay, để mà viết lách. Ai cũng đầu tắt mặt tối, lấm lem lấm luốt thì mới là vinh quang; cái vinh quang của thời CS nguyên thủy. Vì vậy, nhiều người chịu không nổi phải bỏ nước vượt biên. Chưa hết đâu ! Con vượt biên thì kêu cha mẹ lên làm kiểm điểm, phạt công ích.

    Hôm nay, nền kinh tế thị trường đã mở ra cho người dân VN một con đường làm ăn; nhiều người dân ở nông thôn vào thành phố kiếm sống bằng nghề buôn gánh, bán bưng. Ngồi uống cà-phê ở vỉa hè khoảng 30 chục phút thì sẽ đếm được khoảng chừng ấy người đến mời bạn mua hàng; từ em bé đánh giày cho đến chị bán báo, từ bán vé số cho đến hộp quẹt ga … Tức nhiên, những công việc này chẳng phải là hay ho gì, nhưng dù sao cũng cho người dân một cơ hội để lựa chọn kế sinh nhai; còn hơn là trước đây, có sức lao động nhưng muốn làm cũng không được làm. Tôi còn nhớ hồi tôi là sinh viên, trước khi đi học tôi sắm cho mình một bộ đồ vá xe đạp; cứ hy vọng rằng mình sẽ kiếm được cơm trong những năm tháng xa nhà, nhưng nhiều buổi chiều xách đồ nghề ra ngồi ở góc phố mà chẳng có ai vá xe cả. Bởi vì lúc đó, ai cũng sắm cho mình một bộ đồ nghề, xe bị thủng ruột cứ dắt về nhà vá cho đỡ tốn tiền. Có một hôm; gặp ông Thầy bị thủng ruột xe, muốn vá dùm nhưng ông thầy sợ tốn tiền nên cũng dắt bộ về nhà. Từ đó, tôi không còn hy vọng sẽ kiếm thêm tiền ăn học bằng cái nghề sửa xe đạp. Tôi giải nghệ và dành thời gian để học hành !. Hồi đó, tôi ngu lắm tôi không hiểu là nền kinh tế chỉ huy đã làm cho người dân trở nên ích kỷ và quay về cuộc sống của chính mình. Cái tâm lý lo toan, bòn mót của người nông dân và tiểu thương Việt Nam đã bị CS khai thác triệt để và nó còn dai dẳng lâu lắm ?

    Sau ngày 30 tháng 4, tôi là một thanh niên nhiệt tình; bởi vì đó là bản chất; tôi siêng năng họp hành, tích cực tham gia các phong trào. Mới 15 tuổi, từ nhỏ đến lớn chỉ biết ăn học nhưng bây giờ phải cuốc đất trồng lúa, tham gia vệ sinh đường phố, phê bình những con người chây lì … Tôi không chịu thua các bậc đàn anh, đàn chị của mình; những con người đã trưởng thành, đã đi làm. Tôi muốn chứng minh rằng cách mạng đã cho tôi cuộc sống mới và tôi cố gắng làm tốt những gì mà cuộc sống đã cho tôi. Vì phê bình những người trước đây là lính Ngụy nên đôi lúc tôi bị đe dọa; nhưng không sao, tôi đã là người của cách mạng thì sẽ được bảo vệ.

    Tôi nhớ có một lần bầu Liên phân hội trưởng, và đây là lần đầu tiên tôi thấm đòn CS. Xin nhắc lại rằng; Liên phân hội gồm ba Phân hội thanh niên, trong một khu phố thì thanh niên sinh hoạt theo từng tổ dân phố, gọi là phân hội. Trước buổi bầu chọn này, nhiều người nói rằng tôi sẽ được bầu làm Liên phân hội trưởng. Tôi nghĩ rằng mình cũng xứng đáng được sự ủng hộ của thanh niên và vừa lòng cấp trên là Chi hội. Cũng vui rồi! Đến ngày bầu bán; đó là một buổi tối mùa đông, trời không mưa nhưng se lạnh, tôi tin chắc rằng mình sẽ thắng cử. Thành phần bầu cử gồm hai người, tôi và đồng chí M.; nguyên tắc là bỏ phiếu kín, gạch bỏ một chọn một. Tôi chờ đợi … Nhưng không, thay vì bỏ phiếu kín thì họ lại biểu quyết bằng tay. Đồng chí thư ký Chi hội đến tham gia phiên họp, phát biểu vài lời rồi nói rằng; ai đồng ý đồng chí M. làm Liên phân hội trưởng thì giơ tay. Kết quả đếm tay ?. Quá bán; hơn một nữa người tham dự, họ tuyên bố M. thắng cử; rồi đề nghị ghi vào biên bản cuộc họp. Họ không đề cập gì đến tôi cả !?. Họ sắp xếp sự việc nhanh đến mức tôi không hiểu điều gì đang xãy ra nữa. Tôi trớt quớt, hơi bị quê; nhưng sau đó trấn an lại mình. Nhiều người hỏi tôi là tại sao tôi rớt chức vụ Liên phân hội trưởng ?. Tôi làm sao mà biết được ?. Tôi chỉ biết là mấy ngày trước đó, đồng chí M. tỏ ra thân mật với mấy ông ở Chi hội và mấy ổng có vẻ lạnh nhạt với tôi mà thôi !. Sau này tôi mới hiểu rằng họ biểu quyết bằng tay là có ý đồ; họ đã vận động thanh niên trước rồi, đến khi giơ tay thì không ai dám chống lại ý kiến của Chi hội cả. Nếu bỏ phiếu kín thì tôi có cơ hội thắng cử; vì thanh niên có thời gian để lựa chọn, hơn nữa việc gạch bỏ sẽ không bị ai để ý.

    Đó là bài học đầu tiên của tôi về những hoạt động bè phái trong guồng máy CS. Các bạn biết; chức vụ của Hội thanh niên là không có lương, nhưng họ còn dùng thủ thuật để loại bỏ đối thủ như vậy; huống hồ gì ở những chức vụ quyền cao, bổng trọng. Tôi không phải là kẻ cơ hội, không lợi dụng đoàn thể để mang lại danh vọng cho mình; nếu không tôi sẽ cay cú và sẽ tìm cách trả đủa. Sau này tôi gặp hai lần như vậy nữa, cũng đề bạt rồi cũng bị hạ bệ; là do cái tính khí ương bướng của tôi. Chỉ cần ai đó nói lại cái quan điểm của tôi cho người cấp trên, là tôi tiêu !. Tôi muốn nhắc lại điều này; vì vấn đề mà tôi sắp đưa ra cũng liên quan đến nhân sự, đấu đá lẫn nhau trong guồng máy CS.

    Chế độ CS là chế độ độc tài, tập quyền ? Nhưng điều này chỉ đúng với đại đa số nhân dân, còn trong nội bộ của họ là sự phân quyền, chia rẽ. Sự phân quyền này phát sinh trong quá trình củng cố độc tài; có nghĩa là trên con đường xây dựng quyền lực, họ đã tạo ra quá nhiều bè phái, kẻ thù; triệt ha lẫn nhau. Ai cũng chờ một cơ hội để phục hận, rửa nhục. Một con người lên nắm quyền lực là phải tạo ra vây cánh, bao che cho chiếc ghế của họ. Trong một xã, họ so kè với nhau, người của dòng họ nào chiếm được nhiều ghế trong đảng ủy, ủy ban ? Họ hơn thua nhau từng chiếc ghế một !. Ngày trước ông Hồ đã nói đến chủ nghĩa cục bộ, địa phương; có nghĩa là một người nào đó lên nắm quyền là sẽ đưa bà con, dòng họ của mình lên theo; ưu tiên cho địa phương của mình, chiếu cố người trong ngành của mình. Người ta còn nói đến chủ nghĩa khác là chủ nghĩa cơ hội; có nghĩa là chụp giựt, vơ vét, cờ đến tay ai người đó phất. Có lẽ hai cái chủ nghĩa này là đứa con sinh đôi của chủ nghĩa xã hội ? Đứa con thứ ba là chủ nghĩa giáo điều, và đứa con thứ tư là chủ nghĩa thành tích … CNCS đã đẻ ra biết bao đứa con làm băng hoại nền văn minh của nhân loại này !

    Thường thì những vụ đấu đá, tranh giành quyền lực phải được giải quyết êm xuôi. Bởi vì; sau những vụ dàn xếp đó thì quan chức CS ai cũng được hết, được nhiều được ít cũng là được; chỉ có lương dân là mất mà thôi. Còn nếu bất phân thắng bại thì cấp cao hơn trong guồng máy của họ sẽ giải quyết. Ví dụ; Phường xã có đấu đá nội bộ, ba bên tứ bộ chưa nhất thống (thống nhất; họ dùng lối đảo ngữ để gọi là có thay đổi, cho phù hợp với cách mạng) thì cán bộ ở Quận huyện sẽ xuống; quận huyện có căng thẳng thì tỉnh thành sẽ xuống; còn Tỉnh thành khi rối chuyện lại có trung ương. Ngày trước trung ương có chuyện lại nhờ đến cố vấn đàn anh Liên xô, Trung Quốc. Nếu chưa được như ý thì mời qua bên đó; Brê-giơ-nép, Giang Trạch Dân nói một tiếng là răm rắp nghe theo. Tình cảm anh em XHCN còn mặn nồng hơn nước biển Thái Bình Dương. Guồng máy của CS hay là chỗ đó! Trên nói là dưới phải nghe, nghe cho đến cái thằng dân đen ba trời ba trợn; không có cái chuyện cải lại hay là từ chức như thằng tư bản ?. CS như con rắn độc; đánh rắn thì phải đánh trúng đầu, còn đánh cái đuôi hay khúc giữa, nó quay lại táp cho một cái là toi đời. Cho nên khi Liên Xô không còn nữa, người Mỹ không ngần ngại tuyên bố; chiến tranh lạnh đã kết thúc. Hiện nay, ông anh Trung Quốc có nhiều việc phải lo và không còn tin thằng em có bản chất tráo trở. Vì vậy, cuộc đấu đá quyền lực của Trung ương CS đảng VN như rơi vào bế tắc ?

    Thời gian gần đây, dư luận xôn xao về lá thư của Thương tướng Nguyễn Nam Khánh (N.N.K). Nội dung thư là yêu cầu phải giải quyết dứt điểm vụ T4, vụ đó đại khái như thế này: Có một nhóm người lập bằng chứng giả tạo, vu khống cán bộ cao cấp trong công an, chính quyền, đảng … làm việc cho CIA. Chuyện này đối với tôi không có gì mới, bởi vì khi biết bản chất một sự vật thì sẽ biết nhữnng cái nằm bên trong của nó. Tức nhiên chỉ có bọn tiểu nhân mới đơm đặt để hại người hiền lương mà thôi, chứ người quân tử ai lại làm như vậy ? Cứ việc nhìn mặt người thì cũng biết ai đã đặt điều cho ai rồi; chứ đâu cần phải điều tra, xét hỏi. Tội phạm học nhân diện là ở đây !. Điều ngạc nhiên của tôi là tại sao sự việc xãy ra cách đây 10 năm; mà bây giờ các vị tướng lãnh, những vị anh hùng của một thời, mới đòi đem ra xét xử để trả lại danh dự cho mình ?. Nghĩ cũng cay, bom đạn Mỹ không chết, đòn thù không khuất phục mà lâu nay lại chịu nhục dưới mưu đồ của bọn nhải ranh ?. Nếu để ý mọi chút, thì quý vị sẽ thấy rằng thời điểm cao nhất cho sự lộng hành của Tổng cục II là những năm 1994-1995, thời điểm mà Năm Cam làm mưa làm gió ở VN và thời điểm mà số người bị bắt giam oan sai nhiều nhất. Những vụ việc mà Viện Kiểm sát và Công an xin lỗi dân chúng và xin được bồi thường, trong thời gian gần đây, phần lớn xãy ra vào thời điểm này ? Vì sao vậy ?. Bởi vì có quá nhiều người dựa hơi vào Tổng cục II để lộng quyền, để bắt người, để giam oan !. Như vậy, tay chân của Tổng cục II không phải chỉ nằm ở Hà Nội và Sài Gòn mà còn cắm ở Sóc Trăng, Cần Thơ … Hà Tây.

    Chiếm giữ quyền lực và thi thố quyền lực là một niềm vui thú của đàn ông, và điều này có lẽ là sở thích bản năng của con người xuất phát từ cuộc sống săn bắn, hái lượm. Vì vậy, vua chúa ngày xưa thích săn bắn và ưa nhìn thấy máu của những con vật hiền lành, ngoan ngoãn.

    Trong binh pháp Tôn Tử, ở chương dùng gián điệp có nói đến kế nội gián. Nội gián là dùng gián điệp xâm nhập vào hàng ngũ đối phương để lấy tin tức, nắm được mạng lưới của địch để phục vụ cho mục tiêu của mình; còn phản gián là dùng gián điệp của địch để quay lại phục vụ cho mình. Ông L.Đ.A đã dựng nên một hồ sơ nội gián giả tạo, với mục đích triệt hạ những con người không thuộc phe phái ông ta; trù dập những con người trung kiên, một lòng một dạ, sắt son vì dân vì nước. Nhưng do sử dụng vụng về, nên kế nội gián của ông ta đã trở thành kế “ly gián ngược”. Xin nhắc lại ly gián có nghĩa dùng gián điệp xâm nhập vào hàng ngũ của địch để chia rẽ, phá hoại quân địch. Tôi dùng chữ ly gián ngược, bởi vì ông ta đã dùng kế gián điệp để ly gián trong chính nội bộ của mình ? Kế này không có trong binh pháp Tôn Tử! Với mưu đồ này ông có thể ra tòa án binh với cáo trạng: Chống đảng, Phá nước, Hại dân … Loạn thần, nghịch tặc, phá hoại kỷ cương phép nuớc, lừa trên gạt dưới là cái tội đáng bị chém đầu ?

    Phải có một đầu óc giàu tưởng tượng mới có thể viết tiểu thuyết trinh thám được. Nhiều người cảm thấy khó hiểu khi đọc câu chuyện gián điệp T4; nhiều đoạn hư cấu, ly kỳ, hấp dẫn giống như là tiểu thuyết gián điệp rẻ tiền đang bày bán nhan nhản trong các hiệu sách. Đầu tiên đọc, tôi thấy câu chuyện cứ loạn tùng phèo! Nhưng sau khi định tâm lại thì đâu có cần theo dõi sít sao nội dung, bởi vì tôi đã quen với lối nói của những người CS: thao thao bất tuyệt, quanh co dài dòng, tràng giang đại hải … nhưng đúc kết lại thì chỉ cần một câu là đủ. Nhưng thôi! Những người đồng chí, đồng đội của họ mà họ còn chụp cho cái mũ, là làm việc cho CIA; vị đại tướng oanh liệt một thời mà họ còn không buông tha nữa; huống hồ gì tôi chỉ là thằng dân, đã có một thời ăn cơm Mỹ-Ngụy.

    Người Mỹ có lẽ cũng phì cười ! Mấy anh tự giăng bẫy rồi chui vào, chứ chúng tôi không cài đặt ai đó nghe !. Chúng tôi chưa đánh mà mấy anh dùng tiếng tăm, ảnh hưởng của tôi để đánh nhau rồi đó nghe! Ở VN cũng như ở mọi nơi khác, người ta đều nghe nói tới CIA; người ta biết đến như là mọi tổ chức bí mật chuyên lật đổ, giàu tiền bạc, thừa sức mạnh và có quyền sinh sát trong tay. Dùng một tổ chức thực thực hư hư, lúc ẩn lúc hiện, có nhiều quyền lực để trừ khử nhau, thì quả là thượng sách ! Người Mỹ có lẽ đã biết trước chuyện này, và họ chỉ cần chừng đó là đủ.

    Tình hình chính trị trong nước rối ren; tình hình này sẽ ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế. Chỉ khác với các chế độ dân chủ là người ta thấy dân chúng xuống đường biểu tình, công đoàn bãi công, nhà báo quay phim chụp ảnh, TV chiếu đi chiếu lại … Sự ngấm ngầm đấu đá trong nội bộ CS còn nguy hiểm hơn nhiều lần. Tầng lớp trên cao đấu đá nhau càng ác liệt, thì tầng lớp dân đen bên dưới càng hốc hác, giơ xương. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết mà !. Sự ì à ì ạch, chậm phát triển, bát nháo trong một đất nước CS là có nguyên nhân từ đấu đá nội bộ ?. Người ta cố tình đưa hình ảnh VN như là một đất nước thanh bình, ổn định chính trị để kêu gọi đầu tư, phát triển du lịch; nhưng những gì đang diễn ra trong xã hội lại trái ngược với những hình ảnh đó. Để dễ hiểu, tôi có thể chia cuộc đấu đá chính trị trong chính trường CSVN làm bốn phe:

    1. Phe đương quyền, gồm những con người đang đương chức; ông L., ông K., ông M. ông K. …
    2. Phe cố thủ, gồm ông L.Đ.A. và những người tay chân của họ Vũ, họ Nguyễn …
    3. Phe phản công, gồm ông G. và những người bị vu oan giá họa bao nhiêu năm nay. Tức nhiên, cũng có những người bị vu oan giá họa nhưng vẫn nằm im, chưa lên tiếng (Những người này đã mất đi cái dũng khí, một thời oanh liệt).
    4. Phe dân chủ gồm các chiến hữu trong phong trào dân chủ, mà nhân vật trung tâm là cố trung tướng Trần Độ.

    Bốn phe này đều có mối quan hệ cũ, tương hỗ với nhau. Ngày xưa có cùng chiến hào, ngày nay có những mục tiêu, giá trị cần đạt được; nói theo ngôn ngữ của thời đại toàn cầu hóa là có cơ hội nhưng cũng đầy thách thức, có tương đồng nhưng cũng đầy cạnh tranh. Phe cố thủ thì muốn dùng phe đương quyền để xuê xoa những sai trái, tội lỗi mà họ đã gây ra. Còn phe phản công thì muốn giải quyết dứt điểm nợ nần, ân oán. Mục tiêu mà các phe đưa ra là để giữ vũng an ninh chính trị và trật tự xã hội! Chỉ có khác nhau, là cách thức để đạt được sự ổn định chính trị như thế nào mà thôi? Bởi vì không phe nào muốn đất nước bị xáo trộn, cuộc sống của họ bị đe dọa. Phe đương quyền muốn ổn định chính trị, ngay tức khắc, phải ém nhẹm vụ này đi; vì vậy mới có chuyện khám xét nhà Đại tá Lê Hồng Hà để tìm ra lá thư của Thượng tướng N.N.K. Phe phản công cũng muốn ổn định chính trị lâu dài, nên phải giải quyết rốt ráo vụ này. Nhìn vào bản chất của sự việc và tính khoa học thì cách giải quyết của phe phản công là hợp lý và có tính bền vững. Cứ ém nhẹm hoài, đến lúc đổ xòa ra thì biết đâu mà chống đỡ? Như vậy, kẻ tám lạng người nữa cân; sự ổn định chính trị chỉ khác nhau về cái chiều thời gian mà thôi.

    Thời gian là cái gì ? Đối với nhà tâm lý thì thời gian sẽ làm vơi đi những đau khổ, mất mát; đối với nhà vật lý thì thời gian là chiều thứ tư của không gian, vật chất có thể là có nghĩa nhưng cũng là vô nghĩa nếu mất đi cái chiều này; còn đối với những nhà chính trị thì thời gian là thời cơ, là yếu tố duy nhất để tích tụ lực lượng … Đây là cuộc chơi của phe dân chủ; thời gian sẽ giúp phe dân chủ sắp xếp lại lực lượng, củng cố lại đội hình, tập trung sức mạnh, tấn công dồn dập, không mệt mỏi đánh vào những điểm sơ hở nhất, lõng lẻo nhất của thế lực độc tài. Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng; hai con lừa cùng tranh nhau trên chiếc cầu hẹp để đòi đi trước, không con nào chịu nhịn con nào; cuối cùng cả hai con đều rớt xuống sông. CSVN đang ở trong bối cảnh gần giống như vậy !

    Ông G. là người quá già ! Khi về già con người ta thường nghĩ đến quá khứ hơn là tính toán cho tương lai; một phần do cái bệnh thoái hóa não tuổi già, phần khác do cái bệnh công thần; người ta luôn nhìn đến ánh hào quang của quá khứ, làm chói mắt. Tôi còn nhớ là vào khoảng năm 1994-1995 gì đó; ông Mac-Namara, kiến trúc sư của cuộc chiến tranh Việt Nam, có đến Hà Nội. Ông ta có nói với ông G. là ông ta lấy làm hối tiếc, và sai lầm khủng khiếp khi phải phát động cuộc chiến tranh VN; ông ta nói như trong quyển hồi ký “The tragedy and lessons of Vietnam” của mình. Nhưng ông G. vẫn cứ huênh hoang rằng: Cuộc chiến tranh của nhân dân VN chống đế quốc Mỹ là hoàn toàn chính nghĩa, dù phải hy sinh nhiều xương máu.

    Những lời phát biểu của ông G. làm nhiều người cảm thấy lo; bởi những lời lẽ như vậy làm cho con đường bình thường hóa với Mỹ trở nên dài hơn. Tôi không hiểu là tại sao ông ta lại phát biểu sự cố chấp đó ? Sự kiêu ngạo của CS không cho phép ông ta nói lời hối tiếc hay sao ? Ông ta không có lỗi, khi ông ta đã góp phần gây nên cuộc chiến làm ba triệu người Việt Nam chết, và ba trăm ngàn người còn mất tích hay sao ? Rồi cái vụ mới đây nhất là tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ; ông ta đã đến thăm, làm lễ kỷ niệm 50 năm và khánh thành tượng đài. Nhưng chẳng bao lâu sau khi ông trở về Hà Nội; cái nền của tượng đài gắn liền với niềm kiêu hãnh của ông ta, đã sụt đổ; mà ông ta không tỏ ra một chút cảm xúc nào cả. Ông ta không có cái khí khái và dũng mãnh của một tướng quân ?. Một người có danh dự và lòng tự trọng thì chỉ một chút vấy bẩn, là họ đã nổi đình nổi đám lên rồi. Khác với ông Trần Bạch Đằng, ở trong Nam, đang nằm bệnh viện thở ô-xy; nhưng nghe cái vụ Lương Quốc Dũng là ông ta nổi đóa lên, đòi đem ông Dũng ra xử bắn.

    Hà Nội đất chật, người đông !. Các tinh hoa của nước Việt Nam đều quy tụ về đất Kinh kỳ. Những vị tướng lĩnh và các cựu chiến binh; sau hai cuộc trường kỳ kháng chiến, không ai muốn rời xa thủ đô. Và hình như; mảnh đất Hà Nội đã trở nên quá chật, không đủ để họ vùng vẫy, thi thố sức bình sinh của một dân tộc đã có lịch sử bốn ngàn năm văn hiến. Chuyện đấu đá nội bộ vẫn còn là chuyện dài nhiều tập. Chỉ biết một điều rằng; trong cuộc đời mỗi con người đều nhận được những cái mà tạo hóa đã ban cho họ. Đó chính là lẽ công bằng của trời đất !.

    Saigon, ngày 20/8/2004

    ----- O -----

    Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

    Cáo trạng lần thứ 7
    của 80 triệu dân Việt Nam yêu cầu Bộ chính trị không được đồng loã - bao che - chạy tội cho bọn “Phản nước - hại dân - làm tay sai - tôi tớ - gián điệp cho ngoại bang”, phải đưa ngay đồng bọn ở tổng cục 2 thuộc Bộ quốc phòng ra truy tố xét xử công khai trước toàn dân thiên hạ trong nước và quốc tế.
    Kẻ cầm đầu là tên chột mắt - cai phu đồn điền - thất học - vô danh tiểu tốt.
    Lê Đức Anh nguyên Chủ tịch nước. Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư.

    Kính gửi: ………………………………………………………………….

    Chúng tôi những người dân Việt Nam phẫn nộ bất bình, lớn tiếng tố cáo, kịch liệt phản đối về mọi hành động của lũ giặc nội xâm, lũ quỷ đỏ đội lốt người, tán tận lương tâm, lòng lang dạ sói còn dã man tàn ác hơn loài quỷ sứ ma vương. Bao chục năm nay bọn chúng đã luồn lách chui rúc, dùng cái quyền uy để thực hiện trăm mưu ngàn kế nhằm bảo vệ cho cái đặc quyền đặc lợi và cái ngai vàng thống trị của tập đoàn “Cách mạng quan tham trên dưới”. Chính vì vậy mà người dân Việt Nam chúng tôi bao chục năm nay phải sống trong cảnh rên xiết - lầm than, bị kìm kẹp áp bức - bóc lột của bè lũ độc tài - bạo chúa - ác ôn - cướp ngày, chúng đã cướp đi tất cả mọi quyền sống, quyền làm người, giờ đây mọi thủ đoạn mưu ma kế quỷ của bọn chúng đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thượng tướng Nam Khánh cùng tất cả các tướng lĩnh hiện đang công tác tại các tỉnh, thành, các cựu chiến binh, các nhà lão thành cách mạng đã vạch trần trước công luận trong nước và quốc tế, dân tôi tự hào biết bao vì chính thế hệ Hồ Chí Minh năm xưa đã một thời lập lên chiến công, vinh quang hiển hách làm rạng rỡ non sông Việt Nam khắp năm châu bốn biển.

    Giờ đây trong cuộc chiến “Chống tham nhũng” các vị lại trở thành những người lính xung kích tiên phong, những tấm gương sáng chói rọi soi cho toàn dân Việt Nam. Lại một lần nữa vùng lên giương cao ngọn cờ “Bách chiến bách thắng” của cha ông tiêu diệt lũ giặc nội xâm cứu nước cứu nhà - cho dù bao năm nay quý vị đã phải trải qua biết bao biến cố thăng trầm do bàn tay tội ác đẫm máu của bè lũ phản động, bán nước, hại dân - chúng đã giáng mọi tai hoạ hiểm nguy, gây biết bao tội ác tày đình xuống đầu các chiến sỹ trung kiên. Thậm chí cả gia đình các đồng chí phải hứng chịu. Những nỗi oan truyền kiếp mà dân tôi khắc cốt ghi xương. Dân tôi thề rằng: “Thù này phải trả, bắt chúng phải đền tội trả giá về mọi tội ác mà chúng gây ra”.

    Nay dân Việt Nam chúng tôi vui mừng khôn xiết như mở cờ trong bụng vì bao tháng nay dân tôi luôn dõi theo từng bản tin trong nước và quốc tế, những bài viết của các chiến sỹ cách mạng tận trung với nước, tận hiếu với dân đã mở trang sử mới trong cuộc sống thực tại của toàn dân Việt Nam. 80 triệu dân Việt Nam chúng tôi xin thành kính kính gửi tới các tướng lĩnh cùng các chiến sỹ trung kiên trên mọi mặt trận là niềm tin vững chắc như thành đồng của toàn dân luôn kề vai sát cánh bên các đồng chí, vì dân tôi cùng chung một lý tưởng là “Độc lập - Tự do - Dân chủ - Nhân quyền và Công lý” toàn dân, toàn quân phải kề vai sát cánh vào cuộc chiến.

    Giết giặc nội xâm - diệt trừ tham nhũng - diệt độc tài - sói lang - bạo chúa - ác ôn - cướp ngày” trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam.

    Tất cả để chiến đấu và chiến thắng lũ giặc nội xâm. Toàn dân Việt Nam sẵn sàng xông trận tiến lên đi theo tiếng gọi của lá cờ vì “Đại nghĩa của dân tộc Việt Nam”.

    Cho dù có phải hy sinh cả núi xương sông máu 80 triệu dân Việt Nam sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy, mấy chục năm qua tội ác tày đình của bọn chúng trời không dung đất không tha, không bút sách nào ghi nổi chúng đã dày xéo đất nước bao chục năm nay. Giờ đây mọi sự thật đã được phải bầy tất cả dưới trên đều là mục ruỗng, thối nát vô phương cứu chữa.

    Nay 80 triệu dân Việt Nam yêu cầu Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư không được phép đồng loã - bao che - chạy tội cho đường dây phản loạn xuyên quốc gia, bọn bán nước hại dân này là kẻ thù số 1 không đội trời chung của toàn dân Việt Nam. Vụ án sai lầm “Siêu nghiêm trọng” mọi tội lỗi của bọn chúng đã rõ ràng vì vậy cần phải được đưa ra xét xử công khai trước toàn thể nhân dân.

    1. Yêu cầu phải công khai trên mọi thông tin đại chúng và đưa ngay bọn tội phạm Lê Đức Anh ra truy tố xét xử theo đúng Luật hình sự, trước quốc dân đồng bào trong và ngoài nước.
    2. Tất cả những kẻ dính líu, liên quan ít nhiều đến vụ án hiện còn chui rúc, ẩn nấp trong bộ máy Đảng - chính quyền các cấp, bất kể họ là ai, to đến đâu cũng phải lôi chúng ra ánh sáng hỏi tội, nghiêm trị và tống cổ, quét sạch tất cả những kẻ cơ hội - ô dù - phe Đảng - vây cánh đục nước béo cò ra khỏi các bộ máy công quyền từ Trung ương đến địa phương.
    3. Những tội ác tày đình, giết người không gươm của bè lũ phản động, giặc nội xâm quen thói “Gắp lửa bỏ tay người”, vu oan, giáo hoạ cho các chiến sỹ trung kiên. Bọn chúng đã được bọn chủ tớ quan thầy ngoại bang truyền cho những ngón nghề hiểm độc, tinh vi, sẵn sàng giết đồng đội, đồng chí để leo lên những nấc thang danh vọng, nhằm thoả mãn cái mưu ma kế quỷ mà đã ăn sâu vào máu của bọn độc tài, phát xít mới.
    4. Toàn dân yêu cầu cần phải truy tố, xét xử tất cả bè lũ tôi tớ trên dưới trong Bộ công an đã tự động khám xét nhà Đại tá công an Hồng Hà vào đêm ngày 10/7/2004 là vi phạm luật pháp và Hiến pháp. Giờ thì dân tôi mới hiểu rõ tận tim đen của ngành công an, một đồng chí đồng đội cùng ngành mà ông Bộ trưởng Lê Hồng Anh còn có cái xà tâm ma quái vậy, chả trách dân tôi đã bị ông cho bọn giặc quân của ông đổ bộ vào lúc nửa đêm 31/10/2003 bắt giam dân oan cả nước vào trại Lộc Hà (Đông Anh, Hà Nội) mà dân tôi đâu có tội gì. Dân tôi đã tố cáo rất nhiều nhưng ông vẫn lờ tịt vì đây là âm mưu thâm độc của ông. Toàn dân tôi yêu cầu Trung ương Đảng, Ban Bí thư cần phải truy xét hành động bạo ngược của ông Lê Hồng Anh vì chính ông này đã là vật cản của vụ án Tổng cục 2 - T4.
    5. Tất cả những vụ án đen tối bẩn thỉu, hèn hạ đã được các chiến sỹ cách mạng Việt Nam tố cáo, dân tôi đồng tình ủng hộ ý kiến của những bức thư tố cáo trên. Ngoài ra dân tôi còn yêu cầu phải làm sáng tỏ những vụ án đột tử, đầy bí hiểm mà chính bọn giặc nội xâm là tội phạm, nhưng bao chục năm nay chúng ỷ vào quyền thế mà bưng bít, che đậy giết người bịt đầu mối các vụ án sau đây đã một thời làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước.
      • Tập thể tướng lĩnh cao cấp của quân đội nhân dân Việt Nam bị giết trong chuyến bay sang “Lào”.
      • Đoàn cán bộ cao cấp của quân đội nhân dân Việt Nam bị giết trong chuyến bay ra thăm bán đảo Sơn Trà.
      • Cái chết đột tử của 4 vị đại tướng là: Nguyễn Chí Thanh, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn.
      • Cái chết đầy nghi vấn (tên bay, đạn lạc) trong chuyến đi săn của nguyên uỷ viên Trung ương Đảng Đinh Đức Thiện em ruột Lê Đức Thọ.
      • Cái chết bi thảm, đầy oan khuất của toàn gia nhà viết kịch lừng danh, đại tài với nhiều vở kịch vô giá, làm rung động khán giả trong và ngoài nước, và cũng làm lay động tứ trụ triều đình thời Lê Đức Thọ, Lê Duẩn. Bọn chúng đã dùng ô tô lao thẳng, cán chết toàn gia đình nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.
      • Cái chết đột tử thật quá bất ngờ, nhiều nghịch lý của giáo sư tiến sỹ Tôn Thất Bách đã làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Cái chết của Tôn Thất Bách là một tổn thương to lớn với nhân dân Việt Nam. Ông là một vị cứu tinh của dân nghèo khi lâm bệnh. Sự mất mát lớn lao cho nền y học nước nhà và thế giới. Đặc biệt là dân tôi đang chờ một sự kiện cải tổ đổi mới của ngành y học Việt Nam Việt Nam mà chỉ có ông mới đủ đức tài trọn vẹn giữ chức Bộ trưởng Bộ y tế trong tương lai, thế mà lũ giặc nội xâm đã hèn hạ, dùng mưu ma kế quỷ để thủ tiêu giết chết ông nhằm bảo vệ cho những kẻ vô học bất tài, thất đức nhưng lại cùng hội cùng thuyền, cùng phe cùng Đảng được tiếp tục ngồi cái ghế để thừa cơ thoả sức đục nước béo cò, chúng còn nham hiểm, thâm độc hơn là dùng ngành y tế là con dao 2 lưỡi thực hiện những ý đồ đen tối, bẩn thỉu giết người không gươm mà chỉ cần những độc tố mà mấy ai biết và ngờ tới, muốn làm được việc này chúng phải cho tay chân của chúng để thực hiện âm mưu lâu dài.

    Mấy chục năm nay người dân lành oan ức vô tội chúng tôi đã trở thành những nạn nhân của bọn bạo chúa, ác ôn, cướp ngày. Bọn chúng đã cướp đi tất cả quyền sống và quyền làm người của 80 triệu dân Việt Nam, xô đẩy chúng tôi đến bước đường cùng không còn lối thoát, mọi quyền lợi chính đáng hợp pháp của dân oan đã bị bọn quan tham cướp ngày của 64 tỉnh thành cướp trắng, dân oan lên đến Trung ương thì gặp phải bọn giặc nội xâm bao chục năm nay bọn chúng chỉ là ỷ quyền thế cùng ăn chia nên cách giải quyết cho dân oan chỉ là nhận được sự “Lừa đảo - bưng bít - đồng loã - bao che - chạy tội” cho nhau và cuối cùng là ăn cướp trắng của dân oan.

    Chúng tôi những người dân oan cả nước xin tố cáo 4 ông tứ trụ triều đình cùng tất cả những vị cao cấp khác, Quốc hội tháng 5/2004 vừa qua chính các vị phải thừa nhận mọi tội lỗi trước công luận toàn dân: “Bệnh ham quyền, ham chức, ham danh, ham lợi lan nhanh không thể làm ngơ, nếu để tà khí lấn áp chính khí thì đất nước này sẽ suy vong”, “Cấp dưới làm không tốt cấp trên phải ra roi”.

    Thưa hai ông cao cấp của Nhà nước Việt Nam ! ông không thấy xấu hổ với dân tôi sao ?. Chắc quý ông còn nhớ câu nói truyền kiếp của dân tôi “Thật đúng là miệng quan trôn trẻ”. Toàn dân Việt Nam yêu cầu những kẻ đức tài vô dụng hiện còn đang chui rúc ẩn nấp, nắm giữ những quyền cao chức trọng trong bộ máy công quyền của Trung ương, bao năm nay dân tôi thiết nghĩ những kẻ này chỉ là bù nhìn ăn cơm dân, làm hại dân. Các vị là người nắm giữ những chức vụ quan trọng từ Tổng bí thư đến Chủ tịch nước cùng hàng loạt các Bộ trưởng cần phải truy tố, cải tổ một loạt thì chính quyền mới thực sự là của dân, do dân và vì dân.

    Dân tôi nói thẳng, nói thật như vậy là theo quan điểm của ông Nguyễn Văn An đã trả lời phỏng vấn tại Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh ra ngày 2/7/2004: “Biết mà không nói là thiếu trách nhiệm”.

    Kính thưa ông Nông Đức Mạnh - Tổng Bí thư tối cao !

    80 triệu dân Việt Nam đang từng ngày, từng giờ xem ông chỉ đạo ngành Lập pháp Việt Nam, cái quyền uy của ông lần này có nói đi đôi với làm không hay ông chỉ giỏi nói trên diễn đàn, thông tin thôi. Ông còn nhớ bài phát biểu rất hùng hồn của ông trước Báo tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh ra ngày 3/01/2004 “Cương quyết xử lý những người sai phạm và những người bao che bất kể họ là ai”. Dân tôi yêu cầu ông hãy một lần vào trận để cứu dân cứu nước, chứ đừng để dân tôi thất vọng như bao chục năm nay. Cần phải đưa vụ án sai lầm siêu nghiêm trọng ra xét xử cấp bách ngay, như: Xét xử vụ án Trần Dụ Châu – kẻ tham nhũng đầu tiên bị tử hình, đó là vụ án xử tại Chiến khu Việt Bắc ngày 5/9/1930. Sau 74 năm đây là một vụ án xét xử truy tố bè lũ tham quan còn mắc nhiều tội danh như: Bán nước, hại dân, phá Đảng, làm gián điệp phản động cho nước ngoài.

    Nay toàn dân Việt Nam chúng tôi nói cho phường quan giặc nội xâm biết: Đã đến lúc bọn bay phải trả lại mọi quyền sống cho dân ngay. Nếu không bọn bay không còn chỗ mà sống. Cuối năm 2004 này Đại hội Á - Âu họp tại Hà Nội mà mọi quyền lợi của dân oan không được giải quyết thì dân oan Việt Nam mỗi người sẽ là một pháo đài tự phát trên khắp thành phố Hà Nội, để lúc ấy thế giới sẽ có kịch hay để xem, hiểu rõ thực chất về bọn giặc nội xâm chúng mày còn dám hênh hoang, sĩ diện, nói láo trên diễn đàn quốc tế nữa không ?…

    Toàn quân, toàn dân Việt Nam một lần nữa hãy kề vai sát cánh cùng đứng lên chung sức chung lòng, giết giặc nội xâm, diệt trừ tham nhũng, diệt sói lang, bạo chúa, ác ôn, cướp ngày trên khắp đất nước Việt Nam.

    Độc lập - Tự do - Dân chủ - Công lý và nhân quyền muôn năm !

    Cáo trạng này được gửi đi các nơi:
         - Trung ương Đảng.
         - Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
         - Nhà nước, Quốc hội
         - Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
         - Thượng tướng Nam Khánh
         - Tất cả các tướng lĩnh trong quân đội, Bộ Công an hiện đang công tác khắp các tỉnh thành.
         - Các cựu chiến binh, nhà lão thành CM HCM khắp mọi miền đất nước.
         - Tất cả các tầng lớp công nhân, nông dân có tư tưởng tiến bộ vì Độc lập - Tự do.
         - Toàn dân Việt Nam xin gửi các thông tin trong nước và quốc tế.

    Hà Nội 2004

    ----- O -----

    Nguyễn Khoa Điềm và Đào Duy Quát
    Hãy trả lời Đại tá Phạm Quế Dương

    Ngày 28/12/2002 lúc 15h 30’ tại sân ga Sài gòn 20 Công an của Quận 5 TP Hồ Chí Minh giả danh đội kiểm tra hành lý hành khách hoạt động thường xuyên đã tình cờ bắt được Đại tá Phạm Quế Dương ở sân ga với tội danh: mang theo những tài liệu cấm lưu hành và có nội dung chống Đảng. Nhưng thực ra đây là một cuộc vồ hụt vì trong người Đại tá Phạm Quế Dương không có lấy một tờ tài liệu nào, chúng còn hý hửng tưởng sẽ thu được một số tiền mà họ đinh ninh chuyến đi của Đại tá Phạm Quế Dương là để nhận tiền của nước ngoài gửi cho ông ta. Tất cả hai cái tưởng đó đều tan như mây khói vì trong người Đại tá Phạm Quế Dương ngoài chiếc vợt cầu lông đeo trên vai không có một thứ gì khác. Nếu theo đúng luật định mà theo phép lịch sự thì Đội Công an đặc mệnh này phải xin lỗi Đại tá Phạm Quế Dương và buộc họ phải mời Đại tá Phạm Quế Dương tiếp tục cuộc hành trình cùng vợ lên tàu ra Bắc. Song sự việc lại không diễn ra như vậy mà Đại tá Phạm Quế Dương đã bị đưa ngay về trụ sở Công an ngay chiều 28/12/2002 để tạm giữ. Rồi sáng ngày 30/12/2002 tại Hà nội Công an ập đến nhà Đại tá Phạm Quế Dương tại 37 Lý Nam Đế để tiến hành khám xét; trắng trợn hơn là Sứ quán Canada trang bị cho Đại tá một số trang thiết bị để phục vụ cho việc làm cộng tác viên báo chí cho Sứ quán Canada. Khi được mời làm cộng tác viên báo này Đại tá Phạm Quế Dương đã làm bản tường trình với Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ. Đại tá đã hành nghề khi được phép của Nhà nước ta. Vậy Công an thu giữ các trang thiết bị này là trái pháp luật, chỉ có thể có ở một Nhà nước dựa vào quyền lực, muốn làm gì thì làm.

    Trước những sự việc phi lý xảy ra ở hai thành phố nhà cầm quyền bèn nảy ra một cái trò kẻ tung người hứng. Đó là sự xuất hiện trên tạp chí thông tin tháng 2/2003 của Ban TTVHTW với dòng chữ đậm nét “Phạm Quế Dương đã bị khởi tố về tội “Gián điệp”. Tạp chí thông tin công khai này được đưa xuống từng Chi bộ trong toàn thành phố. Bọn họ cho rằng thủ đoạn này sẽ lấp đi được hành động phạm pháp của Công an tại hai thành phố bắt giữ khẩn cấp và khám xét khẩn cấp tại nhà Đại tá Phạm Quế Dương là có căn cứ.

    Bản thông tin đó lúc đầu cũng đạt được kết quả nhất định, nhưng cũng ngay lúc đầu không ít Chi bộ tại chức trong quân đội và Chi bộ nghỉ hưu có các CCB sinh hoạt đều lên tiếng yêu cầu cấp uỷ phản ảnh lên trên là căn cứ vào đâu mà khởi tố Đại tá Phạm Quế Dương tội “gián điệp”. Sự việc không dừng lại ở đây mà mỗi lần gia hạn tạm giam Đại tá Phạm Quế Dương và các cuộc họp sơ kết, tổng kết hàng quý, hàng năm ở những chi bộ có CCB đều được nhắc lại cần làm rõ vụ án Phạm Quế Dương làm gián điệp. Sôi động nhất là sau khi toà án phải thay lại tội danh gián điệp xuống lợi dụng quyền dân chủ để chống Nhà nước, nghĩa là từ chung thân cho đến tử hình thì còn từ sáu tháng đến 3 năm ... Nhưng nhà cầm quyền tưởng rằng công bố việc thay đổi tội danh này nó nói lên tính ưu việt thể hiện nhà nước ta rất công minh, sáng suốt, tôn trọng luật pháp. Thực ra chỉ những kẻ đần độn ngu dốt mới có sự ngộ nhận như vâỵ còn trình độ đảng trí dân trí của chúng ta hiện nay đã lên cao thì nhân dân nhận ra ngay đây là sự bịa đặt vu khống, quen dùng quyền lực để đàn áp; nhưng ngày nay trước sức ép của nhân dân trong nước và các lực lượng tiến bộ trên thế giới đã không cho phép những người cầm quyền bằng bạo lực được tung hoành. Họ không còn con đường nào khác phải bày ra cái trò thay đổi tội danh với lý do bị cáo đã thực sự cải tạo, đã nhận ra sự sai lầm v. v.... Cái nhận ra sai lầm ở đây không phải là bị cáo mà chính là ở bọn cường quyền, bất chấp luật pháp bắt người tuỳ tiện mà hiện nay họ còn giam giữ Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Vũ Bình. Câu hỏi được đặt ra là nhà cầm quyền hiện nay đã tỉnh ngộ đến đâu. Dân ta rất khoan dung, sẵn sàng tha thứ cho những việc sửa sai trước những sai phạm xúc phạm đến quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền làm người của nhân dân. Ngày 15/01/2004 phó Tổng Thống nguỵ quyền Sài Gòn khi trở về thăm quê hương, trong một số nội dung trả lời phỏng vấn các báo chí, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ có nói: Mỹ là đất nước tự do kinh khủng chỉ cần hai hay ba người thôi cũng có thể ra ngoài phố bắc loa, trưng biểu ngữ đả kích ngay cả Tổng Thống Mỹ; Cách toà Nhà trắng 500m dân có quyền thoải mái chửi Tổng Thống ... Vậy những nhà trí thức trẻ mà nhà cầm quyền đang giam giữ và Đại tá Phạm Quế Dương, nhà nghiên cứu Hán-Nôm Trần Khuê, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế chưa bao giờ có hành động bạo lực, chỉ đấu tranh trên nghị trường trước những vấn đề bất đồng về quan điểm, đường lối, tại sao Ban Tư tưởng Văn hoá lại la lối om sòm, đưa ra những thông tin thất thiệt để che dấu cho tội ác, cho hành động đàn áp người dân đòi dân chủ thực sự. Vậy nay Đại tá Phạm Quế Dương và ông Trần Khuê đã trở về, đại diện cho Ban Tư tưởng Văn Hoá là Nguyễn Khoa Điềm hãy trả lời những người trí thức, những vị cán bộ lão thành luôn Trung với nước Hiếu với dân như thế nào đây khi họ chung lưng đấu cật, cùng hội cùng thuyền với bọn cường quyền. Người dân chúng tôi yêu cầu Ban Tư tưởng Văn hoá phải nghiêm khắc kiểm điểm về hành động kẻ tung người hứng này. Truyền thống của dân tộc ta là rất khoan dung, nhưng chỉ khoan dung với những ai nhận biết được sai lầm. Dư luận chờ đợi Nguyễn Khoa Điềm và Đào Duy Quát phải trả lời vụ bôi nhọ danh dự Đại tá Phạm Quế Dương và ông Trần Khuê, cùng Bác sĩ Nguyễn Đan Quế.

    Nhân kỷ niệm ngày Cách mạng tháng 8 /1945

    CCB Vũ Đức Khiển
    61 khu Ba Son mới - Gò Vấp

    ----- O -----

    Giặc CỘNG !

    Nguyen Hai Son

    Ngay từ lúc còn bé, tôi đã nghe được hai chữ giặc Cộng; giặc là những tên xâm chiếm, đốt phá, chém giết … còn Cộng là Cộng Sản; một chế độ mà nhiều người đã từng nếm trải sự cai trị, sự ngạo ngược và sự bạo tàn của họ, trong đó có tôi. Nhớ một buổi tối, lúc đó tôi khoảng 5-6 tuổi, tôi được một người cô dẫn đi xem phim có tựa đề là Chúng tôi muốn sống. Nội dung phim nói về cải cách ruộng đất năm 1953, trong phim diễn về cảnh người cha là địa chủ bị đấu tố, bị chôn sống thân người chỉ chừa lại cái đầu, sau đó bị hành quyết bằng lưỡi cày với hai con trâu kéo đằng trước; còn người con là Đại uý Vinh đi bộ đội chống Pháp về thấy cảnh gia đình bị đàn áp nên phản ứng và bị bắt nhốt … Khi phim chiếu đến cảnh Đại uý Vinh tìm cách vượt ngục, anh ta cầm một cục gạch chuẩn bị đánh vào đầu tên cai ngục, lúc đó ở bên ngoài tiếng mõ, tiếng thùng thiếc, tiếng xon nồi … gõ loạn xạ và tiếng la: Giặc Cộng đến, Giặc Cộng đến … Buổi chiếu phim bị cắt ngang ở đó, người phụ trách buổi chiếu phim, mặc đồng phục màu đen, lên tiếng xin lỗi bà con vì phải hoãn buổi chiếu và xin được phục vụ lần sau. Chúng tôi lần lượt ra về dưới ánh đèn dầu leo lét soi đường, lẫn trong sự lo sợ và hối tiếc. Sau này, những người theo Cộng Sản (CS) tâm sự lại, mới biết rằng chính họ đã cố tình gây sự xáo trộn và náo động để phá hoại buổi chiếu phim, vì đó là bộ phim nói xấu chế độ CS Bắc Việt.

    Mỗi ngày đi học, đi ngang qua Uỷ ban Xã có dán một tấm áp-phích in hình ba ông giặc Cộng, mặc độc chiếc quần xà lỏn, đầu đội mũ cối có vẽ ngôi sao, trèo hái đu đủ; tôi thấy ngộ nghỉnh và tức cười, bởi vì giống ba con khỉ quá. Đầu óc ngây thơ của đứa trẻ 5-6 tuổi chỉ nhận thấy đựơc như vậy. Vài ngày sau, có người nghịch ngợm xé giấy báo dán vào đít ba ông giặc Cộng làm thành cái đuôi, mỗi lần gió thổi làm cái đuôi bay lên trông càng buồn cười hơn. Lũ trẻ chúng tôi chiều nào cũng kéo nhau đi xem cái tranh tuyên truyền ngộ nghỉnh này, mà chẳng hiểu chi cả ?. Những người đi theo giặc Cộng là bà con hàng xóm, là ông Bác bên nội, là ông Cậu bên ngoại, mà trước đây, chế độ miền Nam gọi họ là “những người lầm đường lạc lối”. Sau ngày 30.4.1975, chúng tôi được học tập chính trị rằng: Những người CS đã đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ và hung hản nhất thời đại, nhưng lại bị xuyên tạc là ba thằng giặc Cộng bu cành đu đủ không gãy … Rồi họ hỏi từng người, điều đó có đúng không ? Đế quốc Mỹ có thâm độc không ? vv và vv… Lúc đó, ai ai cũng thấy tội ác của Mỹ-Ngụy thật là tày trời !

    Quê tôi có một dòng sông lớn, nơi một chiếc cầu bắc qua, chiều chiều ra sông ngồi câu cá nhìn những cụm lục bình lửng lờ trôi, thật là thú vị. Thế rồi chiến tranh đến, hai bên đầu cầu có lính gác, chiếc cầu bị đặt chất nổ phá văng một mố; như vậy là những người lãng vãng quanh cầu đều bị ngăn cấm, bởi vì giặc Cộng đã giả dạng làm người đi câu để phá sập cầu. Chúng tôi nhìn những người CS như những tên phá hoại. Rồi những trận pháo kích vào đô thị miền Nam, trúng vào căn cứ Mỹ-Ngụy thì ít nhưng rơi trúng nhà dân thì nhiều, tháng nào cũng có vài ba vụ pháo kích làm nhà sụp, người chết kẻ bị thương. Cho nên, nhà nào cũng làm hầm để nấp khi có pháo kích, chúng tôi dùng căn hầm làm nơi chơi trò đánh giặc, thằng bên trong thằng bên ngoài chơi trò cắc-cù; dân chúng ở các đô thị miền Nam trứơc đây đều quen với tiếng rít của đạn pháo và tiếng hú của còi báo động. Có nhiều đêm, tối thì leo lên giường ngủ nhưng sáng mai dậy thấy mình đang nằm trong hầm (bởi vì, ngủ mê quá trong lúc pháo kích, nên ai đó đã bồng bỏ vô trong hầm mà không biết). Trước năm 1975, chẳng mấy người hiểu được dã tâm của CSVN ?

    Sau năm 1975, những người theo CS trở về nắm chính quyền; họ là những người chòm xóm, là bà con trong dòng họ; họ trở về từ chiến khu, từ nhà tù Côn Đảo, từ miền Bắc. Những lúc gặp mặt, trà dư tửu hậu họ kể về những mưu toan tính toán của họ trong những năm tháng trước năm 1975; họ kể về quá khứ như một phần không thể tách rời khỏi cuộc sống. Họ cũng không hiểu là tại sao lúc đó họ có những hành động và âm mưu nham hiểm như vậy ?. Tôi có một người bạn cùng xóm, khi còn tuổi vị thành niên, anh ta đã cầm súng bắn chết ông Xã trưởng, thế là bị bắt. Luật pháp Việt Nam Cộng Hoà quy định những vụ án như vậy phải được xét xử ở Toà án binh; nếu là thanh niên thì án xử là tử hình, nhưng còn vị thành niên nên chỉ bị xử chung thân và đày ra Côn Đảo. Sau năm 1975, anh ta trở về làm Chủ Tịch Xã và sau đó bị kỷ luật vì thâm lạm tiền bạc của Hợp tác xã thương nghiệp. Những điều này giúp tôi hiểu được, tại sao những kẻ anh hùng cách mạng phải hy sinh khi tuổi đời còn quá trẻ (tuổi trẻ dễ manh động lại háo thắng, cho nên cái kết cục chẳng mấy tốt đẹp). Giặc Cộng đã lấy trẻ em làm công cụ cho những tham vọng khát máu của họ ?. Mới mười ba, mười bốn tuổi biết gì mà lại giác ngộ cách mạng, làm những việc tổn hại đến mạng sống của mình và bao nhiêu người khác.

    Chắc chắn, nhiều người vẫn còn nhớ đến chuyện chạy giặc năm Mậu Thân 1968 và mùa hè đỏ lửa 1972; người người bồng bế nhau chạy trốn để lại sau lưng nhà cửa, ruộng vườn; mẹ tôi gánh hai đứa nhỏ trong hai cái thúng, còn thằng lớn thì dắt tay cùng chạy. Cứ nghe đến giặc Cộng thì ai cũng phải sợ mà bỏ chạy. Năm 1975 cũng vậy, cứ nghe giặc Cộng sắp chiếm vùng đất nào đó thì người dân vội vàng bỏ chạy, dẫm đạp nhau mà chạy.

    Đó mới chỉ là những tên giặc trong thời chiến tranh; còn sau khi hoà bình, thống nhất đất nước những tên giặc này càng lộ rõ bản chất hung hãn, thâm độc, ngu dốt và tham lam của chúng. Nói chung, trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống, họ đều lưu manh và gian trá. Ví dụ họ muốn chiếm một căn nhà của ai đó (nhất là nhà của những người đã có thời theo Mỹ-Nguỵ) thì họ sẽ đánh tiếng rằng chính sách của CS là tống khứ những người có nợ máu lên vùng kinh tế mới, nếu không bán nhà thì Nhà nước sẽ tịch thu; họ làm cho những ai sợ, phải bán đổ bán tháo căn nhà cho rồi. Lúc đó ai là người có tiền ?. Chỉ có họ, thế là họ mua rẻ được căn nhà một cách hợp pháp. Sau đây, tôi xin kể đến những tên giặc trong các lãnh vực của họ:

    1. Những tên giặc trong đời sống tinh thần và tâm linh:

    Sau năm 1975, bọn chúng lấy chùa chiền, nhà thờ làm cơ quan hành chánh, nếu không thì cũng cắt xén sân chùa để xây dựng trường học; trong khi đó, các khu căn cứ quân sự Mỹ- Ngụy để lại thì lấy đất bán, chia chác nhau. Về văn hoá, cái gì không phải là văn hoá XHCN đều bị cấm tiệt. Văn hoá hương thôn là cái hồn của làng quê VN bị xoá sổ, thay vào đó là thôn văn hoá XHCN, khu phố văn hoá XHCN; miếu Thần hoàng Thổ địa bị đập phá tuốt luốt, để lấy gạch xây dựng nhà kho, sân phơi Hợp tác xã Nông nghiệp (người viết bài này đã từng đi cạy gạch ở các miếu đình để xây dựng nhà kho HTX), bởi vì họ cho những thứ đó là tàn dư của chế độ phong kiến làm u mê đầu óc con người. Những người CS là những người cuồng tín, họ không chấp nhận một thứ tôn giáo nào khác, ngoài thứ tôn giáo Mác-Lênin mà ông Hồ đã du nhập từ nước ngoài về. Họ muốn xoá sạch nhà thờ và chùa chiền để xây dựng hội trường, đó là nơi hằng ngày họ đến đứng trước cờ đỏ búa liềm đểø tụng niệm những lời răn dạy của ông già râu dài; nhưng điều đó họ không thể làm được ?

    2. Những tên giặc trong ngành Công thương nghiệp:

    Năm 1977-1978 họ tiến hành cuộc cách mạng cải tạo công thương nghiệp, mà thực chất là một âm mưu đánh tan cái bọn tư sản để cướp tài sản. Họ kiểm kê tài sản, tịch thu nhà xưởng, máy móc (trong lúc kiểm kê là lúc họ ăn cắp để làm của riêng) … rồi cho những người của họ đến quản lý, điều hành sản xuất; để cuối cùng làm ăn không được, thua lỗ triền miên. Thậm chí đến bây giờ, 25 năm sau, những nhà xưởng này vẫn còn bị bỏ hoang. Đó có phải là những tên giặc không ? Bọn giặc này cần phải cám ơn Mỹ-Ngụy, nếu không có Mỹ-Ngụy xây dựng những căn cứ trong thành phố, thì hôm nay lấy đâu ra đất để bán, lấy gì để làm giàu ?. Ở TP.HCM cũng như ở các đô thị khác ở miền Nam, chưa có một khu đất quân sự nào được giành để xây dựng trường học, bệnh viện cả ?

    3. Những tên giặc trong ngành văn hoá- giáo dục:

    Bọn chúng thi hành chính sách triệt phá văn hoá Mỹ-Nguỵ, vì cho đó là văn hoá lai căng; cái gì không thuộc văn hoá XHCN là đốt hết. Họ đã huỷ diệt tính đa dạng về văn hóa, vốn là nguồn gen quý hiếm cho sự tiến hoá về văn hoá. Điều này cũng đã diễn ra nhanh chóng ở Trung Quốc; một trong những nước có hệ thống văn hóa liên tục và cổ xưa nhất thế giới đã bị nhổ bật gốc và huỷ diệt chỉ trong vòng một, hai thế hệ.

    Họ ngăn cấm con em của người dân miền Nam vào các trường Đại học bằng việc xét lý lịch, học sinh nào là con em của Nguỵ quân-Nguỵ quyền đang bị cải tạo thì miễn đi thi luôn; họ đã bỏ mất những thành phần có nhiều triển vọng nhất, họ đã xua đuổi những học sinh ưu tú được giáo dục một cách căn cơ. Hậu quả là bây giờ họ không có những con người quản lý, giáo sư, kỹ sư, bác sĩ … có trình độ. (Phải chờ một thời gian nữa, để những người Việt ở nước ngoài trở về xây dựng đất nuớc.)

    Chương trình giáo dục phổ thông thì cố tình làm cho nó lộn tùng phèo, thay cái tốt bằng cái xấu, thay cái thực tế bằng cái lý luận chay, biến cái dễ hiểu trở thành cái nhùng nhằng … Giáo dục Đại học thì nhồi nhét như là cá mòi đóng hộp, học vẹt, nhớ suông. Gọi là giáo dục theo tư tưởng này nọ, nhưng thật ra là thứ tạp phí lù làm cho những ai muốn đi học cũng khùng luôn. Thời đó, họ bắt thanh niên bỏ làm cả ngày, đi học chính trị chỉ để định nghĩa Chủ nghĩa Xã Hội khác Xã Hội Chủ nghĩa chổ nào ?. Có người cho cái này là tĩnh từ, cái kia là danh từ vv và vv… tôi vẫn còn nhớ là tôi đã học bao nhiêu buổi về cái kiểu học cù nhầy như vậy ?. Bây giờ văn hoá-giáo dục như một mớ bòng bong muốn tháo gỡ cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu ?. Do vậy, bắt ông Nguyễn Minh Hiển, Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo, phải trả lời những câu hỏi về giáo dục và giải quyết thực trạng giáo dục của VN là một việc ngoài khả năng của ông ta.

    4. Những tên giặc trong ngành Y tế :

    Chính sách của CS đã ảnh hưởng nặng nề và sâu sắc sức khoẻ dân tộc VN, một thời gian sau năm 1975 người dân chịu sự cung cấp lương thực theo đầu người, lúc đó ai cũng biết đến “cái sổ gạo”, hàng tháng phải cầm cái sổ đi mua lương thực; lúc đầu còn mua được gạo về sau có cái gì mua thứ ấy, ngũ cốc nào mà gia súc ăn được đều có thể dùng cho người: bắp, bo-bo, sắn cục, một thứ lúa mì lép được ép lại sấy khô (tôi không biết người Châu Âu gọi là gì ?) … Một thế hệ người VN còi cọc, không tăng trưởng chiều cao là do ăn ba cái của nợ đó, ăn gì đi nấy, có bửa đi không được vì táo bón; tôi nhớ cứ mỗi lần đi ngoài là đàn gà đến bươi để tìm những hạt bo-bo còn nguyên vẹn. Thật là khủng khiếp nhưng vẫn cứ sống. Không lẽ lại chết ?. Cái bản năng sinh tồn của con người mạnh đến vậy !. Ăn đói nhưng vẫn phải ra đồng cuốc đất, tối về học chính trị, hát hò … Vào khoảng năm 1976-1977, ghẻ lở ở đâu xuất hiện nhiều kinh khủng, nhà nhà bị ghẻ, cả xóm bị ghẻ, lúc đó chúng tôi gọi đó là “ghẻ bộ đội”, ngồi đâu gãi đó nên gọi là “Tiếng đàn Ta-lư”, ghẻ lở khắp cả thân người phải dùng lá thầu đâu nấu nước tắm. Ba cái lọ thuốc lưu huỳnh trị ghẻ cũng được phân phối theo tiêu chuẩn.

    Ở Tỉnh, Thành phố nào cũng có bệnh viện dành cho Cán bộ gọi là Bệnh viện C, dân không được bén mảng đến đó, những người làm việc ở BV được xét lý lịch ba đời, BV cũng giống như cơ quan đảng phải kín đáo, bí mật, tường cao cửa dày. Cán bộ nằm viện là được hưởng theo tiêu chuẩn, vị trí càng cao thì tiêu chuẩn càng lớn; những của ngon vật lạ, thuốc men quí hiếm đều được dành cho những người đã đóng góp cho cách mạng, hy sinh cho “dân tộc nở hoa”.

    Bảo hiểm y tế ở VN là một trong những ngành “ngon ăn”, là ngành có thu nhưng chi thì tuỳ hỷ. Mục tiêu của bảo hiểm y tế là công bằng, là lấy tiền lúc khoẻ để chữa lúc bị bệnh, là làm cho người bệnh được đáp ứng một nhu cầu chữa bệnh theo hoàn cảnh của họ; nhưng đằng này bảo hiểm y tế ở VN là mỏ vàng, bọn giặc dùng tiền bảo hiểm y tế để chia chác, quà cáp, lễ lạc … kết dư tiền bảo hiểm y tế của năm 2003 là trên 1000 tỷ đồng, một con số đau lòng trên sức khoẻ của bệnh nhân nghèo. Họ nói thì hay lắm, nhưng những con số đã tố cáo những thủ đoạn của họ !

    Về An toàn Vệ sinh Thực phẩm, hiện nay người ta bàn phiếm rằng; nếu ăn ở hàng quán mà không bị ngộ độc, mới là chuyện lạ; thực phẩm có màu, hoá chất bán tràn lan; thức ăn có thêm phèn chua, ngâm Formon là cách bảo quản phổ biến nhất; hoa quả cây trái đựơc kích thích bằng thuốc tăng trưởng … Có những người đang mạnh khoẻ nhập viện vài ngày, rồi lăn ra chết. Bác sĩ không biết họ chết vì bệnh gì, tôi nghĩ rằng họ đã bị ngộ độc mạn tính một loại hoá chất nào đó ?. Có lẽ, sau này dân tộc VN mắc nhiều chứng bệnh là do chế độ ăn uống hiện nay ?.

    5. Những tên giặc trong ngành Tài nguyên- Môi trường:

    VN là quốc gia rừng vàng biển bạc, nhưng những tên giặc đã phá hoại, vơ vét đến cạn kiệt, làm một phá mười. Đố ai bây giờ đi đào cho được con cua đồng ?. Tài nguyên biển thì bị đánh bắt bởi chất nổ, xung điện, hỏi thử cái gì mà còn ?. Rừng xanh đã biến mất chỉ còn lại những cánh đồi xơ xác, cháy nắng; sau này mà tìm một tấm gỗ để làm áo quan chắc cũng khó ?.

    Mỏ dầu là tài nguyên quốc gia nhưng là tài sản của những tên giặc này, bọn chúng tha hồ hút lên, bán chia chác nhau; chẳng có một ai biết bọn chúng đã khai thác bao nhiêu, buôn bán ra sao ?. Trử lượng dầu nằm trong lòng đất chẳng có ai thanh tra kiểm soát, ông Trời cũng không biết bọn chúng đang làm gì nữa chứ đừng nói đến dân thường. Tài nguyên quốc gia, mỏ dầu, khoáng sản … là những thứ Trời cho, đầu tư một lời mười, cho nên bọn giặc tha hồ tung hoành như là của hương hỏa ông bà chúng để lại.

    6. Những tên giặc trong hệ thống luật pháp VN:

    Ở VN không có luật pháp mà chỉ có quyền lợi tối thượng của Đảng. Đảng viên ăn cắp một tỷ đồng, tội còn nhẹ hơn là dân đen ăn cắp chiếc xe đạp, hỏi thử cán cân công lý bên dân bên đảng, bên nào nặng hơn ?. Dân mà kiện Đảng là coi chừng “toi đời dân”, bởi vì có thể bị chụp mũ là nói xấu Đảng. Chỉ có ở VN mới có những từ như “chạy án” là sau khi một vụ án nào đó bị phanh phui thì cả một đường dây ra sức chạy, để bị cáo vô can hoặc chí ít cũng là nhẹ tội (Trong đường dây này có cả Công an, Viện kiểm sát, Toà án … thậm chỉ cả bọn côn đồ đến hăm dọa, để nguyên đơn phải rút đơn thưa kiện); chỉ có ở VN mới có những cụm từ như “hạ cánh an toàn(1), “chìm xuồng(2).

    Một thời ở VN, người ta hay hô khẩu hiệu: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý … nhưng thật ra đất nước đang bị hoành hành bởi những thế lực quái đản, mà có thể gọi đó là những tên giặc. Họ đã cho Năm Cam “đi sớm” để khoá miệng, để mị dân rằng tham nhũng, phá hoại là do khách quan bên ngoài chứ không phải do bản chất của những tên giặc này. Sự nghiêm minh của pháp luật chỉ dành cho những người ngoài guồng máy của Đảng, điều đó cũng được hiểu như sự răn đe; còn đảng thì ung dung vơ vét vì “cùng hội cùng thuyền” với nhau hết. Công an, Toà án, Viện kiểm sát, báo chí, quốc hội … quyền lực, súng đạn ở trong tay bọn chúng thì làm sao tránh khỏi sự lộng hành của kẻ cướp ?.

    7. Những tên giặc trong xây dựng cơ bản:

    Chuyện tham nhũng trong xây dựng đã để lại những công trình kém chất lượng trên khắp cả nước. Bọn giặc móc ngoặt với nhau để ăn chia phần trăm, bên A là bọn chúng mà bên B cũng là bọn chúng; đường sá mới làm đã đào lên lấp xuống không biết bao nhiêu lần (không đào không lấp thì lấy gì mà ăn). Bọn chúng không công nhận là có tham nhũng trong xây dựng, mà chỉ có “thất thoát, tiêu cực”, đổ thừa cho những yếu tố khách quan nằm ngoài lòng tham của con người. Có hàng trăm, hàng ngàn mánh lới để bọn chúng kiếm chác; tỷ như chương trình 135 ở Mường Tè, Điện Biên bọn giặc đã “đớp” tới 70% giá trị công trình. Do vậy, công trình xây dựng sập đè chết người ở VN không còn là chuyện lạ.

    8. Những tên giặc trong …

    Còn vô số những tên giặc nữa, phải thành lập cả một Uûy ban điều tra cũng không ghi hết được tội ác của những tên giặc này. Guồng máy CSVN đã vận hành như vậy từ lâu rồi, từ ngày họ mới khai sinh ra chế độ; họ đã “gói quá kín(3) những lãnh địa làm ăn béo bỡ của quốc gia, những khu vực bất khả xâm phạm được xem là độc quyền của Đảng; bất cứ một sự rò rỉ nào cũng được bịt ngay tức khắc, gói thêm nhiều lớp và cột lại cho chặt; còn cái đám dân chúng tò mò muốn biết bọn giặc đã gói những thứ gì, thì bị đày đi rất xa. Dân chúng sống trong cái xứ sở này bị coi như cỏ rác, rủi có chết hàng loạt thì bọn chúng đến đưa cái bì thư, phát biểu vài lời hứa hẹn … thế là xong chuyện. Hôm nay, dưới áp lực của nhiều phía những “cái gói” này đã phình to, vỡ ra gây thối hoang thối hoắc.

    Nhìn chung, sau gần sáu mươi năm cầm quyền, mà thực chất là sáu mươi năm phá hoại, bọn giặc đã phá hoại tan tành mọi thứ, từ thể chất đến tinh thần người VN, từ ý thức đến đời sống tâm linh, từ xã hội cho đến nền tảng kinh tế … Cái nhân cách cần cù, hiếu học, thuần phong mỹ tục của người VN không còn nữa, mà thay vào đó là cái thói nịnh trên đạp dưới, thói đạo đức giả, lừa thầy phản bạn, buôn gian bán dối, chảnh choẹ thác loạn, đàn áp dân lành … Chỉ có nền văn hoá XHCN thối tha mới để lại những số phận như thế này:

    Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt.
    Lọc lừa, lương lẹo lại lên lương.

    CS đã chiếm nửa trái đất này, gần một nửa nhân loại đã đi theo CS, nhưng không ở đâu bản chất của những tên giặc lại tham tàn như ở VN. Dưới ánh sáng tù mù của ngọn nến giáo điều, với đầu óc mê hoặc cộng thêm cái bản chất tráo trở, họ đã trượt dài trên con đường tội lỗi. Ai không tin là có giặc Cộng, còn tôi thì tôi tin; bản chất của những tên giặc thì bao giờ cũng là tên giặc. Dù đang sống trong hoà bình, nhưng đất nước VN vẫn còn tiếp tục bị tàn phá cho đến một ngày không còn những tên giặc nữa.

    Saigon, ngày 20/6/2004.


    (1). Hạ cánh an toàn: là sau một vụ tham nhũng họ rút khỏi vị trí đương chức, tìm một một vị trí khác an toàn hay có thể về hưu.
    (2). Chìm xuồng: là vụ án không được đem ra xét xử, không bị truy tố, theo thời gian cho vào quên lãng. Họ áp dụng câu tục ngữ: “Để lâu, cứt trâu hoá bùn!”
    (3). Gói quá kỹ: là từ của Ông Phạm Quang Dự, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Dầu khí VN, dùng để chỉ sự bưng bít, bao che của Đảng đối với những ngành đặc quyền, đặc lợi; những lãnh vực nhạy cảm, dể kiếm tiền.

    ----- O -----

    Thư ngỏ cùng Đảng CSVN và toàn giới Lãnh đạo Cao cấp Chính phủ Việt Nam :
    « Cần phát huy tiềm năng tri thức của bà con kiều bào »
    (1),
    chủ đề trọng tâm ngày 21.7 tại Hà Nội, Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc VN, Ban Cán sự Đảng ngoài nước và Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương tổ chức Hội nghị phổ biến và quán triệt Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị muốn công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

    Tại sao phải như vậy ?

    Hãy để nhân dân ngũ yên trong vô tri thức về Đảng CSVN cùng tất cả quá trình liên hệ đến Đảng mà đến nay bắt buộc mọi người xem như quốc cấm, tuyệt đối bất khả xâm phạm!

    Hãy để tiềm năng nhân dân bất động trước tiên không có dịp ứng phó những điều lệ Đảng muốn khai thác trong giai đoạn cần đổi mới, kế đến những yêu sách quan hệ dân chủ tự do thực sự, những điều kiện cần và đủ để kịp đà tiến bộ văn minh toàn cầu.

    Hay là Chính phủ và Đảng đã ý thức được giai đoạn chuyển tiếp quốc tế và cảm thấy không thể thoát hóa vô trách nhiệm để tiếp tục tự mãn trong thế giới thứ tư, ngỏ hầu hãnh diện lịch sử dân tộc anh hùng Việt Nam.

    Hay là Chính phủ và Đảng đã ý thức được sự thật cần đổi mới hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như nghiêm túc muốn thực sự đổi mới hơn là văn hoa lời lẽ để mong còn những con chim tối dạ Việt kiều (người Việt Nam ở nước ngoài) ngày nay rất hiếm sa bẫy ngụy trang sơ sịa vô năng.

    Nhưng trước tiên muốn thật sự đổi mới bền vững lâu dài, thiết nghĩ Chính phủ và Đảng cần phải chỉnh đốn và sửa đổi toàn diện những cơ bản sai lầm từ lý tưởng đến chủ nghĩa và thực sự vì tương lai dân tộc Việt Nam hơn là để củng cố Đảng trong giai đoạn cô lập trên chính trường quốc tế :

    Xét rằng :

    - Theo điều lệ Đảng : Điển hình, Chương I : Đảng viên, Điều 1, chi tiết 1 , không nghĩ rằng sau khi thống nhất toàn diện giang sơn lãnh thổ, tất cả đảng viên đầy tiềm năng tri thức ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam còn hãnh diện được với chế độ độc đảng, độc quyền lãnh đạo Quốc gia Dân tộc và cũng không tin rằng còn có những phần tử tự nguyện xung phong gia nhập tích cực vào Đảng vì chính nghĩa.

    Nên biết rằng ngày nay Đảng không còn gì để làm cách mạng ngoài Quốc nạn tham nhũng, lạm dụng quyền lực chức năng (theo lời Thủ tướng Phan Văn Khải). Do đó Đảng cần nên thực sự chỉnh đốn toàn diện và sâu rộng điều lệ Đảng (2).

    Nên biết rằng thiên niên kỷ này, tương lai Dân tộc Việt Nam không nhất thiết tùy thuộc vào tư tưởng độc nhất của những nhà tiên tri hạnh phúc lỗi thời !

    Nên biết bất cứ một sai lầm Chính trị nào đều sẽ dẫn đến phá sản kinh tế quốc gia : xứ Việt Nam là một ví dụ điển hình hiển nhiên chứng minh được điều này !

    - Theo Hiến Pháp, từ chính sách Chính trị, Kinh Tế, Quốc phòng, Văn Hoá Giáo Dục, Công nghệ, đến An Sinh Xã hội đều cần được nghiêm túc giám sát sửa đổi phù hợp với thời đại, thích ứng với nguyện vọng nhân dân và triệt để ấp dụng.

    Hơn nữa Chính phủ và Đảng đã kiên quyết hô hào phát huy kế hoạch "Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá", chiến dịch HHHDHGDT (3) thì tại sao trong khung diện này Chính phủ Việt Nam không mở đầu đường lối thống nhất hoà hợp hoà đồng dân tộc bằng cách thực hiện cấp bách những thiện ý chính đáng để xoa dịu bao đớn đau chung dân tộc.

    Yêu sách thực thi chẳng hạn :

    Trân trọng – Hạng Liệt Sĩ


    Ghi chú :

    (1) Cần phát huy tiềm năng tri thức của bà con kiều bào
    số 204 Ngày 22.07.2004 Cập nhật: 08:44:11 - 22.07.2004

    Tại Hội nghị phổ biến NQ 36- NQ/TW của Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Vũ Khoan:

    Ngày 21.7 tại Hà Nội, Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc VN, Ban Cán sự Đảng ngoài nước và Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương tổ chức Hội nghị phổ biến và quán triệt Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

    Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQVN Phạm Thế Duyệt cùng nhiều đồng chí lãnh đạo các ban ngành TƯ và địa phương đã tới dự. Nghị quyết 36-NQ/TW là nghị quyết công khai đầu tiên của Đảng ta đề cập một cách toàn diện, sâu sắc và cụ thể nhất các vấn đề liên quan tới công tác người VN ở nước ngoài trong tình hình mới. Hiện nay có khoảng 2,7 triệu người VN đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước công nghiệp phát triển.

    Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã chỉ ra những việc làm được, chưa làm được trong công tác đối với kiều bào. Nghị quyết của Bộ Chính trị đã khẳng định người VN ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc VN. Đảng và Nhà nước luôn mong muốn, khuyến khích người VN ở nước ngoài hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước bà con sinh sống với nước nhà ...

    Phó Thủ tướng Vũ Khoan nhấn mạnh, Chính phủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người VN ở nước ngoài gắn bó với quê hương đất nước, phát huy tiềm năng tri thức của kiều bào bằng những chính sách cụ thể thiết thực. H.D

    (2) Sửa đổi Điều lệ Đảng

    Chương I: Đảng viên Ngày 14/6/2001. Cập nhật lúc 11h 24'
    Điều 1: 1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước ; có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đứclối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
    ….

    Chương XI: Tài chính của Đảng Ngày 14/6/2001. Cập nhật lúc 10h 40'
    Điều 46: 1. Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng, thu từ các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp của Đảng, ngân sách chính phủ (Nhà nước) và các khoản thu khác.
    - Quan niệm rất sai lầm, hơn nữa Đảng với chế độ vô sản thì Ngân sách chính phủ (Nhà nước) là của nhân dân, Quổc gia dân tộc Việt Nam !

    (3) Cần sửa đổi Hiến Pháp cho phù hợp hơn là sơn phết cạo gọt chính sách

    Cho phép kiều bào mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam
    Tại Hà Nội ngày 21.07 đã diễn ra hội nghị phổ biến, quán triệt Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
    Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ chủ yếu trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Trong đó, Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, thân nhân, thờ cúng tổ tiên. Nhà nước giải quyết thuận lợi, nhanh chóng thủ tục cho Việt kiều hồi hương hoặc về làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước; tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi … liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.
    Theo Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, ngay trong quý 4/2004, các văn bản, chính sách hiện hành có liên quan đến những vấn đề này, sẽ được các bộ, ngành rà soát để sửa đổi, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt, trong đó sẽ có chính sách cho phép người Việt Nam ở nước ngoài mua và sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
    Hiện nay, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2002, lượng kiều hối chuyển về trong nước là 2,1 tỷ USD; năm 2003 là 2,7 tỷ USD, năm 2004 dự kiến là 3,5 tỷ USD.

    Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

    Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam