Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư - Số 29
Tháng 11 năm 2004

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com

Tin Ghi Nhận:

      Ngày 29 tháng 10 năm 2004, Toà án Nhân dân thành phố Hà Nội đã ra phán quyết 8 năm tù dành cho ông Lương Quốc Dũng với tội danh "hiếp dâm trẻ em". Xin được nhắc lại rằng, khi bị khởi tố, ông Dũng đang giữ ghế phó chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao Quốc gia - một chức vụ ngang cấp Thứ trưởng ở nước ta.
     Được biết, trước khi phiên toà được mở ra khoảng một tháng,trong một buổi họp lãnh đạo các cơ quan báo chí, ông Nguyễn Khoa Điềm - uỷ viên Bộ Chính Trị, trưởng ban văn hoá-tư tưởng Trung Ương đã cảnh báo giới báo chí không được khai thác sâu vụ này.
     Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Hà Nội đã phát hiện ông Dũng đang sở hữu 3 toà nhà ở Hà Nội. Theo nguồn tin từ một viên chức Bộ công an, bước đầu cơ quan điều tra còn phát hiện số tiền "bất minh" mà ông Dũng làm chủ, lên tới 150 tỉ đồng.
     Hầu hết những người được hỏi cho rằng bản án 8 năm tù là không thoả đáng. Công luận cũng đòi hỏi phải sớm khởi tố ông Lương Quốc Dũng về tội tham nhũng, không được bao che cho bất cứ một cán bộ cao cấp nào.

      Kể từ ngày được trả tự do, đã hơn 3 tháng, nhà dân chủ Phạm Quế Dương vẫn chưa được nhà nước trả lương hưu. Cơ quan nhà nước nói rằng đây là "thời gian thử thách". Việc làm này đã tiếp tục vi phạm luật pháp Việt Nam, vi phạm quyền con người.
     Được biết, trong suốt thời gian 19 tháng giam cầm, ông đã bị đối xử rất tàn bạo. Khẩu phần thức ăn nhiều tháng liền là rau muống, nhiều tháng liền là rau cải, thỉnh thoảng có một ít thịt mỡ. Nhiều ngày lạnh, ông không được cấp quần áo đủ ấm, mỗi lần đi lên phòng hỏi cung, ông đều phải chùm chăn theo người.
Qua thời gian ngồi tù, sức khoẻ và trí nhớ của ông Dương đã giảm sút trầm trọng.

----- O -----

     Ban biên tập: Cuộc hành trình đến với tự do là một cuộc hành trình đầy khó khăn, gian khổ. Nhiều khi phải trả giá bằng máu và nước mắt. Có những con người, dường như, được sinh ra là để kiếm tìm tự do. Tự do cho mình, và tự do cho mọi người. Họ luôn đi tiên phong bất chấp mọi sự trừng phạt của giới cầm quyền. Không một thế lực nào có thể cản bước họ.
     Một trong những người như vậy là cố Trung tướng Trần Độ, một nhà dân chủ hàng đầu Việt Nam, đã quen thuộc với tất cả chúng ta.
     Cuộc đời ông giống như một bản giao hưởng lớn. Vừa đậm chất anh hùng ca, vừa phảng phất nét bi ai. Đó cũng là một cuộc "vật lộn" không ngừng, thoát ra ngoài sự trói buộc của ý thức hệ hạn hẹp, thoát ra ngoài sự sợ sệt và những lợi ích cá nhân, để chiến thắng, vươn tới chân-thiện-mỹ của cuộc đời.
     Là một Đảng viên cộng sản, nhưng mọi ý nghĩ của ông đã không xuất phát từ "lập trường giai cấp", "lập trường Đảng" mà xuất phát từ hiện thực xã hội, nơi có tiếng rên rỉ, kêu than của nhân dân đau khổ.
     Tập "Nhật ký rồng rắn" mà chúng tôi giới thiệu sau đây, gần như là sự đúc rút của ông sau nhiều năm quan sát, nghiền ngẫm từ thực trạng đất nước.
     Xuyên suốt tác phẩm là một tấc lòng vì nước, vì dân, và một niềm khát khao mong mỏi cho một Việt Nam dân chủ-phồn vinh.
     Dù tập "Nhật ký rồng rắn" không phải là tác phẩm cuối cùng của ông, nhưng nó thâu tóm hầu như toàn bộ những trăn trở của ông về các vấn đề của đất nước.
     Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả tác phẩm này.
Để tiện cho độc giả trong việc theo dõi, chúng tôi sẽ chia tác phẩm này làm 3 phần, đăng tải trong 3 số liên tiếp.

Nhật ký Rồng Rắn
Trần Độ

Để tặng các bậc lão thành và các cựu chiến binh hai cuộc kháng chiến, cùng các nhà trí thức và tất cả những ai quan tâm đến tiền đồ đất nước.

     Lời đầu
     Bản viết này để tặng các bậc lão thành cách mạng, các bậc trí giả và các người có trọng trách lãnh đạo hiện nay.
     Đây không phải là các luận văn, và không phải các bài văn chương. Đây là một tấc lòng “để tặng người đời và cuộc đời”.
     Đây là những ý nghĩ nung nấu trong những tháng cuối năm Rồng và đầu năm Rắn, và cũng là những ý nghĩ nung nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến cả khi sang thế giới bên kia.
     Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người.
     Đây chỉ là những ý nghĩ được ghi lại trong những ngày cuối năm Thìn và đầu năm Tỵ nên được gọi là nhật ký và nhật ký Rồng Rắn.

I. Hiện nay, cái gì là quan trọng nhất ?

14.11.2000

     Thử nghĩ về tình hình đất nước Việt Nam hiện nay.
     Thử nêu một câu hỏi ?
     Điều gì là điều quan trọng nhất cho đất nước hiện nay, điều gì là quan trọng cốt tử ?
     Đó là tìm ra con đường phát triển đất nước cho mau chóng để thoát khỏi nghèo khổ, lạc hậu, để bù lại 50 năm gian khổ và 30 năm chiến tranh, gọi tắt là tìm đường phát triển.
     Nay lại có vấn đề quan trọng hơn, quan trọng nhất, là: giải quyết bằng được cái gọi là Chủ nghĩa xã hội, đề cao và giữ vững vai trò của Đảng cộng sản ??
     Hãy nhìn lại xem: từ năm 1975 đến 1985, mười năm xây dựng xã hội chủ nghĩa trong cả nước và nước có tên là: “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa” thì đất nước ra thế nào ? Có phải suýt chết đói, suýt rơi xuống vực thẳm rồi không ? Thắng lợi 1975, ta đã thu lại một nửa nước no đủ và đầy hàng hoá, thế mà ta đã phát huy thắng lợi đó ra sao, mà đến những năm đầu của thập kỷ 80, cả nước đói nghèo, ngắc ngoải.
     Đó có phải là một sự thật hiển nhiên không ?
     Đảng cộng sản chân chính thì coi việc “phát triển đất nước” là quan trọng hơn là cố giữ vững và đề cao vai trò của Đảng.
     Mọi tư duy phải xuất phát từ điểm này. Hồ Chí Minh cũng luôn nói về Đảng rằng Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của đất nước và dân tộc. Thế là rất đúng.

17.11.2000

     Nếu chỉ lấy yêu cầu phát triển đất nước là mục tiêu quan trọng nhất để xem xét, thì thử hỏi:
     Có nhất thiết chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ có chủ nghĩa xã hội, mới làm cho đất nước phát triển hay không ? Nếu chỉ cần nêu cao vai trò của Đảng, thì có nghĩa là đất nước phát triển hay không phát triển là không quan trọng.
     Vậy hãy cứ xem quanh ta: Đài Loan, Đại Hàn, Singapore và thêm nữa, Thái Lan và Malaysia, mấy nước này có do chủ nghĩa Mác-Lênin hướng dẫn không ? Những nước ấy có cần có một Đảng cộng sản lãnh đạo tuyệt đối theo chủ nghĩa xã hội không ? Thế mà cả 5 nước ấy, khi bắt đầu còn nghèo khổ, vậy mà chỉ sau khoảng 20-30 năm họ đã trở thành những nước phát triển rõ ràng, nhân dân đa số có đời sống khá phong lưu.
     Họ không có một Đảng cộng sản “tài tình”, “sáng suốt”, mà chỉ có những chính khách, có được chính sách kinh tế xã hội thông minh và có hiệu quả. Còn Việt Nam, kể từ khi toàn thắng trong cuộc chiến tranh đến nay đã hơn 25 năm và sắp sửa có hoà bình 30 năm, dài bằng thời gian chiến tranh rồi, mà vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Chậm hay nhanh không quan trọng, cứ phải là xã hội chủ nghĩa đã. Thế tại sao hiện nay đất nước lại có những mặt phát triển rõ rệt là nông nghiệp, thương mại. Là vì nông dân được tự do làm ăn, tiểu thương được tự do buôn bán, là nhờ sau Đại hội VI, hai mặt đó được mở ra. Mới chỉ thế thôi, đất nước đã chuyển mình mạnh mẽ. Nhưng còn nhiều người, nhiều cái không được tự do, còn nhiều trở ngại. Muốn cho đất nước phát triển nhanh thì cần phải làm sao cho mọi người dân đều được tự do làm ăn, nông dân, thương nhân, nhà doanh nghiệp (nhà doanh nghiệp sẽ kéo theo công nhân), các nhà khoa học, trí thức văn nghệ sĩ. Tất cả đều phải được tự do.
     Tự do là chìa khoá của phát triển.
     Tôi nghĩ thế này: nước Việt Nam ta hiện nay, sau bao nhiêu năm đấu tranh và chiến tranh gian khổ, cần phải hoà bình phát triển và cần phải phát triển nhanh, để bù lại những thời gian đã mất, và để theo kịp các nước chung quanh. Đó là mục đích và yêu cầu quan trọng nhất của đất nước. Những cái khác là phụ. Do đó, để phát triển đất nước thì rõ ràng ta phải tìm đường lối nào, học thuyết nào phục vụ được yêu cầu đó.
     Nếu thật sự coi phát triển đất nước là quan trọng nhất thì Đại đoàn kết dân tộc là quan trọng hơn đấu tranh giai cấp; trí thức quan trọng hơn công nhân và nông dân; phát triển sức sản xuất là quan trọng hơn mọi thứ; để dân làm chủ mọi lĩnh vực quan trọng hơn các trò chuyên chính đàn áp; nghe và thu thập được nhiều ý kiến khác nhau và trái ngược nhau kể cả về đường lối chính sách, quan trọng hơn là bắt mọi người phải tuân theo một quan điểm, một ý kiến.

22.11.2000

     Thật ra, không cần phải tranh cãi lý luận nhiều. Cứ nhìn một số sự thật hiển nhiên thế này:
     - Cả thế giới, cả cuộc đời cứ vận động và cứ diễn biến, khó có thể dự liệu trước được.
     - Trên thế giới có đến hơn 100 nước không cần chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội, không cần có Đảng cộng sản “tài tình” và “sáng suốt” mà cứ phát triển đến trình độ giàu có, văn minh cao. Gần 100 nước khác còn đang nghèo đói cực kỳ, nhưng họ cũng không phát triển theo chủ nghĩa xã hội.
     - Bây giờ chỉ còn lại có 4 nước theo chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội. Trong đó nước lớn nhất và quan trọng nhất thì miệng nói chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng họ đưa đất nước tiến lên theo kiểu “có màu sắc Trung Quốc”. Họ phải chơi với Mỹ, xác định vai trò kinh tế tự do và vai trò kinh tế tư nhân. Còn Bắc Triều Tiên cũng đang buộc phải mở cửa, phải hoà hợp với Nam Triều Tiên để thoát khỏi cảnh đói nghèo và khó khăn.
     - Nửa đầu thế kỷ, Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, rồi Liên Xô ra đời và sau đó, cả một thế giới xã hội chủ nghĩa hình thành, có sự phát triển một thời rất mạnh. Nhưng sau 70 năm thì chủ nghĩa xã hội không phát triển kịp với thế giới, bị sụp đổ và tan rã. Tiếp theo đó, nhiều Đảng cộng sản phải thay đổi tôn chỉ và đường lối. Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa không hề tỏ ra nhớ tiếc.
     - Càng ngày càng rõ ra là chủ nghĩa Mác - Lênin không dự đoán đúng được mọi việc, không giải quyết được tất cả mọi vấn đề mới nảy sinh của cuộc sống.
     - Có người nói cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thành công và Liên Xô ra đời là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20. Vậy thì sự sụp đổ của cái “quan trọng” ấy lại càng “siêu quan trọng”.
     - Ở Việt Nam, từ 1975 đến 1985 ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Điều đó đã làm đất nước và nhân dân khốn khổ. May mà năm 1986, Đảng cộng sản phải nghe theo dân và phải đổi mới, nhưng sự đổi mới ấy lại cứ nửa vời, chập chờn, làm cho sự phát triển đất nước cũng cứ chập chờn, cứ nhùng nhằng, do đó đã qua đi 25 năm mà tương lai chưa hứa hẹn gì nhiều. Trong khi đó sự tụt hậu cứ càng ngày càng tụt xa, ta không sao theo kịp các nước không xã hội chủ nghĩa. Như vậy “xã hội chủ nghĩa” chỉ là một lý thuyết của một học thuyết chưa được chứng thực (chỉ mới có sự chứng thực của sự thất bại và đổ vỡ sau 70 năm tưởng rằng đã thành công).
     Như vậy nó không thể là con đường duy nhất để phát triển đất nước.

Cách mạng và xây dựng, và tiến hoá.

     Hình như mỗi xã hội, mỗi đất nước trong tiến trình phát triển của mình đều phải trải qua những thời kỳ cách mạng và thời kỳ xây dựng.
     Cách mạng là đập phá, đánh đổ. Nó có ý nghĩa xây dựng ở chỗ nó đập phá và đánh đổ những cái gì là lỗi thời cũ kỹ để tạo điều kiện cho những cái mới mẻ, cái tiến bộ ra đời và phát triển.
     Khi xây dựng thì vẫn tiếp tục phải loại bỏ những cái gì lạc hậu, lỗi thời, cũ kỹ, phản động, nhưng xây dựng thì chủ yếu phải có việc xây đắp và tạo ra những giá trị mới cả tinh thần vật chất làm cho xã hội tiến bộ và phát triển cao hơn.
     Nhưng cho đến ngày nay, với sự phát triển rất cao của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, thì hình như ỏ tất cả các xã hội nhân dân đều mong muốn đất nước phát triển hoà bình và mong muốn tránh bớt những bạo lực, những lật đổ và chiến tranh. Phải chăng lịch sử loài người đã bước sang kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên hoà bình và loại trừ bạo lực, loại trừ chiến tranh ? Nhân dân chỉ muốn tiến hoá, chứ không muốn cách mạng bạo lực! Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử kéo dài gồm những cuộc chiến đấu chống xâm lược giành độc lập, hoà bình xây dựng, rồi lại bị xâm lược. Và lại chiến tranh chống xâm lược. Qua quá trình đó mà đất nước ta trưởng thành và phát triển. Cho đến nay, đất nước đã được hoà bình độc lập, thống nhất.
     Không biết tương lai loài người sẽ phát triển, tiến bộ thế nào và do đó đất nước ta sẽ gặp những tình huống thế nào ? Nhưng chắc chắn là những bước đi sắp tới của ta cũng không có thể lặp lại y nguyên những tình hình trước đây. Tuy nhiên, trước mắt ta thấy rất rõ là đất nước ta đang ở chỗ đã thực hiện được 3 chữ trong 5 chữ của chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra: đó là một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
     Ta đã đạt 3 chữ hoà bình, độc lập, thống nhất. Ta đang phải thực hiện cho được 2 chữ dân chủ và giàu mạnh.

     Theo cách khác, cũng do Hồ Chí Minh nêu ra 3 chữ:
          1. Độc lập,
          2. Tự do,
          3. Hạnh phúc.
     Ta đã đạt được độc lập và phải tiếp tục thực hiện nốt tự do và hạnh phúc, cũng tức là hai chữ dân chủ và giàu mạnh.

     Hồ Chí Minh đã nói một câu mà bây giờ rất nhiều người biết và nhắc đến: “Độc lập mà không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng vô nghĩa”.
     Như thế cũng có nghĩa là phải có dân chủ và giàu mạnh. Nhiều người cho rằng: có xã hội chủ nghĩa thì tất nhiên có tự do hạnh phúc. Nhưng sự thật lớn của thế giới đã chứng thực là không phải vậy. Chiến tranh lớn và các hoạt động bạo lực, lật đổ càng ngày càng trở nên lạc hậu lỗi thời.
     Để có tự do và hạnh phúc, không nhất thiết phải có bạo lực, không nhất thiết phải đánh đổ ai. Thậm chí ngày nay có những nền độc lập giành được cũng không cần có bạo lực và chiến tranh. Hiện nay nước ta đang bước vào xây dựng, mà xây dựng thì phải hoà bình, mà hoà bình xây dựng thì đất nước cũng hoà bình phát triển, tiến hoá ngày càng cao.
     Không nên lạm dụng chữ cách mạng. Ta bây giờ không phải là cách mạng chống ai cả, không phải đánh đổ ai cả. Xây dựng hoà bình thì phải đoàn kết, có gì trở ngại thì hoá giải nó để tiến lên. Ta đã làm chủ đất nước. Vậy thì ta thực hiện cái nguyên lý mà Đảng cộng sản đã nêu ra và đề cao chất ngất. Đó là phê bình và tự phê bình. Ta có thể tự phê bình dân tộc, tự phê bình chính quyền, tự phê bình các cơ quan. Tự phê bình thì sẽ tiến bộ và có dân chủ. Tự ca ngợi, lại tự ca ngợi quá nhiều, quá đáng, thì đó là chỉ dấu báo hiệu sự tàn tạ.
     Không được lạm dụng chữ cách mạng. Ta đang xây dựng thì chỉ có xây dựng: xây dựng xã hội chủ nghĩa, chứ không phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể lúc nào cũng phải có chương trình hoạt động cách mạng, lúc nào cũng phải hành động cách mạng.
     Sản xuất không phải là cách mạng. Giáo dục không phải là cách mạng. Đại hội cũng không phải là cách mạng. Hội nghị liên hoan văn nghệ càng không phải là cách mạng. Chống lụt chống bão, cứu trợ từ thiện cũng không phải là cách mạng. Ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, không cần đến cách mạng. Nhưng ở tất cả các nơi đều cần có tự do, và lớn nhất là “tự do làm ăn” phải có tự do hưởng lợi ích của kết quả sự làm ăn đó.
     Chính quyền bây giờ không phải là chính quyền cách mạng. Điều đó chỉ có ý nghĩa khi cách mạng vừa mới thành công.
     Ngày nay chính quyền phải là chính quyền xây dựng.
     Chính quyền xây dựng thì phải có những chủ trương, chính sách làm cho mọi người dân đều được tự do làm ăn. Và từ đó người dân phải có tự do nói, tự do tìm thông tin và trao đổi thông tin. Như thế tự do làm ăn mới thực hiện được. Xây dựng thì hàng ngày hàng giờ phải tạo ra những giá trị mới, từ nhỏ đến lớn. Nhưng công tác tư tưởng của Đảng thì lại chỉ quan tâm tới những công việc có ý nghĩa - có ý nghĩa kỷ niệm, có ý nghĩa lịch sử vv…, mà không quan tâm tới những công việc có hiệu quả tạo ra những giá trị mới.
     Nguyện vọng tha thiết và sâu sắc của dân là được quyền sống, được quyền tự do kiếm sống nuôi mình, được quyền tự do lo cho con cái, cháu chắt. Mọi người ai cũng đều mong có nhà, có phương tiện đi lại, có phương tiện học tập giải trí. Muốn thế phải được tự do làm ăn, tự do thu nhập hợp pháp. Đó là điều cốt yếu và là lý tưởng thiết thực, chứ không cần một thứ tinh thần cách mạng để đánh đổ ai, không cần một lý tưởng cách mạng xã hội nào. Chính quyền của nhân dân cần hiểu rõ điều đó. Chỉ có nhân dân được tự do, đất nước mới phát triển được. Làm khác đi chỉ trở ngại cho sự phát triển của đất nước.

     Ở Việt Nam cuộc cách mạng 50 năm đã đập tan được cái gì và xây dựng nên cái gì ?

3.12.2000

     Quanh đi quẩn lại vẫn phải trả lời cho câu hỏi: nước ta đã từ cái gì bước sang cái gì và hiện đang là cái gì ?

     Rõ ràng là ta đã từ chiến tranh bước sang hoà bình, đang từ tình trạng cách mạng bước sang tình trạng bình thường.
     Và cũng có thể nói cách khác là ta đã từ tình thế chiến tranh cách mạng bước sang cuộc sống hoà bình đời thường.
     Ai cũng phải nhận thấy rằng tình thế chiến tranh và cách mạng là tình thế không bình thường, là tình thế bất thường. Và hoà bình xây dựng là bình thường, là đời thường. Những ai cả đời, hoặc phần lớn cuộc đời, sống trong chiến tranh và cách mạng là những người có cuộc đời phi thường. Nhưng dù như thế những người phi thường đó cũng phải có một cuộc sống đời thường: ăn, ngủ, mặc, ốm đau, học tập, giải trí, nhất là lấy vợ (chồng) đẻ con, nuôi con vv… Chỉ có điều những chi tiết cuộc sống đời thường đó đã phải giải quyết và thực hiện một cách bất thường.
     Bây giờ phải giải quyết và thực hiện cuộc sống đời thường đó một cách bình thường.
     Đó là lẽ tự nhiên, và lẽ tự nhiên đó phù hợp với sự tự nhiên của tạo hoá. Ai cứ muốn làm khác lẽ tự nhiên đó thì trở nên gàn dở và điên cuồng.

     Cuộc sống chiến tranh và cách mạng có những yêu cầu đặc trưng của nó. Những yêu cầu như:
          • Có Đảng lãnh đạo tuyệt đối toàn diện
          • Có nguyên tắc tập trung dân chủ. Có yêu cầu kỷ luật sắt, chỉ có chấp hành không bàn cãi.
          • Chịu đựng gian khổ, hi sinh.
          • Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng.
     Đó là những yêu cầu cần thiết và hợp lý, mỗi người và toàn thể nhân dân vui lòng chấp nhận, tự nguyện chấp nhận và thực hành. Và thực sự, cuộc đấu tranh đã nhờ những yêu cầu đó mà có sức mạnh để giành thắng lợi.
     Nhưng khi đất nước đã chuyển sang hoà bình xây dựng và cuộc sống đời thường thì không thể tiếp tục yêu cầu như vậy được nữa.
     Trước đây phải có một Bộ chỉ huy, một bộ máy lãnh đạo mạnh mẽ để lãnh đạo và chỉ huy chiến tranh và cách mạng. Bộ máy lãnh đạo có quyền đề ra những yêu cầu như vậy và mọi người sẵn sàng tự nguyện tuân theo.
     Nhưng không thể cứ kéo dài những yêu cầu đó trong hoà bình và xây dựng.
     Nếu cứ tiếp tục cứ yêu cầu như vậy trong hoà bình xây dựng thì đó là phản tiến bộ, phản dân chủ, là phản động.
     Trong điều kiện hoà bình xây dựng, tức là trong đời thường cần có một bộ máy quản lí xã hội phù hợp với cuộc sống đời thường.

     Tôi được đọc ý kiến của một số nhà nghiên cứu nêu lên một cách có lý luận là một xã hội đời thường như vậy cần có 4 thứ: (coi như 4 bánh xe của một cỗ xe)
          1. Một xã hội công dân.
          2. Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh chứ không định hướng gì lôi thôi.
          3. Một nhà nước pháp quyền.
          4. Một nền dân chủ đầy đủ.

     Như vậy là một xã hội đời thường phải có: xã hội công dân, thị trường, pháp quyền và dân chủ.
     Bộ máy quản lý xã hội ấy là một bộ máy dân chủ. Nói dân chủ thì cứ phải dân chủ đã, không phải chưa nói dân chủ đã đề phòng “dân chủ quá trớn”, đề phòng “lợi dụng dân chủ”. Khi dân có dân chủ thì dân phải “dùng” cái quyền dân chủ đó, “dùng” không phải là “lợi dụng”. Mà dân chủ nào cũng là dân chủ có quy chế, có quy tắc. Ai làm sai những quy chế, quy tắc đó thì phải phạt. Người đứng đầu như Chủ tịch, Thủ tướng, Chánh án, Giám đốc mà làm sai quy chế dân chủ thì cũng phải phế truất, không thể có chuyện đổ cho người ta tội “dân chủ quá trớn” và “lợi dụng dân chủ”. Và tại sao lại chỉ đề phòng “lợi dụng dân chủ” mà không đề phòng “lợi dụng không dân chủ” ? Bộ máy quản lý xã hội dân chủ là một bộ máy phải được xây dựng nên một cách dân chủ, nó có đủ quyền hạn mà nó được phân công, nhưng quan trọng nhất là nó phải được giám sát, tức là phải được nhân dân giám sát và các cơ quan trong bộ máy ấy giám sát lẫn nhau. Muốn thế phải thực hiện tự do ngôn luận và tự do bầu cử.
     Ở ta, những điều đó đã được ghi trong Hiến pháp. Phải rà soát lại, phải thay đổi tất cả các bộ luật và các điều luật để bảo đảm đúng tinh thần Hiến pháp.
     Nhưng rõ ràng có nhiều hiện tượng người dốt người kém lại cai trị, điều khiển người có tri thức; người không biết chuyên môn lại có quyền sai bảo dạy dỗ người có chuyên môn; người có trình độ rất thấp lại đi dạy dỗ chỉ đạo khắp nơi khắp chốn. Những hiện tượng đó là có thật, có thật rõ ràng, ai ai cũng thấy, ai ai cũng biết.
     Quả là vào thập kỷ 80 thì cả nước mong ước thoát khỏi khủng hoảng toàn diện. Quả là đất nước lúc ấy ở vào tình trạnh “suýt chết”. Đó là chưa kể sau khi thắng lợi, hàng trăm nghìn người đã bỏ nước ra đi. Thế là hình thành nhiều trung tâm người Việt ở thế giới gần 2 triệu người.
     Vậy là tại sao ? Tình trạng đó có phải do kẻ địch nào tạo ra, có kẻ địch nào bịa ra để nói xấu ta ?
     Không !!.
     Tất cả những ai đến nay ở tuổi 40-50 đều chứng kiến, cả “thắng lợi” lẫn “suýt chết” !!!
     Vậy là do đâu ?

     Quả thật là 50-70 năm vừa qua, đất nước ta đã trải qua nhiều biến động long trời lở đất, đã biến chuyển vĩ đại từ một đất nước nô lệ không tên tuổi trên thế giới, cực kỳ đói nghèo, dốt nát và lạc hậu, đầy nhục nhã, đầy dối trá, lừa đảo, đầy tệ nạn và oan khuất, trở thành một đất nước tên tuổi lừng lẫy, sự đói nghèo đó giảm bớt, sự dốt nát bị tiêu diệt.
     Suốt quá trình đó, đều có vai trò nổi bật của Đảng cộng sản Việt Nam, có lúc tên là Đảng Lao động Việt Nam.
     Nhưng tất cả những thắng lợi và tiến bộ ấy không thể quy hết vào công của Đảng cộng sản được, tuy rằng Đảng cộng sản có công lớn. Cũng không thể quy hết công vào chủ nghĩa Mác được.
     Vì 50 năm và 70 năm ấy, nhiều nước ở quanh ta cũng có những biến chuyển lớn, lớn hơn cả nước ta. Họ đã từ nghèo nàn lạc hậu trở thành những nước giàu có và văn minh, còn nước ta vẫn còn ở trạng thái tụt hậu, đang phải cố gắng đuổi theo, mà sự đuổi theo ấy còn đang đuối sức.
     Những nước ấy không hề nhờ vào chủ nghĩa Mác và Đảng cộng sản. Đó là một sự thực hiển nhiên, bất cứ ai dù có nhắm mắt cố tình cũng không thể không nhìn thấy.

     Hiện nay những người khoảng trên 70 tuổi, tức những người được sinh ra trước năm 1930, cũng tức là những người đã được sống trong xã hội trước Cách mạng Tháng 8, thường có sự so sánh mặt nọ mặt kia của xã hội ngày nay với xã hội ngày xưa.
     Khi so sánh như thế, ai nấy cũng đều thấy xã hội ta, đất nước ta ngày nay được độc lập, đã “sạch bóng quân xâm lược”. Thật là rõ ràng, hiển nhiên ngày nay dân ta có đời sống khá hơn nhiều so với trước đây. Trước đây là đường phố đầy người chết đói và ăn mày, ngày nay một người dân trung bình cũng mơ ước và có khả năng thực hiện một ngôi nhà cho mình, cho con, một xe máy, một bộ ti vi, tủ lạnh, bếp ga, nhất là đối với người ở thành phố và đô thị. Như thế so với thời chết đói và ăn mày thì đã là một trời một vực. Cái chuyện thời nay khác thời trước cách đây 50- 70 năm là một sự thường vì nhiều nước được như thế và còn hơn thế nữa. Không thể nói là nhờ vào chủ nghĩa Mác và Đảng cộng sản được.

     Nhưng còn xã hội ngày nay đã tốt đẹp chưa ? đã tự do, dân chủ chưa ? thì không ai thấy được. Nhưng ai cũng thấy rằng:

  1. Xã hội hiện nay có một bộ máy quản lý to lớn kềnh càng quá, nhất là ở xã phường và huyện tỉnh. Bộ máy lại có nhiều Quan quá. Có một thời chữ Quan mất đi rồi, thay vào đó là chữ “Cán bộ”, “Đồng chí”. Nhưng ngày nay chữ “Đồng chí” chỉ còn trên giấy, còn thường ngày dân vẫn nói “các Quan” và “Quan càng to, càng nhiều bổng lộc”. Ngôn ngữ ấy trở lại như ngày xưa, trong xã hội rất nhiều người cũng cố gắng “phấn đấu” để được làm Quan. Vợ kiêu hãnh vì có chồng là Quan, con hãnh diện vì có bố, mẹ là Quan. Điểm này, xã hội ngày nay giống trước và trắng trợn, tệ hại hơn trước.
  2. Càng Quan to thì lễ lạt, biếu xén càng to và bổng lộc càng nhiều.
  3. Nhiều Quan to có mức độ sống không kém gì các quan ở những nước giàu có (nhà cửa, xe cộ, quần áo, ăn uống).
  4. Trong bộ máy, có nhiều người khiến nhân dân phải sợ, phải kiêng nể, có nhiều bộ máy to nhỏ đáng sợ. Dân phải sợ công an, sợ cán bộ Đảng, vì cán bộ Đảng giống công an quá, cũng hay dò la, xem xét, hay doạ nạt. Công an ngày càng nhiều và ngày càng có nhiều nét của một hình ảnh khủng bố, là hình ảnh doạ trẻ con được “Ấy chết, chú Công an kia kìa!”.
  5. Các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng khá đông đảo, nhưng không bênh vực được nhân dân chút nào. Nhân dân vẫn phải khiếu kiện nhiều, khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người (tức là biểu tình), vừa gửi đơn, vừa muốn trực tiếp đưa đơn, có rất nhiều trường hợp oan trái và oan khuất từ đời cha, đời ông đến đời con, đời cháu.

     Những điều đó, báo chí lẻ tẻ đều có nói đến, nhưng còn rất ít. Phải nghe nhân dân nói với nhau ở hè phố, góc chợ và khắp nơi mới thấy rõ được bức tranh xã hội thật.
     Vậy một xã hội mà ta mơ ước, ta lý tưởng hoá, lại tồn tại trong hiện thực như vậy, thì có thể coi là ta đã xây dựng được một xã hội tốt đẹp hay chưa ?

     Ta đã từng mơ ước, và từng lý tưởng hoá, ta đã từng chỉ ra là xã hội tương lai sẽ không có thất nghiệp, không có cờ bạc, không có gái đĩ, không trộm cắp vv... Nhưng xã hội ta ngày nay như thế nào? Vẫn có đầy đủ các tệ nạn của một xã hội cũ mà ta đã từng nguyền rủa và đã từng đập tan. Trước đây ta cho rằng chỉ có xã hội tư bản mới xấu xa như thế. Còn xã hội xã hội chủ nghĩa thì một trăm phần trăm tốt đẹp, một trăm phần trăm ngược lại với xã hội tư bản.
     Thực ra, chủ nghĩa Mác rất nhân đạo, rất nhiều lòng tốt, nó chỉ ra cho loài người một tương lai sáng lạn: sẽ không có tư hữu, do đó không có bóc lột, thế là cuộc sống xã hội hoàn toàn công bằng và dân chủ.
     Nhưng thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng nó không thể đơn giản như vậy. Hình ảnh ấy chỉ là một cái bánh vẽ khổng lồ. Thực tiễn cuộc sống khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều. Loài người cứ phải tìm kiếm và tìm kiếm, tạo ra cho mình những kinh nghiệm và những giá trị tốt đẹp. Xã hội tư bản có những cái xấu, nhưng trong xã hội đó, nhân dân cũng tạo ra những giá trị tốt đẹp cho mình, miễn là nhân dân được tự do. Cái điều mà chủ nghĩa Mác, cộng sản hay xã hội chủ nghĩa tưởng rằng có nhờ nó sẽ có một bộ máy nhà nước bảo đảm được mọi mặt nhu cầu đời sống của mọi người, chỉ là một ảo tưởng hão huyền.
     Thế mà Đảng lại cứ bắt mọi người phải tin theo vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm vào một tội ác lớn với nhân dân.
     Đảng cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng.
     Nhân dân cần được tự mình làm chủ cuộc đời của mình, nghĩa là phải được tự do sống, tự do làm ăn, rồi mọi việc của cuộc sống sẽ được giải quyết dần, không cần một lý thuyết, một chủ nghĩa nào cả.
     Nói đúng hơn là nhân dân cần đến tất cả các học thuyết, các chủ nghĩa, rồi nhân dân sẽ chọn lọc, cân nhắc, so sánh chúng với nhau để tìm ra cái nào có lợi cho đường đi của mình.
     Đảng nào sáng suốt và tài tình là đảng tạo ra được những tự do như vậy cho nhân dân. Chứ còn đảng nào mà cứ bắt nhân dân phải nghe theo và sống theo các nghị quyết của mình thì đảng ấy chỉ là duy ý chí một cách dốt nát và tàn bạo.
     Đảng ấy quyết không thể tồn tại.

7.12.2000

     Tiếp tục câu hỏi lớn: cuộc cách mạng Việt Nam đã đem lại được cái gì cho nhân dân Việt Nam ?

     Cứ xem xã hội Việt Nam hiện nay, cuộc sống Việt Nam hiện nay, thì có thể thấy một nét lớn rất đau lòng là: tất cả những gì xấu xa, tàn bạo, mà cách mạng đã có lúc xoá bỏ và đập tan thì nay đang được khôi phục lại hoàn toàn, mà khôi phục lại còn mạnh hơn, cao hơn, nhân danh cách mạng.
     Bộ máy quản lý xã hội thực hiện một nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính.
     Đó là chuyên chính tư tưởng, sự chuyên chính tư tưởng được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là những “lưu manh tư tưởng”. Chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói … Những điều luật quy vào các tội: có hại cho lợi ích cách mạng, không lợi cho sự nghiệp cách mạng, nói xấu chế độ, nói xấu lãnh đạo vv… để đàn áp tàn khốc mọi tiếng nói.
     Nền chuyên chính tư tưởng này đang làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ gì, hoặc ít nhất cũng không muốn suy nghĩ gì, nói năng gì. Thực ra, nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ, giáo điều. Nó làm cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động văn học nghệ thuật nghèo nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng, nó làm cho các hoạt động khoa học bị khô cứng và nô dịch.
     Nó tạo ra và nó bắt buộc nhân dân phải có một tâm lý lệ thuộc, lệ thuộc vào nhà nước, lệ thuộc vào Đảng, lệ thuộc vào cán bộ, và một tâm lý phải tuân phục, kể cả người cao nhất cũng phải tuân phục một cái gì bí và hiểm.
     Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài.
     Nó tàn phá cả một dân tộc, huỷ hoại tinh anh của nhiều thế hệ.
     Xét đến cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền. Vì không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống cuả con người mà nó huỷ hoại cuộc sống rất nhiều người, đó là cuộc sống tinh thần, cuộc sống tư tưởng của cả dân tộc.
     Nó đang làm hại cả một nòi giống.

9.12.2000

     Vẫn có một câu hỏi lớn mà không biết có tìm được câu trả lời thoả đáng hay không ? Câu hỏi đó là:
     Nhân dân Việt Nam, sau 70 năm đấu tranh gian khổ và 30 năm chiến tranh ác liệt với những hi sinh rất lớn lao và sâu sắc đã mang lại cho mình, cho đất nước một chế độ xã hội và một chính quyền thế nào ? một xã hội kiểu gì ?

     Ta biết chắc là có những câu trả lời ngon lành như sau:
     “Ta đang có một chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp và có một xã hội xã hội chủ nghĩa cũng rất tốt đẹp. Vì nhà nước của ta ngày nay tên là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Bản chất của chế độ ta là công bằng dân chủ, nhân dân rất hạnh phúc.”

     Đó là câu trả lời chính thống.
     Ai nói khác đi là chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại Đảng cộng sản. Nhưng người dân thường và nhất là nhiều bậc lão thành, nhiều nhà trí thức và cả nhiều thanh niên nữa, đều thấy là không phải thế. Những người này thường lấy sự thực thường ngày ra đối chiếu, rồi thấy rằng chữ xã hội chủ nghĩa thật là vô duyên và vô nghĩa. Vì vậy đã có rất nhiều ý kiến cho rằng nên trở lại với tên nước mà Hồ Chí Minh đã đặt: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

II. Chế độ xã hội chủ nghĩa và chính quyền hiện nay là thế nào và là cái gì ?

Hãy nhìn vào sự thật rõ ràng và những đặc điểm đang có mà xem xét.

12.12.2000

     Phải thấy một cách rõ ràng là sau Cách mạng Tháng 8. 1945 ở Việt Nam đã có một chính quyền cách mạng, tên là Việt Nam dân chủ cộng hoà, với 3 tiêu ngữ: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, thuận theo tôn chỉ của chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc.
     Chính quyền mới xuất hiện với những bộ máy, cung cách làm việc và những con người trái hẳn với chính quyền thực dân phong kiến trước kia. Nhân dân nô nức đi bầu ra Quốc hội, được thấy những đại biểu gần gũi và quen biết của mình. Đặc biệt nhất là hàng ngày thấy và nghe một vị Chủ tịch nước rất bình dân, giản dị, nói năng dễ hiểu và thân gần với tất cả các tầng lớp dân từ nông thôn đến thành thị, miền ngược đến miền xuôi, từ trẻ nhỏ đến cụ già. Mọi người sống trong không khí hữu ái, bạn bè, bình đẳng, không còn ai phải sợ ai. Một không khí dân chủ mới mẻ bao trùm cả xã hội.
     Chính quyền ấy phải lãnh đạo và bảo đảm sự lãnh đạo toàn dân đi vào cuộc chiến tranh.
     Cuộc chiến càng diễn ra rộng khắp và ác liệt thì nhiều yêu cầu khắt khe càng được đặt ra. Yêu cầu phổ biến nhất là mọi người, mọi nơi, phải tuyệt đối phục tùng kế hoạch chung thống nhất, mọi cấp phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nhiệm vụ lớn nhỏ của mình.
     Thế là một tình trạng phổ biến là phải tập trung cao độ, phải kỷ luật chặt chẽ. Trong thời gian này Đảng cộng sản nhấn mạnh sự lãnh đạo dân tộc của mình và đòi hỏi có sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối. Đó là điều cần thiết và mọi người đều tự nguyện chấp nhận và chấp hành.
     Đảng giành quyền lãnh đạo lúc này là giành quyền chịu gian khổ, chịu thiếu thốn khó khăn, giành quyền hy sinh trước hết. Vì vậy giành quyền lãnh đạo cũng tức là giành lấy sự vẻ vang hy sinh vì nước.
     Do đó, cả một thời gian chiến tranh dài dằng dặc, không ai có ý kiến gì khác và vai trò Đảng cộng sản ngày càng vững chắc, được công nhận đầy đủ và sâu xa.
     Trong đời sống xã hội, ít có những yêu cầu dân chủ, tự do, độc lập cá nhân. Nếu có xuất hiện ở bộ phận nào, cá nhân nào đó thì lập tức yêu cầu của chiến tranh cũng làm cho bộ phận ấy, cá nhân ấy phải tự nguyện từ bỏ yêu cầu ấy đi.

14.12.2000

     Thế nhưng, sau năm 1975, trên một đất nước thống nhất hoàn thành, một chế độ chính trị xã hội nghiễm nhiên buộc tất cả mọi người phải công nhận nó. Thực ra, một nửa nước, tức là miền Bắc, đã công nhận nó từ lâu, còn một nửa miền Nam thì phải miễn cưỡng công nhận. Hàng trăm ngàn người không công nhận chế độ chính trị xã hội và cả đời sống nghèo khổ đã bỏ đất nước ra đi. Đó là một hiện tượng xã hội cần được xem xét khách quan, không thể quy hết vào âm mưu phá hoại của địch và là hành động của những phần tử phản động.
     Cái chế độ chính trị xã hội được hình thành ấy là một chế độ Độc Đảng và Toàn Trị.
     Vì Đảng cộng sản công khai tuyên bố là Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, Đảng huy động bộ máy chính quyền quét sạch các thứ Đảng khác như Việt Quốc, Việt Cách, hạn chế các hoạt động tôn giáo, vận động (và thực chất là ép buộc) hai Đảng đồng minh trong Mặt trận tổ quốc phải tự giải thể và rút lui với lý do “đã hoàn thành sứ mệnh”, đó là Đảng dân chủ và Đảng xã hội. Trong khi đó thì thực ra Đảng cộng sản cũng đã hoàn thành sứ mệnh độc lập, thống nhất, và hoàn thành một cách vẻ vang.
     Còn sứ mệnh dân chủ giàu mạnh thì thật ra một mình Đảng cộng sản không thể làm nổi. Đã độc Đảng thì tất yếu phải kéo theo nhiều thứ “độc” khác: độc tài, độc đoán, độc quyền. Thế mà lại còn đòi lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, rồi lại còn thực hành chuyên chính của một giai cấp.
     Rõ ràng một chế độ như vậy mang theo đầy đủ tính chất của một chế độ không dân chủ và phải nói là phản dân chủ. Chế độ ấy rất có họ hàng với chế độ phát xít mà nhiều nhà trí thức thế giới đã nói.

     Có điều rất hài hước là chế độ đó lại luôn cao giọng nói những lời hoa mỹ:
          - Vì nhân dân phục vụ
          - Vì dân, do dân, của dân
          - Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
           (Thực ra chỉ có Dân làm còn thì dân không được biết, không được bàn …)
          - Dân là gốc
          - Đại đoàn kết, đoàn kết toàn dân

     Thế mà có ý kiến nào nói đến chuyện này thì lập tức bị kết tội là nói xấu chế độ và bị thực hiện “chuyên chính” ngay.
     Một xã hội có nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau, mà đòi thực hiện chuyên chính của một giai cấp trên các giai cấp khác, tức là trên toàn dân (và giai cấp ấy gồm những người như thế nào mới được chứ ?).
     Thật rõ ràng là đã có một bộ phận người nắm quyền lực thực hành chuyên chính với toàn xã hội.
     Nếu chỉ căn cứ trên ngôn ngữ, mọi người đã thấy bản chất của chế độ là thế nào? Có các nhà lý luận “lý luận” rằng: những hiện tượng mất dân chủ là “hiện tượng”, còn “bản chất” chế độ là tốt đẹp vô cùng, dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản. Trong khi ấy mọi người chỉ cần được dân chủ bằng một nửa dân chủ tư sản thôi, thực ra mọi người muốn được thực hiện một nửa những điều đã công bố ở nhiều văn kiện: Hiến pháp, phê bình và tự phê bình, chỉnh đốn Đảng. Cái lý luận “bản chất - hiện tượng” thực ra đang chửi lại và vạch trần những lời nói láo.

     Vì thế, đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị xã hội này là:

     a) Nói một đàng, làm một nẻo.
     Nói thì “dân chủ, vì dân” mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề “nói vậy mà không phải vậy”.
     Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò, ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. Suốt ngày đêm, suốt năm tháng cũng lúc nào cũng chỉ nghe thấy những lời nói dối, nói lừa.
     Chế độ này bắt mọi người phải đóng trò, bắt tất cả trẻ con phải đóng trò, bắt nhiều người già phải đóng trò.
     Đặc điểm này đã góp phần quyết định vào việc tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa: lãnh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối, giáo dục dối lừa, bằng cấp giả dối, đến gia đình cũng lừa dối, lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối, hứa hẹn lừa dối. Ôi, cay đắng thay!

     b) Đặc điểm thứ hai là quá lợi dụng quá khứ thắng lợi.
     Quả thật nhân dân ta có một lịch sử đấu tranh hết sức quyết liệt và đã thắng lợi vẻ vang. Trong đó Đảng cộng sản có vai trò quan trọng và Đảng cộng sản đã tự nói về điều đó một cách quá đầy đủ rồi. Thế mà đến nay đã gần 30 năm hoặc đã gần 80 năm vẫn còn ngày đêm phất cờ đánh trống, ngày đêm hò hét tự biểu dương, và cũng ngày đêm vơ vét các thành tựu nhân dân làm ra dồn vào cái túi “thắng lợi vẻ vang” và cái túi “sáng suốt, tài tình”. Lúc nào cũng bắt nhân dân phải tung hô, phải chào mừng, phải ca ngợi.

          - Chào mùa xuân cũng phải mừng Đảng, mừng Xuân
          - Kỷ niệm nông dân, phụ nữ, thanh niên cũng phải biểu dương thành tích Đảng, Đảng là nguyên nhân thắng lợi.
          - Nhân tổ chức lễ hội để tưởng nhớ tổ tiên và vui chơi cũng phải tưởng nhớ công lao Đảng và chào mừng Đảng.
          - Đám cưới, đám ma cũng phải tưởng nhớ và chào mừng Đảng.

     Một câu ca dao rất tuyệt vời của nhân dân nói lên bản chất của tình hình và nói lên chân lý thời đại:
          Mất mùa thì tại thiên tai,
          Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta!

     Nhắc đi nhắc lại mãi “chân lý” này càng làm nó sáng rõ. Thực ra, mỗi người cộng sản có lương tâm phải biết xấu hổ về cái “chân lý” ấy.
     Có người đã nói rằng: Đảng đã ăn cái “xái” (xái thuốc phiện) của thắng lợi quá nhiều lần. Người ta ăn xái thuốc phiện thì ăn đến xái ba, xái bốn là hết, còn xái thắng lợi thì Đảng ta ăn đến xái 100 rồi mà còn chưa chán.

     c) Đặc điểm thứ ba là bộ máy lãnh đạo và quản lý xã hội này (cả Đảng và nhà nước) càng ngày càng đuối, càng bộc lộ trình độ kém cỏi của mình trước “nhiệm vụ dân chủ” giàu mạnh của đất nước.
     Tất cả những nhu cầu, những thiết yếu hàng ngày của một người dân muốn nhờ vào bộ máy lãnh đạo và quản lý gỡ rối cho, giải quyết cho thì đều gặp:

- Giải quyết sai làm cho đời sống dân khó thêm, rắc rối thêm
- Giải quyết chồng chéo, không biết giải quyết thế nào, cứ bộ phận nọ bắn sang bộ phận kia, kéo dài vô tận.
- Không giải quyết được.
- Đòi hỏi dân phải tốn kém nhiều mới chịu giải quyết.

     Vì thế mới nhiều khiếu kiện, nhiều oan khuất, nhiều điểm nóng …
     Cũng do đặc điểm độc tài, độc đoán, cho nên mỗi người dân không được độc lập bộc lộ tài năng của mình (tuy rằng tài năng đó không hiếm). Việc chọn lựa những người có trách nhiệm cứ theo lối phe phái, theo lối ăn cánh, theo lối nịnh bợ, cơ hội, theo lối “bầu cử có lãnh đạo”, (Đảng cử dân bầu) thì các tài năng cứ bị vùi dập, bị thui chột, và đó là tai hoạ cho toàn dân tộc.
     Trong thực tế, đây là một trong những tội ác lớn nhất của Đảng đối với đất nước, dân tộc.

21.12.2000

     d) Đặc điểm thứ tư là đặc điểm lớn nhất, tai ác nhất, dã man nhất. Đó là độc quyền tư tưởng, độc quyền ý thức hệ.
     Đặc điểm này của chính quyền là trước mắt tạo ra một xã hội tẻ nhạt, khô cứng, nó vùi dập khoa học và văn nghệ, ép buộc thiếu nhi và thanh niên, làm cho không một giá trị tinh thần nào được xuất hiện và phát triển, về lâu dài nó làm cùn mòn cả nhiều thế hệ và do đó cùn mòn cả một dân tộc, một giống nòi. Nhưng những tai ác của đặc điểm này không duy trì được lâu. Đã có nhiều người trong thế hệ thanh niên và trung niên được tiếp xúc với nhiều thông tin thế giới bắt đầu nhận rõ tình hình và đang tìm cách rũ bỏ cái ách này. Chính quyền chỉ có một tiền đồ là bị phản đối và sẽ tan rã. Ta đã tha thiết mong mỏi biết bao nhiêu; chính quyền này đừng phản lại lịch sử nữa, hãy thích ứng với thời đại và tự đổi mới. Được như thế thì dân tộc ta gặp may mắn. Nhưng hình như những lực lượng bảo thủ, giáo điều, và cuồng tín còn quá nhiều và nhiều tham vọng nên còn đang kìm hãm nhịp sống bình thường của toàn dân tộc.

     e) Đặc điểm thứ năm là Đảng đã độc đoán và toàn trị, lại xử lý các việc theo kiểu bí mật và nội bộ, rất sợ công khai, sợ dân biết.
     Càng bí mật nội bộ thì càng tha hồ tuỳ tiện, muốn duy trì độc đoán nên càng sợ hãi và cấm đoán công khai, không dám tranh luận công khai, không dám thông tin công khai.

     g) Đặc điểm thứ sáu là thích hình thức, phô trương.
     Bệnh hình thức thì Hồ Chí Minh lên án từ lâu, nhưng ngày nay, bệnh cứ ngày càng phát triển nặng, ngày càng phổ biến, trở nên nhàm chán, kệch cỡm, đến nỗi dư luận xã hội và đại biểu Quốc hội phải lên tiếng.
     Suốt ngày, ta chỉ thấy kỷ niệm “chào mừng”, “lễ hội”, “mít tinh long trọng”,… Những người lãnh đạo suốt ngày phải đi biểu diễn “mở miệng nói”, không thấy có lúc nào họ có thì giờ để suy nghĩ và chuẩn bị được ý tưởng để lãnh đạo.

22.12.2000

     Tóm lại, sự thật của mấy chục năm qua là:
     Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế, của một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ.
     Thế là ta đập tan một cái xấu xa và lại phải chấp nhận một cái xấu xa mới giống như hoặc tệ hại hơn tất cả những xấu xa mà ta từng chửi rủa, từng căm thù.

     Như thế là vì sao ???
     Có thể nói sự biến chuyển từ xấu đến xấu ấy là sự biến chuyển tự nó, không ai chủ động được. Con người có thể đề ra những lý tưởng, những mơ ước, nhưng cuộc sống quá phức tạp và tế nhị, mà con người chỉ có những ảo tưởng vẫn là sản phẩm của một sự vận động quái ác.

     Nhìn lại, thấy rất rõ tâm sự của Nguyễn Huệ lúc còn trẻ:
     Ta đập tan cái xấu xa này rồi thay thế nó bằng cái gì ? Hay lại lập lại những cái mà ta đã đập tan ?
     Ta lại thấy rất rõ Nguyễn Nhạc khi lên ngôi, và sau này, chính Nguyễn Huệ cũng khi lên ngôi, đều không dám cho diễn vở tuồng “chàng Lía” là vở tuồng ca ngợi sự nổi dậy.
     Và chân lý hiện ra là: người nổi dậy khi đã cầm quyền lại rất sợ nổi dậy !?

     Trong nhân dân cũng có một chuyển biến tâm lý như tôi đã ghi trong bút ký “Một Cái Nhìn Trở Lại” (bài 2): từ quan hệ dân và cán bộ là mẹ con, vậy mà chỉ sau mấy ngày đã trở thành quan hệ giữa “thưa ông” và “nhà cháu’’.
     Ta không lấy làm lạ là tất cả những mỹ từ được sử dụng chỉ là để củng cố sự cầm quyền của Đảng cộng sản. Đó chính là sự chuyển biến từ Đảng cộng sản là những người con thân yêu thực sự của nhân dân lao động thành một tầng lớp thống trị gồm một tập đoàn các quan chức chỉ muốn bóc lột, hành hạ, sai khiến nhân dân và lừa bịp nhân dân, và lại cứ nhân danh là “con của nhân dân” và “đầy tớ của nhân dân”
     Sự nỗ lực toàn bộ và trung tâm của Đảng cộng sản hiện nay chỉ tập trung vào sự củng cố quyền lực của Đảng. Cả một bộ máy công tác tư tưởng đồ sộ ngày đêm hò hét chỉ để ca ngợi Đảng, đề cao Đảng, khai thác hết mức thắng lợi của toàn dân và tô vẽ thành thắng lợi của Đảng. Cả một bộ máy “nói lấy được”, lừa bịp, dối trá đến trắng trợn, kiểu lưu manh.
     Bên cạnh đó, nảy sinh một hệ thống các tổ chức an ninh, từ Bộ công an mà lực lượng lớn bằng nửa Quân đội, đến các cơ quan an ninh nội bộ đủ các loại, đầy quyền lực và thủ đoạn. Những thủ đoạn an ninh đều được học tập từ các chế độ phong kiến, phát xít và độc tài cộng sản. Tất cả nhằm bảo vệ cho quyền lực của Đảng cộng sản. Trong lúc Đảng cộng sản ngày càng tỏ ra kém sức lực trong việc quản lý xã hội bình thường.
     Vì Đảng cộng sản chỉ quản lý được một “xã hội trại lính”.
     Đây chả phải sự xét lại, sự sám hối gì hết. Mà đây chỉ là một nỗi lòng cay đắng trước một sự thật phũ phàng. Cả đất nước ngày ngày kỷ niệm, ngày ngày đại hội và lễ hội, chỉ để tụng niệm một quyền lực đã lung lay và đã thoát ra khỏi lòng tin của nhân dân, luôn luôn bắt toàn quân toàn dân và cả toàn Đảng phải ca ngợi và dối trá.

     Bây giờ làm sao ?
     Thực ra, ta chỉ mong Đảng cộng sản, vốn là Đảng trọng sự thật, nhận ra cái sự thật cay đắng này, cái sự thật lịch sử này, tự điều chỉnh mình cho thật phù hợp với lý tưởng mà mình đã hứa với nhân dân. Nhưng càng ngày lại càng thấy cái mong ước đầy thiện chí nọ vẫn chỉ là ảo tưởng lớn, toàn Đảng (tức là nhóm người cầm đầu) càng ngày dấn sâu vào tâm lý, tư duy và phong cách của một lớp thống trị xa rời và ngược lại với nhân dân, càng ngày càng trở thành sản phẩm của chính những tâm lý, tư duy và phong cách của chính họ, càng ngày càng trở thành vật cản nặng nề cho mọi tiến bộ xã hội.
     Càng ngày bộ máy càng làm những việc tàn ác, độc đoán và vẫn cứ cao giọng nhân danh cách mạng, nhân danh nhân dân, nhân danh Hồ Chí Minh, nhân danh lịch sử thắng lợi của dân tộc.

24.12.2000

     Thế là tận những ngày cuối của Thế kỷ XX và của Thiên niên kỷ thứ II thì mới nhận được rõ nét một sự kiện lịch sử lớn của đất nước.

     Đó là:
     Từ một Đảng sinh ra từ nhân dân, được nhân dân nuôi nấng và bảo vệ, có những đảng viên tiên phong gương mẫu đi đầu trong gian khổ chiến đấu và hy sinh nhằm đưa đất nước giành được độc lập. thống nhất, hoà bình, nhưng từ ngày toàn đất nước được thống nhất hoà bình và độc lập, thì cái Đảng ấy lại tồn tại như một Đảng cai trị. Đảng đó ra sức củng cố tình trạng độc đảng chuyên chế về tư tưởng và chính trị, tạo ra một xã hội đầy tham nhũng, đầy dối trá và lừa bịp, mọi người sống trong cảnh đóng trò giả dối, ngày ngày nảy sinh lớp lớp người nịnh bợ, cơ hội, các tệ nạn xã hội lan tràn phát triển. Càng hô hào chống, bỏ và xoá, lại càng nặng nề thêm. Đảng cai trị ngày càng chuyên chế một cách quyết liệt để giữ vững sự chuyên chế của mình, che lấp sự kém cỏi bất lực của mình, đàn áp mọi phát triển ở các lĩnh vực khoa học chuyên môn, luôn coi sự giữ chắc truyền thống giá trị xã hội của mình là quan trọng hơn tất cả mọi phát triển của xã hội, mọi sự nảy nở và phát triển của mọi cá nhân trong xã hội đó.

     Tình trạng này đặt đất nước đứng trước hai tình huống cơ bản:

  1. Đảng cai trị phải nhận thức rõ được sự kém cỏi, bất lực của mình mà tự đổi mới, chấp nhận một thể chế dân chủ phù hợp với thông lệ dân chủ của thế giới, bỏ đi cái quan niệm lạc hậu lỗi thời phân biệt dân chủ tư sản và dân chủ vô sản; tự hạn chế mình trong vai trò lãnh đạo chính trị thực lòng vì nhân dân, vì sự phát triển của đất nước. Như thế thì Đảng vẫn giữ được cái lịch sử vẻ vang của mình mà vẫn có vai trò quan trọng trong lịch sử.
  2. Không làm như thế mà cứ khai thác một cách bừa bãi thắng lợi của dân tộc, ngoan cố duy trì chế độ độc đảng và toàn trị thì sớm muộn nhân dân sẽ chán ghét và do đó dẫn đến đổ vỡ, tạo ra những tai hoạ khôn lường cho đất nước và dân tộc, tai hoạ ấy còn nặng nề gấp nhiều lần tai hoạ của Cải cách ruộng đất và tai hoạ bắt cả nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tai hoạ ấy sẽ xoá sạch vai trò của Đảng trong lịch sử và Đảng sẽ phải chịu tội trước lịch sử.

     Sự thực quá trình đó đã bắt đầu. Nhân dân cứ có cuộc sống của nhân dân, nhân dân cứ sống, và xã hội cứ tiến lên.
     Đáng lo thay cho bộ phận lãnh đạo mà tài và tầm nhìn thì dưới trung bình, đức thì cũng không hơn mức thông thường trong nhân dân, mà ngày càng kém hơn.
     Đáng lo thay cho những bộ phận lãnh đạo ấy và đáng lo thay cho số phận của nhân dân phải chịu đựng sự lãnh đạo ấy.

     Có thể thấy rõ rằng: chế độ độc đảng, độc tài và toàn trị ngày càng đi sâu vào các thủ đoạn gian dối và tàn bạo để tự duy trì, tự bảo tồn chế độ ấy, thế mà còn huênh hoang nói là chế độ xã hội chủ nghĩa đầy dân chủ và nhân đạo. Thực chất là chế độ thì rất dã man, cho nên phải dùng nhiều thủ đoạn để lừa bịp nhân dân.

     Tạm kê một số thủ đoạn như sau:

     A. Thần thánh hoá, thiêng liêng hoá Đảng, cấp uỷ và các nghị quyết. Điều vô lý là bắt toàn dân phải học nghị quyết của Đảng.
     - Đảng có nhiều Nghị quyết quá, Nghị quyết của nhiều cấp, Nghị quyết của nhiều ngành. Đẻ ra nhiều thứ tổ chức Đảng quá, và những tổ chức đó lại tha hồ mà có nghị quyết và chủ trương.
     - Một người dân phải học, phải biết và phải thi hành nhiều thứ quá.
     - Có một đòi hỏi phổ biến là coi Nghị quyết của Đảng quan trọng hơn, cao hơn quyết định của các cấp chính quyền.
     - Quyết định của chính quyền mà không có ý kiến của Đảng chấp nhận thì không có giá trị thi hành. Nhiều khi quyết định của Đảng phủ nhận hoặc bác bỏ quyết định của chính quyền. Người có trách nhiệm ở chính quyền mà không phải là đảng viên và cấp uỷ viên thì ý kiến thường bị coi thường.
     - Nghị quyết thường là nói những khái niệm và thành ngữ chung chung, bao quát phạm vi rất rộng, thế rồi bất cứ việc gì trong sinh hoạt xã hội cũng đều phải quy chiếu vào nghị quyết nọ, nghị quyết kia, làm ra vẻ Đảng soi sáng đến tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống
     - Khi trong thực tế thấy rõ là những điều nêu trong Nghị quyết không thể thực hiện được, thì lại quay vẽ chữ: Nghị quyết là đúng, là hay, nhưng những người tổ chức thực hiện kém. Chỉ có thi hành nghị quyết là kém, còn nghị quyết thì lúc nào cũng đúng, cũng có ý nghĩa quan trọng, thậm chí tài tình. Không có bất cứ một hiện tượng xấu nào có nguồn gốc từ Nghị quyết cả !
     - Không ai, kể cả báo chí, cá nhân được quyền nhận xét phê phán, phân tích các nghị quyết cả. Đã là nghị quyết thì chỉ có đúng và tài tình, là rất thiêng liêng !

     B. Khuyến khích và bồi bổ tệ nạn sùng bái cá nhân là tệ nạn đã bị lên án nặng nề trong phong trào cộng sản thế giới.
     - Bao giờ ý kiến của Bí thư, uỷ viên Thường vụ và cấp uỷ cũng là quan trọng, là thiêng liêng, là chân lý. Luôn luôn những ý kiến này được trích thuật, có khi chỉ là một ý kiến vớ vẩn, ai cũng nói được. Trong các phương tiện thông tin đại chúng, mục “hoạt động của các vị lãnh đạo” bao giờ cũng là mục quan trọng ở trang nhất, tất cả chiều dài của tin, khổ rộng của ảnh đều được quy định chặt chẽ.
     - Ở tất cả các loại báo thì các thông tin và hoạt động, và hội nghị về lễ kỷ niệm, Đại hội và chào mừng vv… chiếm đến 80%, còn những thông tin có ích chỉ chiếm 10-20%.
     - Một người có địa vị trong xã hội thì chức vụ trong Đảng cũng là quan trọng nhất, bao giờ cũng đưa ra trước hết như là Bí thư, uỷ viên Bộ chính trị, uỷ viên cấp uỷ.
     - Trong các cáo phó người chết thì danh hiệu đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam cũng là danh hiệu vẻ vang lớn nhất, hơn tất cả các danh hiệu khác …
     - Đảng cố tạo nên các phong tục tập quán, các tục lệ xã hội, cái gì cũng phải thần phục Đảng, thần phục các quan chức của Đảng, tạo ra một tục lệ là mọi người bình thường phải lập công để trở thành đảng viên, dù phải lạy lục, nịnh bợ, chạy chọt, thậm chí có lúc phải hối lộ tiền nữa. Tôi nhiều lần tự hỏi Đảng có cần gì phải có đến 2-3 triệu đảng viên và vẫn còn đang tìm cách phát triển nữa, trong khi bây giờ không cần có sự hy sinh như trong chiến tranh và trong khi ai cũng thấy chất lượng đảng viên ngày càng sa sút. Vậy cố gắng tăng số lượng làm gì? Đó cũng lại là một sự phi lý nữa …

30.12.2000

Bài thơ rất tâm đắc của Bùi Minh Quốc:

Cay đắng thay !
Các guồng máy nhục mạ con người
Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất
ù lì quay
Quay
Thao thao bài đạo đức
Liệu mấy ai còn ngây
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính bộ máy này.

----- O -----

Thư của nguyên thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật quốc hội, gửi lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

--- O ---

Hà Nội, ngày 18/10/2004.

Kính gửi:
     Bộ Chính trị Ban Chấp hànhTrung Ương Đảng.
     Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.
Đồng kính gửi:
     Đảng uỷ Công an trung ương,
     Uỷ ban pháp luật của Quốc hội.

- Về việc phải sửa chữa, chấm dứt ngay chức năng làm công việc An ninh của Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng.

Tôi là Nguyễn Tài, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội khoá VIII, xin trình bày lên Bộ Chính trị, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội và các cơ quan có liên quan, ý kiến của tôi về "Về việc phải sửa chữa, chấm dứt ngay chức năng làm công việc An ninh của Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng".

Hồi tháng 1/2000, tôi được mời dự cuộc họp “sơ kết 3 năm thi hành nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược An ninh quốc gia"

Tại cuộc họp này - do đồng chí Trần Đức Lương và đồng chí Lê Minh Hương chủ trì - tôi đã có phát biểu một số ý kiến bằng văn bản; trong đó có phần đề cập việc quy định sai chức năng của Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng, vừa trái với nguyên tắc Đảng, vừa trái pháp luật của nhà nước ta. (Xin kèm theo đây đoạn nội dung ý kiến của tôi về việc này). Nhưng suốt từ đó đến nay, tôi không nhận được ý kiến trả lời nào, rằng ý kiến của tôi có được báo cáo lên Bộ chính trị hay không ? Và Bộ chính trị có thừa nhận ý kiến của tôi là đúng hay không ? (Theo tôi, đó là trách nhiệm đã làm việc tuỳ tiện của các đồng chí Uỷ viên Bộ chính trị thường trực tổ A47).

Sau đó, ngày 1/8/2000, tôi đã có thư gửi đến đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh để nhắc việc này (cùng vài việc khác). Nhưng cũng không được hồi âm.

Những thực tế diễn ra từ đó đến nay đã chứng minh việc quy định sai chức năng của Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng, đã gây ra nhiều hậu quả tai hại cho Đảng và Nhà nước ta (như: Vụ Sáu Sứ; vụ bao vây và xét giấy những người ra vào nhà trung tướng Trần Độ; vụ dính đến bọn Năm Cam,… tất cả đều do tổng cục 2 tiến hành).

Tất cả những tình hình kể trên - nếu đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đang hô hào học tập và làm theo - thì đều chứng tỏ trong Đảng ta “Còn rất thiếu dân chủ nội bộ" và "kém văn hoá trong giao tiếp"; cũng như "thiếu bình đẳng trên tinh thần giữa các đảng viên về trách nhiệm trước sự nghiệp cách mạng của Đảng và của Dân tộc".

Những vấn đề này cũng cần kiên quyết khắc phục sớm, để Đảng được thêm trong sáng, lành mạnh, vững vàng.

Tôi có nghe nói: Có người đã chất vấn đồng chí Lê Đức Anh là người thay mặt Bộ Chính trị ký văn bản về Tổng cục 2 dẫm chân lên chức năng của ngành công an; thì đồng chí Lê Đức Anh trả lời: "Cũng như trong kinh tế, phải có cạnh tranh thì mới tiến bộ được” (Tôi không thể tưởng tượng được một đồng chí uỷ viên Bộ chính trị, thường trực Ban bí thư mà có quan điểm xa lạ với quan điểm của Đảng đến như thế ! Chỉ chứng tỏ sự “ cãi bây" và lộ rõ ý đồ cá nhân trong vụ này).

Nên một lần nữa, tôi có thư này để nhắc lại:

Là cán bộ lão thành cách mạng, tôi cũng xin nói thẳng: Nếu Bộ Chính trị vẫn tìm cách lảng tránh với lý do “để giữ ổn định chính trị”; thì thực tế sẽ là gây mất ổn định chính trị ngay trong nội bộ Đảng và Nhà nước; mà lịch sử- vốn công bằng và nghiêm khắc với mọi người - sẽ không bỏ qua trách nhiệm và tư cách của tập thể cũng như cá nhân các uỷ viên Bộ Chính trị đương nhiệm.

Tôi hy vọng ý kiến của tôi- học trò trung thành của Hồ Chí Minh- được Bộ Chính trị và các cơ quan có liên quan coi trọng đúng mức.

Xin cám ơn.

Kính,

Nguyễn Tài.
Nhà số 25 ngõ 4 Đặng Văn Ngữ - Trung Tự - Hà Nội.
Điện thoại: 04.8523826 hoặc 068.42671.

----- O -----

Ban biên tập: Trong hội nghị Đảng uỷ quân sự Trung Ương mở rộng, ngày 24/8/2004. Có một báo cáo nhận định về "các lực lượng thù địch". Chúng tôi đăng tải tài liệu này để độc giả có dịp tham khảo thêm. Mọi ý kiến bình luận xin được dành cho độc giả.

Việt Nam - Đông Dương Từ Nay Đến Đại Hội X
(Báo cáo tại Hội nghị ĐUQSTW mở rộng, ngày 24/8/2004)

Với ưu thế vượt trội về kinh tế và quân sự, Mỹ đẩy mạnh triển khai chiến lược toàn cầu với mức độ cực đoan hơn, hiểu nhiều hơn nhằm nhanh chóng áp dặt sự lãnh đạo độc tôn, khẳng định vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ trên thế giới.

Cách mạng Việt Nam tiếp tục đối mặt với 4 nguy cơ đã được các Đại hội Đảng xác định. Với mục tiêu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam chuyển hoá chế độ XHCN ở Việt Nam, Mỹ gia tăng các hoạt động “diễn biến hoà bình” bằng những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là âm mưu chia rẽ nội bộ, sử dụng lực lượng cấp tiến, phản động trong và ngoài nước, đẩy mạnh hoạt động thúc đẩy các diễn biến trong nội bộ ta.

Dưới đây là một số tình hình thế giới, khu vực và trong nước thời gian qua, có tác động trực tiếp tới An ninh – Quốc phòng của Việt Nam . Dự báo một số âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch từ nay cho đến Đại hội 10.

I. - Âm Mưu Ý Đồ Của Mỹ Đối Với Thế Giới Và Khu Vực
……………………………………………………………..…………………….

II. - Chiến Lược Diễn Biến Hoà Bình Của Mỹ Và Các Thế Lực Thù Địch Đối Với Việt Nam Hiện Nay Và Dự Báo Trong Thời Gian Tới.
……………………………………………………...…………………………….

III. - Các Thế Lực Thù Địch Tăng Cường Sử Dụng Bọn Cấp Tiến Phản Động Trong Và Ngoài Nước Đánh Phá Đảng Và Quân Đội, Tập Trung Vào Chống Phá Đại Hội 10:

Bọn phản động cấp tiến trong và ngoài nước từ rất sớm, đã xác định những chủ trương, biện pháp, thủ đoạn xây dựng, củng cố tổ chức và luận điệu tuyên truyền đề tập trung chống phá quyết liệt Đại hội ĐCS Việt Nam lần thứ 10.

1. Hoạt động của bọn cấp tiến, phản động trong nước.

a. Chủ trương.

* Ngày 22/2/2004, tại 62 Ngô Quyền – Hà Nội đã diễn ra cuộc gặp mặt qua một số nhân vật cấp tiến Hà Nội gồm Hoàng Minh Chính, Hồng Hà, Thanh Giang, Hoàng Tiến … Cuộc gặp triển khai một số công việc sử dụng từ nay đến Đại hội Đảng X.

Mục tiêu cần đạt được là phải làm cho Đảng Cộng sản rối loạn, tình hình xã hội khủng hoảng nhiều mặt, nhiều nơi mà Đảng không giải quyết được, buộc Ban lãnh đạo phải phân hoá, đi đến tan rã hoặc tự tuyên bố giải tán.

Phương châm hoạt động là không bạo động, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nước.

Biện pháp: Tuyệt đối bí mật, thận trọng, cảnh giác, không manh động, tránh đối đầu với công an để bảo toàn lực lượng trong thời gian từ nay cho đến Đại hội Đảng X.

Tập trung vào việc soạn thảo tài liệu có tính chất “văn kiện” gửi Đại hội Đảng X.

* Ngày 7/7/2004 Hồng Hà nhận định: “Đại hội X sẽ diễn ra rất gay gắt quyết liệt. Đây sẽ là Đại hội cuối cùng của ĐCS. Cần tích cực đấu tranh trước mắt là giải quyết vấn đề Phạm Quế Dương theo chiều hướng thả bổng, giải quyết vấn đề Lê Đức Anh rõ ràng, rành mạch, các tài liệu viết xong phải chuyển đến tận các “Đảng bộ địa phương”.

b. Mục tiêu.

* Đại hội Đảng X là cái đích mà các hoạt động chống phá của lực lượng cấp tiến đang hướng tới. Chúng đều cho rằng sẽ “có những bước đột phá tại Đại hội Đảng X” hoặc “Đại hội Đảng X là Đại hội cuối cùng của ĐCS Việt Nam”. Các bước đi của chúng như sau:

Bước 1: Làm xói mòn và mất niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó tạo sự đối lập giữa Đảng và Nhân dân.
Bước 2: Làm suy yếu hệ thống lãnh đạo của ta bằng cách đẩy mâu thuẫn nội bộ trong Bộ chính trị, Ban bí thư, BCH TW.
Bước 3: Vô hiệu hoá các cơ quan trọng yếu của Đảng, quân đội và công an “làm “ù tai”, “mờ mắt” của Đảng và Quân đội” (nguyên văn lời Lê Hồng Hà).
Bước 4: Sử dụng sức ép từ sự đấu tranh đòi dân chủ, chống tham nhũng, chống Đảng độc tôn lãnh đạo … của các lực lượng trí thức, CCB, lão thành cách mạng kết hợp với sức ép ngoại giao từ bên ngoài tạo những chuyển biến “quan trọng” tại Đại hội Đảng X theo hướng có lợi cho “phong trào dân chủ”.

* Chống phá về nội bộ, nhân sự. Chúng viết bài xuyên tạc và bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội qua các thời kỳ, khoét sâu vào những cái mà chúng cho là mâu thuẫn, gây chia rẽ ngay trong bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng. Nhà nước từ đó tuyên truyền về sự mất đoàn kết, bất ổn chính trị của ban lãnh đạo và chế độ, reo rắc sự nghi ngờ, từng bước làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

* Chống phá về tư tưởng lý luận. Chúng tán phát rộng rãi các tài liệu có nội dung bôi nhọ, xuyên tạc lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, khuếch trương, cổ suý cho CNTB, phủ nhận con đường CNXH ở nước ta. Lực lượng cấp tiến cho rằng: “CNXH không còn thuyết phục và khả thi để nêu cao ngọn cờ lý tưởng Cộng sản. Trong Đảng cộng sản Việt Nam bây giờ có nhiều bế tắc, tư tưởng đóng băng, lại lai căng, tham ô, tham nhũng, tiêu cực từ chóp bu trở xuống”.

Ở góc độ chống phá khác, chúng cho rằng : chế độ XHCN ở Việt Nam hiện nay không phải là chế độ mà Bác Hồ đã chọn lựa, mà thực ra chỉ là chế độ TBCN hạng bét, lãnh đạo thì bao che cho nhau, gây bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết trong bộ bộ Đảng.

c. Thủ đoạn hoạt động gần đây có một số điều chính.

Chống phá của bọn cấp tiến ngày càng mang tính thống nhất cao hơn, qui mô rộng hơn có bài bản và có kế hoạch thực hiện cụ thể. Chúng chủ trương không đứng ra thành lập “tổ chức”, “hội”, đấu tranh mềm dẻo, lôi kéo, tập hợp lực lượng. Thời gian qua, sự móc nối, liên hệ phối hợp hoạt động chống phá của cấp tiến mà miền Bắc - Trung – Nam giữa các nhóm cấp tiến trong nước và phản động người Việt Nam ngoài nước đã nâng lên một bước. Đặc biệt, chúng gia tăng móc nối với ĐSQ Mỹ tại Hà Nội và bắt đầu có sự phối hợp giữa cấp tiến, cơ hội chính trị với phản động tôn giáo. Sự thống nhất trong mục tiêu, kế hoạch và nội dung chống phá được thể hiện rõ hơn.

Thứ nhất: Chuyển từ “đấu tranh công khai” sang hoạt động “ngầm” nhằm bảo toàn lực lượng chờ đợi thời cơ, trong khi đẩy mạnh viết bài, tuyên truyền mở rộng đối tượng cảm hoá, giác ngộ tư tưởng “dân chủ, đa nguyên” nhằm chuyển hoá và lôi kéo các lực lượng khác tham gia” “ phong trào”.

Ngày 24/3/2004 Hồng Hà nói: “Chúng ta không thể đấu tranh bằng phương pháp biểu tình, như thế sẽ bị chính quyền đàn áp ngay. Do vậy ta cần phải tăng cường viết bài nhằm cảm hoá, giác ngộ quần chúng nhân dân để thay đổi chế độ”.

Thứ hai: Tập trung đấu tranh bảo vệ và đòi trả tự do cho các nhân vật cấp tiến đang bị giam giữ. Lưu ý nhất là Thanh Giang được giao nhiệm vụ liên hệ với Đại sứ quán Mỹ phối hợp đấu tranh, tạo áp lực quốc tế với chính quyền Hà Nội. Mặt khác, tiến hành thành lập “uỷ ban bảo vệ Nguyễn Vũ Bình” để gây áp lực với chính quyền.

Thứ ba: Thu thập thông tin và đẩy mạnh viết bài, phát tán các tài liệu chống phá Đại hội Đảng X, mục đích là từ nay đến Đại hội Đảng X sẽ xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, nội dung chống phá chủ yếu là về đường lối nhân sự như: Tuyên truyền, đả phá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, tố cáo cán bộ lãnh đạo cao cấp gây chia rẽ nội bộ đảng trước Đại hội Đảng …

Thứ tư: Lợi dụng, kích động hoặc “giả danh” một số cán bộ lão thành cách mạng để viết cái gọi là “thư góp ý” gửi các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước và quân đội. Tán phát, nhào nặn, lồng ghép tư tưởng phản động trong các tài liệu, lấy đó làm cơ sở, luận cứ để bảo vệ cho những quan điểm sai trái của chúng sau đó tuyên truyền rộng rãi để tạo dư luận.

d. Về xây dựng lực lượng.

Ngày 12/4/2004, lực lượng dân chủ cấp tiến Hà Nội đã họp bàn đưa ra phương pháp tập hợp lực lượng trong thời gian tới như sau:

e. Luận điệu tuyên truyền.

Tuyên truyền xuyên tạc nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, lực lượng vũ trang trước thềm đại hội X.

Tuyên truyền về thực trạng tham nhũng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta, lợi dụng các vụ án tham nhũng được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng làm tư liệu để tuyên truyền.

Đáng chú ý là quan điểm của Hồng Hà gộp tất cả tập thể Bộ chính trị như nhau cùng là những người có chức quyền nhưng lại sợ nhân dân, chỉ biết đến danh vọng, tham ô, hối lộ … và cho rằng: “bây giờ chúng nó đã an toạ nên chúng nó phải bảo vệ nhau để cùng tồn tại … phải tăng cường bịp, bịp rất mạnh …”. Về vấn đề này, thủ đoạn của chúng, theo như lời Hồng Hà là “đánh tỉa”: “đánh từng người một, từng ngành một, từ cũ đến mới, từ thấp đến cao … có ít phải nói mạnh, chưa có phải tìm cho có mà đánh.

Tuyên truyền về tình trạng bè phái, mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh quân đội, trong nội bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta.

Tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta:

Xuyên tạc về con đường, phương hướng phát triển của Việt Nam.

Xuyên tạc vê đường hướng phát triển kinh tế của Việt Nam.

Phản ứng quyết liệt với kết quả Hội nghị TW 9, Hội nghị TW10.

Vui mừng trước việc Hạ viện Mỹ thông qua dự luật nhân quyền Việt Nam 2004 ngày 10/6/2004. Ngày 27/7/2004, Hoàng Minh Chính nói: “Mỹ sẽ chi cho các lực lượng đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam 4 triệu USD. Tuy dự luận này còn phải được Thượng viện Mỹ thông qua, nhưng ta phải thấy đây là những dấu hiệu đáng mừng đối với phong trào dân chủ ở trong nước”.

* Tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của ĐCS phủ nhận chủ nghĩa Mác – LêNin, con đường đi lên CHXN, phủ nhận sự lãnh đạo của ĐCS, tán dương đề cao CNTB “tự do – dân chủ” kiểu Mỹ.

* Đáng chú ý trong số phản động, cấp tiến trong nước, mà chúng tự gọi nhau là “lực lượng dân chủ” đang nổi lên Nguyễn Thanh Giang và Lê Hồng Hà được đồng bọn ca tụng là “cao tay” hơn cả. Hai nhân vật này đồng quan điểm với nhau, trong đó Thanh Giang thường viết tài liệu công khai, mang tính trí tuệ, đại diện cho giới trí thức. Còn Hồng Hà thì tự xưng là “đại diện cho cán bộ cách mạng lão thành” thường viết bài dấu tên nặc danh, chọc sâu vào nội bộ Đảng, Quân đội và những vấn đề mang tính luật pháp. Đáng chú ý là Thanh Giang thường xuyên tiếp xúc, quan hệ với sứ quán Mỹ, với phóng viên đài báo nước ngoài, chống đối công khai và rất hung hăng. Còn Lê Hồng Hà thì thủ đoạn hoạt động bí mật, khôn khéo và nguy hiểm.

2. Hoạt động của lực lượng phản động Việt Nam lưu vong.

Đặc biệt, mối quan hệ trong ngoài được tăng cường thường xuyên, liên tục và phối hợp rất chặt chẽ, từ những vấn đề chiến lược lâu dài, đến những tình huóng, luận điệu “đấu tranh” cụ thể,

a. Nổi lên trong thời gian qua là “Đại hội lần 1 tập hợp dân chủ đa nguyên” THDCĐN) tổ chức tại Ba lan từ 26 – 28/7/2004.

Nguyễn Gia Kiểng đứng đầu tổ chức phản động này nói: “đây là dịp để các thành viên tập hợp chứng kiến tận mắt và tiếp xúc thực tiễn với một xã hội vừa ra khỏi chế độ cộng sản (Ba lan). từ đó, rút ra những kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn Việt Nam”. Thời gian ba năm sắp tới phải chăng rất quan trọng, vì có thể có biến chuyển quan trọng trong sự hình thành nền dân chủ đa nguyên ở Việt Nam ? Trình độ “sẵn sàng” của tập hợp phải ra sao để kịp ứng phó trên bình diện tổ chức và phát triển lực lượng tập hợp ? trên bình diện khả năng và phương tiện hành động ? trên bình diện vận động đoàn ngũ và huy động quần chúng, vận động quốc tế và tạo đà tiến với áp lực cần thiết ?…

* Những luận điệu tuyên truyền chống phá THDCĐN thông qua đại hội. Nổi lên là những đánh giá, phát biểu của Bùi Tín và Nguyễn Gia Kiểng. Khi nói về ĐCS Việt Nam, Bùi Tín cho rằng: “hiện nay chúng ta đang đứng trước một cái ngưỡng chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ trong xã hội có thể làm thay đổi lớn về bản chất trong chế độ. Chúng ta đang đứng trước một vận mệnh rất quan trọng trong khi nội bộ ĐCS có nhiều dấu hiệu rạn nứt …”. Kiểng chủ trương: “… chiến lược phải thay đổi, trước hết phải đánh vào những giá trị căn bản của nền văn hoá đã tạo ra thực trạng đáng buồn này.Vì thế, nên chúng ta cần có một cuộc đấu tranh văn hoá”.

* Một số nhận xét xung quanh đại hội toàn thế giới lần 1 của THDCĐN

Đại hội có sự tham dự của chính giới Ba Lan, kể cả các đảng phái cầm quyền hay đối lập, tất cả đều tỏ thái độ quan tâm đặc biệt đến Đại hội. Cựu tổng thông Ba lan Lech Walessa cũng gửi thư đến chúc mừng. Đại hội và hẹn gặp các “nhân vật đối lập Việt Nam”. Các cơ quan truyền thông của Ba lan, cũng như các tổ chức “dân chủ” “nhân quyền” ở Mỹ và Châu Âu, Úc đều rất quan tâm đến đại hội nay.

b. Đặc biệt ngày 4/8/2004 trên mạng internet bắt đầu xuất hiện lời “hiệu triệu khẩn của Hội đồng Quân nhân Cách mạng Việt Nam” kêu gọi lật đổ Bộ chính trị ĐCS Việt Nam. Tài liệu này cũng do chính THDCĐN soạn thảo và tán phát rộng rãi trên các phương tiện thông tin công cộng và gửi cho bọn cấp tiến trong nội địa. “Thời cơ cho vận mệnh và lịch sử tổ quốc Việt Nam xoay vần đã điểm. chế độ độc tài, độc quyền và tàn bạo. CNXH Việt Nam đang cáo chung. Đây là thời điểm quan trọng và quyết định sự sống còn của dân tộc Việt Nam. tự do hay là chết. Toàn thể các chiến binh, quân nhân Việt Nam của cả hai chế độ cũ, mới hãy rũ bỏ quá khứ thù hận cùng đồng tâm, đoàn kết lại đứng lên, vùng dậy loại trừ toàn bộ Bộ chính trị ĐCS Việt Nam. Nơi đó đã xảy ra tất cả các tội ác với dân tộc. Tự do hay chờ chết lần mòn trong đói khát và sợ sệt. Nếu chúng ta khiếp sợ thì con cháu chúng ta sẽ mạt nhược trước nạn nội xâm tàn bạo này”.

3. Hoạt động của các thế lực thù địch chống phá quân đội và trực tiếp chống Tổng cục II ngày càng quyết liệt.

Với ý đồ làm suy yếu các công cụ bảo vệ Đảng và chế độ XHCN này, lực lượng phản động, cấp thiến đang tăng cường chống phá quân đội, mà tập trung trước hết là tổng cục II. Bọn đầu sỏ đánh giá: “Một trong những biện pháp để thúc đẩy các hoạt động “dân chủ” “tự do” “chia rẽ, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ Đảng”, “chống tiêu cực …” đó là phải tìm bằng chứng, tán phát tài liệu tuyên truyền, bôi nhọ Tổng cục II, hạ thấp uy tín của Tổng cục II với Đảng và Nhà nước và gây mâu thuẫn ngay trong nội bộ Tổng cục II”.

Vì vậy, trong suốt thời gian qua, bên cạnh các hoạt động chống Đảng, chống chế độ, lực lượng phản động cấp tiến tập trung chĩa mũi nhọn chống phá Tổng cục II một cách có hệ thống, có tổ chức, thống nhất cả về nội dung, phương thức và thời điểm chống phá ở cả trong và ngoài nước với mục đích hạ thấp uy tín của Tổng cục II với Đảng, với quan đội tiến tới làm suy yếu sức mạnh, “đánh sập” Tổng cục II để chúng dễ bề chống phá ngay từ trong nước ra đến ngoài nước.

3.1. Bọn cấp tiến phản động trong nước tập trung viết bài chống phá, xuyên tạc.

3.2. Hoạt động phối hợp của bọn phản động ở ngoài nước.

Trong những hoạt động chống phá có trọng điểm này, bọn cấp tiến đã nhận được sự yểm trợ, phối hợp của lực lượng phản động người Việt Nam ở nước ngoài và một số thế lực nước ngoài, trong đó có các phương tiện thông tin đại chúng như ERFA, BBC, RFI …

Trong đại hội toàn thế giới của THDCĐN lần thứ nhất tại Ba lan ngày 28/7/2004, lực lượng phản động cho rằng “đây là thời cơ thuận lợi nhất, chín muồi nhất” để chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội. Ngày 27/7/2004 THDCĐN đã cho in ấn và phân phát cho các thành viên tham gia đại hội tại Ba lan thư của Trần Đại Sơn cùng với bức thư của ông Nguyễn Nam Khánh đề ngày 17.6.2004 như tài liệu chính thức của đại hội. Trong đại hội, Bùi Tín nói: Tôi thông báo với các bạn một tin: ở cung đình Hà Nội đang có cuộc đấu tranh lớn, sống mái với Đại tướng Lê Đức Anh. Lê Đức Anh đã dựng lên Tổng cục II năm 1995 … cách đây 1 tuần chúng tôi nhận được 1 văn kiện, văn kiện đó dài 13 trang do Thượng tướng Nam Khánh ký tên … tố cáo Lê Đức Anh là cai đồn điền cao su, khai man để vào Đảng năm 1943, vào Đảng như vậy là phạm pháp, nhưng Anh được Lê Đức Thọ, Lê Duẩn che chở, nâng cao và đã ngoi lên chức cao nhất … và bây giờ đã có chứng minh Lê Đức Anh là tên cai đồn điền và có tội ác với phu đồn điền, do đó nhân dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên, các tướng của QĐNDVN đã kêu gọi, yêu cầu khẩn thiết BCT, Ban kiểm tra Trung ương, Toà án tối cao xét xử công khai vụ việc này.

Hiện nay, ban lãnh đạo đang lúng túng về các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao thì mắc phải vấn đề nan giải này. Hơn một nửa số trong Bộ chính trị muốn chỉ thị bóp nghẹt vụ này giải quyết ở đằng sau hậu trường vì sợ làm rung động nhân dân trong nước và thế giới, cho nên Lê Đức Anh đang khóc lóc trước Bộ chính trị xin nhận hết tội lỗi và xin không đưa ra công khai vụ này vì ”không những xấu cho tôi mà còn xấu cho cả Đảng ta” … tất cả những cái tin đó có trong thư của Thượng tướng Nam Khánh …” ( trích nguyên văn từ băng ghi âm).

Trong thời gian tới lực lượng cấp tiến, phản động sẽ tiếp tục tăng cường các đòn đánh trực diện vào quân đội và Tổng cục II. Bùi Tín nhận định: “Sau loạt bài và thư của một số tướng lĩnh, nhóm dân chủ đã có dự kiến tung loạt thông tin ra trước TW 9 và rồi TW10, nhưng vì lý do nào đó mà không thực hiện được, nghĩa là trượt thời điểm. Nhưng dù thế nào thì cũng xảy ra nổ lớn, đó là điều cần thiết cho phong trào dân chủ. Thời điểm ngoài này sẽ công bố là khi ở trong nó công bố”.

3.3. Nhận định của tình báo và tài phiệt Mỹ: giới truyền thông, tình ái và tài phiệt Mỹ, phương Tây đã có đủ các tài liệu nội bộ và thư góp ý, kiến nghị … gửi BCHTƯ trong thời gian qua, và chúng đang đặc biệt quan tâm nghe ngóng, thu thập thông tin, tài liệu và phản ứng của dư luận về vấn đề này, nhưng chúng chủ trương chưa đưa tin.

Tóm lại:

* Các thế lực thù địch chống phá chế độ XHCN ở Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên, liên tục và từ hàng chục năm nay. Chúng dựa trên chính sách cực quyền của Mỹ, dựa trên yếu tố sức mạnh kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ đưa vào quá trình toàn cầu hoá và lợi dụng chính sách mở cửa của ta để thâm nhập, móc nối, lôi kéo, kích động phá hoại ngầm … Tuy nhiên, qua mấy chục năm điên cuồng chống phá bằng thủ đoạn, biện pháp chúng cũng đã không thể đạt được mục đích chuyển hoá chế độ, xoá bỏ ĐCS Việt Nam.

Đòn công kích nguy hiểm nhất và cũng là đòn đánh cuối cùng mà chúng sử dụng ở Việt Nam cũng chính là thủ đọan mà chúng đã sử dụng thành công để xoá bỏ chế độ XHCN ở Liên xô và Đông âu, đó là địch lợi dụng tình hình có một số vấn đề xuất hiện trong nội bộ Đảng để tuyên truyền, kích động, gây mâu thuẫn nội bộ. Từ đó đi đến chỗ tự tan rã. Xuất phát điểm của chúng hiện nay như Liên xô trước đây, trước hết là chúng nhằm vào quân đội, công an và các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ nắm địch là an ninh, tình báo nhằm bịt tai, bịt mắt của Đảng, gây mất lòng tin vào Đảng, vào quân đội, công an. Biện pháp của chúng là đánh tỉa từng bộ phận một, và gây mâu thuẫn giữa các bộ phận, lực lượng đó với nhau.

Điều mà kẻ địch đang chờ đợi nhất, coi đó là điều kiện tiên quyết cho thành công của chúng là ta tự làm mất ổn định từ thanh trừng, tự “thanh toán” lẫn nhau có như vậy chúng mới có cơ may thành công. Như Nguyễn Gia Kiểng đã nói “khi trong phát tín hiệu (tức là tín hiệu rối loạn) thì bên ngoài ta mới sẽ tuyên bố”.

Bọn cấp tiến, phản động thời gian qua tích cực viết, phát tán tài liệu dưới dạng “đơn kiến nghị” “thư góp ý” … và chúng đặc biệt chú ý săn lùng các đơn thư của các đồng chí lão thành cách mạng, các cuốn “Hồi ký chui”, các “tư liệu lịch sử” trên cơ sở đó, chúng xuyên tạc, bóp méo nhằm vào mục đích của chúng là chống phá, nói xấu Đảng và quân đội, kích động gây mâu thuẫn trong nội bộ ta.

Về đơn thư góp ý về những bức xúc về tình hình đất nước, nội bộ Đảng, tình trạng xã hội … cơ bản xuất phát từ trách nhiệm đối với Đảng, với đất nước của cán bộ Đảng viên, quần chúng tốt – các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước cần nghiêm túc xem xét. Tuy nhiên, nếu không quản lý và xử lý vấn đề này theo đúng nguyên tắc - đặc biệt là những thông tin sai lạc, xuất phát do thiếu thông tin, hoặc xuất phát từ những nhận xét, động cơ cá nhân thì chắc chắn sẽ bị địch lợi dụng vừa tuyên truyền nói xấu Đảng, Nhà nước và lãnh đạo, vừa kích động gây mâu thuẫn nội bộ, làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, gây chia rẽ Đảng với quần chúng đặc biệt là trong tình hình phức tạp, sự phổ biến công nghệ thông tin rộng rãi mang tính toàn cầu hiện nay.

4. Dự báo về hoạt động chống phá của lực lượng cấp tiến thời gian tới:

Nhìn lại toàn bộ quá trình chống phá của lực lượng cấp tiến, phản động nhằm vào Đảng, quân đội trong thời gian qua có thể thấy: mục tiêu chống phá Đảng, quân đội được lực lượng này thực hiện xuyên suốt và nhất quán từ trước tới nay với sự chỉ đạo hỗ trợ của tình báo nước ngoài. Thời gian tới, mức độ chống phá Đảng, quân đội và Tổng cục II sẽ càng ngày càng quyết liệt hơn – với mục tiêu là “dọn đường” nhằm chuẩn bị” cho Đại hội X.

4.1. Cuộc “đấu tranh” chống chế độ XHCN, chống ĐCS Việt Nam và QĐNDVN do các lực lượng thù địch, cấp tiến, phản động, xét lại tiến hành rất quyết liệt. Quan điểm, thái độ của bọn chúng sẽ “cứng rắn” hơn, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm hơn, thì chúng xác định đây là cơ hội cuối cùng.

Xin nhấn mạnh một lần nữa đánh giá của chúng, Hồng Hà nói: “Đại hội X sẽ diễn ra rất gay go, quyết liệt. Đây sẽ là Đại hội cuối cùng của ĐCS cần tích cực đấu tranh … tài liệu viết xong phải chuyển đến tận các “đảng bộ địa phương”.

4.2. Tiếp tục “đấu tranh” bảo vệ, thanh minh đòi thả tự do cho các phần từ cơ hội chính trị bị giam giữ và thổi phồng kết quả đấu tranh – mà tự cho là thành công như vụ Phạm Quế Dương, Trần Khuê.

Trong thời gian trước mắt theo nhận định của Hoàng Minh Chính “sau khi đấu tranh thắng lợi trong các phiên toà xét xử vụ án Trần Khuê và Phạm Quế Dương, lực lượng dân chủ cấp tiến cần phải tạm ngừng hoạt động một thời gian, nhằm đối phó với sự kiểm soát của công an, nhất là trong đợt ra quân, cao điểm truy tìm tài liệu “thư gửi BCT của Thượng tướng NNK”. Tuy nhiên, hoạt động đấu tranh đòi tự do cho các nhân vật còn đang bị giam giữ sẽ được lực lượng cấp tiếp tiếp tục đẩy lên theo như ý đồ của Hồng Hà đặt ra là: coi như vụ Quế Dương đã xong ta phải nhân cơ hội này tiếp tục đấu tranh đòi chính quyền phải trả tự do cho Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình.

4.3. Đẩy mạnh móc nối trong – ngoài.

Hoạt động móc nối giữa các nhân vật dân chủ cấp tiến trong nước được thực hiện vưói mật độ dầy hơn, thông qua các chuyến đi của một loạt các nhân vật chủ chốt: Hà Sỹ Phu ra Hà Nội (12/2003), Nguyễn Thanh Giang vào miền Nam (3/4/2004), Bùi Minh Quốc ra Hà Nội (4/5/2004), Thanh Giang xuống Hải Phòng (5/2/2004), Mạnh Sơn vào miền Nam (6/2004) … sự phối hợp đấu tranh “trong – ngoài” đang được đẩy lên một mức độ cao hơn, thể hiện ở hai khía cạnh: một là sự gia tăng móc nối liên hệ giữa Nguyễn Thanh Giang và ĐSQ Mỹ, hai là giữa Hoàng Minh Chính và lực lượng phản động người Việt Nam lưu vong (chủ yếu tại Pháp). Các thông tin thu thập được cho thấy hoạt động móc nối giữa Mỹ và các phần tử cấp tiến (thông qua Thanh Giang) tập trung mạnh nhất về vấn đề dân chủ, nhân quyền (đặc biệt là khoảng thời gian trước khi Hạ viện Mỹ thông qua dự luận nhân quyền Việt Nam 2004 và Phạm Quế Dương bị xét xử).

Nhiều dấu hiệu cho thấy các hoạt động của các nhân vật cấp tiến thời gian qua đã nhận được sự chỉ đạo của CIA hoặc ĐSQ Mỹ (ví dụ thông qua Thanh Giang và một số nhân vật khác hiện vẫn còn nằm trong bóng tối). Hoạt động của chúng đã “chìm” đi nhưng “tính hiệu quả” lại tăng lên, mật độ tiếp xúc giữa Thanh Giang và ĐSQ Mỹ dầy lên nhất là vào thời điểm Phạm Quế Dương chuẩn bị được đưa ra xét xử, hoạt động của chúng được nguỵ trang rất kỹ lưỡng, hoạt động chống phá của chúng mang tính tổ chức chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng, mang tính mục đích cao, có bước đi rõ ràng (đầy uy tín của một số cán bộ lão thành cách mạng lên cao sau đó sử dụng chính họ để “đánh” vào nội bộ Đảng, nội bộ quân đội”. Mỹ đánh giá việc lật đổ chế độ hiện nay ở Việt Nam sẽ chưa thể tiến hành chừng nào Mỹ chưa xây dựng được ở Việt Nam cái gọi là “lực lượng đối lập” thân Mỹ và một Gdorbachov” của Việt Nam. Những động thái điều chỉnh trong phương hướng, cách thức hoạt động của lực lượng cấp tiến trong thời gian gần đây, cùng với những mối quan hệ, móc nối giữa ĐSQ Mỹ và lực lượng cấp tiến mà trung tâm là Nguyễn Thanh Giang, có thể nhận định:Mỹ sử dụng lực lượng dân chủ cấp tiến như một con bài để truyền bá tư tưởng “dân chủ” “đa nguyên” và xã hội Việt Nam từng bước “chuyển hoá giác ngộ” để lôi kéo các tầng lớp nhân dân đi theo cái gọi là “phong trào dân chủ” ở Việt Nam. Khi CIA tìm được “ngọn cờ” chính trị tại Việt Nam, thì đây sẽ là nòng cốt để chúng xây dựng “lực lượng đối lập” phục vụ ý đồ của Mỹ – và thời điểm đó chính là lúc bùng nổ đồng loạt các hoạt động gây rố loạn khủng hoảng toàn diện – với mưu đồ xoá bó ĐCS và chế độ XHCN ở Việt Nam.

4.4. Phương thức và hoạt động của lực lượng cấp tiến, phản động đa dạng, linh hoạt hơn, thay đổi rất nhanh để theo kịp tình hình, tính chất và hậu quả do chúng gây ra sẽ nghiêm trọng hơn.

Năm 2003 hoạt động chống phá của lực lượng cấp tiến hầu như “co lại: và cầm chừng để nghe ngóng sau khi Nguyễn Vũ Bình, Phạm Quế Dương, Trần Khuê bị bắt. Có thể nói, “Phong trào dân chủ” đã bị những đòn đánh và bị thiệt hại nặng nề. Tuy nhiên, sang năm 2004 hoạt động của lực lượng này gia tăng trở lại, có thời cơ được dấy lên cao (khi xét xử Nguyễn Vũ Bình, Phạm Quế Dương, Trần Khuê) chúng điều chỉnh cách thức, thủ đoạn chống phá. Từ chỗ công khai đấu tranh đối lập các “tổ chức dân chủ”, “hội chống tham nhũng”, trước đây, nay chuyển thành các hoạt động “ngầm” với các hình thức “đấu tranh” mềm dẻo, linh hoạt, không đấu lộ diện mà “núp bóng” và lợi dụng, kích động các lực lượng khác (thân nhân của những tên bị bắt giam, CCB lão thành cách mạng) đứng ra đấu tranh, không sử dụng phương pháp biểu tình, lật đổ mà núp dưới các “phong trào chung chung” để giành, tăng cường viết bài và lôi kéo lực lượng CCB, lão thành cách mạng … củng cố tán phát, phổ biến nhằm “cảm hoá, giác ngộ” quần chúng nhân dân để đấu tranh thay đổi chế độ, đặc biệt là phải làm cho ĐCS “tự diễn biến”.

Bọn cấp tiến tiếp tục củng cố và xây dựng lực lượng, kể cả lôi kéo các nhân vật đòi được thả tự do.

Đây là vấn đề được các nhân vật cấp tiến rất chú trọng trong giai đoạn từ nay sau. Điều này thể hiện rất rõ trong chủ trương xây dựng cho được “ngọn cờ” ngay trong nội bộ Đảng, Nhà nước là những người có nhiều công lao, có uy tín cao, có quan điểm “dân chủ” đồng thời phải xây dựng sâu rộng “phong trào dân chủ ở cơ sở dần dần đi vào hoạt động ổn định mang tính tổ chức, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra giám sát, không được manh động, hời hợt) cũng như hoạt động cụ thể của chúng. Bởi thực chất lực lượng của chúng trong thời gian qua không phát triển được là bao, số lượng không nhiều, thực sự giảm đi do một số nhân vật “có máu mặt” bị bắt giữ hơn nữa những tên cộm cán của phong trào” Hoàng Minh Chính, Hồng Hà, Thanh Giang .. đều đã già và có những bất đồng. Nhận thấy thế và lực chưa cho phép hình thành tổ chức đối lập với ĐCS nên chúng vẫn đang phải tìm thế hơn pháp để đấu tranh, lôi kéo thêm lực lượng. Có nhiều dấu hiệu cho thấy cấp tiến ở Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh đã và đang tích cực triển khai chủ trương này.

4.6. Vấn đề đoàn két trong nội bộ bọn cấp tiến, phản động được chúng khắc phục để “kết hợp đấu tranh”.

Bọn cấp tiến phản động xét lại, cơ hội chính trị và bất mãn sẽ dàn xếp các mâu thuẫn nội bộ, kết hợp với nhau đấu tranh và mở rộng liên kết với phản động ở nước ngoài với các thế lực thù địch. Năm 2003 mâu thuẫn trong các nhóm cấp tiến diễn ra rất gay gắt, đặc biệt là giữa Thanh Giang và Hoàng Minh Chính. Đây không phải là mâu thuẫn về đường lối bởi hai nhân vật này vẫn thống nhất mục đích đấu tranh là lên án Đảng, chống đối Nhà nước, Vấn đề là ở tính đố kỵ và sự bất đồng trong việc xác định biện pháp, cách thức đấu tranh của “phong trào dân chủ”. Đến nay, mâu thuẫn từng bước được hoà giải mặc dù chưa được giải quyết triệt để. Dưới tác động của Hồng Hà, Bùi Minh Quốc, Hoàng Minh Chính và Thanh GIang đã đồng ý gác lại mâu thuẫn hoãn để tập trung cho đấu tranh chung của “phong trào”, nhất là trong bảo vệ Phạm Quế Dương. hơn nữa, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc của các nhân vật thuộc nhóm “dân chủ” như Thanh Giang, Hồng Hà, Sơn Tùng với các nhân vật cốt cán trong lực lượng cấp tiến có thể thấy, gần đây các nhân vật “trung tâm” tìm được tiếng nói chung trong nhận định, đánh giá tình hình và chủ trương hoạt động chống phá dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tham nhũng.

4.7. Quyết tâm “lật án” tất cả các sự kiện trong Đảng từ sau năm 1954 đến nay như: “Nhân văn giai phẩm”. “Vụ án chống Đảng”, cải cách ruộng đất, các chính sách của Đảng và Nhà nước sau 1975..

Gần đây xuất hiện một số tác phẩm văn học phát tán có chú ý với nội dung lật án, phủ nhận công lao của Đảng trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cuốn sách “Việt Nam và thế giới trong thế kỷ 20” của Nguyễn Khắc Huỳnh, cuốn “gặp nhà thơ Tố Hữu tại biệt thư 76 Phan Đình Phùng” của Nhật Hoa Khanh … là những ví dụ Nhất Hoa Khanh đưa ra những “lời tâm sự” của đồng chí Tố Hữu ăn năn, hối lỗi về những việc làm của mình trước đây, thực chất tác giả “mượn tay” một đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng để lật lại các vụ án Nhân văn – Giai phẩm, vụ án chống Đảng … nhằm phủ nhận những nghị quyết của Đảng trước đây, Đưa ra những tư liệu khó kiểm chúng để “bộc bạch” ý đồ bôi nhọ một số cán bộ cao cấp của Đảng hiện nay, gây nghi ngờ trong người đọc về những mâu thuẫn nội bộ Đảng. Bài viết “Những kỷ niệm về Bác Hồ” xuyên tạc sự thật cuộc đời của Bác luôn gặp bất hạnh, nội bộ Đảng đấu đá nhau, Trung quốc, Liên xô gây sức ép buộc Đảng phải tiến hành cải cách ruộng đất dẫn đến sai lầm .. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động viết bài tuyên truyền, kích động chống phá quân đội và Tổng cục II trước Đại hội X. Tất cả những vụ việc này nằm trong âm mưu của địch làm cho Đảng bị phân tán chú ý, lo thu xếp giải quyết các “vấn đề nội bộ”, mà không tập trung được vào hoạch định đường lối, xác định nhân sự, củng cố tổ chức, không làm tốt công tác chuẩn bị cho Đại hội X.

Như vậy các thế lực thù địch sẽ tập trung lực lượng, khả năng, kết hợp trong – ngoài để chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội một cách mạnh mẽ, quyết liệt vào thời điểm chuẩn bị Đại hội X nửa cuối năm 2005.

5. Một số nhận xét, kiến nghị.

5.1. Đây không phải là lần đầu tiên các thế lực thù địch tấn công vào Đảng, Nhà nước và quân đội mạnh như hiện nay. Những hoạt động này diễn ra thường xuyên liên tục từ hàng chục năm nay. Đặc biệt cao trào chống phá thường rộ lên trước mỗi kỳ chuẩn bị đại hội Đảng. Từ đại hội V đến nay, Đảng ta luôn tỉnh táo, sáng suốt vô hiệu hoá âm mưu và thủ đoạn chống phá của c ác thế lực thù địch và thực hiện thành công đại hội, đưa đất nước đổi mới, vững vàng đi lên theo định hướng XHCN.

Hiện nay, trong giai đoạn chuẩn bị đại hội X địch tổ chức chiến dịch chống phá sớm hơn so với mọi lần, với sự ủng hộ mạnh hơn của Mỹ và các thế lực thù địch bên ngoài, có sự phối hợp bài bản hơn, chặt chẽ hơn giữa lực lượng trong và ngoài nước. Địch chủ trương đi vào nội bộ và tìm các vấn đề nội bộ để làm xuất phát điểm cho chiến dịch chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội.

5.2. Về tương quan lực lượng ta - địch các thế lực thù địch tích cực sử dụng hơn tình báo gián điệp, các phẩn tử phản động, cấp tiến, xét lại chống Đảng, bất mãn … trong và ngoài nước chống phá trên c ác vấn đề lớn như Tây nguyên, tôn giáo, nhân quyền…và kích động chống phá nội bộ ta. Song các phần tử nguy hiểm này cũng chỉ là một số tên nhất định, chúng chưa có quần chúng, chưa có lực lượng. Con số không đến 100 tên. Nhưng nhờ công nghệ thông tin chúng có thể mở các chiến dịch tuyên truyền, kích động rầm rộ, thổi phồng về qui mô, tính chất và lực lượng, làm cho nhiều người nghĩ rằng chúng quá mạnh. Thực chất không phải như vậy.

Với lực lượng ấy địch chờ cái gì ? chúng không thể mơ tưởng tới một cuộc “cách mạng” lật đổ chế độ, Bởi vậy chúng rất mong chờ sự xuất hiện những mâu thuẫn nội bộ và sai lầm trong giải quyết các vấn đề nội bộ. Bùi Tín cũng như Nguyễn Gia Kiểng nói, cái điều chúng mong chờ nhất là kích động được sự rối loạn nội bộ, thanh trùng lẫn nhau, đó chính là thời cơ. Bài học Liên xô cho thấy rằng, với một nhóm rất nhỏ các phần tử cấp tiến phản động và xét lại trong ĐCS Liên xô, rất nhỏ, có thể đếm chỉ được vài chục người, nhưng mà chúng ta đã xoá bỏ được Liên xô. Chính là từ vấn đề trong nội bộ.

5.3. Về phía ta, trong những năm qua đất nước có sự tăng trưởng mạnh mẽ, thế và lực trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Kinh tế, văn hoá xã hội phát triển, đặc biệt là nền tảng chính trị của ta cơ bản được giữ vững qua những thăng trầm, những biến cố những phức tạp của tình hình. Đảng ta là một Đảng mạnh, thống nhất ý chí và hành động, đặc biệt có lực lượng vũ trang trung thành tuyệt đối, luôn sẵn sàng bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ XHCN và Nhân dân. Bởi vậy, tương quan lực lượng ta - địch thực sự là một trời, một vực.

Chính vì vậy, để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân chuẩn bị tốt cho Đại hội Đảng lần thứ X, nếu chúng ta giữ vững ổn định nội bộ, không để các thế lực thù địch kích động, gây chia rẽ nội bộ, đặc biệt trong quá trình Đại hội X, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đặc biệt là tuyệt đối không để các thế lực bên ngoài (địch, cấp tiến, xét lại, bất mãn, những người không hiểu tình hình …) chi phối hoặc ngầm tác động.

Đảng, Nhà nước nắm chắc lực lượng quốc phòng – An ninh, quản lý chặt chẽ tình hình mọi mặt, nắm chắc tình hình trong và ngoài nước để chủ động đối phó sớm với những biến động. Có các biện pháp phù hợp vừa khẩn trương vừa có tính dài hạn để cơ bản giải quyết các điểm nóng như Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc. Giải quyết tốt mối quan hệ quốc tế theo 2 trục cơ bản là Việt Nam – Lào – Campuchia là quan hệ gắn bó, sống chết có nhau, và trục quan hệ Mỹ – Việt – Trung. Giữ vững ổn định đời sống nhân dân, phát triển kinh tế xã hội./.

Bộ quốc phòng

----- O -----

Tự Do Hay Là Chết !

Vào một sáng hừng hực đầu mùa hạ năm Giáp Thân (ngày 5 tháng 5 năm 2004), tại Hà Nội. lời tuyên bố trên đã dõng dạc vang lên trong phiên toà xử nhà trí thức trẻ ngoan cường Nguyễn Vũ Bình.

Nguyễn Vũ Bình sinh ngày 02 tháng 11 năm 1968 tại Hành Thiện, Nam Định. Anh tốt nghiệp khoa Kinh tế - trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trở thành nhà báo tại Tạp chí Cộng sản. Sau 8 năm công tác, anh bị đuổi khỏi biên chế nhà nước chỉ vì cái tội dám nộp "Đơn xin thành lập đảng Tự do-Dân chủ".

Không có điều kiện tìm hiểu quá trình hình thành nhân cách của chàng thanh niên đã lớn lên trên một miền quê có nhiều nhà cách mạng như Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ, Đinh Đức Thiện ... (không nói đến những tha hoá, sai lầm sau này mà tưởng niệm về cái lý tưởng ban đầu duổi giặc ngoại xâm, xoá bỏ áp bức bất công của các ông), chỉ điểm qua những hành động dũng cảm, những phát biểu rất trí tuệ và đầy trách nhiệm qua một số trang viết cũng đủ thấy cái sức nghĩ lớn lao, cái bản lĩnh cao cường của con người ưu thời mẫn thế này.

Từ những bức xúc, trăn trở ...

Theo Nguyễn Vũ Bình, "Có thể khái quát trạng thái hiện nay của tình hình đất nước ta là: bế tắc về dường lối, đình trệ về kinh tế và dồn nén về xã hội" (1)

Thật vậy, về sự bế tắc đường lối, không chỉ Nguyễn Vũ Bình mà tất cả những đầu óc tỉnh táo đều dễ dàng nhận thấy: "Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một khái niệm rất mâu thuẫn. Chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một thể chế xã hội (theo định nghĩa kinh điển), là một chế độ mà về mặt kinh tế phải xây dựng trên cơ sở công hữu hoá về tư liệu sản xuất, quản lý tập trung và kế hoạch hoá ..., rõ ràng mâu thuẫn với kinh tế thị trường" (1). Song, vì cứ phải đa đoan, vướng víu với tôn chỉ mục đích "Định hướng xã hội chủ nghĩa" nên Đảng cứ phải ngoan cố duy trì chủ trương ưu tiên bằng mọi giá để giành vai trò chủ đạo cho kinh tế quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước. Nguyễn Vũ Bình thì khẳng định rằng: "Với quan điểm kinh tế nhà nước (nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước) giữ vai trò chủ đạo, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển được. Trên thế giới chưa có một nước nào mà doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả" (1). Anh đưa dẫn liệu cụ thể để chứng minh hiện tương "ăn tàn phá hại" của DNNN. "Phần lớn lượng vốn xã hội đầu tư vào khu vực DNNN không có hiệu quả. DNNN sử dụng hơn 80% lượng vốn xã hội, giữ vai trò quan trọng trong sản xuất và đóng góp vào ngân sách nhà nước nhưng khả năng tích luỹ còn rất hạn chế. Trên thực tế, tổng số nợ của DNNN năm 1999 đã lên tới khoảng 200 000 tỷ đồng" (1)

Bế tắc nhưng không dám tự sám hối để tìm đường mới tiến lên mà cứ phải quanh co, biến báo qua chủ trương "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước", Nguyễn Vũ Bình thẳng thắn chỉ rõ: "Với quan điểm kinh tế nhà nước mà nòng cốt là DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, một điều hiển nhiên là nếu những doanh nghiệp này làm ăn có lãi (có hiệu quả) thì chúng ta sẽ không bao giờ bán (cổ phần hoá) chúng. Ngược lại, những doanh nghiệp thua lỗ, thử hỏi, nếu bán chúng thì ai mua ? DNNN được ưu tiên, ưu đãi mọi điều kiện mà còn làm ăn thua lỗ thì ai là người có khả năng kinh doanh hiệu quả trong môi trường hiện nay ? Còn nếu dùng tỷ lệ vốn khống chế cuả nhà nước thì bản chất nó vẫn là DNNN và không thể có hiệu quả. Một chính sách mà mâu thuẫn ngay từ trong lý luận thì làm sao thực hiện được trên thực tế !" (2)

Lẽ ra phải chính thức thừa nhận sự tồn tại cần thiết của kinh tế tư nhân và có các chủ trương chính sách cởi mở tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển từ sớm hơn. Bởi vì, thực tế đã cho thấy, kinh tế tư nhân là động lực phát triển của tất cả các nền kinh tế thị trường phát triẻn trên thế giới. Khu vực này không phát triển thì nền kinh tế cũng không phát triển được. Anh nóng lòng vạch ra 3 nguyên nhân quan trọng làm cho khu vực kinh tế tư nhân không phát triển được là :

     1) Không thừa nhận sở hữu tư nhân, dẫn tới việc tư nhân kinh doanh không được bảo đảm và bảo vệ bằng pháp luật.
     2) Kinh tế thị trường chưa chín muồi (chưa tạo lập đầy đủ và đồng bộ các thị trường), chưa có hệ thống pháp luật cho kinh tế thị trường phát triển, dư luận đối với kinh tế tư nhân còn nhiều nặng nề, định kiến (mãi sau này ta mới có những hoạt động biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp và mới đây, ngày 13 tháng 10 hằng năm mới được chọn là ngày Doanh nghiệp Việt Nam).
     3) Sự méo mó của hoạt động sản xuất kinh doanh do việc ưu tiên quá mức cho các DNNN.

Những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội không cho phép thiết chế một nền kinh tế thị trường đích thực và vũng mạnh do đó không thể không gây nhiều trắc trở trong tiến trình hội nhập tất yếu. Nguyễn Vũ Bình tiên đoán: "Để thu hút vốn, kỹ thuật và trình độ quản lý cho phát triển kinh tế thì hội nhập là yêu cầu nhất thiết đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Song hội nhập lại đòi hỏi các nền kinh tế phải đáp ứng đầy đủ những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Và bất kỳ nền kinh tế nào đi ngược lại hoặc chưa bảo đảm về cơ bản các nguyên tắc thị trường thì đều bị tổn thương trong quá trình hội nhập" (1). Lời phán bảo này, Nguyễn Vũ Bình viết từ năm 2000. Quả nhiên, chỉ sau đó mấy năm nó đã ứng nghiệm nhỡn tiền vào mấy vụ kiện tôm và cá basa làm cho ta bị xiểng liẻng.

Bế tắc về đường lối như trên dẫn đến nhiều tai hoạ cho đất nước, trước hết là đình trệ về kinh tế. Những người lãnh đạo thường đem chỉ tiêu tăng trưởng cao ra để tự khích lệ và làm vũ khí tuyên truyền. Bằng tri thức của nhà kinh tế, Nguyễn Vũ Bình phân tích: "Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế có một khuyết điểm rất lớn là nó không chỉ cho người ta biết được khả năng thanh toán hay khả năng trả nợ của một nền kinh tế mà đây là điểm quan trọng nhất. Tôi hình dung nền kinh tế Việt Nam như một quỹ tín dụng nhân dân khỏng lồ (dân gian gọi là chủ hụi) chưa bị vỡ nợ. Đặc điểm của những quỹ tín dụng này là khả năng che đậy thực lực tài chính bằng phương pháp vay của người sau, trả cho người trước và nó chỉ bị vỡ tung khi bị phát hiện hoặc không vay được nữa. Theo số liệu công bố chính thức, tổng số nợ của nước ta là 11 tỷ USD, nhưng số thực có thể là gấp rưỡi hoặc gấp đôi (xấp xỉ 20 tỷ USD), tức là số nợ tương đương hoặc bằng 2/3 tổng sản phẩm quốc nội của nước ta." (1)

"Vấn đề đói nghèo cũng có kịch bản tương tự. Đằng sau những con số mỹ miều về thành tích xoá đói giảm nghèo là cuộc sống cùng cực của những người công nhân, nông dân, những người lao động. Bởi vì những con số chỉ phản ánh được mức tăng đơn thuần về lượng của thu nhập mà không biết tới một chu kỳ "tiêu dùng mới "của toàn xã hội trong những năm qua". Trong 10 năm (1990 - 1999) qua, chúng ta đã bước sang một chu kỳ tiêu dùng mới với những chi tiêu cho giáo dục, y tế, những khoản đóng góp mới, với những chi tiêu cho những hủ tục ở nông thôn mới trỗi dậy và những khoản tiêu cực phí cho bất kỳ công việc nào ... Những con số tăng lên nhỏ nhoi về thu nhập liệu có lấp đầy những chi phí phát sinh trong chu kỳ tiêu dùng mới của những hộ đói nghèo ? (1)

Đánh giá về công trạng của Đảng đối với đất nước, Nguyễn Vũ Bình thấy cả hai mặt: "Được : Độc lập dân tộc. Mất: 1) hy sinh khoảng 4-5 triệu người, thương tật cũng khoảng con số đó; 2) Việt Nam là một trong vài chục nước nghèo nhất thế giới; 3) Nền tảng đạo đức bị phá huỷ nghiêm trọng" (4). Ngày nay, bế tắc về đường lối còn dẫn đến một hệ quả đau lòng hơn là nó làm cho "những nền tảng cơ bản của xã hội Việt Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn" (1). Anh cụ thể hoá khái luận này như sau:

     - "Tính trung thực xã hội đã bị phá huỷ hoàn toàn ... Sự không trung thực bắt nguồn từ hệ thống chính trị, thẩm thấu vào hệ thống quản lý và lan toả ra toàn xã hội. Một đặc trưng của xã hội hiện nay là không ai dám nói thật và rất sợ sự thật ...
     - Đạo đức xã hội đã bị phá huỷ nghiêm trọng.
     - Những quan hệ xã hội, trong đó quan hệ con người với con người là cơ bản, và quan hệ tình cảm hợp thành nền tảng đạo đức xã hội bị phá huỷ nghiêm trọng bởi sự ra đời và lên ngôi của một thứ quan hệ "đồng chí" ... tồn tại bằng một sự lên gân và tiêu diệt các mối quan hệ khác ...
     - Những giá trị xã hội và thước đo giá trị xã hội đã bị đảo lộn do sự can thiệp sâu rộng của chính trị vào tất cả các lĩnh vực và trên mọi phương diện ...
     - Con người bị tha hoá ... người ta không được phép nói ra những điều mình suy nghĩ, hành động theo những gì người ta cho là đúng, tức là mình không phải là mình. Có người nói rằng, con người ngày nay là con người nhị nhân cách nhưng theo tôi thì những người nhị nhân cách đó là những người không có nhân cách. Làm sao mà có nhân cách được trong khi tất cả các phát biểu chính thức, những cuộc họp, hội thảo, anh nghĩ một đàng lại nói một nẻo"
(1)

Nguyễn Vũ Bình chỉ ra 3 nguyên nhân dẫn đến những dồn nén xã hội. Một là: do điều kiện sống, sinh hoạt khổ cực của nông dân và công nhân. Nông dân bị huy động đóng góp quá mức (thời điểm Nguyễn Vũ Bình bàn luận, nông dân, tuỳ theo từng địa phương, bị đóng góp từ 13 đến 21 khoản, chiếm tới trên dưới 70% thu nhập). Hai là: bất công giữa phân hoá giầu nghèo, giữa nông thôn và thành thị ngày càng sâu sắc. Trong khi những người nông dân ở nông thôn và những người công nhân phải vật lộn rất vất vả với cuộc sống khổ cực thì những người có quyền có chức câu kết với gian thương hình thành một tầng lớp tư bản đó ăn tiêu quá phè phỡn. Ba là : cảm nhận về sự bế tắc đối với tương lai. Công nhân, nông dân nhiều người mù mịt trong khả năng tìm kiếm việc làm và xây dựng cuộc sống. Trí thức không thấy được triển vọng đất nước phát triển lành mạnh và bền vững.

... đến quyết định đệ đơn thành lập đảng Tự do - Dân chủ

Từ những nhận định trên đây, Nguyễn Vũ Bình cho rằng đất nước Việt Nam nhất định cần phải có biến đổi mạnh mẽ. Có 3 kịch bản:

Hoặc là, sự sụp đổ về kinh tế dẫn tới động loạn xã hội và thay đổi về chính trị (như ở Anbani và Indonêxia). Nguyễn Vũ Bình cho rằng tình huống này khó xẩy ra bởi khả năng can thiệp và tinh thần cảnh giác cao của Nhà nước trước những biến động kinh tế.

Hoặc là có sự thay đổi chế độ bắt nguồn từ sự thay đổi đường lối chính trị do những người lãnh đạo cao nhất khởi xướng. Nguyễn Vũ Bình loại bỏ hoàn toàn khả năng này vì cho rằng: "Tất cả sự lựa chọn và thay đổi khó khăn nhất của ĐCS tập trung vào hai điểm mấu chốt là DNNN và chống tham nhũng. Nếu từ bỏ được quan điểm DNNN giữ vai trò chủ đạo, đồng nghĩa với việc phát triển kinh tế tư nhân, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế của đất nước và chống tham những, đồng nghĩa với việc làm trong sạch Đảng và lấy lại được uy tín trước nhân dân ... Nhưng than ôi ! điều đó nằm ngoài khả năng hiện thực. Bởi vì loại bỏ DNNN cũng chính là từ bỏ lợi ích sống còn của tầng lớp lãnh đạo, lợi ích được bao phủ bởi vẻ đẹp huyền ảo (không ai hiểu được) của định hướng XHCN, của con đường đi lên CNXH hiện nay. Còn chống tham nhũng ư ? Tham nhũng ở Việt Nam là phương thức tự tồn tại của tất cả những người có điều kiện tham nhũng" (1)

Trong thư gửi Bộ Chính trị ngày 20 tháng 9 năm 2000, anh thẳng thắn bầy tỏ sự bất tín đối với Đảng: "Ở đây có 3 tầng lợi ích riêng và tương ứng là 3 tầng sự nghiệp chung. Một là, chưa sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho đơn vị, cơ quan mình. Hai là, chưa sẵn sàng hy sinh lợi ích của tầng lớp lãnh đạo cho sự nghiệp chung của Đảng. Ba là, chưa sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng của Đảng cho lợi ích chung của đất nước, dân tộc" (2)."Với cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tất cả những tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, vô trách nhiệm không thể nào diệt trừ được tận gốc để làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, bây giờ chỉ cần gắn trách nhiệm cá nhân với tất cả mọi công chức, đảng viên, nhà lãnh đạo, nhà quản lý vào công việc hàng ngày, hàng giờ của họ thì mọi việc sẽ được giải quyết êm đẹp. Nhưng có lẽ tôi nhầm, bởi vì trong tình hình hiện nay, nếu gắn trách nhiệm cá nhân như vậy, phần lớn mọi người sẽ bỏ nhiệm sở và tổ chức. Đối với dảng Cộng sản cũng tương tự, thực chất Đảng không phải chịu trách nhiệm trước bất kỳ ai, bất kỳ lực lượng nào" (2).

Anh càng tỏ rõ sự bất tín và phản ứng quyết liệt trước hành động cắt nhượng đất đai, lãnh thổ một cách tội lỗi của Đảng: "Đối với giới lãnh đạo hiện nay, một tâm lý và phong cách ứng xử phổ biến là chỉ quan tâm đến phạm vi, lĩnh vực và đơn vị mình quản lý để làm sao không xẩy ra sự cố nào có thể ảnh hưởng tới chiếc ghế quyền lực hiện tại và khả năng thăng tiến trong tương lai. Ngoài ra người ta không quan tâm tới những gì xẩy ra trước khi tiếp nhận và sau khi thay đổi đối tượng quản lý. Hay nói cách khác, với sự tha hoá nhân cách và cảm nhận sự bế tắc của tương lai, thực chất giới lãnh đạo hiện nay không có trách nhiệm gì trước vận mệnh của dân tộc cũng như không hề đại diện quyền lợi của nhân dân. Chính với lối suy nghĩ như vậy về trách nhiệm mà ban lãnh đạo đảng Cộng sản đã ký kết hiệp định biên giới vừa qua" (5)

Nguyễn Vũ Bình kỳ vọng ở phương án thứ ba với các tình huống: sự gia tăng mức bức xúc của cả ba yếu tố: khó khăn về kinh tế, sự dồn nén xã hội, sự phân hoá của các tầng lớp lãnh đạo mở đường cho sự xuất hiện lực lượng đối lập.

Anh quả quyết, sẽ không còn con đường nào khác, "ĐCS Việt Nam phải có một quyết tâm và một sự hy sinh cực kỳ to lớn nhưng cần thiết. Đó là ĐCS cần tự đặt mình vào thử thách sống còn trước khi bị xã hội làm điều đó.. và tôi tin rằng, nếu ĐCS thực sự vì dân, vì nước, thực sự muốn lấy lại lòng tin của nhân dân để tiếp tục lãnh đạo dất nước thì quyết định duy nhất đúng hiện nay là từ bỏ độc quyền lãnh đạo, thực hiện đa nguyên tư tưỏng, đa đảng đối lập". (1)

Nguyễn Vũ Bình không chỉ rất lý trí, anh còn là một người "ưa hành động" (3). Bài "Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang - một tấm gương đấu tranh cho tự do và dân chủ" của anh được kết thúc bằng câu: "Tôi cho rằng đã đến lúc phải hành động chứ không chỉ bàn luận và góp ý". Đấy vừa là lời phê phán vừa là tuyên bố của anh.

Trong bài trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 15 tháng 6 năm 2002, anh nói: "Tôi nghĩ rằng việc viết là rất quan trọng nhưng tôi không cho rằng đấy là vấn đề quan trọng nhất đối với tôi. Vấn đề quan trong nhất đối với tôi là hình thành được một lực lượng đối lập và manh nha của nó là một tổ chức công khai ... Đó là vấn đề thiết tha nhất của tôi từ khi tôi bắt đầu tham gia đấu tranh cho đến bây giờ và tôi tin là sau này cũng vậy."

Và anh đã hành động quyết đoán.

Ngày 2 tháng 9 năm 2000, anh đệ trình tờ đơn sau dây:

     Đơn xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ
     Kính gửi : Ông Trần Đức Lương
          Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam
     Đồng kính gửi ông : Nông Đức Mạnh
          Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
     Tên tôi là : Nguyễn Vũ Bình, phóng viên Tạp chí Cộng sản, thường trú tại số nhà 26, tổ 67b, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng- Hà Nội.
     Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình đất nước, tôi có nhận thức rằng Việt Nam hiện nay đang đứng trước một cuộc tổng khủng hoảng toàn diện về kinh tế, chính trị và xã hội (Tôi xin gửi kèm một bài, viết về vấn đề này). Theo nhận định của tôi, trong tương lai không xa nữa, sẽ có một sự thay đổi lớn của lịch sử đất nước và đó chính là sự thay đổi về chế độ xã hội. Việc có một lực lượng đối lập, mà đại diện là một chính đảng trong lòng xã hội hiện nay là yêu cầu bức thiết và tất yếu để giảm thiểu những tổn thất mà nhân dân phải gánh chịu trong quá trình thay đổi. Trên cơ sở nhận thức như vậy, tôi mạnh dạn làm đơn này đề nghị và kính mong các Ông, vì tương lai đất nước, vì lợi ích dân tộc, cho phép tôi thành lập đảng Tự do-Dân chủ.
     Tôi xin chân thành cảm ơn.”

Anh bộc bạch về động cơ đứng ra thành lập đảng: "Tôi vì Tôi là một phần (mà các Ông cho là như nguòi đốt đền), Tôi vì nhân dân, đất nước một phần (Tôi cho là phần lớn), mà Tôi cũng vì cả đảng Cộng sản Việt Nam nữa" (2). "Tôi chỉ có một mong muốn duy nhất là làm sao góp phần giảm thiẻu tối đa những tổn thất mà nhân dân phải gánh chịu nảy sinh từ bước chuyển biến đau đớn nhưng đầy vinh quang sắp tới. Lý do cũng rất đơn giản, một thay đổi lớn của lịch sử nếu không có sự chuẩn bị về tinh thần của nhân dân sẽ rơi vào hỗn loạn, dẫn tới hậu quả khôn lường cho xã hội. Chính vì vậy, cần có một lực lượng đối lập ngay trong lòng xã hội hiện nay để một mặt, thúc đẩy tất cả các yếu tố sẵn có đi tới chín muồi, và mặt khác, cùng với thời gian và sự thay đổi, tạo ra một nền tảng vững chắc cho một cơ cấu dân chủ trong tương lai" (1).

Về tôn chỉ, mục đích: "Đảng Tự do-Dân chủ có mục đích tự thân là đấu tranh cho Tự do cá nhân và Dân chủ xã hội... Mục tiêu cơ bản và lâu dài của đảng Tự do - Dân chủ là xây dựng một xã hội: Nhân dân tự do-giàu có, Quốc gia hùng mạnh, Xã hội dân chủ-công bằng-văn minh" (1).

Anh nhấn mạnh cả Tự do cá nhân và Dân chủ xã hội vì cho rằng: "Tự do là cứu cánh phát triển. Một cá nhân hay một dân tộc xét cho cùng sự hơn kém phụ thuộc vào khả năng sáng tạo, mà tiền đề của sự sáng tạo là tự do. Dân chủ là phương thức xã hội bảo đảm cao nhất tự do của con người, và trên nền tự do, mỗi một cá nhân phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình để thúc đẩy xã hội tiến lên" (4).

Anh phác hoạ tiên đề, nội dung và điều kiện cho sự phát triển đất nước là: "Dân chủ hoá xã hội, Xây dựng nền kinh tế hiện đại và phát triển, Quốc tế hoá mọi hoạt động, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ...

Dân chủ hoá xã hội là phải thừa nhận những quyền cơ bản của con người, quyền công dân mà bất kỳ chế độ dân chủ nào cũng phải thừa nhận. Đó là quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc, quyền được tự do ứng cử và bầu cử. Mặt khác, cần xây dựng hệ thống luật pháp làm nền tảng cơ bản cho chế độ chính trị dân chủ ...

Xây dựng nền kinh tế thị trường mà trong đó quyền tư hữu tài sản là nền tảng phát triển, quyền sở hữu trí tuệ là động lực phát triển ..." (1)

"... xoá bỏ cơ chế cũ (cơ chế kế hoạch hoá, quan liêu bao cấp và sự biến dạng của nó dựa trên sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản), xây dựng các thiết chế dân chủ. Điều này có thể là đúng nhưng hoàn toàn chưa đủ, tất cả những thay đổi trên phải dựa vào sự thay đổi về tâm lý và văn hoá dân tộc mới bảo đảm sự phát triển ổn vững trong tương lai" (4).

Người ta thường phân chia các nước dân chủ trên thế giới thành hai nhóm nước : dân chủ tự do và dân chủ tuyển cử. Các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp Ẩthuộc về dân chủ tự do. Phần lớn các nước khác tuy cũng có đầy đủ các thiết chế dân chủ, nhưng nền kinh tế chưa phát triển thường thuộc về dân chủ tuyển cử. Nguyễn Vũ Bình nghiêng về chế độ dân chủ đại nghị vì anh cho rằng: "chế độ dân chủ đại nghị dựa trên cơ chế tản quyền sẽ phát huy tối đa tiềm năng cũng như đem lại tất cả phúc lợi cho người dân ... phúc lợi mà một chế độ dân chủ tản quyền đem tới như sự phát triển đồng đều ở tất cả các khu vực, giảm thiểu những thủ tục hành chính của cơ chế tập trung, loại bỏ ảnh hưởng tiêu cực của giới quân nhân đối với sinh hoạt chính trị ..." (4)

... Và tai hoạ ập xuống

Tháng 12 năm 2000 Nguyễn Vũ Bình bị đình chỉ công tác ở Tạp chí Cộng sản và bị đuổi khỏi biên chế nhà nước. Ngày 20 tháng 7 năm 2001, công an xộc đến khám nhà, tịch thu tài liệu, bắt anh lên đồn thẩm vấn nhiều ngày. Điện thoại nhà anh bị cắt. Sau đó đúng một năm, anh bị tống giam thực sự. Phiên toà sơ thẩm mở ngày 31 tháng 12 năm 2003 ghép anh vào tội gián điệp theo điều 80 Bộ Luật Hình sự với mức án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế. Ngay sau đó, anh đã gửi đơn kháng án. Phiên toà phúc thẩm mở ngày 5 tháng 5 năm 2004 vẫn y án sơ thẩm mặc dù trong phiên xử anh đã bác bỏ mọi điều luận tội vô lý và các luật sư đã biện giải hết sức thuyết phục.

Luật sư Trần Lâm tranh luận: "Theo điều 80 BLHS muốn kết tội một người làm gián điệp thì phải chứng minh đủ rõ người đó đã làm tay sai cho nước ngoài, làm theo sự chỉ đạo của nước ngoài ... Nước ngoài ở đây phải hiểu là một nước khác, một quốc gia khác, phải là đại diện của một chính phủ hay là một tổ chức tình báo, chứ không phải một công dân của nước đó, càng không phải là một ngoại kiều nào đang sống ở nước đó". Bản án gian trá, bất nhân còn làm luật sư không thể không bình luận một cách hài hước: "Những Việt kiều ở Canada, ở Úc ... ở khắp nơi trên thế giới đều là người nước ngoài, vậy thì Nguyễn Vũ Bình làm gián điệp cho năm châu bốn biển, cho khắp thế giới à ?!"

Luật sư Đàm Văn Hiếu biện minh rõ hơn: "Tin tức, tài liệu đã cung cấp, theo lời khai của Nguyễn Vũ Bình chỉ là trao đổi quan điẻm về dân chủ với cá nhân đó, chứ không có gì liên quan đến an ninh hay bí mật quốc gia ... Một điều đáng chú ý nữa là : Hoạt động của bọn gián điệp bao giờ cũng lén lút, kín đáo, bí mật, tránh để nhà nước và mọi người phát hiện. Còn Nguyễn Vũ Bình lại công khai tuyên bố quan điểm của mình về dân chủ, nhân quyền và chống tham nhũng. Không hề lén lút, dấu diếm .. Các bài viết của Bình đều để trên bàn làm việc, không hề cất dấu khi bị khám xét nhà. Không những thế, Bình còn đường hoàng gủi đến Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội lá đơn xin thành lập đảng Tự do- Dân chủ với tư cách là một lực lượng đối lập ... Như vây, việc làm của Bình là hợp Hiến, đúng với pháp luật nước ta và luật pháp quốc tế. Qua những trình bầy ở trên, tôi cho rằng Nguyễn Vũ Bình không phạm tội gián điệp, bản án sơ thẩm xử phạt Bình theo tội danh gián điệp là trái với tinh thần và nội dung của điều 80 BLHS. Tôi đề nghị hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm".

Cựu viện trưởng Viện Triết học Việt Nam Hoàng Minh Chinh còn quyết liệt hơn: "Tôi - Hoàng Minh Chính - Bào chữa viên nhân dân hợp pháp của bị cáo nhà báo vô tội Nguyễn Vũ Bình chính thức đưa đơn kiện Viện Kiểm sát và Toà án Thành phố Hà Nội về tội vu khống cho nhà báo Nguyễn Vũ Bình tội gián điệp".

Vì bất chính và phi nghĩa nên phiên toà xử Nguyễn Vũ Bình tuyên bố là xử công khai nhưng thực tế rất lén lút. Chỉ có vợ và cha đẻ được vào dự phiên toà (Tuy nhiên, người ta cũng đã dùng thủ đoạn xấu để ngăn trở. Cụ thân sinh Nguyễn Vũ Bình đã ngót nghét 80 lại ở cách xa Hà Nội trên 130 km nhưng chỉ nhận được giấy báo trước một ngày. Đã thế trước khi vào xử, cụ còn bị đe là không nên phát biểu gì trong phiên toà).

Thế là, tất cả anh em ruôt thịt, bạn bè, thân thích, phóng viên báo chí và thông tấn nước ngoài, đại diện các đại sứ quán Hoa Kỳ và Châu Âu ..., rất đông, đều phải đứng ngoài cổng. Tại đây đã xẩy ra lộn xộn, ẩu đả. Mấy tên lưu manh (mà ai cũng cho là tay chân của công an) đã xông vào chửi bới, đánh đập và cào rách mặt chị ruột Nguyễn Vũ Bình (trước mặt công an nhưng công an không can thiệp). Các nhà báo nước ngoài động lòng trắc ẩn đã đứng quây thành vòng che chắn cho người đang bị hành hung. Bọn đầu gấu thực thi nhiệm vụ quá tích cực nên đánh nhầm cả vào người nước ngoài. Một nữ phóng viên Châu Âu nhún vai, lắc đầu: "Trước kia người Việt Nam rất đẹp, dũng cảm chống ngoại xâm, bây giờ thì người Việt Nam rất xấu ..."

Cựu ký giả Trường Sơn đã tường thuật và bình luận: "Phiên toà phúc thẩm đã làm điều thất nhân tâm lại thất chính trị. Thất nhân tâm ở chỗ đã làm mất niềm tin trong nhân dân. Nhân dân không tin vào toà án, vì pháp luật không được tôn trọng, kết tội bừa bãi, không đủ chứng cứ, do đó càng không tin vào chế độ dân chủ gấp triệu lần tư bản, như lãnh đạo vẫn nói. Nhân dân thì bảo, có mà ngược lại thì mới đúng, nghĩa là chuyên chế và độc tài gấp triệu lần tư bản. Còn thất chính trị ở chỗ, làm nước ta bị cô lập với thế giới. Thế giới thường lên án, chỉ trích Việt Nam vi phạm nhân quyền. Đây lại là một chứng cớ để họ kết tội mình".

Khinh bỉ đến tột độ bọn người chỉ biết úp mặt vào miếng cơm tấm áo, sẵn sàng bán rẻ lương tâm để làm nô lệ cho cường quyền, nhà trí thức Tuệ Minh xỉ vả: ""Lũ người máy" đại diện cho pháp luật", được chủ của chúng bấm nút, ngang nhiên phỉ nhổ vào pháp luật. Nói thật, tôi không thể nào gọi họ là "những con người", chỉ trừ một kẻ mà tôi cho rằng còn có thể có chút tính người, đó là kẻ đọc lời tuyên án. Mặt anh ta cúi gầm, không dám nhìn lên. Dường như anh ta cũng nhận thấy chính anh ta mới là kẻ đang làm điều tội lỗi"

Kết thúc phiên xử, khi được chánh án cho nói lời cuối cùng, Nguyễn Vũ Bình dỗng dạc phủ nhận hoàn toàn phiên toà và tuyên bố "Đối với tôi bây giờ chỉ có tự do hay là chết !". Quả vậy, trong tù anh đã tuyệt thực nhiều ngày trước khi được hứa hẹn lừa mỵ rằng sẽ xét lại bản án.

Tuệ Minh, trong bài viết: "Nguyễn Vũ Bình - Ngọn hải đăng trong đêm tối" đã nhiệt thành vinh danh và kêu gọi: "Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta dang rất cần một xã hội dân chủ - tự do để phát triển. Chúng ta cần biết bao những con người tham gia tranh đấu cho lẽ phải, cho nền dân chủ của đất nước chúng ta. Trong cuộc đấu tranh gian nan ấy, Nguyễn Vũ Bình xứng đấng là một trong những biểu tượng sáng ngời cho tuổi trẻ noi theo. Ngọn hải đăng Nguyễn Vũ Bình đang soi đường cho các bạn".

Riêng tôi, tôi không thể không xót xa, căm giận mỗi khi nghĩ đến cảnh tù đầy nghiệt ngã, dã man giành cho một con nguời từng khao khát và tin tưởng ở tự do như Nguyễn Vũ Bình. Anh từng viết những dòng có cánh khi trao đổi với một tác giả nước ngoài: "Thưa tác giả, ở Việt Nam đã có chim. Tôi đã nhìn thấy những đàn chim 5 đến 7 con, ở nông thôn nhiều hơn. Cân bằng sinh thái đang trở lại, hy vọng sự cân bằng cũng sẽ trở lại trong tâm hồn người Việt nam" (4).

Tôi càng thương xót hai cháu nhỏ: Thanh Hà và Thuận Linh, con gái Nguyễn Vũ Bình, trong những năm tháng tuổi thơ bơ vơ vắng bố, càng cảm phục Bùi Kim Ngân. Cũng như Vũ Thuý Hà- vợ bác sỹ Phạm Hồng Sơn, Bùi Kim Ngân đang không những phải "Sầu ôm nặng xếp chồng làm gối" qua đằng đẵng tuổi thanh xuân vò võ mà còn phải nai lưng một mình kiếm sống, nuôi dạy con cái và tháng tháng vượt non trăm cây số đi tiếp tế cho chồng song vẫn tỉnh táo kiên cường đấu tranh chống cường quyền, bảo vệ lý tưởng của chồng, góp sức cổ suý mạnh mẽ cho công cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp dân chủ hoá đất nước. Họ xứng đáng là những nữ anh hùng trên chiến tuyến mới gian nan hôm nay.

Nghĩ về ý chí ngoan cường và sụ hy sinh lớn lao của họ: những Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Bùi Kim Ngân, Vũ Thuý Hà -- tôi thường liên tưởng đến Petofi - nhà thơ cách mạng Hungari:

Tự do và ái tình
Vì các người, ta sống
Vì tình yêu lồng lộng
Tôi hiến cả đời tôi
Vì tự do muôn đời
Tôi hy sinh tình ái

Đáng vinh danh biết bao những con người thấy trước hiểm nguy mà vẫn hiên ngang xốc tới: "Tôi biết rằng, có thể tôi sẽ phải hy sinh nhưng vẫn tin tưởng tuyệt đối là: Lịch sử sẽ sang trang, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ được hưởng Tự do và Dân chủ trong một tương lai không xa nữa. Và, trên nền của Tự do và Dân chủ, nhân dân Việt Nam sẽ làm cho cả thế giới phải kinh ngạc về dân tộc mình, đất nước mình không kém những gì họ đã làm trong lịch sử" (1)

Và vững tin: "Dù có bất kỳ trở ngại nào, dù có ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân nào, lực lượng nào cản trở, dân tộc Việt Nam vẫn đi tới đích của lịch sử: Tự do của cá nhân và Dân chủ cho toàn xã hội" (1)

Hà Nội, sinh nhật lần thứ 36 của Nguyễn Vũ Bình

Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6- Khu tập thể Điạ Vật lý Máy bay
Trung Văn - Từ Liêm - Hà nội
Điện thoại : 5 534370


Ghi chú:
     (1) Việt Nam và con đường phục hưng đất nước
     (2) Thư gửi Bộ Chính trị - Một số vấn đề giải trình, bổ sung và kiến nghị
     (3) Nguyễn Thanh Giang - Một tấm gương đấu tranh cho tự do và dân chủ
     (4) Tổ quốc ăn năn - Cẩm nang dân chủ và phát triển Việt Nam
     (5) Về vấn đề biên giới Việt - Trung

----- O -----

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập tự do hạnh phúc

--- O ---

Thư cấp báo

Kính gửi :
     Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương Đảng
     Ban Nội chính Trung ương Đảng
     Ûy ban An ninh Quốc phòng của Quốc hội
     Bộ Quốc phòng
     Bộ Công an
     Sở Công an Thành phố Hà Nội

Một số kẻ lộng hành, tha hoá, biến chất ở Tổng cục 2 đã gây nên vụ án T4 siêu nghiêm trọng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thượng tướng Nguyễn Nam Khánh và nhiều tướng lĩnh, lão thành cách mạng đã viết thư, phát biểu ý kiến với Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội yêu cầu phải xét xử công khai vụ án này trước toàn Đảng, toàn dân.

Với tinh thần trách nhiệm công dân tích cực và nghiêm túc, ngày 19 tháng 8 năm 2004 tôi đã gửi các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội bản viết trình bày những nhận thức cá nhân đối với vụ án siêu nghiêm trọng này và kiến nghị một số việc cần thiết, trọng đó việc đầu tiên là : “Mở phiên toà đại hình xét xử công khai và nghiêm minh tất cả các đối tượng liên quan đến vụ án chính trị siêu nghiêm trọng này, đứng đầu là các ông Lê Đức Anh, Đặng Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh …”.

Từ bấy đến nay, liên tục tôi bị thoá mạ tục tĩu qua điện thoại và hăm doạ qua thư tín. Tôi xin trích 02 trong những bức thư đó :

Bức thư không đề ngày, không ký tên, không có địa chỉ, xưng là của một thương binh 1/4 viết : “… Tôi xin đại diện cho một số thương binh, cựu chiến binh ở nơi tôi cư trú cảnh báo cho biết là ông đã đi quá xa và khuyên ông hãy sớm tỉnh ngộ khi còn chưa quá muộn. Đừng để chúng tôi lại phải ra tay trừng trị …”.

Bức thư đề ngày 20 tháng 10 năm 2004, xưng “Chúng tôi là anh em cựu chiến binh, thương binh đang sinh sống, làm ăn ở tỉnh Hoà Bình …” viết “… Chúng tôi tuy tuổi đã cao, một số người không còn lành lặn, sức khoẻ có hạn nhưng sau khi đọc bài viết của ông, chúng tôi sục sôi căm phẫn, hẹn nhau dứt khoát vào ngày gần đây chúng tôi sẽ tập trung nhiều người kéo đến nhà ông …”.

Bức thư có 7 chữ ký. Nói là gồm những ngưòi tuổi cao, không còn lành lặn, sinh sống, làm ăn ở tỉnh Hoà Bình nhưng chữ ký đều ra dáng cán bộ trung, cao cấp.

Tất cả những bức thư đó đều được gửi qua bưu diện cho tôi, vợ, con tôi và những người thân của tôi thường bị ghép là “lực lượng dân chủ”.

Chiều nhập nhoạng ngày 27 tháng 10 năm 2004, trên đường đến trường đón cháu nội, đến quãng giữa đường Láng Hạ- Thanh Xuân, một người trung niên cố tình lao vào xe tôi rồi chửi bới, gây gổ. Tôi cảnh giác và đành nín nhịn. Nhìn vào mặt anh ta, thấy không có vẻ đầu gấu lắm mà có nét là cán bộ.

Qua những hiện tượng trên, dễ dàng đoán nhận rằng tất cả đều không phải là các thương binh, cựu chiến binh có thật. Bởi vì, nếu họ là những người có thật thì họ đã công khai tố cáo tôi trước công luận hoặc với các cơ quan an ninh, đòi nhà nước xử lý tôi (chứ làm gì họ phải năc danh). Làm như vậy, không những họ không phải e ngại gì mà biết chắc rằng họ còn được hỗ trợ, được tưởng thưởng.

Đáng lưu ý là, cùng thời gian này, những thoá mạ, hăm doạ dưới các hình thức khác, ở mức độ khác cũng xẩy ra với thượng tướng Nguyễn Nam Khánh và những người liên quan.

Có lẽ không cần vạch mặt chỉ tên, ai cũng có thể xác định thống nhất họ là những ai.

Họ vốn đã võ biền, dốt nát, trong cơn dãy chết họ càng dễ trở nên mất trí và cuồng bạo. Bởi vậy tôi không thể không khẩn thiết cấp báo cùng quý vị.

Tôi không hề run sợ trước họ. Cũng không thích thú trước việc trừng trị họ. Nhốt họ thêm bẩn nhà tù. Bắn họ sẽ tốn đạn.

Tôi chỉ e hành động ngu xuẩn, cuồng bạo của họ nếu để xẩy ra sẽ bôi thêm tiếng xấu cho Đảng, cho Nhà nước và những hậu quả tai hại khôn lường sẽ quàng vào cổ nhân dân tôi, đồng bào tôi, những người tôi thật sự quý trọng, thương yêu và vì họ mà tôi tranh đấu, không nề hiểm nguy.

Hà Nội ngày 28 tháng 10 năm 2004

Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6- Khu tập thể Địa vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm - Hà Nội
Điện thoại : 5 534370

----- O -----

KẸT … ?

Nguyen Hai Son

Trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội; không một sự vật hoặc thể chế nào muốn mình bị kẹt lại, không được hạnh thông. Cái cây vươn lên để nhận ánh nắng mặt trời; con cá bơi ra tìm dòng nước mà tổ tiên loài cá đã sống. Con người, có nhiều nhu cầu hơn; ai ai cũng muốn mình ăn ngon mặc đẹp, ngày một giàu có hạnh phúc. Cung cấp thì ít nhưng nhu cầu lại nhiều, hoặc đôi khi ngược lại, sẽ làm cho mọi chuyện dồn thành đống. Đó gọi là kẹt! Kẹt là không cụ cựa, rục rịch gì được; lui không được mà tới cũng không xong. Muốn cho hết kẹt phải điều hòa, cân đối.

Nhìn lại xã hội Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể thấy chuyện kẹt này xãy ra như cơm bữa và xãy ra trong các mặt của đời sống con người. Làm hồ sơ cấp chủ quyền nhà đất - kẹt; đi công chứng - kẹt; xin cho con đi học cũng … ket. Ở bất cứ cơ quan hành chính nào, giấy tờ cũng chất thành đống; đơn thưa kiện, khiếu nại, tố cáo của dân chúng lại càng kẹt hơn, không giải quyết được. Cái kẹt mà mỗi công dân, mỗi cá nhân sử dụng phương tiện giao thông thường hay gặp; đó là nạn kẹt xe. Kẹt xe là một tình trạng không ai muốn nhưng luôn luôn gặp phải. Kẹt cả giờ, kẹt cả buổi. Kẹt buổi sáng, kẹt buổi chiều … Kẹt xe gây ra biết bao phiền toái, bực bội và lãng phí; chen chúc đứng ngoài đường, bất kể trời mưa trời nắng. Chuyện kẹt xe, nhìn có vẻ đơn giản nhưng giải quyết không phải dễ. Muốn giải quyết, đòi hỏi phải có một chính sách đồng bộ và toàn diện. Những nhà làm quy hoạch đô thị phải có tầm nhìn, nếu để nạn kẹt xãy ra thì việc giải quyết sẽ vô cùng khó khăn. Mọi chuyện “chữa cháy” trong nạn kẹt xe chỉ làm cho “ngọn lửa” bùng lên cao hơn mà thôi.

Để thấy được vấn nạn kẹt xe, chúng ta có thể hình dung mật độ xe chạy trên đường như lưu lượng dòng nước chảy, còn con đường như là dòng sông. Nước càng nhiều thì dòng sông càng phải rộng. Nguyên tắc của dòng chảy là không có vật cản thì nước chảy nhanh, càng có nhiều vật cản thì nước chảy càng chậm và có thể gây ách tắc. Nếu lòng sông hẹp thì nước sẽ dâng cao gây lụt lội. Những nhà thiết kế giao thông phải tính toán đến cả hai vấn đề là làm thế nào để giảm mật độ giao thông hoặc là làm tăng bề rộng lòng đường; làm tăng bề mặt lòng đường thì không được; bởi vì cần phải qui hoạch, giải tỏa, đền bù; chuyện này không phải công việc của mấy ông giao thông, hơn nữa trong hoàn cảnh hiện nay quỹ đất thành phố không còn nhiều. Còn việc hạn chế mật độ xe lưu thông bằng cách cấm đăng ký, cấm mua bán, cấm xe ngoại tỉnh lưu thông tại thành phố… xem ra không khả thi. Hai giải pháp trên không thể thực hiện được; người ta tính đến chuyện phân luồng. Xe đang chạy bon bon hai chiều, bỗng một buổi sáng trở thành một chiều. Người dân ở tỉnh cả năm trời mới lên thành phố; đường đi thì dễ nhưng đường về đã trở thành mê lộ. Chuyện này là có thật!

Những người dân ở Củ Chi, Tây Ninh lên thành phố khám bệnh, thăm bà con; lúc đi thì đi một mạch, từ Hóc Môn lên Quận 12 – Tân Bình - Trường Chinh - Cách mạng tháng Tám rồi thẳng lên Sài Gòn. Người dân quê, lâu lâu lên thành phố một lần, ngỡ ngàng xa lạ. Lúc đi thì thẳng một lèo, lúc về tưởng cũng như vậy. Nhưng không, họ bị thổi phạt ở Ngã Tư bảy Hiền, vì đọan đường này đã trở thành một chiều. Chú công an đã đứng sẵn dưới lòng đường, chỉ cần họ vừa tới là nắm xe kéo vô. Nhiều người vẫn không hiểu là tại sao mình bị phạt, chính quyền chỉ cho người dân đi một con đường vòng, khó hiểu và xa hơn; khác với cái thói đi băng, về tắt của người dân nông thôn.

Một lý do nữa khiến mật độ giao thông đô thị ngày càng tăng; đó là số lượng người lao động ở nông thôn lên thành phố tìm việc làm, nhưng đường sá không được mở rộng thêm. Vì thế, kẹt xe là điều đương nhiên. Ngày trước; bùng binh được xây dựng ở ngã năm, ngã sáu là nhằm sắp xếp xe cộ di chuyển theo một chiều xung quanh bùng binh. Chính trong dòng xe ở bùng binh, người đi đường mới có cơ hội để thoát ra và rẽ theo hướng của mình; chỉ cần người bên phải, nhường cho mình một hướng đi là có thể đi được. Không biết, chính quyền TP.HCM, nghe theo lời tư vấn của công ty Hồng Kông nào đó, lại biến bùng binh ngược lại thành ngã sáu; có nghĩa là họ gắn ba cột đèn, rồi hướng xe cộ lưu thông theo chỉ dẫn của đèn giao thông. Một bên lưu thông thì hai bên kia phải dừng. Không ai còn nhớ là càng nhiều ngã đường chừng nào thì sự lộn xộn càng dễ xãy ra chừng đó!

Chuyện này đã xãy ra ở bùng binh Lăng Cha Cả, quận Tân Bình và ở ngã sáu Phù Đổng, Quận I. Cái lăng Cha Cả chắc là có lâu lắm rồi, cách nay hơn 40 năm; lúc đó chưa có đường Cộng Hòa. Khi đường Cộng Hòa được mở rộng thì cái bùng binh trở thành nhỏ xíu, hướng con đường lại ngược hướng di chuyển của bùng binh; có nghĩa là các phương tiện giao thông khi đến bùng binh, từ đường Cộng Hòa, phải quẹo gấp qua bên phải để cập mạn bên trái bùng binh. Điều này làm cho dòng xe dồn lại và kẹt cứng, vì vậy mới có chuyện phân luồng. Họ không sử dụng bùng binh như một trục chính, để các phương tiện giao thông dựa vào đó mà đi. Họ phân luồng xe đi tránh vòng bùng binh, và dự tính biến bùng binh thành một công viên be bé. Chính quyền thành phố không đá động gì đến giải pháp mở rộng lăng Cha Cả; bởi vì, như đã nói ở trên, giải pháp này tốn kém, không nằm trong lộ trình quy hoạch. Như thế là mọi chuyện vẫn bế tắc. Kẹt vẫn hoàn kẹt! Mỗi ngày, Cảnh sát giao thông, thanh niên xung phong, thanh tra giao thông … phải tập trung lực lượng hùng hậu để hướng dẫn giao thông tại địa điểm phân luồng này. Thật là giải pháp bất cập và lãng phí.

Sự thiết kế không đúng khoa học, hướng dẫn không rõ ràng đã làm cho bức tranh giao thông ở các đô thị VN trở nên bát nháo, hỗn độn và vô luật lệ. Những người làm công việc kiến thiết này đều là giáo sư, tiến sĩ hết cả đấy! Các nhà thiết kế giao thông phải tính toán như thế nào để giảm đường giao nhau càng nhiều càng tốt, thiết kế như vậy thì mới giảm được tai nạn và việc đi lại được tiết kiệm. Vì vậy, ở các quốc gia tiên tiến, người ta xây dựng nhiều cầu vượt và hạn chế xây dựng các ngã tư, ngã năm. Còn ở VN thì người ta làm ngược lại; điều này, có lẽ là do bản chất của CSVN đã khác thiên hạ rồi.

Một trong những phương hướng giải quyết nạn kẹt xe ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM là phải giải quyết tốt công ăn, việc làm cho người lao động ở nông thôn. Nói như vậy có vẻ xa vời và huyễn hoặc quá, nhưng thực tế là như vậy. Bởi vì, người lao động nông thôn, không có việc làm nên đổ xô vào thành phố để kiếm sống. Cứ nhìn bảng số xe thì sẽ thấy được vấn đề; cứ hai chiếc xe mang bảng số thành phố thì có một chiếc xe mang bảng số tỉnh đang lưu thông. Nhưng điều trớ trêu là ông Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội không thể về Thái Bình để sử dụng lao động, cũng như ông Chủ tịch UBND TP.HCM không thể về Cà Mau để tuyển người. Nông dân Thái Bình bỏ hoang hàng ngàn hecta ruộng, nông dân Cà Mau thả thí hàng trăm hecta đầm tôm là do họ nuôi trồng không có lời. Chính sách của CS là làm người nông dân phải chết đói trên mảnh đất của họ, hoặc là phải lang thang cầu thực. Để kiếm được miếng ăn, không có cách nào dễ hơn là lên thành phố; ở thành phố, họ có thể làm mọi chuyện nhẹ nhàng hơn cảnh làm ruộng nhưng thu nhập lại cao hơn. Họ đã nghe thấy và chán ngấy cái cảnh tiền lời từng ký tôm, tiền bán từng cân lúa, tiền tăng ca của công nhân dệt may … chạy lên và chui vào túi quan tham ở Cục, ở Bộ ngoài Hà Nội.

Hiện nay, tình trạng bát nháo trong giao thông và tình hình tai nạn giao thông không giảm là bắt nguồn từ nền văn hóa CS. Một thứ văn hóa mà ai cũng cho là mình có quyền hơn người khác. Bà con hài hước rằng; ở Việt Nam hôm nay, đi ra đường cũng giống như Kinh Kha sang Tần trong thời Đông Chu liệt quốc, có đi mà không hy vọng trở về! Sự cai trị của CS đã gieo rắc trong dân chúng nỗi sợ hãi, cái tâm lý thua thiệt yếu kém, cái tâm lý giận cá chém thớt… Chính những tâm lý bất an này đã tạo nên sự bất ổn cho xã hội; vì vậy, những lực lượng nào có tham vọng lãnh đạo đất nước trong thời hậu CS, phải tính đến chuyện này. Có một dân tộc, khi mà một công dân của họ phát biểu một quan điểm nào đó, thì những công dân khác (Công dân chứ không phải Công an nghe!) lại can ngăn rằng; những lời phát biểu như vậy sẽ bị chính quyền bắt bớ. Hỏi cái dân tộc đó mấy trăm năm nữa mới bằng thiên hạ được ?

Cái kẹt thứ hai là kẹt về cải cách hành chính, tinh giản biên chế. Bộ máy CS từ lúc khai sinh đã nhiều mâm bát, ban bệ, cồng kềnh. Vừa rồi, báo chí có nói đến chuyện thành phố Đà Nẵng là thành phố loại I, nhưng muốn xây dựng một công trình vệ sinh công cộng phải cần đến 27 chữ ký. Tôi ngồi nghĩ hoài mà không tìm đâu ra 27 chữ ký; nhưng thực tế, nếu ở trong guồng máy của họ thì tìm đến 54 chữ ký cũng có. Nhiều chữ ký như vậy là phòng khi có sai trái xãy ra, không một ai chịu trách nhiệm cả. Bộ máy chồng chéo nhiều đến nổi văn bản sau phủ định văn bản trước; chữ ký người này chồng lên chữ ký người kia; quyết định từ trung ương, quyết định của địa phương không biết cái nào đúng … Thật là khủng khiếp!

Không phải bây giờ mà cách đây mười mấy năm, người ta đã bàn đến chuyện tinh giản biên chế; người ta bàn chuyện này từ khi còn Liên Bang Xô Viết lận, nhưng càng tinh giản thì bộ máy càng phình to. Con của ông A làm ở cơ quan X, con của ông B làm ở cơ quan Y; tổng giám đốc cơ quan X, Y đều là bạn chiến đấu, xui gia với nhau cả đấy! Vì vậy, nếu cho thằng con bất tài vô tướng về thì mặt mũi nào mà nhìn nhau? Không khéo mình cho con nó về, nó lại thù giặc cho con mình về thì khốn; cái ghế của con mình đang có giá hơn của con nó mà. Bỏ thì vương, thương thì tội! Thôi tự an ủi rằng, bộ máy lâu nay đã vận hành như vậy rồi. Tinh giản, gọn nhẹ thì… kẹt lắm! Đó là chưa kể cái ghế của mình ngồi hôm nay là do cha nó để lại; mình mà đụng chạm đến nó, cha nó tức giận đòi lại cái ghế, mình tiêu luôn. Thôi thì cứ xí xóa cho nhau vậy! Sống ở VN lâu nay, ai cũng đều thuộc câu châm ngôn: “Bằng mặt nhưng không bằng lòng”. Tôi nghĩ đây là câu nói hay nhất, biểu hiện các mối quan hệ tương quan trong guồng máy CS: Thông bên ngoài nhưng kẹt bên trong, thông ở trên nhưng kẹt ở dưới, thông trong quan nhưng kẹt trong dân … Nếu là thầy giáo dạy văn, tôi sẽ ra đề thi văn nghị luận cho học sinh tú tài rằng: Em hiểu gì về câu: Bằng mặt nhưng không bằng lòng. Em hãy phân tích và bình luận về câu này ? Có lẽ, tôi sẽ nhận được vô vàn sự phân tích hấp dẫn về đạo lý và xã hội VN trong thời CS.

Kẹt là tiếng cửa miệng, là điệp khúc của quan chức CS trong giai đoạn hiện tại. Kẹt-một tiếng thốt ra gọn lõn nhưng lại hàm chứa quá nhiều nỗi bất lực rối rắm, há miệng mắc quai, bứt dây động rừng!

Cái kẹt thứ ba là kẹt về chính sách vĩ mô. Mọt chính sách ở trung ương nhưng khi xuống tới địa phương đã bị vô hiệu hóa hoặc có tác dụng ngược. Cái kẹt này nằm trong cơ cấu nhân sự của CS, trên nói dưới không nghe; một cơ cấu quen điều hành theo lệnh miệng hoặc là tùy hứng. Làm như thế nào cũng đúng cả, đừng có bàn chuyện chống Đảng là được. Hình như, sức mạnh của guồng máy CS chỉ làm một việc duy nhất là tìm xem những người nào có ý đồ chống đảng và trừng trị họ; chứ còn những loại tội phạm khác đều không quan trọng.

Ở VN hiện nay, có cả trăm công trình của chính phủ nhưng không thể triển khai được, vì sự phá đám của đám quan lại bên dưới. Khi vừa nghe tin một khu đất nào đó được quy hoạch làm khu công nghiệp, khu du lịch thì đám quan chức địa phương đã nhanh tay hợp thức hóa, đầu cơ, mua bán, sang nhượng, làm cho giá trị khu đất đó tăng lên hàng trăm lần; thưa kiện tùm lum. Lúc đó, chẳng nhà đầu tư nào muốn bỏ tiền vào làm ăn. Chuyện này đã xãy ra ở khu Công nghiệp An Khánh, tỉnh Hà Tây; khu du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang … cũng như Khu di sản văn hóa thế giới Phong Nha-Kẻ Bàng. Chỉ nghe phong thanh một nơi nào đó sắp được quy hoạch, đầu tư là các quan huyện, quan xã ở địa phương đó tranh nhau xây nhà, chiếm đất. Một cái biệt thự to đùng, nằm chình ình ngay trước ngã ba, phá hủy bối cảnh của một quần thể du lịch được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Họ thừa tiền bạc lẫn uy quyền để đổ vào đầu tư theo kiểu ăn hôi đó. Chuyện này làm sao giải quyết đây ? Kẹt lắm! Chúng mình đã biết tỏng ruột nhau rồi còn gì!

Sự suy thoái về đạo đức và lối sống của các viên chức CS, trước đây còn giấu giấu giếm giếm nhưng hôm nay đã lồ lộ như ban ngày. Sau khi nghiên cứu sự suy thoái đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên ở TP.HCM (1). Ông Nguyễn Trung Trực, hiệu trưởng Trường Cán bộ TP.HCM đã nói đến sự suy thoái này như là những hiện tượng mang tính quy luật. Nhưng tại sao hiện tượng lại thuộc về số đông? Hiện tượng gì mà có tính lập đi, lập lại? Đó chính là bản chất! Nhưng ông ta ngại nói đến bản chất, bởi vì nói như vậy là đe dọa sự tồn vong của chế độ. Nói như vậy là trù mạt, xui xẻo lắm. Đảng không cho phép nói!

Tham nhũng là căn bệnh trầm kha, bắt nguồn từ cơ chế độc tài CS. Căn bệnh chỉ mất đi khi cái cơ thể không còn nữa. Cơ chế đã tạo cơ hội cho sự lộng quyền, chức vụ càng cao thì sự lộng quyền càng lớn và tác hại của nó thì không thể thống kê được. Quan chức cấp quận, cấp huyện là có đủ cả: xe hơi, biệt thự, con cái du học ở nước ngoài … Thật là đã đời ông Địa! Ai ai cũng tranh nhau vơ vét, tức nhiên sự vơ vét này được hợp pháp theo kiểu CS. Bởi vì họ đã tính trước cả rồi, thà làm con ma no còn hơn là con ma đói. Con ma đói nhìn thấy ghê lắm!

Cái kẹt thứ tư là kẹt về cải cách giáo dục. Chấn hưng giáo dục, một mệnh lệnh từ cuộc sống! Cái tên nghe “kêu” quá phải không ? Ngày 27 tháng 9 vừa rồi, mấy ông quản lý Trường Đại Học, mấy bà quản lý giáo dục các Tỉnh, Thành phố Miền trung gặp nhau ở Đà Nẵng để hội thảo về giáo dục. Ai là người bức xúc về giáo dục thì không biết, nhưng đây là dịp để quan chức trò chuyện với nhau về tài sản và khoe điện thoại di động đời mới: hai trong một đây nè, vừa nghe điện thoại, vừa chụp ảnh hội nghị! Bởi vì các vị ấy, biết rằng, đến đây không có gì để nói, mà có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Cho nên đem cái điện thoại di động ra sử dụng để chứng tỏ ta đây còn có chuyện để làm. Rảnh mà! Chảnh mà! Cải cách giáo dục; ai cũng to mồm cả nhưng cải cách bắt đầu từ đâu, thì chẳng có ai trả lời được ? Vì vậy, con em chúng ta tha hồ học thêm học bớt, học đầu tắt mặt tối, oằn lưng vì cái ba lô nặng trịch trên vai … nhưng kiến thức thu được chẳng là bao. CS đã tạo ra một nền “giáo dục ru ngủ”, một nền giáo dục nhìn bên ngoài, ai cũng thấy hài lòng hết. Cha mẹ vui sướng, thầy cô hồ hởi; còn nhà quản lý thì tha hồ ca ngợi thành tích, khen tặng lẫn nhau. Ồ, con cái chúng ta giỏi thật: Thi đâu đậu đấy, nhà đầy bằng cấp! Bây giờ thay đổi, thật là kẹt. Lâu nay đã vậy rồi, thôi thì cứ để như vậy! Nhiều người thành đạt ở nước ngoài, có lẽ còn nhớ đến những kỷ niệm đi học hồi còn nhỏ của mình: cây viết chì, cái cặp sách, con đường làng… và không một ai có thể chấp nhận cái hiện trạng giáo dục VN hiện nay ?

Cái kẹt về đường lối. Chuyện này những người làm công tác lý luận hay nói đến. Tôi không rành! Chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị xóa sổ ở chính đất nước đã sinh ra nó, nhưng nghe đâu vẫn còn sống dai dẳng ở VN. Cái ông trưởng ban lý luận trung ương, Giáo sư Nguyễn Phú Trọng, người thay mặt TW đảng vạch lý thuyết, đường lối cho cách mạng VN trong giai đọan hiện nay. Ông ta bảo thông là phải thông, ông ta nói kẹt là phải kẹt! Cái gì hè ? Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng nước Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh ... Còn nhiều nữa, đọc báo thấy giông giống đường lối của Trung Quốc (TQ); chống tham nhũng cũng rập khuôn theo kiểu của TQ nhưng nhẹ tay hơn. CSVN không xây dựng được đội ngũ quan lại trong sạch, cho nên họ chẳng chống được ai cả. Trước đây cùng anh em XHCN nên cùng chung đường lối, môi hở răng lạnh; còn bây giờ là thời buổi làm ăn thị trường, anh em ruột thịt trong nhà còn giành giật nhau thị phần, tranh nhau đồng tiền chạy ra chạy vào; huống hồ gì anh em XHCN. Những người CSVN cố tình quên rằng lịch sử VN khác lịch sử TQ, cho nên họ bê nguyên si cái lý luận và hành động của CSTQ vào VN. Họ áp dụng cái mô hình XHCN, trông có vẻ phát triển này, cho VN. Cái kẹt của CSVN là chủ nghĩa giáo điều, là áp dụng máy móc cùng một thứ lý luận cho mọi trường hợp cụ thể. Vì cái kẹt này, họ đã trả giá quá đắt cho nền kinh tế đất nước nhưng họ chưa rút được một bài học kinh nghiệm nào cả.

Đây là giai đoạn nghiên cứu lý thú nhất cho những nhà Việt Nam học; những chuyên gia muốn hiểu rõ về lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Không có một quốc gia nào định sẵn con đuờng cho sự phát triển; dù cho đó là Hoa Kỳ, Singapore hay Sudan … Những nhà lãnh đạo quốc gia nhìn thấy tương lai của dân tộc mình, và như vậy cứ đi; không câu nệ, không bảo thủ. Trên đường đi, sai đâu sửa đó, điều chỉnh cho phù hợp với thế giới bên ngoài. Chính nhờ vậy mà họ đi tới đích. Nhiều lúc tôi tự hỏi, một chính quyền có quá nhiều sai trái và thối nát như CSVN nhưng vẫn giữ được vị trí lãnh đạo đất nước trong mấy chục năm nay. Chứng tỏ là họ cũng có tài? Cái tài của họ là gì thì phải có thời gian nghiên cứu.

Trong thời gian vừa qua, có một chuyện làm nhiều người ngạc nhiên. Đó là chuyện mấy ông ở Viện Kiểm sát tỉnh thành, mấy ông Công an ở địa phương tìm dân để xin lỗi và xin được bồi thường những sai trái do họ gây ra; sai trái là do trong quá khứ, họ đã bắt người, giam oan, tịch thu tài sản của dân. Chuyện giải oan này có vẻ ngộ đây! Nhiều người dân, khi được xin lỗi vẫn còn bàng hoàng và không tin cái thiện chí của CS. CS mà đi xin lỗi dân và xin được bồi thường, một chuyện chưa bao giờ xãy ra trong lịch sử? Khi tìm hiểu mới biết rằng, họ làm theo nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, còn nghị quyết nói những gì thì dân không được đọc. Qua chuyện này, CS muốn chứng tỏ cho thế giới thấy rằng nền dân chủ ở VN có tiến bộ một bước, nhưng lại đưa họ vào thế kẹt. Ở VN đâu chỉ có vài người bị bắt sai, giam oan mà có cả triệu người. Người này đòi được thì người khác đòi được. Cả một dân tộc là nạn nhân của CS lận! Còn lỡ, đã bắn người rồi thì lấy gì mà đền ? Thấy tôi hay cà khịa với CS, mẹ tôi nhắc nhở: Cẩn thận nghe con, cái bọn này nó không chừa cái gì đâu; bọn chúng mổ bụng, moi gan, bắt vợ nấu cháo, ép cả nhà phải ăn. Tôi thông cảm với bà; bởi vì, mẹ tôi đã từng sống trong vùng CS nên bà thấy được sự tàn ác của họ. Những đứa con lớn khôn, bây giờ đòi lại lá gan của cha nó thì lấy gì mà trả ? Những ai là thuyền nhân, cũng đã từng nghe hoặc thấy cái cảnh Công an biên phòng dùng súng B.40 bắn vào thuyền của những người vượt biên rồi phải không ? B.40 bắn, nếu trúng thì chẳng có giấy mực nào tả nổi; còn trật, cũng đủ gây lật thuyền, tha hồ quậy đạp giữa biển khơi và uống nước … biển. Những chuyện như vậy thì lấy gì mà đền ?

Bây giờ lại thêm cái vụ Tổng cục II, ông Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh ở đâu lù lù xuất hiện với cái thư đòi xét xử dứt điểm vụ T4. Nợ nần, ân oán bao nhiêu năm, hôm nay đòi giải quyết sòng phẳng. Thật là kẹt! Tức nhiên tướng Khánh không hành động đơn độc. Đọc những bài viết, chúng ta thấy Tướng Khánh có chiến thuật, chiến lược đàng hoàng; có công có thủ, che chắn kỹ càng. Ông ta đã biết CS không phải là những người thích đùa.

Rõ ràng là “họa vô đơn chí”. Tại sao trước đây không ai nói để họ còn giải quyết; còn bây giờ mọi chuyện dồn đống thì đem hết chuyện này, chuyện nọ ra nói; làm cho tình hình thêm phức tạp. Không phải phức tạp mà là kẹt lắm! CSVN đang ở vào thế kẹt. Lui không được, tới không xong, chạy ngang lại càng dính chấu. Lỗi tại ai? Không phải trước đây không có người nói, nhưng cái bọn chuyên quyền bóp hầu, bóp họng không cho ai nói; còn cái bọn phi nhân, phi nghĩa lừa cho dân chúng nói để chụp mũ. Cái kẹt này xãy ra từ thời mới khai sơn lập quốc. Kẹt bẩm sinh! Kẹt di truyền! Kẹt di chứng! Kẹt toàn bộ trong hệ thống CS và nhất là ở những quốc gia áp dụng chủ nghĩa giáo điều CS một cách cứng nhắc.

Nhà nước CS là một nhà nước khủng bố, không phải khủng bố kẻ thù hùng mạnh hơn họ, mà là khủng bố đám dân đen cùng quẩn và đau khổ của họ. Khủng bố là vũ khí của những kẻ cực đoan, yếu thế và tuyệt vọng; vì vậy, CSVN đã sử dụng khủng bố như là một phương cách duy nhất để duy trì quyền lực. Dân có tội thì cứ việc đưa ra tòa án xét xử; cớ gì vận động người này người nọ rồi tổ chức kiểm điểm, hăm he, đe dọa ở tổ dân phố. Mỗi ông cán bộ có một luật lệ riêng, cái luật lệ này phụ thuộc vào bản chất, văn hóa và tình cảm của ông ta. Thật chẳng ra thể thống gì cả! Những ai khôn lớn một chút sẽ hiểu được rằng, thủ đọan của CS là làm cho dân chúng phải khiếp sợ bằng các biện pháp như là đấu tố, bắt bớ, tù đày, bắn giết … Sự khiếp sợ đến nổi, trong 80 triệu dân VN chẳng có mấy người dám chống lại nền độc tài CS. Tìm một chân trong guồng máy CS thì quá dễ; tìm cách định cư ở nước ngoài cũng không quá khó; cái khó là dám ở lại đấu tranh để tìm một chút ánh sáng cho nền dân chủ VN. Vì vậy, BS Nguyễn Đan Quế xứng đáng là người đoạt giải Nobel hòa bình ?

Nhìn lại, CSVN đang kẹt cứng ngắc trong cái mê hồn trận mà họ tự giăng ra. Bây giờ, họ lại rơi vào giữa các “làn đạn”; làn đạn từ các tổ chức Việt Kiều ở nước ngoài bắn vào; làn đạn từ chiến sĩ dân chủ trong nước bắn sang; làn đạn ngay trong chính nội bộ của họ bắn lại. Cái kẹt lớn nhất là làn đạn dân chủ, dân sinh của 80 triệu dân Việt Nam đang ngày đêm không ngừng bắn vào cái bọn quan tham cướp bóc, bất tài thối tha, phản nước hại dân, lừa bịp quần thần. Từ đầu năm đến nay, mới hết quý III, mà cục diện trong nước đã thay đổi nhanh chóng. CSVN đã bị “kẹt đạn”, họ không thể bắn trả. CSVN đã rơi vào thế thụ động, phản công yếu ớt, chịu phơi mình hứng đạn. Không lẽ, họ sẽ chết trong thế trận này ? Thật là đáng kiếp!

Saigon ngày 30/92004.


(1). Báo Tuổi trẻ CN, ngày 12/9/2004, trang 4. “Sự suy thoái đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên ở TP.HCM”. Đây là tên đề tài nghiên cứu của Trường cán bộ TP.HCM, làm theo đơn đặt hàng của Thành ủy TP.HCM, với mục tiêu là nhận dạng chính xác về hiện tượng suy thoái đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên; để Thành ủy, UBND TP có định hướng lãnh đạo và chấn chỉnh phù hợp. Nhưng, những sự việc như thế này đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của họ. Vì đây không phải là hiện tượng mà là bản chất của chế độ CS, nó không chỉ xãy ra ở TP.HCM mà trên khắp các địa phương của VN. Từ ngàn xưa đến nay, chưa thấy chế độ nào giải quyết bản chất bằng các biện pháp hành chính mà thành công cả.

----- O -----

Chân Lý là … Sự lầm lẫn.

Thời nay các nhà lãnh đạo
Áo quần, giày mũ chỉnh nghiêm
Hăng hái trồng “cây lưu niệm”
Chỉ cốt chụp ảnh tuyên truyền
Cầm xẻng, và nâng bình tưới
Để rồi treo biển, đề danh.
Cây đa, cây đại tươi tốt
Đồng chí X, Y,…. Đã trồng !

Giống như ngày xưa Tô Hiệu,
Người tù cộng sản Sơn La.
Cũng có tưới cây đào nhỏ
( Cây đào đã mọc từ lâu )
Tuyên truyền Tô Hiệu trồng đó
Niềm tin chân lý chói loà !!

* * *

Nam Bộ bước vào kháng chiến
Kho đạn Thị Nghè nổ tung.
Ông Phan Vũ viết phim truyện
Về “Cây đuốc sống” anh hùng
Mới mười tuổi - Lê Văn Tám.
Hy sinh dũng cảm phi thường !
Chuyện bịa, tuyên truyền là thật
Tưng bừng nhạc, họa, thi, ca,
Tượng đài, công viên, trường học
Truyền lưu sử sách nước nhà !!
Vào thời chống Mỹ cứu nước,
Máy bay giặc Mỹ điên cuồng
Thanh Hoá một ngày bom đạn
Bé Ngọc không may tử vong.
Báo chí dựng lên câu chuyện:
Bé Ngọc dũng cảm, kiên cường
Xông pha trong vùng lửa đạn
Cứu đàn em nhỏ thân thương !

* * *

Nguyễn Bá Ngọc thời chống Mỹ
Lê Văn Tám thời chống Pháp
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Chói ngời trang sử Việt Nam !!!

Chuyện tương tự, quê tôi nhiều vô kể
Chuyện đảng viên cao cấp chưa phải là đảng viên !
Chuyện không phải là lính, mà muốn phong Nguyên soái !
Chuyện có vợ, nhiều nhân tình, có con rơi con vãi
Mà tự cho suốt đời hy sinh tình ái !…

* * *

Không biết tự bao giờ
       dân lành đã sống chung cùng giả dối ?
Những hàng giả, tiền giả, bằng cấp giả,
Cả tiến sỹ giả, giáo sư giả, chính khách giả !
Như nông dân đồng bằng sông Cửu Long
       phải vui vẻ sống chung cùng lũ lụt.
Cứ phớt hết, chẳng rạch ròi phân tích
Đâu là cộng sản, tư bản, quân phiệt, phát xít, mafia
Bởi lòng kiêu ngạo, độc quyền chân lý của ta là bất biến
Để ta luôn bình tĩnh nói:
“Tất cả những gì xấu xa của tao là thuộc về mày
Tất cả những gì tốt đẹp của mày là thuộc về tao”
(*)
Rồi vui vẻ hát ca:
“Mất mùa là bởi thiên tai,
Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta”
(**)
Ở Việt Nam quê hương tôi
Hình như chân lý là sự lầm lẫn
Đang tồn tại quá nhiều điều giả thật:
Tự Do giả, Dân Chủ giả!
Chủ nghĩa giả, Quốc hiệu giả !
Chỉ có cái nghèo, cái dốt
Cái tụt hậu, cái THAM NHŨNG
Là sự thật mà thôi !

Hải Phòng, ngày 1 tháng 10 năm 2004.
Hữu Phong.


Chú thích:
(*): thơ Việt Phương.
(**): Ca dao.

Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam