Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
Điện Thư - Số 35
Tháng 12 năm 2004
Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com
Tin Ghi Nhận:
• Một nguồn tin từ nội bộ cho biết, gần đây, Bộ công an đã thành lập một "tiểu ban đàn áp". Tiểu ban này do ông Nguyễn Khánh Toàn, đương kim Thứ trưởng Bộ công an cầm đầu.Tuy nhiên, nguồn tin không cho biết rõ chức năng và những quy định cụ thể liên quan đến tiểu ban này.
• Ngày 13/12/2004, hàng trăm người dân xã Kim Nỗ huyện Đông Anh, Hà Nội đã dùng nhiều loại vũ khí tự tạo tấn công các nhân viên an ninh, và người của Công ty liên doanh Noble. Có gần 30 người bị thương trong vụ ẩu đả này. Xin được nhắc lại rằng, trước đây, xã Kim Nỗ đã từng được nhà nước phong tặng danh hiệu "Xã Anh Hùng". Được biết, ngày 14/12/2004 cũng có một cuộc biểu tình ôn hoà về vấn đề đất đai diễn ra ngay cổng trụ sở Quận Thanh Xuân, Hà Nội. Vụ biểu tình này có hàng chục người tham gia, nhân Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh về làm việc tại Quận Thanh Xuân. Một số người đã bị đưa lên xe ô tô chở đi.
----- O -----
Little Saigon Radio phỏng vấn Phương Nam
Những Tiếng Nói Dân Chủ Tại Việt Nam
“Tự do không thể van xin mà được. Tự do phải giành lấy mới có!”
(nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 1900 –1944)
LTS: Hai giờ chiều ngày thứ Ba, 14 tháng 12 năm 2004 vừa qua, một thân hữu của Little Saigon Radio hiện sống ở Sài Gòn báo tin cho biết, kỹ sư Đỗ Nam Hải có thể sẽ bị công an bắt giữ vì những bài viết cuả ông lên tiếng đấu tranh cho tự do, dân chủ ở Việt Nam. Little Saigon Radio lập tức tìm cách liên lạc và đã phỏng vấn được kỹ sư Đỗ Nam Hải. Nguyên văn bài phỏng vấn sau đây do Đinh Quang Anh Thái thực hiện và đã được phát thanh trên làn sóng của đài ngay buổi chiều cùng ngày.
- Little Saigon Radio: Trước hết, ông Hải có thể cho biết vài dòng về mình.
- Kỹ sư Đỗ Nam Hải: Tôi sinh ra ở Hà Nội năm 1959 rồi vào Sài Gòn sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi ấy tôi là cậu học sinh 16 tuổi. Tôi tiếp tục học những năm cuối phổ thông ở Sài Gòn, rồi học đại học, ra đi làm và học lên cao học. Năm 1994, tôi sang Úc sinh sống cùng gia đình và trở về nước năm 2002. Hiện nay tôi làm việc trong ngành ngân hàng. Trong thời gian từ tháng 6/2000 đến tháng 8/2001, với bút hiệu Phương Nam, tôi có viết 5 bài tiểu luận là: Việt Nam đất nước tôi, Việt Nam và sự đổi mới, Suy nghĩ về nhận thức lại, Viết về chủ tịch Hồ Chí Minh và Viết tiếp về nhận thức lại. Mới đây, ngày 10 tháng 12 năm 2004, tôi có viết một lá Thư ngỏ gửi Quốc hội, Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và các cơ quan truyền thông trong – ngoài nước. Đồng thời, nhắc lại ý kiến đề nghị của tôi về tổ chức một cuộc Trưng cầu dân ý ở Việt Nam.
(đang được đăng trên 1 số trang web như: Đàn Chim Việt & Mạng Ý Kiến online. Click: www.danchimviet.com & www.ykien.net - Mục Tác giả.)
- Little Saigon Radio: Trong bài Việt Nam đất nước tôi, ông có nêu lên ý kiến đề nghị tổ chức một cuộc Trưng cầu dân ý, nhằm mở đường cho dân tộc thoát khỏi tình trạng tụt hậu và không có dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Ông có thể nói thêm chi tiết về nội dung bài viết này, cũng như động cơ khiến ông can đảm lên tiếng trong bối cảnh đất nước chúng ta vẫn bị cai trị độc đoán bởi chế độ đương quyền.
- Kỹ sư Đỗ Nam Hải: Tôi viết xong bài Việt Nam đất nước tôi vào tháng 6 năm 2000; bài này tôi viết trong 6 tháng. Động cơ duy nhất để tôi viết bài này, cùng những bài sau đó và bức Thư ngỏ nói trên là lòng yêu nước.
Những nội dung chính của nó là: trình bày Cơ sở hình thành và tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ 20 vừa qua; Hoàn cảnh mà chủ tịch Hồ Chí minh đã chọn đường đi cho dân tộc Việt Nam, Thực trạng của xã hội Việt Nam hôm nay, Vấn đề đoàn kết dân tộc,… Trong phần 4, tôi có nêu lên ý kiến đề nghị rằng Việt Nam cần tổ chức một cuộc Trưng cầu dân ý, để nhân dân Việt Nam có cơ hội trả lời một câu hỏi rất quan trọng cho sinh mạng của đất nước. Đó là:
Việt Nam nên hay không nên theo chế độ đa đảng ?
Nếu ai đồng ý thì ghi Có. Ai không đồng ý thì ghi Không.
Tôi nghĩ rằng, đây là cách làm dân chủ mang tầm vóc toàn dân tộc, để mở đường cho việc giải quyết tận gốc Vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân đã gây nên biết bao nỗi tai ương đau đớn và sự tụt hậu đến nhục nhã cho đất nước ta hôm qua và hôm nay. Đó là thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, được luật hóa tại Điều 4 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam hiện hành. Dỹ nhiên, tôi không hề ngây thơ mà tin rằng: những người đang nắm thực quyền trong ĐCS Việt Nam sẽ dễ dàng chấp nhận đề nghị này. Thậm chí, như mọi người đã biết, thay vì để cho các cơ quan chuyên môn đối thoại, thì họ lại dùng công an “đối thoại” với tôi! Nhưng tôi tin tưởng một cách chắc chắn rằng: một khi mà áp lực của toàn dân tộc và thời đại đủ mạnh thì dù có muốn hay không, những người bảo thủ trong ĐCS Việt Nam cũng phải Nhận thức lại.
- Little Saigon Radio: Theo nhận định của ông, thì vấn nạn nào được xem là nghiêm trọng nhất đang cản đường tiến lên của dân tộc chúng ta ?
- Kỹ sư Đỗ Nam Hải: Vấn nạn nghiêm trọng nhất là thể chế chính trị hiện nay. Cụ thể là thể chế chính trị đó chỉ có duy nhất một đảng lãnh đạo đất nước, chẳng những cho một giai đoạn mà là cho mãi mãi về sau. Ở đó, nó không chấp nhận sự cạnh tranh, và điều này giống hệt như trong kinh tế không có sự cạnh tranh vậy. Ví dụ, trong một quốc gia mà chỉ có một Công ty bưu điện thì dẫu cho ban đầu, khi mới thành lập, nó có thể bao gồm toàn những con người tốt, nhưng sớm muộn gì nó cũng đi đến tình trạng thoái hóa và biến chất. Vì vậy, nếu có 2 Công ty bưu điện thì mới có sự cạnh tranh và nếu có 4 thì sẽ tốt hơn 2,… Kết quả của sự cạnh tranh đó là những khách hàng bưu điện sẽ được hưởng lợi.
Trong sinh hoạt chính trị cũng vậy, nếu trên chính trường có sự đa đảng thì đảng đang nắm quyền mới có đối trọng chính trị. Chính sự lo ngại do nguy cơ bị mất quyền lãnh đạo vào tay các đảng đối lập khác thì dù muốn hay không, họ cũng buộc phải trở nên tử tế, nếu họ muốn tiếp tục nắm quyền. Kết quả là các cử tri – Những người đóng thuế – sẽ được hưởng lợi. Nhân dân sẽ chọn được những con người tốt nhất, những lực lượng chính trị tốt nhất để lãnh đạo đất nước, trong một giai đoạn nhất định nào đó. Xã hội vì vậy mà cứ tự điều chỉnh và phát triển đi lên. Đảng cộng sản Việt Nam muốn xốc lại đội ngũ đã xộc xệch của mình, thì điều quan trọng cần làm là phải chấp nhận mở đường cho sự cạnh tranh trên chính trường. Nếu cứ cố tình duy trì mãi sự độc đảng như hiện nay thì chỉ làm cản đường tiến lên của dân tộc mà thôi. Và Điều đó cũng là tội ác: tội câu giờ làm suy yếu khả năng hòa nhập vào thế giới hiện đại; làm tụt hậu dân tộc!
- Little Saigon Radio: Ông vừa nói rằng ĐCS Việt Nam muốn xốc lại cái đội ngũ đã xộc xệch của mình thì phải chấp nhận sự cạnh tranh chính trị. Nhưng làm cách nào được khi mà cơ chế của đảng cộng sản chỉ sản sinh ra những con người đã quen lối suy nghĩ sơ cứng, một chiều ? Nhà thơ Nguyễn Duy hiện ở quê nhà từng ví von: “Đổi mới thật hay giả vờ đổi mới ? Máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng ?” Việt Nam là một cơ thể mà máu đã bị nhiễm trùng và một khi đã là như vậy thì liệu có thay được hay không ?
- Kỹ sư Đỗ Nam Hải: Đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết trong bài Nhìn từ xa Tổ quốc: máu trên cơ thể đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta là đang bị nhiễm trùng. Trong tình hình đó, một thể chế chính trị đa đảng, trong một xã hội chấp nhận sự đa nguyên (dỹ nhiên là trừ “hệ tư tưởng” của mấy anh khủng bố, bạo loạn!) sẽ tạo ra cơ hội và khả năng tốt để “thay máu” cho đất nước. Một nguồn sinh khí mới, với những lực lượng chính trị mới, có tư duy mới nhất định sẽ thay thế được lối tư duy chính trị cũ của nhiều người mắc bệnh sơ cứng não trạng trong ĐCS Việt Nam hiện nay. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng: hơn 2 triệu đảng viên và gia đình họ (trong đó có cả gia đình tôi) sẽ vẫn ở lại cùng dân tộc, để xây dựng một đất nước Việt Nam mới. Chỉ có cái chế độ nhất nguyên, độc đảng kia là phải ra đi mà thôi.
Cũng cần làm rõ quan điểm sau: Hễ một quốc gia có sự đa đảng thì không có nghĩa là mọi việc đều ổn thỏa hết. Nghĩa là nó không phải là chiếc chìa khóa vạn năng để có thể giải quyết được mọi khó khăn, bế tắc của xã hội. Nhưng nó là điều kiện cần, mà nếu thiếu nó thì mọi thành công nhất thời trong các mặt kinh tế, xã hội nếu có, cũng đều sẽ bị “cái món” nhất nguyên, độc đảng kia nuốt trọn. Sự đổi mới về kinh tế phải tiến hành đồng thời với sự đổi mới chính trị. (mà phải là sự đổi mới thực sự, chứ không phải lâu lâu lại “thò” ra một “mẩu vụn dân chủ” nào đó, rồi quảng cáo ầm lên rằng: “đất nước ta đã có dân chủ!”).
Cuộc Trưng cầu dân ý nêu trên sẽ là bước khởi đầu quan trọng giúp “thay máu” cho đất nước. Việc tạo ra những áp lực không ngừng lên các thế lực bảo thủ trong ĐCS Việt Nam hiện nay, qua việc kết hợp sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh của thời đại, chính là quá trình chuẩn bị cho sự biến đổi về chất, khi mà những áp lực về lượng kia đủ mạnh. Một tình thế của cuộc cách mạng dân chủ sẽ xuất hiện, khi mà nhân dân không còn chịu sự cai trị như trước và ĐCS Việt Nam cũng không thể cai trị nhân dân như trước được nữa. Tình thế ấy nhất định sẽ đến trong một tương lai không xa và toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm cả đồng bào ta ở cả trong và ngoài nước sẽ nhạy bén nắm lấy thời cơ, dũng cảm tiến lên giành lấy tự do, dân chủ về cho dân tộc!
- Little Saigon Radio: Tin tức mà chúng tôi có được cho biết, ông đã gặp nhiều khó khăn với công an, điều đó có đúng không ạ ?
- Kỹ sư Đỗ Nam Hải: Đúng là như vậy. Nhiều việc xảy ra với tôi, tôi đã viết trong bức Thư ngỏ đề ngày 10 tháng 12 năm 2004 gửi Quốc hội, Chính phủ và Đảng cộng sản Việt Nam, … Đó là những khó khăn tôi bắt đầu gặp phải từ ngày mùng 6 tháng 8 năm 2004 cho đến nay. Hiện nay tôi vẫn đang bình thản chờ đợi những động thái mới từ Cơ quan an ninh – Bộ công an Việt Nam, sau khi tôi gửi bức Thư ngỏ kia đi.
Trong bức Thư ngỏ nói trên, tôi có trích lời nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, rằng: Tự do không thể van xin mà được. Tự do phải giành lấy mới có! Ông Nguyễn An Ninh nói câu đó vào thế kỷ trước, nhưng tới nay nó vẫn còn nguyên giá trị. Điều khác biệt là thời của ông, việc giành lại tự do là từ tay giặc ngoại xâm. Còn hôm nay, cả dân tộc cũng đang phải quyết giành lại nền tự do, nhưng là từ tay giặc nội xâm. Có biết bao người đã phải trả giá cho công cuộc ấy. Chúng ta có thể kể tên một số người điển hình như: hoà thượng Thích Quảng Độ, linh mục Chân Tín, tướng Trần Độ, các ông Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, nhà văn nữ Dương Thu Hương và những người trẻ như: Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn, … cùng rất nhiều người khác hiện đã xuất hiện công khai hoặc đang âm thầm đấu tranh. Họ là những người con ưu tú của dân tộc. Nhân dân Việt Nam rồi sẽ đời đời biết ơn họ.
- Little Saigon Radio: Ông sinh năm 1959 tại Hà Nội, vào Nam năm 1975, rồi sau đó đi du học ở nước ngoài. Điều đó có nghĩa là, ông thuộc thành phần được chế độ ưu đãi. Vậy, động cơ nào khiến ông đấu tranh cho tự do, dân chủ ?
- Kỹ sư Đỗ Nam Hải: Không, tôi không phải là sinh viên du học. Tôi học đại học và học lên cao học (khóa 1992 – 1994) đều ở Việt Nam. Năm 1994, do sang Úc sinh sống cùng gia đình, nên tôi chưa kịp làm tiếp bản luận văn tốt nghiệp. Vì vậy, về mặt lý thuyết thì tôi đã hoàn thành chương trình cao học, nhưng về mặt bằng cấp thì tôi chưa có bằng thạc sỹ kinh tế. Xét về mặt nào đó thì đúng là tôi cũng được chế độ ở Việt Nam ưu đãi hơn nhiều người khác. Cha, mẹ tôi đều là đảng viên cộng sản từ thời chống Pháp và là cán bộ miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954. Tôi sinh ra, lớn lên ở Hà Nội và hưởng toàn bộ nền giáo dục dưới mái trường Xã hội Chủ Nghĩa. Thế nhưng, nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình thì tôi đã không “dại gì” mà lên tiếng như trong mấy năm qua. Tất cả việc làm của tôi xuất phát từ ước muốn cháy bỏng là dân tộc Việt Nam phải được hưởng một nền tự do, dân chủ đích thực, như bao dân tộc khác trên thế giới ngày nay. Những ngày sắp tới, có thể sẽ là giai đọan rất khó khăn với tôi, nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận điều đó. Sự hy sinh dù là đắt của từng cá nhân cho nền tự do, dân chủ là hết sức cần thiết để cho cả dân tộc trường sinh!
- Little Saigon Radio: Ông có điều gì muốn nói thêm với thính giả nghe đài, nhất là những người trẻ hải ngoại ?
- Kỹ sư Đỗ Nam Hải: Tôi mong rằng đồng bào mình, nhất là những bạn trẻ đang sống ở hải ngoại hãy cố gắng về nước càng nhiều càng tốt. Thứ nhất, đó là động cơ về nguồn, về thăm lại quê hương, đất nước và gia đình. Thứ hai, mỗi người về hãy mang theo một thông điệp dân chủ, thông điệp về tính ưu việt của thể chế dân chủ, đa nguyên, đa đảng mà mọi người đang được hưởng tại các nước phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Úc,… để đồng bào mình trong nước biết được. Tôi nghĩ rằng, mỗi người đóng góp một chút, vượt lên trên cái sợ một chút thì chắc chắn cái Ngày hội non sông kia chắc chắn sẽ ngày càng đến sớm. Và đó mới thực sự là ngày Đất nước trọn niềm vui!
- Little Saigon Radio: rất cám ơn ông Đỗ Nam Hải đã trả lời cuộc phỏng vấn này.
----- O -----
Đề cao trách nhiệm chỉnh đốn Đảng theo di chúc Bác Hồ
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX Cần xử lý ngay
những vụ án chính trị nghiêm trọng được dung túng
đang gây mất ổn định nội bộ đe doạ băng hoại đảng ta
Kính trình Hội nghị lần thứ 11
Toàn Ban Chấp hành TƯ khóa 9
Mỗi ủy viên Ban chấp hành Trung ương đều có quyền và có trách nhiệm tìm hiểu cặn kẽ về những vụ việc nổi cộm trong Đảng và trong xã hội.
Mỗi Đảng viên đều có quyền được thông tin, và thảo luận các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Được báo cáo trung thực và đề đạt ý kiến trong phạm vi tổ chức, đến cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng.
Trên tinh thần đó, tôi, một chiến sĩ cứu quốc và vệ quốc gần 60 năm tuổi Đảng. Kính trình tới toàn Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 9 bản giác thư Bảo vệ Đảng này với chủ đề đã nêu ở đầu trang. Nội dung gồm 3 phần:I. Những vụ án nào ? Ai bao che dung túng ?
II. Đóng góp vào việc phân tích giải mã các vụ án.
III. Kiến nghị về giải pháp xử lý vụ ánĐây là một vụ án chính trị đã đến độ nóng bỏng đang gây mất ổn định trong Đảng ta. Mong các đồng chí Uỷ viên Trung ương quan tâm, đọc giác thư này và dành thời giờ thảo luận tại Hội nghị lần thứ 11 toàn Ban Chấp hành Trung ương để xử lý, dứt điểm vụ án, tạo bầu không khí trong lành bước vào Đại hội X.
Toàn Đảng trông đợi ở các đồng chí.Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2004
Lương Đống
Đảng viên - Lão thành cách mạng - Cựu chiến binh
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
thuộc phường Trần Hưng Đạo - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Vấn đề này đã được nêu rất rõ trong thư của đồng chí Võ Nguyên Giáp gửi tới toàn Ban chấp hành Trung ương khóa 9 đề ngày 3-1-2004. Không biết các đồng chí ủy viên Trung ương có được đọc lá thư ấy không ? Hay vì thư dài, góp ý với hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ 7 vấn đề lớn nên các đồng chí không nhớ hết ? Trong vấn đề thứ 7 nói về bảo vệ chính trị nội bộ, có những đoạn sau, xin trích nguyên văn:
“Đề nghị hội nghị Trung ương lần này kiểm điểm nghiêm khắc vì sao tình trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức và kỷ luật Đảng kéo dài ở cấp Trung ương mà Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã thấy rõ và đã có nghị quyết khẳng định phải giải quyết nhưng cho đến nay vẫn để tồn tại không giải quyết ?
Điển hình nghiêm trọng là vụ Tổng Cục 2 thuộc Bộ Quốc phòng...
Tôi đề nghị Ban Chấp hành TƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra TƯ kiên quyết kiểm tra và xử lý nghiêm minh, dứt điểm. Không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu Đảng, siêu Chính phủ...
Vấn đề chấn chỉnh Tổng Cục 2 không phải là vấn đề riêng của Bộ Quốc phòng mà liên quan đến tình hình chung của toàn Đảng... liên quan đến việc giải quyết những vấn đề tồn tại trong Đảng từ trước tới nay.
Đặc biệt nghiêm trọng là vụ Sáu Sứ diễn ra cuối khóa 6 trước thềm Đại hội 7 mà Hội nghị Trung ương 12 và 13 khóa 6 đã bàn giao cho Trung ương khóa 7 giải quyết.
Nghiêm trọng hơn nữa là vụ T4 mà Bộ Chính trị khóa 8 đã bàn giao lại cho Bộ Chính trị khóa 9 - Bộ Chính trị khóa 9 đã chỉ đạo Ban Kiểm tra liên ngành tiến hành điều tra và Bộ Chính trị đã kết luận: T4 là một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng, vi phạm kỷ luật của quân đội.
Vì lá thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không có hồi âm, và hình như hầu hết các đồng chí Uỷ viên Trung ương không được biết nội dung nên 6 tháng sau, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Uỷ viên Trung ương các khóa 5, 6, 7 đã gửi một lá thư dài tới Hội nghị Trung ương 10 đề ngày 17-6-2004. Trong thư này đồng chí Nam Khánh đã nêu khá chi tiết những vụ việc tệ hại do Tổng Cục 2 và tiền thân của nó gây ra: - Đó là vụ Xiêm Riệp năm 1983, Vụ Sáu Sứ năm 1991 và vụ T4 hoạt động kéo dài suốt từ khóa 7, khóa 8 cho tới nay.
Để hiểu rõ, đề nghị các đồng chí Uỷ viên Trung ương đòi Ban Bí thư Trung ương phô tô 2 bức thư của đồng chí Nam Khánh và bức thư của đồng chí Võ Nguyên Giáp thành nhiều bản để từng đồng chí TƯ có thể tự đọc và bình xét. ở đây tôi không dám trích dẫn dài dòng mà chỉ xin giới thiệu tóm tắt và giải trình vài điểm:
1. Vụ Xiêm Riệp: Cục Quân báo hồi ấy còn gọi là Cục 2; trực thuộc Bộ Tổng tham mưu - Bộ phận ra mặt trận phục vụ đoàn quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia đã không làm tròn nhiệm vụ của mình ngoài tiền phương, không nắm bắt được tình hình tàn quân Pôn Pốt lui về lập căn cứ tại vùng Núi Voi (DangRek) chiếm vùng mỏ đá quý giáp biên giới Thái Lan làm nguồn sống lâu dài. Nhưng để lập công, lại báo cáo với Tư lệnh Mặt trận nhiều tin tức về tình hình chính trị trong nội bộ lực lượng cách mạng của bạn do các ông Hêng Xom Ring, và Penxôvan cầm đầu. Nhiều thông tin không chính xác do suy diễn hoặc do ép cung, mớm cung tù binh. Dựa vào những tin tức ấy, Tư lệnh bộ đội tình nguyện kiêm trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia là Thượng tướng Lê Đức Anh đã cùng với đồng chí Lê Đức Thọ (Uỷ viên Bộ Chính trị - Trưởng Ban Tổ chức TƯ dạo ấy được phân công phụ trách vấn đề Campuchia) đã đưa ra những quyết định chính trị rất sai lầm, dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng cho lực lượng cách mạng của bạn năm 1983).
Cụ thể vụ việc này không tiện viết lên giấy, đề nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa 9 mời đồng chí Lê Khả Phiêu đến báo cáo vì hồi ấy đồng chí Lê Khả Phiêu là trưởng phòng Chính trị Mặt trận dưới trướng đồng chí Lê Đức Anh, biết rõ.
2. Vụ Sáu Sứ: Xảy ra năm 1991, cuối khóa 6, chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7. Hồi ấy đồng chí Lê Đức Anh còn là Bộ trưởng Quốc phòng từng được cố vấn Lê Đức Thọ dự kiến đưa lên ghế Chủ tịch nước. Nhưng tự thấy mình công lao ít, uy tín chưa cao, Lê Đức Anh lo sợ... bèn dùng lực lượng quân báo nắm trong tay (Cục 2) dàn dựng lên tấn trò. Quân báo đã mua chuộc một phụ nữ tên là Sáu Sứ và một nam giới tên là Năm Châu, hai người này từng là cán bộ hoặc du kích ở miền Nam, ít ai biết tên tuổi. Họ được đưa ra miền Bắc, huấn luyện cấp tốc, cấp kinh phí ăn, ở, cấp tiền tàu xe đi lại, được trang bị mỗi người một máy ghi âm rất nhỏ của tình báo. Và cả hai được chỉ dẫn đến nhà một số cán bộ lão thành, một số sỹ quan cao cấp gợi ý các cán bộ này về việc đưa đồng chí Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước và đồng chí Trần Văn Trà làm Bộ trưởng Quốc phòng, hạ bệ đồng chí Lê Đức Anh v.v.. Trò chuyện và ghi âm tất cả 16 cuốn băng.
Những cuốn băng này đã được nộp lên Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đã tổ chức cho các đồng chí TƯ khóa 6 nghe. Đồng chí Nguyễn Nam Khánh cũng đã được nghe và đ/c kể lại trong thư: “Tôi nghe phần nhiều là lời Sáu Sứ và nhiều đoạn ồm ồm không nghe rõ. Vụ này, Cục 2 đã ngụy tạo tài liệu, dựng chứng cứ giả, nặn thêm tình tiết làm cho dư luận ngộ nhận là có thật, đánh lừa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành TƯ, thực chất là vu khống đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trần Văn Trà để thanh trừng nội bộ, hãm hại đồng chí”.
Thực tế về Võ đại tướng thế nào ? Thư đồng chí Nam Khánh không nêu, nhưng là những cán bộ ngoài cuộc chúng tôi biết rõ: Từ đầu khóa 5, đồng chí Võ Nguyên Giáp bước vào tuổi 70, đã chuyển giao chức Bộ trưởng Quốc phòng cho đồng chí Văn Tiến Dũng, bản thân đồng chí còn tham gia Ban Chấp hành TƯ nhưng không còn ở Bộ Chính trị nữa. Chuẩn bị kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ thì đồng chí Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức TƯ đã nảy ra sáng kiến đề nghị anh Giáp đứng làm Bộ trưởng sinh đẻ có kế hoạch. Anh Giáp hiểu dụng ý sự phân công này, nhưng với tổ chức tính cao, anh nói: “Đảng đã phân công thì tôi chấp hành. Việc có ích cho dân cho nước thì tôi làm”. Và anh đã làm việc này một cách nghiêm túc. Nhưng anh buồn, hàng ngày phải dùng phương pháp thiền, tĩnh tâm vô thức, để xua đi nỗi bực dọc, quên đi mọi trò đời đố kỵ nhỏ nhen. Cử chỉ cao đẹp ấy chứng tỏ anh là người rất có bản lĩnh làm cho nhiều người thêm kính phục, thêm yêu quý anh. Nếu có ai đó muốn bầu anh làm Chủ tịch nước thì chỉ là do lòng kính yêu của người đó thôi. Còn bản thân anh từ đầu khóa 6 đã 75 tuổi, không tham gia Ban Chấp hành TƯ nữa và đã nghỉ việc hoàn toàn. Cuối khóa 6, chuẩn bị Đại hội 7 anh đã bước vào tuổi 80, gánh vác đã ngại còn thiết gì đến chức quyền nữa đâu!
Nhưng như đồng chí Nam Khánh đã kết luận: Trò ngụy tạo của Cục 2 đã làm cho nhiều đồng chí trung thực như Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Đức Tâm, Mai Chí Thọ... và nhiều đồng chí TƯ khác cũng bị đánh lừa. Thực chất đây là trò vu khống để hãm hại đồng chí, gây chia rẽ nội bộ dẫn đến sự phân tâm trong Đảng, trong cán bộ quân đội, ảnh hưởng xấu cho tới ngày nay.
3. Vụ T4: Suốt từ năm 1996 đến nay, Tổng Cục 2 thường xuyên gửi những bản Tin Riêng đến các đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bộ trưởng Quốc phòng và vài đồng chí khác - Tập trung đưa tin về nội bộ ta về Uỷ viên TƯ này, về cán bộ cấp cao kia hoặc nhóm chống đối này, nhóm chính trị khác. Nguồn gốc các tin ấy được ghi rõ là: Từ trung tâm CIA cho hay..., “Theo tin của T4”..., CIA có nguồn tin từ Quốc nội cho biết, v.v... (T4 được giải thích là bí danh điệp viên của Tổng Cục 2 cài vào tổ chức CIA để thu thập tin từ phía địch).
Thư đồng chí Nam Khánh đã dẫn chứng rất cụ thể hàng chục đoạn tin. Đại để:
- Về đồng chí Võ Nguyên Giáp: Ngày 12-7-1997 tại một địa điểm phía Bắc đại diện CIA đã phổ biến chủ trương của Mỹ và Pháp lôi kéo ông Võ Nguyên Giáp...
- Hiện nay theo yêu cầu của CIA thì ông Giáp vẫn đang ngấm ngầm hoạt động...
Đ/c Phạm Văn Đồng: Sáng 5-9-1997 đã mời một số Uỷ viên Bộ Chính trị khóa 4 và 5 họp yêu cầu các đồng chí này vận động thay đổi các đồng chí chủ chốt hiện nay... (Tin 10-9-1997).
Đ/c PhanVăn Khải: Thời kỳ còn làm Chủ tịch Thành phố HCM đã móc nối với tên CIA, Nguyễn Ngọc Huy, Bí thư Đảng Tân Việt đánh về miền Nam năm 1978. Tên này đã dùng chuyên cơ đưa Phan Văn Khải đi tham quan các nước Đông Nam Á... (Tin 10-5-1999).
Đ/c Phan Diễn: Có quan hệ phức tạp với một số người Hoa trong nhóm tình báo Trung Quốc... (Tin 17-12-1999).
Đ/c Nông Đức Mạnh: Kết nghĩa với Tăng Minh Phụng nên khi y bị bắt đ/c Nông Đức Mạnh không đồng tình... (Tin 17-12-1997).
Đ/c Mai Chí Thọ: Tổng lãnh sự Mỹ ở thành phố HCM đến nhà riêng gặp anh Năm Xuân... (Tin 5-10-1999).
Đ/c Vũ Quốc Hùng: CIA đã cho người móc nối với Vũ Quốc Hùng... (Tin 17-12-1997).
Đ/c Võ Thị Thắng: T4 tiết lộ Võ Thị Thắng trước đây đã được Phủ đặc ủy [tình báo] tháo răng hàm trên thay răng giả gắn sẵn liều thuốc độc cực mạnh để giúp điệp viên tự sát khi cần... (Bản tin 21-3-1999).
Đ/c Võ Viết Thanh: Đã móc nối xin tỵ nạn chính trị trong Sứ quán Mỹ hoặc ra nước ngoài... (Tin 7-2-1999).
- Nhiều đồng chí khác: Các chuyên gia CIA nhận định một cuộc đảo chính có thể xảy ra vào tháng 7 hoặc tháng 8 năm 1999 ở Việt Nam...
... Đã có sự liên kết giữa Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Khánh Toàn, Đoàn Mạnh Giao, Lê Văn Dũng, Phạm Trung Kiên, Nguyễn Văn Rốp. Việc đảo chính của phe nhóm này sẽ tập trung vào kỳ họp thứ hai của Quốc hội (khóa X)... (Tin ngày 21-3-1999).
Cho tới vụ án khủng bố đồng chí Võ Thị Thắng đầu hè 1999, ta đã kịp thời ngăn chặn được. Công an đã bắt 4 tên:
Khám xét chỗ ở và nơi làm việc của các bị can thu giữ được nhiều tài liệu có nội dung đề cập đến hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta. Công an đã khởi tố vụ án hình sự. Bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho biết:
Kết quả điều tra cho thấy:Từ đầu năm 1997 đến tháng 5/1999 Đỗ Ngọc Chấp và Nguyễn Quang Vinh đã thu thập và báo cáo lên lãnh đạo Tổng cục 2 Bộ Quốc Phòng đã rất nhiều bản tin có nội dung xuyên tạc, bịa đặt cho một số cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước có quan hệ với CIA, đang làm việc cho CIA,... đang tập hợp lực lượng chuẩn bị đảo chính, chiếm quyền, v.v.. Các bản tin này được phản ánh dưới dạng do cộng tác viên mang bí số T4 định cư tại Mỹ báo cáo về nước.
Theo lời khai của Vinh và Chấp thì T4 tên thực là Hoàng Đình Cẩn, là cơ sở do Vinh (sinh năm 1965) trực tiếp xây dựng (ở Mỹ ?) và sử dụng. Nhưng Tổng cục 2- Bộ Quốc Phòng thì xác định những lời khai trên là bịa đặt. Lãnh đạo Tổng cục 2 không cho phép, không phê duyệt cho Nguyễn Quang Vinh và Đỗ Ngọc Chấp xây dựng và sử dụng người nào có tên là Hoàng Đình Cẩn với bí số T4.
Vậy T4 chỉ là một “điệp viên ma”, không có thực
Xét xử vụ án T4 không phải là xét xử ma, mà là xét xử người đẻ ra con ma đó và đã sử dụng con ma đó để gây rối nội bộ Đảng. Thực tế không phải là một con người cũng không phải hai tên Vinh, Chấp mà là một tổ chức trong quân đội: Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng, cơ quan đã nhiều năm đưa hàng trăm bản tin của T4 đến các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta.
Tổng cục 2 là một tổ chức quân sự được hình thành vượt quy chế tổ chức của QĐNDVN, vượt cả quy chế tổ chức Nhà nước CHXHCNVN. Hoạt động của nó đã vượt qua chức trách của BQuốc Phòng. Thủ đoạn hoạt động là thủ đoạn ma, có tính lừa dối, sản phẩm của nó là những Bản Tin đều mang nội dung lừa dối Đảng, có mục đích phá hoại chính trị nội bộ.
Chính vì vậy, trong thư ngày 3-1-2004, Võ đại tướng đã chỉ rõ: T4 là vụ án chính trị siêu nghiêm trọng vi phạm kỷ luật của quân đội.
Bộ Chính trị bao che dung túng hay mơ hồ mất cảnh giác ?
Ngày 8-7-2004 đồng chí Phan Diễn đã mời đồng chí Nguyễn Nam Khánh đến văn phòng Ban Bí thư ở Nguyễn Cảnh Chân và thông báo những ý kiến sau:
“Tôi (đồng chí Phan Diễn) và đồng chí Tổng Bí thư đã nhận được văn bản của đồng chí về vụ T4. Tôi đồng ý một số nội dung trong văn bản của đồng chí.
Vụ T4 là vụ án nghiêm trọng, Bộ Chính trị đã tổ chức Ban kiểm tra liên ngành để xem xét. Theo Ban kiểm tra liên ngành đề nghị, Bộ Chính trị đã xác định đây là vụ án chính trị nghiêm trọng. Bộ Chính trị đã giao cho cơ quan pháp luật truy tố, đưa ra xét xử 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Hiền và đã giao cho Đảng ủy quân sự TƯ xem xét các đồng chí chỉ huy Tổng Cục 2.
Tôi đồng ý với đồng chí Nam Khánh là trong Pháp lệnh về Tình báo và Nghị định 96CP về Tình báo quân sự có nhiều nội dung sai phạm. Bộ Chính trị đã giao Thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh Tình báo và giao cho Văn phòng Chính phủ xem xét lại Nghị định 96CP. Đồng thời đã chỉ thị cho BQuốc Phòng quy định cho Tổng cục 2 không được theo dõi nội bộ (nữa) ...
Việc này (chấn chỉnh Tổng cục 2 từ tổ chức đến nguyên tắc hoạt động) phải mất một thời gian
T4 là một vụ án nghiêm trọng nhưng Bộ Chính trị phải chọn những vấn đề gì trực tiếp ảnh hưởng đến nội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội mới làm, rồi báo cáo cho Bộ Chính trị chứ không báo cáo cho TƯ. Có việc không nói cụ thể cho TƯ và không thảo luận.
Trong vụ T4 có ý kiến anh Giáp, anh Mân, Anh và một số đồng chí nữa, nhưng Bộ Chính trị không báo cáo ý kiến của các anh với Ban Chấp hành TƯ. Ngay cả ý kiến anh Phiêu cũng không báo cáo với Ban Chấp hành TƯ. Ý kiến đề nghị có rất nhiều ý khác nhau, nếu đã đưa ra là đưa hết thì Ban Chấp hành TƯ khó xem xét và không thể kết luận được, nội bộ phức tạp thêm.
Rõ ràng những câu trả lời của đồng chí Phan Diễn là chưa thỏa đáng. Coi việc đưa 4 tên vào tù là đủ, tức là chưa thấy thực chất vụ án là vấn đề tổ chức, là sự hình thành Tổng cục 2 - Bộ Quốc Phòng. Vì chưa thấy hết tầm nghiêm trọng của vụ án nên chủ trương không báo cáo Ban Chấp hành TƯ.
Trái với ý kiến đồng chí Phan Diễn, chúng tôi đông đảo cán bộ Đảng viên lâu năm đều cho rằng vụ T4, tức là vụ án Tổng cục 2 - Bộ Quốc Phòng... đây là tổ chức phi pháp được bao che, dung túng nên vụ án rất nghiêm trọng. Nó đã trở thành khối u trong cơ thể Đảng và tổ chức chính quyền, nên Ban Chấp hành TƯ có trách nhiệm phải xem xét, xử lý. Ban Chấp hành TƯ có quyền đòi hỏi Ban Bí thư và Bộ Chính trị phải báo cáo lại toàn bộ. Bộ Chính trị chỉ là bộ phận thường trực, không phải là cấp trên của Ban Chấp hành TƯ. Giữa 2 nhiệm kỳ Đại hội thì Ban Chấp hành TƯ là tổ chức cao nhất. Đảng viên chúng tôi thấy vấn đề quan trọng mà Bộ Chính trị chậm giải quyết thì có quyền khiếu nại đến hội nghị toàn Ban chấp hành TƯ.
Và chúng tôi đề nghị với Ban Chấp hành TƯ:
Nếu Hội nghị 10 Trung ương khóa 9 có phải kéo dài thêm vài ngày để thảo luận và xử lý dứt điểm vụ án Tổng cục 2 thì mong các đồng chí Uỷ viên Trung ương kiên quyết giành thời gian thảo luận. Vì vấn đề nghiêm trọng mà có tác động “sống-còn” với Đảng ta, không thể để kéo dài mãi.
1. Bộ Chính trị chưa đi vào bản chất vụ án
Thực tế mới xem xét hời hợt bề ngoài tức là chỉ xem xét cụ thể một vụ khủng bố đồng chí Võ Thị Thắng, nên coi đây chỉ là sự phạm pháp của một nhóm người, bắt 4 tên là xong. Còn những bản tin vu khống gây rối nội bộ kéo dài nhiều năm sao không xem xét? Những bản tin được gọi là “Tin từ T4” ấy là sản phẩm của Tổng cục 2, không phải sản phẩm riêng của 4 tên bị bắt. Vậy tội phạm trong vụ án T4 là một tổ chức, là Tổng cục 2 - Bộ Quốc Phòng. Tổ chức tội phạm ấy đã được bao che bỏ qua không xem xét!
Các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Nam Khánh nhắc đến vụ án Xiêm Riệp, vụ án Sáu Sứ không phải để đòi xét xử lại các vụ án ấy. Nhưng phải lật lại hồ sơ để vạch rõ cả 3 vụ án nghiêm trọng đều do một tổ chức Quân báo của Bộ Quốc Phòng gây ra dưới sự điều khiển của ai đó. Khi ấy nó còn gọi là Cục 2, gần 10 năm nay mới phình lên thành Tổng Cục 2. Vậy Tổng cục 2 không phải chỉ gây ra một vụ án T4 mà còn có tiền án, tiền sự, một hệ thống tội lỗi, nên phải thấy rõ nó nguy hiểm, phải tìm hiểu nó rất kỹ.
Cần phải xem xét cái tổ chức Tổng cục 2 chức năng quyền hạn thế nào ? Hoạt động ra sao ? Mục đích gây án để làm gì ? Ai đẻ ra tổ chức ấy ? Đó là một loạt những vấn đề cốt lõi của vụ án, đã bị bỏ qua. Đi sâu vào những vấn đề cốt lõi sẽ thấy rằng Tổng cục 2 không chỉ có nhiều hành vi phạm pháp mà bản thân nó cũng được hình thành một cách phi pháp. Cho nên vụ án T4 thực chất là một vụ án về tổ chức.
2. Tổng cục 2 - Bộ Quốc Phòng là một quái thai đẻ chui phi pháp đã trở thành một tổ chức siêu quyền lực rất nguy hiểm.
Theo quy chế tổ chức quân đội ta thì lực lượng quân báo của Bộ Quốc Phòng được gọi là Cục 2, là một bộ phận nằm trong Bộ Tổng tham mưu, trực thuộc Tổng tham mưu trưởng. Nhiệm vụ thời chiến của nó là trinh sát tìm hiểu tình hình quân địch ở tiền phương báo cáo về Bộ Tổng tham mưu để Cục Tác chiến đặt kế hoạch chiến đấu. Thời bình hoạt động theo hướng tình báo chiến lược thì nó phải theo dõi các lực lượng hiếu chiến nước ngoài, sớm phát hiện những ý đồ xâm lược nước ta hoặc những âm mưu xâm phạm, xâm nhập và chống ta từ phía ngoài biên giới. Tìm hiểu những bước tiến về trang bị kỹ thuật quân sự thế giới giúp cho Bộ Tổng tham mưu lập kế hoạch trang bị, phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu.
Nhưng từ năm 1995, Cục 2 đã được nâng cấp thành Tổng Cục 2 ngang hàng với Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị và Tổng cục hậu cần. Vượt ngoài tầm kiểm soát của Tổng tham mưu trưởng, trực thuộc Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Nó vẫn nằm trong Bộ Quốc Phòng nhưng lại được cấp một “Quỹ Mật” nằm ngoài ngân sách Quốc phòng, không ai được quyền kiểm soát việc chi tiêu.
Với Quỹ Mật ấy Tổng cục 2 tuyển dụng và trả lương cho hàng trăm nhân viên Mật, gọi là quân nhân nhưng không mặc áo lính, lúc hành sự bắt người khám nhà thì lại xưng là công an. Chính đám nhân viên Mật này đã mật vây nhà tướng Trần Độ, khám xét và ngăn cản những người ra vào. Chính những nhân viên này đã giăng hàng chục tên trong đám tang tướng Trần Độ để tước bỏ những băng tang mang chữ Vô cùng thương tiếc. Nguyễn Thái Nguyên, trợ lý Thủ tướng cũng bị mua biến thành nhân viên mật của TC gài bên cạnh Thủ tướng. Nguyễn Thị Thanh Hiền làm việc tại Tổng cục Du lịch cũng là nhân viên mật theo dõi đồng chí Võ Thị Thắng. Và còn hàng trăm nhân viên mật được cài cắm vào các cơ quan công sở, đơn vị kinh tế, không ai kiểm soát được.
Với cả một đội ngũ nhân viên một phần trong biên chế quân đội, đa phần ngoài biên chế, Tổng cục 2 hướng vào hoạt động về An ninh trong nước dẫm chân lên chức trách của Bộ Công an. Nó kiểm soát các cơ quan nhà nước qua mặt các Bộ trong Chính phủ rồi lại chui vào Đảng theo dõi các Đảng viên, các Uỷ viên Ban Chấp hành TƯ, dựng lên các tin một phần thật, một phần giả, thật giả lẫn lộn gây nên sự nghi ngờ, rối loạn trong Đảng. Với đội ngũ nhân viên và cán bộ tuyển dụng tùy tiện, đề bạt tùy tiện, nhiều người chưa phải là Đảng viên, lại xen vào nhiều phần tử xấu, có cả những đệ tử của Năm Cam. Nó kiểm soát cả Đảng, đánh giá các cấp ủy Đảng, dựng tin về các cán bộ của Đảng, gây rối ren về chính trị nội bộ Đảng. Chính vì vậy mà đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ rõ: Nó là một tổ chức siêu Đảng, siêu Chính phủ, rất vô nguyên tắc, rất nguy hiểm.
3. Đây là ý kiến chân thành của đông đảo Đảng viên trung kiên vì sự sống còn của Đảng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người đã thành lập quân đội, đã từng bước xây dựng nên quy chế tổ chức của quân đội ta đã khẳng định Tổng cục 2 vi phạm quy tắc tổ chức của Quân đội và T4 là một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng vi phạm kỷ luật của quân đội.
Không riêng thượng tướng Nguyễn Nam Khánh đã có thư gửi Ban Chấp hành TƯ tố cáo Tổng cục 2 vụ T4 mà rất nhiều tướng lĩnh từng tham gia Ban Chấp hành TƯ, Bộ Chính trị như các đồng chí Chu Huy Mân, Lê Khả Phiêu, Phùng Thế Tài, Lê Tử Đồng, Hoàng Minh Thảo đều đã có thư góp ý kiến với TƯ gửi đến Ban Bí thư nhưng đồng chí Phan Diễn đã không tôn trọng quyền dân chủ nội bộ của Đảng viên, muốn ẻm nhẹm những thư này không báo cáo với Trung ương.
Bản thân ngành Công an và ngay các đồng chí Đảng viên chân chính trong Tổng cục 2 cũng đã có ý kiến. Đồng chí Nguyễn Tài, nguyên thứ trưởng Bộ Công an, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cũng đã từng phát biểu từ tháng 1 năm 2000 (trong cuộc họp sơ kết 3 năm về thi hành nghị quyết của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh quốc gia): Cần chấm dứt ngay chức năng làm công việc an ninh của Tổng cục 2 Bộ Quốc Phòng. Việc quy định sai chức năng của Tổng cục 2 Bộ Quốc Phòng vừa trái với nguyên tắc Đảng, vừa trái pháp luật Nhà nước.
Một số cán bộ chân chính của Tổng cục 2 Bộ Quốc Phòng cùng đã từng viết thư phê phán Tổng cục 2 gửi Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Đại hội 8 (các anh ấy hy vọng khóa 8 sẽ có cuộc họp Đại hội đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ). Thư đề ngày 29-11-1999 có đoạn phân tích: Đảng phải lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối và toàn diện đối với quân đội, không thể để Quân đội chỉ huy Đảng. Tổng cục 2 Bộ Quốc Phòng là tai mắt của Đảng, Chính phủ và Quân đội chứ không phải là người chỉ đạo, chỉ huy Đảng.
Đầu năm 2000 một đồng chí tình báo già còn viết thư gửi Bộ Chính trị tự nói tha thiết: Là một cán bộ tình báo lâu năm nay đã già, tôi có những dòng chân tình này mong các đồng chí với cái tâm của mình, vì Đảng, vì dân tộc xem xét kỹ để củng cố, xây dựng lại Tổng cục 2 với đúng chức năng của nó. Nếu không Tổng cục 2 QĐND sẽ trở thành lực lượng làm băng hoại Đảng, phá hoại Tổ quốc.
Những Đảng viên trung kiên đã phát biểu với Đảng rất nhiều cả bằng lời và bằng văn bản rõ ràng, rành mạch, thẳng thắn, chân tình, như vậy mà sao Bộ Chính trị vẫn làm ngơ ? Có phải chăng việc dẹp Tổng cục 2 còn khó khăn, vướng mắc và nể nang ai đó ?
4. Vụ án T4 chưa khép lại
Vì đây là một vụ án về tổ chức mà cái tổ chức Tổng cục 2- Bộ Quốc Phòng chưa hề được đụng đến. Đây là một đơn vị cốt cán của quân đội ta nhưng đã bị kẻ xấu khống chế, lũng đoạn, đã nhiều năm lái nó vào nội dung hoạt động có tính phản động nên đã thành cốt cán thối. Kẻ xấu đã vun đắp cả chục năm cho nó thành cây cao có rễ sâu và bóng cả. Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Bộ Quốc Phòng quy định cho Tổng cục 2 không được theo dõi nội bộ nữa. Cách xử lý như vậy chỉ như phủi bụi, làm sao lành mạnh hóa được cái tổ chức biến chất này được? Rễ sâu của nó là mạng lưới nhân viên mật vụ cài cắm khắp nơi còn đó, vẫn được nuôi dưỡng bằng Quỹ Mật, thì làm sao có chuyện ngừng theo dõi nội bộ được!
Thực tế, sau khi bọn Vinh, Chấp ngồi tù Tổng cục 2 vẫn tiếp tục có những bản tinh đánh giá về nội bộ. Tại Hội nghị Đảng ủy Quân sự TƯ mở rộng ngày 24-8-2004, báo cáo của Tổng cục 2 có đoạn viết:
+ Ngày 22-2-2004, tại 62 Ngô Quyền - Hà Nội đã diễn ra cuộc gặp mặt một số nhân vật cấp tiến Hà Nội gồm: Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Thanh Giang, Hoàng Tiến. Cuộc gặp nhằm triển khai một số công việc từ nay đến Đại hội X. Cụ thể mục tiêu... phương châm... biện pháp...
Rồi... Ngày 7-7-2004, Hồng Hà nhận định...
Ngày 23-3-2004, Hồng Hà nói...
Ngày 27-7-2004, Hoàng Minh Chính nói...
Qua bản báo cáo này chúng tôi có nhận xét:
4.1. Tổng cục 2 đã bớt nói về các cán bộ Đảng và Nhà nước, nhưng vẫn tập trung vào tình hình chính trị trong nước dẫm chân lên trách nhiệm Cục An ninh Bộ Công an.
4.2. Kiểu đưa tin giống hệt những bản tin trước thật giả lẫn lộn, có tình tiết và ngày tháng rất cụ thể khiến người đọc dễ tin. Nhưng người tỉnh táo sẽ đặt 2 giả định: Hoặc đây là những tin tạo dựng không có thật vì nhóm người kể trên không cùng chính kiến chưa chắc họ đã ngồi với nhau. Hoặc nếu có thật thì Tổng cục 2 phải có người cài sâu luôn luôn ở bên cạnh nhóm người này và rất thân thiết với họ. Người ấy có thể là những điệp viên 2 mang rất nguy hiểm!
4.3. Theo bản tin thì nhóm Hồng Hà đã vạch ra kế hoạch như sau:
Bước 1: Làm xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân đối với lãnh đạo của Đảng, tạo sự đối lập giữa Đảng và nhân dân.
Bước 2: Làm suy yếu hệ thống lãnh đạo của ta bằng cách thúc đẩy mâu thuẫn nội bộ trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành TƯ.
Bước 3: Vô hiệu hóa các cơ quan trọng yếu của Đảng, Quân đội và Công an làm “ù tai”, “mờ mắt” của Đảng và Quân đội (nguyên văn lời Lê Hồng Hà)
... Tôi không rõ ông Lê Hồng Hà có những kế hoạch và những lời nói như trên không. Nhưng rõ ràng việc thúc đẩy mâu thuẫn trong nội bộ..., việc làm ù tai và mờ mắt Đảng... Chính là những dụng ý của Tổng cục 2 trong các bản tin riêng.
5. Đây là vụ án chính trị - Liệu có bàn tay nước ngoài không ?
Trong nghề tình báo thì Ta cài người vào bộ máy của Địch; Địch cài người vào bộ máy của Ta là chuyện thường xảy ra. Tại Liên Xô vụ án Bêria cho tới nay vẫn chưa rõ thực hư ra sao? Còn trong mấy vụ án chính trị này có những điều nghi vấn sau:
a - Vụ Xiêm Riệp: Ta biết rằng Pôn Pốt đã từng được TQ ủng hộ. Và khi ta tiến quân vào Campuchia thì Đặng Tiểu Bình đã ra lệnh cho quân đội TQ tiến vào biên giới phía Bắc nước ta (năm 1979). Vậy liệu vụ án Xiêm Riệp có phải là quân báo của ta đã mắc mưu tình báo TQ ?
b - Vụ T4: Bản thân tổ chức Tổng cục 2 và những người bảo trợ Tổng cục 2 đã toát lên tư tưởng “Cách mạng trên đầu súng”; “Súng chỉ huy Đảng”. Đó là tư tưởng của Mao Trạch Đông.
c - Thủ thuật đưa tin của Tổng cục 2 là “thật giả lẫn lộn” pha trộn rất khéo khiến người khôn ngoan cũng nửa tin nửa ngờ, giống như Hồ ly tinh trong truyện Tôn Ngộ Không. Mục tiêu đưa tin lại xỉa vào rất nhiều cán bộ của Đảng, gây náo loạn chính trị giống như kiểu “Cách mạng Văn hóa”
d - Chính những anh em Tổng cục 2, trong loạt bài viết chỉ trích Vương triều Vũ Chính đã tiết lộ: Vũ Chính có quan hệ mật thiết với Cục Tình báo Hoa Nam đã gợi ý để Cục Tình báo Hoa Nam mời vợ Vũ Chính là Nguyễn Thị Nhẫn đi nghỉ và dưỡng bệnh ở Trung Quốc. Hiện nay Vũ Chính về hưu nhưng đường dây quan hệ với nước ngoài vẫn có thể còn tồn tại.
e - Trong bản báo cáo gần đây nhất của Tổng cục 2 (Báo cáo tại Hội nghị Đảng ủy quân sự TƯ mở rộng ngày 24-8-2004) có câu kết luận như sau: Đảng, Nhà nước nắm chắc lực lượng quốc phòng, an ninh... Giải quyết tốt mối quan hệ quốc tế theo hai trục cơ bản là Việt Nam - Lào - Campuchia là quan hệ gắn bó sống chết với nhau. Và trục quan hệ Mỹ -Việt- Trung. Giữ vững ổn định đời sống nhân dân, phát triển kinh tế xã hội.
Ở đây tôi thấy bốc mùi là lạ. Vì đường lối đối ngoại của Đảng ta thường chỉ nói mở rộng quan hệ đa phương, chưa thấy nói trục quan hệ Mỹ -Việt - Trung bao giờ. Ngay cả quan hệ láng giềng thân thiết Việt - Lào - Campuchia, Đảng ta cũng không bao giờ gọi đó là một trục. Liệu có phải đây là cái thuật gài một khía cạnh nhỏ vào giữa cái thật giả lẫn lộn và lái quân đội ta, Đảng ta vào đường lối chính trị của nước ngoài ?
6. Bài học lịch sử
Đầu kháng chiến chống Pháp, sau khi Bác Hồ xử lý vụ Trần Dụ Châu, đã phát sinh tiếp vụ án Hát-Xăng-vanh-đơ (H122). Giống y như vụ T4-H122 là điệp viên của Pháp bị quân báo ta bắt đã khai lung tung một đường dây tay sai Pháp trong đội ngũ kháng chiến. Một số chỉ huy quân đội và một số cán bộ địa phương đã bị Ta bắt. Nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất tỉnh táo, sớm nghi ngờ có âm mưu địch; đồng chí ra lệnh chấm dứt ngay việc bắt bớ, xúc tiến thanh tra nội bộ Quân báo, trả lại tự do cho những người bị bắt. Vụ H122 chấm dứt, và cuộc kháng chiến đã được đẩy mạnh.
Vụ Tổng cục 2 ngày nay cơ bản giống vụ H122, tình tiết hơi khác:
Cục 2 vốn là một tổ chức lành mạnh của quân đội ta, đã có nhiều thành tích trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, thực sự trở thành một đơn vị tin cậy của QĐNDVN.
Nhưng tại chiến trường Campuchia nó đã phạm sai lầm về thủ đoạn nghiệp vụ tra tấn, bức cung tù binh và đã bị mắc lừa, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là vụ án Xiêm Riệp.
Sau đó những cán bộ sai phạm không bị kỷ luật mà còn được thượng cấp nâng đỡ, đề bạt, và sử dụng vào mục đích cá nhân. Cục 2 bắt đầu dùng thủ đoạn ngụy tạo, dàn dựng nên vụ Sáu Sứ lừa dối lãnh đạo Đảng. Diện cán bộ bị hãm hại chưa rộng, chỉ vài đồng chí; nhưng Cục 2 đã tự hủy hoại mình “Thói Điêu”, Thủ đoạn ngụy tạo gắp lửa bỏ tay người bắt đầu hình thành và phát triển trong tổ chức quân báo này. Và với những cán bộ không trung thực được thượng cấp nâng đỡ Cục 2 bắt đầu có sơ hở để kẻ xấu lọt vào đội ngũ.
Từ khi được nâng cấp lên thành Tổng cục 2 thì thói ngụy tạo thật giả lẫn lộn kiểu Hồ ly tinh trở thành nghiệp vụ ngày càng tinh vi của tổ chức này. Do bị “kẻ xấu” khống chế, trò gắp lửa bỏ tay người của nó phát triển tràn lan, vấy bẩn lên hàng chục cán bộ trung kiên cốt cán khắp các lĩnh vực: Đảng, Hành chính, Kinh tế, Ngoại giao... Giờ đây không còn mục tiêu “Kèn cựa cá nhân” như vụ Sáu Sứ mà có mục tiêu chính trị phản động rộng lớn: Làm ù tai, mờ mắt lãnh đạo, gây rối ren, phân tâm, nghi ngờ lẫn nhau, làm suy yếu Đảng.
7. Với Hồ ly tinh phải dùng Kính chiếu yêu, tức là phải vận dụng nguyên tắc tổ chức chính thống của Đảng và Nhà nước để xem xét.
Lâu nay những bản Tin Riêng của Tổng cục 2 vẫn được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và một số vị lãnh đạo chủ chốt đọc; có người trước sau đã từng đọc hàng trăm bản tin. Mỗi bản tin ấy có nhiều tình tiết xã hội, 60-70% là thật chỉ cài vào 30-40% tin tạo dựng. Mỗi tin tạo dựng cũng có 80-90% là tình tiết khá thật được lắp ghép rất khéo với 10-20% tin bịa đặt. Nên đọc xong ai cũng tin; hoặc có thể nửa tin nửa ngờ đoạn tin nào đấy, nhưng không một ai dám nghi ngờ cơ quan đưa tin. Tổng cục 2 vẫn luôn là tai mắt tin cậy của Đảng và Nhà nước, là một đơn vị anh hùng của QĐNDVN anh hùng. Nhưng thực tế nó đã bị thối.
Gần đây, Tổng cục 2 có những đoạn tin như sau:
“Đại hội Đảng X là cái đích mà hoạt động chống phá của các lực lượng cấp tiến đang hướng tới... Hoạt động của các thế lực thù địch hướng vào chống phá quân đội và trực tiếp chống phá Tổng cục 2 ngày càng quyết liệt... Bên cạnh các hoạt động chống phá Đảng, chống chế độ, lực lượng phản động cấp tiến tập trung mũi nhọn chống phá Tổng cục 2 một cách có hệ thống... Mục đích hạ thấp uy tín của Tổng cục 2 với Đảng và Quân đội, tiến tới làm suy yếu sức mạnh, đánh sập Tổng cục 2 để chúng dễ bề chống phá ngay từ trong nước ra đến ngoài nước. (trích báo cáo trước Hội nghị ĐUQSTƯ ngày 26-8-2004).
Đọc các loạt tin như trên tất nhiên các đồng chí Nông Đức Mạnh, Phan Diễn, Trần Đức Lương... phải lo lắng bảo vệ Tổng cục 2. Ai nói gì thì nói, phải bảo vệ Tổng cục 2 đến cùng để bảo vệ quân đội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Đại hội X. Nhưng quả thật các đồng chí giống y như thầy Đường Tăng ra sức bảo vệ Hồ ly tinh, khi Hồ ly tinh đã biến hóa thành Tôn Ngộ Không, hoặc biến hóa thành một vị Hòa thượng...
Nhưng các đồng chí lãnh đạo Đảng ta không thể là Đường Tăng. Phải tỉnh táo hơn và tự hỏi: Vậy các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chu Huy Mân, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Nam Khánh và hàng chục tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đã từng phát biểu về Tổng cục 2 có phải là những phần tử cấp tiến chống Đảng hay không ?
Lãnh đạo Đảng đã có Ban chấp hành TƯ do Đại hội Đảng toàn quốc bầu ra. Ban Chấp hành TƯ đã cử ra Ban Tổ chức Trung ương để quản lý cán bộ, đã bầu ra Ban Kiểm tra TƯ để kiểm tra tư cách Đảng viên, kể cả các Đảng viên TƯ, Ban Bảo vệ Chính trị nội bộ để xem xét những vấn đề chính trị nội bộ nếu có. Tất cả các tổ chức ấy được xây dựng dựa theo Điều lệ Đảng, cán bộ được bầu, được chọn lọc theo nguyên tắc tổ chức chính thống của một Đảng Lêninit. Những tổ chức ấy vẫn làm việc, vẫn hoạt động. Tại sao Lãnh đạo không dựa hẳn vào những tổ chức chính thống ấy mà lại cả nghe tổ chức quân báo không có chức năng giám sát nội bộ, có nhiều quân nhân chưa phải là Đảng viên và có lẫn nhiều phần tử xấu. Và rất có thể có cả điệp viên nước ngoài.
Bộ máy Nhà nước ngay từ ngày đầu lập quốc có sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch và các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Hữu Nam... Toàn là những nhà cách mạng giàu tri thức đã xác định rõ ràng: Bộ Quốc Phòng phụ trách việc chiến đấu võ trang với thế lực ngoại xâm, Bộ Công an làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trong nước. Đó cũng là mô hình tổ chức chính thống mà tất cả các nước trên thế giới đều tuân thủ, bất kể theo đường lối chính trị nào.
Vậy tại sao ngày nay Bộ Quốc Phòng của ta lại phá vỡ nguyên tắc tổ chức, tự động nhảy sang lĩnh vực an ninh, chồng chéo lên chức trách của Bộ Công an ?
Bộ Công an có cả một bộ máy rất lớn do Uỷ viên Bộ Chính trị lãnh đạo, có nhiều Uỷ viên TƯ, mỗi đồng chí phụ trách một bộ phận. Tại sao công việc bảo đảm an ninh trong nước không dựa hẳn vào Bộ Công an mà lại quá tin vào một nhóm quân báo nằm trong Bộ Quốc Phòng do vài cán bộ trình độ thấp kém phụ trách ?
Ông Lê Đức Anh từng đưa ra lý luận “phân công trùng lặp” như vậy để có sự cạnh tranh giống như cạnh tranh kinh tế vậy!
Cái lý luận cạnh tranh ấy có đúng không ? Có thực sự hiệu quả không ? hay nó chỉ phá vỡ nguyên tắc quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước? gây rối trong nội bộ Nhà nước ta ?
Việc phân công trùng lắp để cạnh tranh là cả một sự thay đổi đường lối chính trị quan trọng đã được Ban Chấp hành TƯ Đảng thảo luận chưa? Sao chưa có một nghị quyết nào của Ban Chấp hành TƯ các khóa 7, 8 và 9 nói về vấn dề này.
Có nghị quyết rồi mà thực tế thấy sai, Trung ương còn phải bàn bạc để sửa đổi. Nay chưa có nghị quyết TƯ, chỉ là sáng kiến cá nhân vi phạm nguyên tắc thì sao TƯ lại không dám phê phán và chấn chỉnh lại ?
8. Thế mạnh của Hồ ly tinh và chân lý để thắng nó
Tổng cục 2 đã tạo được thế mạnh khó trị nhờ vào 3 bửu bối:
Với chân lý nào có thể thắng nó ?
1- Tại Hội nghị ĐUQS TƯ ngày 24-8-2004, sau báo cáo của Tổng cục 2, Bộ trưởng Phạm Văn Trà đã nhấn mạnh thêm: Tổng cục 2 là người bảo vệ quân đội trung thành nhất, đánh Tổng cục 2 là đánh quân đội, đánh vào chế độ. Kinh nghiệm như ở Liên Xô chỉ một nhóm người nhưng họ đã làm tan rã chế độ Xô Viết vì bước đầu họ đánh vào KGB để dọn đường sau đó mới đánh sập chế độ Xô Viết.
Các tướng tá trong quân đội cần bình tĩnh phân tích:
Qua những bản tin vu cáo gây nghi ngờ, chia rẽ trong nội bộ Đảng, nhận định rằng Tổng cục 2 đã thành nhọt độc và u ác trong Quân đội ta. Việc xử lý nó bằng hóa chất hay phẫu thuật chỉ làm cho cơ thể Quân đội trong sạch hơn, lành mạnh hơn, làm Đảng ta thêm đoàn kết hơn, ổn định hơn. Làm sao có thể bóp méo thành Đảng đánh Quân đội được ?
2. Nhiệm vụ tình báo chiến lược rất quan trọng nhưng nó bao gồm nhiều mặt, phải do nhiều tổ chức cùng làm. Trong khi quân báo Bộ Quốc Phòng hướng vào an ninh nội địa thì ngoài biên cương Lý Tống đột nhập hoành hành, kẻ thù xâm nhập Tây Nguyên kích động đồng bào biểu tình và di tản. Những vụ việc ấy chứng tỏ Bộ Quốc Phòng không làm tròn nhiệm vụ do dùng quân báo sai chức năng.
Tuy có chỗ dựa pháp lý nhưng thực tế Bộ Quốc Phòng đã đẻ chui Tổng cục 2. Cần vạch rõ trình tự ngược chiều của sự việc:
Cục 2 được phình lên thành Tổng cục 2 từ năm 1995.
Pháp lệnh Tình báo do Quốc hội ký ngày 14-12-1996.
Nghị định 96 CP do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 14-9-1997.
Nghị quyết của Bộ Chính trị khóa 8 về an ninh ra đời cuối năm 1997.
Trình tự trên cho thấy quân đội đã tự động tổ chức Tổng cục 2 trước. Thấy rõ tính chất bất hợp pháp mới nặn ra văn bản pháp lý của Nhà nước sau. Còn Nghị quyết Đảng ra sau cùng. Quân đội chỉ huy Đảng và Nhà nước chứ Đảng và Nhà nước không chỉ huy được Quân đội.
Để vẽ cho Tổng cục 2 một bộ mặt quan trọng, ông Phạm Văn Trà luôn ví nó như KGB. Nếu quả thực Bộ Công an làm không xuể công việc an ninh cần có một tổ chức KGB thì chủ trương đó phải được Ban Chấp hành TƯ bàn bạc và quyết định. KGB không thể nằm trong Bộ Quốc Phòng mà Chính phủ phải đứng ra tổ chức với quy chế hoạt động rõ ràng và được kiểm soát chặt chẽ. Nhân viên của nó phải được đào tạo bài bản qua các lớp chính trị cao cấp, học lịch sử thế giới, phương pháp ngoại giao rồi mới học nghiệp vụ tình báo. Cán bộ của nó phải được bình tuyển, do Đảng chọn lọc. Bổ nhiệm người đứng đầu phải được Quốc hội thông qua.
Việc tổ chức Tổng cục 2 rất lèm nhèm, nhân viên tuyển dụng tùy tiện, cán bộ đề bạt tùy tiện, tất cả đều trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Thế mà ông Phạm Văn Trà coi nó như KGB thì quả là ông Trà đã diễn tấu ngụ ngôn của La-Fông-Ten: Con ếch cố phình bụng to thành con bò.
3 - Về ô dù cần nhận rõ
Qua giác thư này mong các đồng chí lãnh đạo nhận rõ:
Chính Tổng cục 2 mới là nhân tố gây mất ổn định. Hiện nay tình hình mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, nội bộ quân đội đã phát triển rất gay gắt là do Tổng cục 2 gây ra. Cần phải xử lý ngay trước Đại hội X.
Dẹp Tổng Cục 2, tổ chức lại Cục quân báo với đúng chức năng của nó như trong thời kỳ kháng chiến là cách làm duy nhất đúng đem lại sự ổn định trong Đảng, phục hồi sức mạnh và uy tín của quân đội.
Cần dứt khoát xử lý ngay vụ án Tổng cục 2 để đem lại bầu không khí trong lành, đoàn kết và ổn định bước vào Đại hội X.
Đây là vụ án về tổ chức; xử lý cần gắn chặt 2 mặt:
a) Vấn đề tổ chức có các nội dung: đường lối tổ chức (có nên phân công trùng lắp để cạnh tranh với nhau không?). Phân rõ trách nhiệm bộ quốc phòng, Bộ công an gồm cả vấn đề biên phòng. Giải quyết về lý luận xong phải chấn chỉnh ngay tổ chức cụ thể. Cục 2 vốn là đơn vị tin cậy của Quân đội nhưng từ khi chuyển thành Tổng cục 2 đã bị kẻ xấu lũng đoạn có thể có cả điệp viên nước ngoài. Vì vậy phải dùng phương pháp thay thế; còn Tổng cục 2 hiện nay không thể cải tạo một cách đơn giản, phải có thời gian xem xét kỹ lọc lấy người tốt, thải loại người xấu.
b) Vấn đề nhân sự bao gồm: Xóa bỏ nhân viên mật, thanh lọc quân nhân và chỉ huy Tổng cục 2. Ngoài ra còn phải xử lý những cán bộ có trách nhiệm trong việc thành lập Tổng cục 2 và bảo trợ Tổng cục 2. Như vậy vấn đề nhân sự không dừng lại ở các ông Như Văn, Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh mà còn liên quan đến Bộ trưởng Quốc phòng, ủy viên trung ương.
Do nội dung xử lý rộng lớn nên thẩm quyền xử lý thuộc cơ quan lãnh đạo cao nhất. Ban chấp hành trung ương Đảng phải thảo luận và nghị quyết bằng văn bản cụ thể để việc thi hành được nghiêm chỉnh.
* Một số nội dung và phương hướng xử lý cần có nghị quyết
3.1. Đường lối tổ chức chính quyền: Khẳng định đường lối tập trung thống nhất, tăng cường sức mạnh của Bộ quản lý ngành, tăng cường vai trò quản lý thống nhất đất nước của chính phủ.
Bác bỏ đường lối phân công trùng lắp để cạnh tranh trong bộ máy nhà nước.
3.2. Xác định chức trách Bộ Quốc phòng: Tập trung vào nhiệm vụ Quân sự ngăn ngừa và đối phó kịp thời với mọi đe dọa từ phía ngoài biên giới đối với lãnh thổ, bầu trời và lãnh hải nước ta.
Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ bảo vệ biên giới tổ chức lực lượng biên phòng đồng thời làm 2 nhiệm vụ: cảnh giác đối với phía n goài đồng thời làm công tác dân vận chủ động đảm bảo an ninh bên trong biên giới.
Cơ cấu lực lượng biên phòng phải có 1/3 là sỹ quan chuyên nghiệp bám trụ lâu dài ở từng vùng biên, 1/3 là lính nghĩa vụ địa phương tỉnh, 1/3 bổ sung từ hậu phương.
+ Trong thời bình nhiệm vụ tình báo chiến lược của Bộ Quốc Phòng tập trung vào 3 nội dung
Phần an ninh chính trị nội địa do Bộ Công an phụ trách, bộ phận tình báo Quốc phòng không được lấn sân gây chồng chéo khó kiểm soát.
3.3. Xử lý về tổ chức:
3.3.1. Giao nhiệm vụ cho Bộ trưởng Quốc Phòng:
a) Đình chỉ mọi hoạt động của Tổng cục 2, giải thể tổ chức Tổng cục 2, chuyển giao toàn bộ nhân sự của Tổng cục 2 cho Cục Bảo vệ thẩm tra, rà soát từng người.
b) Chỉ đạo Tổng tham mưu trưởng thành lập cục 2 mới nằm trong Bộ Tổng tham mưu, theo đúng quy chế truyền thống của QĐND VN. Biên chế Cục 2 mới hoàn toàn dùng cán bộ mới, nhân viên mới. Kinh phí hoạt động của Cục 2 nằm trong ngân sách Quốc Phòng do Bộ trưởng Quốc Phòng phân phối.
3.3.2. Giao nhiệm vụ cho Bộ trưởng Tài chính.
Cắt bỏ hoàn toàn khoản chi đặc biệt cho Quỹ Mật của Tổng cục 2 kể từ ngày 01/01/2005.
Tiến hành thanh tra việc chi tiêu Quỹ Mật của Tổng cục 2 những năm gần đây. Đề nghị chính phủ ra quyết định xử lý đối với những chỉ tiêu bất hợp lý và tài sản tồn đọng.
Mọi khoản chi từ ngân sách từ nay trở đi đều phải công khai minh bạch và được kiểm toán.
3.3.3. Giao nhiệm vụ cho Tổng cục Chính trị Bộ Quốc Phòng
3.4.1. Xem xét trách nhiệm của Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm Văn Trà
Lưu ý 1: Ngay từ năm 1995 Cục 2 thuộc Bộ Tổng tham mưu được nâng cấp thành Tổng Cục 2. Khi ấy ông Phạm Văn Trà là Tổng tham mưu trưởng. Sau đó cuối 1996 ông Nông Đức Mạnh mới ký pháp lệnh tình báo và đến tháng 9/1997 ông Võ Văn Kiệt mới ký Nghị định 96/CP.
Vậy trách nhiệm của ông Phạm Văn Trà như thế nào trong việc cùng ông Đoàn Khuê đẻ chui Tổng cục 2 ?
Lưu ý 2: Từ năm 1998 đến nay ông Phạm Văn Trà với tư cách Bộ trưởng Quốc Phòng trực tiếp quản lý Tổng cục 2, trực tiếp duyệt các bản tin của Tổng cục 2 chuyển lên Tổng Bí thư và Chủ tịch nước. Và lâu nay ông Phạm Văn Trà vẫn là người tích cực bảo vệ Tổng cục 2, yêu cầu Ban bí thư bác bỏ những thư của lão thành cách mạng nói về Tổng cục 2.
Vậy trách nhiệm của Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm Văn Trà trong việc bao sân lấn sang trách nhiệm của Bộ Công an như thế nào ?
Trách nhiệm của Uỷ viên Bộ Chính trị Phạm Văn Trà đối với những lời vu cáo cán bộ cao cấp trong các bản tin của Tổng cục 2 như thế nào ?
Trách nhiệm của Uỷ viên Bộ Chính trị Phạm Văn Trà với dân chủ nội bộ như thế nào khi dìm đi các bức thư của Đảng viên tố cáo Tổng cục 2 ?
Xử lý kỷ luật đối với đ/c Phạm Văn Trà do Trung ương định đoạt. Chúng tôi chỉ đề nghị: Ngay từ bây giờ cần tước chức Phó Bí thư Quân ủy Trung ương và cho ông Phạm Văn Trà nghỉ hưu, bổ nhiệm Bộ trưởng mới thay thế từ đầu năm 2005 theo quy chế sử dụng cán bộ bình thường, không cần đợi đến Đại hội Đảng hoặc đợi bầu Quốc hội khóa XII và thành lập nội các mới. Vì 3 lẽ:
3.4.2. Xử lý chỗ trống trong Bộ Chính trị
Bộ Chính trị không phải là một cấp ủy, chỉ là bộ phận thường trực lo công việc của Ban Chấp hành Trung ương. Việc phân công bầu chọn đưa đồng chí này vào đồng chí kia ra khỏi Bộ Chính trị có thể tiến hành bình thường trong bất kỳ cuộc họp nào của toàn thể Ban Chấp hành Trung ương. Trước mắt để công việc chuẩn bị Đại hội X không bị trở ngại đề nghị nên bầu bổ sung ngay, lấp 2 ghế trống do vắng đ/c Lê Minh Hương và phế truất đ/c Phạm Văn Trà.
3.4.3. Xem xét trách nhiệm của đồng chí Lê Đức Anh
Thời kỳ làm chủ tịch nước (1992 - 1997) ông Lê Đức Anh ít có mặt ở Chủ tịch phủ, thường làm việc trong cấm thành chỉ đạo việc xây dựng quân đội với tư cách là Đại tướng Phó Bí thư thứ nhất Quân ủy TW, được Tổng Bí thư Đỗ Mười ủy thác toàn quyền các vấn đề quân sự.
Năm 1995 ông Lê Đức Anh đã chỉ đạo việc chuyển đổi Cục 2 thành Tổng cục 2. Biết rõ tính phi pháp của tổ chức này cũng như hoạt động lấn sân Bộ CA, năm 1996 ông Lê Đức Anh đã chỉ đạo soạn thảo Pháp lệnh tình báo trình Quốc hội. Nhưng pháp lệnh tình báo còn nói chung chung ông Lê Đức Anh lại chỉ đạo tiếp soạn thảo Nghị định 96/CP trình chính phủ. Ông Võ Văn Kiệt đọc văn kiện này thấy nhiều điều bất hợp lý rất băn khoăn, để mãi 6 tháng không ký. Nhưng Chủ tịch nước sắp mãn nhiệm kỳ đã thúc giục cuối cùng ông Võ Văn Kiệt đã ký Nghị định ngày 14/09/1997.
Quá trình này cho thấy ông Lê Đức Anh chính là người nhào nặn ra TC2 là cha đẻ ra nó và chịu trách nhiệm chính trong vụ án TC2.
Trong việc truy cứu trách nhiệm của ông Lê Đức Anh tôi đề nghị nên tách bạch 3 chức trách:
a) Đảng viên ; b) Tướng lãnh đạo quân đội; c) Chủ tịch nước.
Vai trò Chủ tịch nước có ảnh hưởng rộng trong dân chúng và cả trong quan hệ quốc tế; nếu không có sự vi phạm hiến pháp và pháp luật thì không nên động đến. Trên thực tế ông Lê Đức Anh đã hoàn thành một nhiệm kỳ không có tai tiếng gì nên danh hiệu Nguyên Chủ tịch nước vẫn được giữ.
Nhưng xét vai trò là Phó Bí thư Quân uỷ TW là tướng 4 sao đặc cách xây dựng quân đội thì ông có lỗi lớn trong việc hình thành TC2 Bộ QP.
Cộng với lỗi này phải xét thêm 2 tiền án:
Xuyên suốt 4 vụ án thấy vai trò làm tướng 4 sao của ông Lê Đức Anh là không xứng đáng. BCH TW có thể xét việc giáng cấp hàm quân đội, tước bớt sao trên vai mà không đụng gì đến chức danh Nguyên Chủ tịch nước.
Xem xét tư cách Đảng viên của Lê Đức Anh:
Là một Đảng viên không trung thực còn dùng nhiều thủ đoạn man trá lừa dối Đảng hãm hại đồng đội đồng chí gây chia rẽ trong Đảng. Tuổi càng cao, địa vị càng cao thì thủ đoạn càng tinh vi nham hiểm, và diện bị hãm hại càng lan rộng.
Con người ấy có còn xứng đáng với danh hiệu Đảng viên nữa không? Mong BCH TW xem xét trên tinh thần chỉnh đốn Đảng mà Bác Hồ đã di chúc lại. Kỷ luật Đảng phải rõ ràng và nghiêm khắc và đây là chuyện nội bộ Đảng không liên quan đến chức danh Chủ tịch nước.
Mong BCH TW khóa IX xử lý mạnh tay để Đảng được trong sạch hơn, lành mạnh hơn trước khi bước vào Đại hội X.
Lương Đống
----- O -----
Một bài báo phi pháp được báo Công an nhân dân
đăng tải đang gây xôn xao dư luận
Ngày 9/12/2004, trên trang 5 tờ báo Công an nhân dân ( CAND) số 148, có đăng bài của ông Nguyễn Thế Hồng, nhan đề : “ Hành vi phi đạo lý cần phải lên án”. Là một độc giả, tôi có một số ý kiến như sau:
Báo chí vốn là phương tiện thông tin đại chúng, là diễn đàn của nhân dân. Vì thế, việc phân tích, phê phán điều này điều khác, người này, người nọ,… trên mặt báo là chuyện bình thường. Tuy vậy, để bảo đảm tính nghiêm túc, cần phải tôn trọng mấy điểm sau đây:
Sau khi tìm đọc bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang, xét các tiêu chí trên đây, tôi cùng một số độc giả thấy rằng:
1. Về văn bản gốc:
Vì tính chất nghiêm trọng mà bài báo CAND đã đăng tải so với bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang “ Kính gửi các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ,Quốc hội” thì nội dung cơ bản là ủng hộ thư ( ngày 3/1/2004) của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và thư ( ngày 17/6/2004) của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh ( Nguyên phó chủ nhiệm kiêm bí thư Đảng uỷ tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) về yêu cầu xử lý vụ án chính trị siêu nghiêm trọng liên quan đến tổng cục 2 Bộ quốc phòng, do cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh tạo dựng cùng với các “ cận thần” Đặng Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh,v.v… Tại sao ông Hồng đã cố tình lờ tịt các nội dung cơ bản rất quan trọng này?! Chỉ dẫn ra mấy câu về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta ( xem bài báo), rồi lên án người ta thì thật là một điều rất đáng trách. Cách cắt xén này, nói đơn giản là tuỳ tiện vô trách nhiệm, nghiêm trọng hơn về mặt đạo đức là thiếu lương thiện, không đúng với tư cách của người cầm bút.
2. Về nội dung, lý lẽ phê phán:
Bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang “ gửi các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội”, không biết đã được các bộ phận hữu trách trả lời hay chưa, chỉ biết ông Hồng đã mau mắn viết báo “ phê phán”. Không biết ông tự làm hay ai đó đã bật đèn xanh cho ông? Điều đó cũng chẳng quan trọng gì, miễn là ông phải phê phán đúng. Trái lại, khi đọc kỹ bài báo chẳng thấy ông có lý lẽ gì khi “ lên án” quan điểm mà ông cho là “ sai trái” của ông Giang về một giai đoạn lịch sử.
Trước hết, ông Hồng đã lầm lẫn quy chụp người khác ngay trong tiêu đề bài báo rất “sát máu” của ông là: “ Hành vi phi đạo lý cần phải lên án”. Ông không phân biệt được thế nào là một suy nghĩ, một ý kiến với một hành vi, một việc làm. Xét về mặt pháp luật thì không có một pháp luật nào xét xử một suy nghĩ, một ý kiến ( cho dù đó là một ý kiến sai). Nhưng người ta có thể bỏ tù một hành vi (việc làm, hành động) trái pháp luật.
Sự lầm lẫn, cố ý hay một thói quen vô luận thức của người cầm bút như ông Hồng mới là hành vi trái pháp luật cần phải nghiêm khắc lên án. Dù sao, đây cũng là một nguyên nhân khiến độc giả cảm thấy thất vọng khi đọc bài báo của ông. Mặt khác, trong cả bài báo, ông Hồng không có lấy nổi một luận điểm về lập trường chính trị, dẫn liệu lịch sử, dẫn liệu kinh tế-xã hội nào, v.v… để chứng minh cho cái mà ông Hồng gọi là quan điểm sai trái của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang. Chỉ thấy ông Hồng nêu lên những: nạn nhân chất độc màu da cam; lý lịch cá nhân- gia đình và đời sống của ông Giang; sự “giận dữ” của một số Cựu chiến binh (!?); linh hồn liệt sỹ,v.v… Ông Hồng nêu những vấn đề này không giải quyết được gì trong quan điểm của ông Giang. Trái lại, nó bộc lộ cho độc giả thấy được tư cách cầm bút của ông Hồng. Độc giả cũng thấy rằng, hành vi phi đạo lý, phạm pháp, đáng lên án của ông Hồng lại được đăng trên tờ báo CAND (của Bộ công an- một cơ quan hành pháp), thật đáng để cho độc giả phải suy nghĩ !?
Đọc bài kiến nghị của ông Giang gửi các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, “ về vụ án chính trị siêu nghiêm trọng liên quan đến tổng cục 2” Bộ quốc phòng, độc giả thấy được sự chính trực và lòng dũng cảm của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang với nước, với dân, với những bậc công thần chân chính của chế độ, đã và đang bị một thế lực đen tối vùi dập. Có một gia đình với cuộc sống “ khá giả” và ngôi nhà “ nguy nga”
(như bài báo nêu) nhưng Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang đã không im lặng để hưởng thụ những gì mình có như những con người tầm thường khác. Trong bài viết của mình, ông đã có những suy tư trăn trở với cuộc sống chung, với vận mệnh của đất nước. Đối với vụ án “siêu nghiêm trọng”, ông cương quyết đòi hỏi vụ án phải được giải quyết, ông cảm thông, bày tỏ sự ủng hộ những nạn nhân của vụ án. Hành động như thế là hành động vì lẽ phải, vì công lý, theo đúng lương tâm của chính mình. Với lẽ đó, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang phải đáng là người được quý trọng.
Thiết nghĩ, với nhận thức và tư cách cầm bút của ông Hồng như vậy, sao ông không tự hỏi: Bản thân ông thuộc hạng người như thế nào ? Mặt ông là mặt gì ? Cầm bút vì cái gì ? mà ông lại phải dùng những luận điệu “ hạ cấp” như vậy ? Liệu độc giả khi đọc những dòng chữ ngược lời lẽ của ông thì sẽ đánh giá ông như thế nào? Họ “ phỉ nhổ” vào ai, chắc ông phải tự biết ?
Tôi không hề quen biết ông Hồng, cũng không hề quen biết ông Giang. Nhưng, chính ông Hồng, thậm chí cả ban biên tập và tổng biên tập báo CAND đã rất coi thường độc giả. Đến nỗi, một người như bản thân tôi rất ngại viết lách mà cũng buộc phải cầm bút nói lên chính kiến của mình.
3. Cuối cùng, những việc phải làm tiếp theo:
Báo CAND không dám đăng bài viết của ông Giang kiến nghị “về vụ án chính trị siêu nghiêm trọng…” mà chỉ đơn phương đăng bài “ lên án” của ông Hồng ? Vậy báo CAND có dám đăng bài trả lời (nếu có), của ông Giang và những bài tham gia tranh luận của độc giả về vấn đề này hay không ?
Nếu báo CAND làm được những việc tiếp theo này, tôi rất hoan nghênh, và cho tôi xin lỗi về việc trách cứ ban biên tập như trên. Nếu ban biên tập không làm được như vậy thì chứng tỏ báo CAND chỉ là một công cụ của thứ quyền lực đen tối đứng trên pháp luật, chà đạp tự do ngôn luận, chà đạp nhân quyền, vi phạm Hiến pháp, luật pháp nước ta.
Ngày 20 tháng 12 năm 2004
Trần Trí Dân
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Nơi nhận:
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
+ Báo Công an nhân dân, các cơ quan thông tấn, và những người quan tâm.
----- O -----
KÍNH GỬI:
Ban chấp hành TW Khoá 9
Bộ Chính trị Khoá 9
(V/v Báo cáo của ĐUQSTW. Lá thư thứ 2)
Sau lá thư thứ 1 gửi ngày 11-11-2004 tới các đồng chí, chúng tôi nhận được nhiều đơn thư của các cựu chiến binh, các lão thành cách mạng (bản phôtô) cũng tỏ vẻ quan tâm lo lắng về “Báo cáo của ĐUQSTW mở rộng” tháng 8-2004. Như thế là nhiều người cùng lo lắng như chúng tôi.
Lại trao đổi thêm với nhau trong cán bộ tiền khởi nghĩa ở khu Tập thể Nghĩa Tân, dựa theo Điều lệ Đảng và tổ chức của Đảng, chúng tôi thấy việc làm của ĐUQSTW mà chủ trì là bộ trưởng Phạm Văn Trà, vi phạm Điều lệ Đảng và tổ chức Đảng, không ngăn chặn kịp thời có thể nguy hiểm cho đất nước. Cho nên lại phải có thư này gửi các đồng chí.
Nghị quyết của ĐUQSTW mở rộng được phổ biến cho các quân khu, các binh chủng, các tổng cục (theo thư của thượng tướng Nam Khánh gửi BCT ngày 15-11-04), trong khi BCT hay Ban Bí thư chưa phê duyệt. Bộ Quốc phòng là một bộ lớn của đất nước, rất quan trọng, ông bộ trưởng Phạm Văn Trà làm như vậy là vượt quyền, vô nguyên tắc, vì:
Chúng tôi thấy rằng:
Việc làm của ĐUQSTW là tự cho mình cao hơn Ban Chấp hành TW và Bộ Chính trị. Lại đem phổ biến cho các quân khu, các binh chủng, các tổng cục, thậm chí đưa lên Internet để như công bố với toàn thế giới biết về chủ trương đường lối của ĐUQSTW, thì phải coi là một sự thoán đoạt quyền lực. Như các viên tướng công lao thời xưa cướp quyền của triều đình. Có phải ĐUQSTW cho rằng mình nắm được quân đội muốn làm gì thì làm, trên đầu mình không còn ai !?
Một cựu ký giả trong nhóm tiền khởi nghĩa chúng tôi gọi việc làm của ĐUQSTW là: một cuộc đảo chính âm bản.
Một cuộc đảo chính âm bản dẫn đến đảo chính dương bản chỉ là gang tấc. Rất mong BCHTW và BCT cùng toàn Đảng, toàn dân, hãy cảnh giác. Cần có biện pháp ngăn chặn những âm mưu đen tối.
Những lời tâm huyết lo lắng của chúng tôi giãi bày với BCT. Rất mong các đồng chí đừng bỏ ngoài tai.
Ngày 5 tháng 12 năm 2004
T/m cán bộ tiền khởi nghĩa ở Khu tập thể Nghĩa Tân
Nguyễn Văn Thịnh
(cán bộ tiền khởi nghĩa tỉnh Hải Dương)
----- O -----
Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2004
Kính gửi: Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
Thời gian gần đây đông đảo người dân gồm trí thức, lão thành cách mạng, cựu chiến binh ... sôi nổi bàn tán về thông tin có được qua Internet. Có câu hỏi liệu chúng ta có thoát khỏi tình hình như Liên Xô sụp đổ không, vì ở ta đông đảo thế hệ tham gia hai cuộc kháng chiến, có không ít người sức khỏe đã cạn kiệt như mắt mờ, tai điếc, không đi đến thăm chơi với bạn bè được nữa; một số thiếu tư liệu, thông tin; một số thì yên phận, không ít người chịu "im hơi lặng tiếng" vẫn giữ lời nguyền "chiến đấu đến hơi thở cuối cùng" để gìn giữ sự nghiệp mà Bác Hồ để lại.
Ở đây, tôi xin tóm lược dư luận xung quanh bản "báo cáo tại hội nghị Đảng ủy quân sự Trung ương mở rộng ngày 24-8-2004" 5 vấn đề cần lưu ý dưới đây:
1. Từ kháng chiến chống Pháp chưa lần nào như lần này, tài liệu tuyệt mật lại để lộ ? Ai phải chịu trách nhiệm ? Yêu cầu Trung ương phải xử lý nghiêm.
Vấn đề này có ý kiến đặc biệt cho rằng: chính Tổng cục 2 dàn dựng, được tình báo nước ngoài xúi bẩy đưa lên Internet để cho CIA biết rằng ta vẫn coi CIA, Mỹ và các thế lực thù địch là đối tượng.
2. Một đại họa khôn lường quàng lên cổ dân tộc ta, hoàn toàn đi ngược với đường lối của Đảng:
Đường lối của Đại hội Đảng đổi mới đến nay hàng chục năm, cố tránh thảm họa cho dân tộc, cho Tổ quốc "Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" Việt Nam là bạn của các nước. Thế mà nội dung báo cáo được Tổng cục 2 viết lại đi ngược lại đường lối của Đảng.
Việc này không phải do trình độ thấp kém nên khuyết điểm. Mà đây là việc làm có ý thức, có chỉ đạo của kẻ ngồi sau lưng, của tình báo nước ngoài. Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh, Bùi Văn Huấn (tức út Lê) ... phải được xử lý nghiêm.
3. Tổ chức và hoạt động của Tổng cục 2 đã có những hành động cụ thể thế nào ?
Trước hết, phải nói Lê Đức Anh là người đã thúc giục ký pháp lệnh, Nghị định nâng Cục 2 có nhiều thành tích trong hai cuộc kháng chiến lên Tổng cục 2, mà nội dung hoạt động rộng lớn, bao trùm lên Bộ Công an ... hoạt động cài cắm người khắp nơi, tiêu tiền Ngân sách xả láng, không ai kiểm tra. Cứ xem bài "Vương Triều Vũ Chính" thì thấy cách dùng người, tiêu tiền vv.. của chúng. Cụ thể 2 đ/c cán bộ lãnh đạo cấp cao còn sống đó biết rõ lý lịch Nguyễn Chí Vịnh hư hỏng như thế nào, mà nay cứ thêm sao, thêm chức? Yêu cầu UBKTTƯ kiểm tra lại lý lịch những người gia đình Vũ Chính (mặc dù rời Tổng cục, nghỉ hưu) kể cả con rể Nguyễn Chí Vịnh để TW xử lý.
Thủ đoạn hoạt động của Tổng cục 2 từ 1996 đã ngụy tạo tin hơn 40 đ/c trong đó là khai quốc công thần, các công thần có liên hệ với CIA. 1999 thì xảy ra vụ vợ chồng Nguyễn Thái Nguyên (người của Tổng cục 2 cài cắm vào văn phòng Thủ tướng) dựa vào tin ngụy tạo để trả mối tư thù, suýt nữa đ/c Võ Thị Thắng bị tống tiền, bắt cóc, thủ tiêu ...
Ai đã chủ mưu ngụy tạo tin tức tạo ra vụ án T4 siêu nghiêm trọng? Thế mà Vũ Chính chỉ được sờ vuốt nhẹ, tính kỹ sau ngụy tạo tin tức 5 năm kể từ 1996 Nguyễn Thái Nguyên định bắt cóc Võ Thị Thắng bị vỡ lở, để bảo vệ Tổng cục 2 buộc Vũ Chính phải báo cáo (xem cáo trạng VKSNDTC ngày 15-8-2000). Thế có phải là Đảng viên cán bộ trung thực không ?. Chuyện động trời bị vạch trần là cứu Đảng, cứu nước nhưng bị bao che, im re không đưa ra Ban Chấp hành Trung ương là sao ?
Có ý kiến thẳng thắn nói rằng: Trừ số tay sai của chúng đã cài cắm ở cấp cao, còn lại không ít người dính dáng chuyện này chuyện nọ, nếu khui ra thì chúng sẽ tố chuyện đô-la gửi ngân hàng nước ngoài, của cải bất minh để mua trang trại, xây "nhà cao sừng sững trên đồi" ...
Nói Thượng tướng Nam Khánh làm lộ bí mật là không đúng. Nếu ta cứ đưa nó vào hồ sơ mật, trắng đen không xử lý ngay bây giờ, để chừng vài chục năm nữa các Cụ khuất núi hết, con cháu nó du học về, mở hồ sơ mật, đường hoàng công bố và tước sạch mọi danh hiệu, viết lại lịch sử thì ai cãi.
Cụ cao tuổi tỏ ra biết nhiều, bực bội nói: Chuyện nước ta chỉ 5 năm lại đây có nhiều chuyện đáng nói lắm chứ: Chỉ vì tranh công tranh quyền mà ngụy tạo ra điện mật để Trung tướng Nguyễn Bình bàn giao công việc, trên đường đi ra Việt Bắc thì bị bắn sau lưng. Chuyện dàn dựng vụ Sáu Sứ Năm Châu ... Hôm nay bè lũ khuynh đảo được mật thám dạy dỗ, tình báo nước ngoài chỉ đạo nên chúng hoạt động có bài bản lắm, bịa như thật tên người cụ thể, ngày giờ, số nhà ... làm cho người thiếu thông tin dễ tin.
Mọi người yêu cầu Bộ Chính trị đưa ra Ban Chấp hành Trung ương xử lý nghiêm minh. Phải đưa ra Tòa án quân sự xử vụ án T4 siêu nghiêm trọng, việc làm lộ bí mật quân sự, ngược đường lối của Đảng.
4. Các lão thành cách mạng, cựu chiến binh ... và người đầy chiến tích ghép chung với phần tử cấp tiến phản động trong nước, thế lực thù địch bên ngoài có liên hệ như thế nào ?
Xem kỹ phần 3 báo cáo của Đảng ủy Quân sự Trung ương nói nhiều về Tổng cục 2, đánh sập Tổng cục là đánh sập Quân đội. Mọi người đủ hiểu kẻ nặn ra bài bản này không ai khác ngoài Nguyễn Chí Vịnh. Nhưng người chịu trách nhiệm trước Đảng và Quân đội việc này phải là Phạm Văn Trà và kẻ đứng đằng sau nữa dật giây, phải lôi ra ánh sáng. Lớp người hết lòng vì Đảng, vì đất nước, trải qua 2 cuộc kháng chiến rất tự ái, lộn tiết khi nghe chúng ghép chung 1 bị với bọn cấp tiến phản động, trong đó có đ/c Hoàng Tùng ... thật là chuyện ngược đời !!
5. Vì sao chúng lấy Đại hội 10 làm mốc ?
Chúng đã cài cắm đặc tình khắp nơi khắp chốn mà cài cắm nắm giữ quyền lực 4 tổ chức: Quân đội, Công an, tổ chức, tư tưởng là việc đã làm được. Chúng hy vọng đến Đại hội 10 sẽ tiếp tục cài cắm nắm được quyền lực tối cao thì sẽ hành động dễ dàng, không cần tốn một viên đạn. Kinh nghiệm Goóc ba chốp giải tán Đảng Cộng sản Liên Xô, bài học chuyển hóa từ nội bộ chứ đâu từ đế quốc (không phủ định thủ đoạn của thế lực thù địch diễn biến hòa bình).
Vậy từ đây đến Đại hội X bè lũ khuynh đảo sẽ giở những sách gì nữa? Nhưng báo cáo Đảng ủy Quân sự Trung ương chúng đã viết: làm cho Đảng "ù tai", "mờ mắt". Vậy thì có thể dự báo thủ đoạn đê hèn xảo quyệt chúng đã làm là tung tin, rải truyền đơn gây tiếng nổ chỗ có đông người ... để chúng dễ lấy cớ mà đàn áp, vu oan cho người mà chúng muốn. Thậm chí sát hại, gây ra tai nạn ô tô như vụ cầu Tào mới đây.
Không loại trừ "chó dại cắn càn" thành ngữ mà tổ tiên đã dạy về cảnh giác. Về hình thức lấy danh nghĩa động binh để bảo vệ Đảng, đất nước, nhưng bên trong là âm mưu đen tối mà ở các nước, kể cả nước ta từ vương Triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã xảy ra.
Kính chào cộng sản
Trần Hà
Lão thành cách mạng quận Hoàn Kiếm Hà Nội
----- O -----
Nghĩ về Đảng
Bờm rằng bờm chán lắm rồi
những lời ngon ngọt loại người phú ông
Nói như chia núi cho sông
Mà chiếc mo quạt... thì ông vẫn đòi
Tôi vào lính tuổi tròn 16
để lại đằng sau bố mẹ , em thơ
đôi chân nhỏ nhoi rong ruổi mọi Miền
Lửa chinh chiến đốt tuổi xuân năm tháng
Cao trên hết hướng lòng về với Đảng
Là người cha chỗ dựa của niềm tin
Đến với Đảng đâu vì mác Lê Nin
Mà giản dị là tấm lòng yêu nước
Đến với Đảng để học điều nhân đức
Một chút cỏn con góp sức với đời
Nếu hôm nay còn một chút gì vơi
Thì ắt hẳn ngày mai đầy chan chứa
Thời gian trôi như bóng câu qua cửa
Đảng cứ lụi dần chân lý trong tôi
Sách mấy nghìn trang , chữ mấy triệu từ
Lúc trích Mác Lê, khi theo lời Mao ít
Đảng vẫn bảo dân là trên hết
Sao nói hộ dân và nghĩ cũng hộ dân
Đầu óc rỗng không, chỉ còn mỗi đôi chân
Cũng lại đứng bằng chân của Đảng
Những tuyên ngôn của buôỉ đầu cách mạng
Đảng không hề ham chức cao sang
(Chỉ bám quyền với mũ áo xênh xang
Tự ý chia nhau nhà cửa ruộng vườn)
Từ huyện , xã, quận, phường , thành phố
Đảng một bên , nhà nước một bên
Bao dinh sở chăng hàng dẫn lối
Đè nặng dân khôn kể Đảng ơi !
Đảng dạy dân giữ tấm lòng liêm khiết
Sao nhận quà tặng hàng triệu đô la
(của tư bản vốn không phải bạn ta
để cháu con lấp hồ ao , buôn xe cũ)
Muốn lấy lòng - Đảng tặng người lao động
Chức vu vơ trìu tượng: chủ nhân ông
(Làm chủ thiên nhiên làm chủ ruộng đồng
Chỉ tiền nong, quyền sát sinh lệ thuộc)
Thân ngọc ngà khi trở về với đất
Đảng chiếm giữ riêng Mai dịch cho mình
Đường phố đặt: Lê Duẩn, Trường Chinh
(Mà dân gọi đường Đa thê, bóc lột)
Các huyện tỉnh ổn định cùng Lịch sử
Bắt nhập vào rồi lại tách ra
Dân đói khổ, nghèo nàn, cơ cực
Lỗi tại dân , Đảng luôn đúng mọi phần !!
Ghế Đảng trị muốn luôn bền vững
Đảng xiềng luôn hai chữ tự do
Từ miền quê cho đến chốn đô thành
Chống chân lý bằng lưỡi lê và súng
Chữ đồng chí là mỹ từ vô nghiã
Đảng lộng quyền đạp dân chủ dưới chân
(Lửa chiến tranh đã tắt từ lâu
còn gây mãi cảnh nồi da xáo thịt ! )
Thơ của tôi là một hạt bụi rơi
Làm cộm mắt của Đảng ta vĩ đại
Nên nay gọi, mai ngấm ngầm , bắt bớ
Đảng vô song hay vô học đảng ơi ???
Nếu Đảng cậy có công giành đất nước
Chức , quyền , tiền, dân đã trả Đảng xong
70 năm Đảng có nợ dân không
Sao dân khổ Đảng cứ ngồi mà hưởng ?
Chốn trần ai lại công hầu khanh tướng
Đảng ngồi trên và dân lại dưới chân
Những ngôn từ: Các Mác, Lê Nin
Là vô nghiã là với con Hồng, cháu Lạc
So với Đảng có súng bom đại bác
Vần thơ tôi chỉ là tiếng thì thầm
Tố như ơi tôi sẽ đợi vài năm
để sự thật trả về cho Lịch sử
Chỉ người dân là muôn đời bất tử
Đảng làm càn sớm muộn phải tiêu vong
Tôi hằng tin ngày ấy sắp cận kề
(Năm hai ngàn linh lăm (2005) Đảng ạ !?!)Xuân Kỷ Mão 1999
Người lính già Vũ Cao Quận, Hải Phòng
Rút trong tập: Gửi lại trước khi về cõi.