Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam
Điện Thư - Số 47
Tháng 06 năm 2005
Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com
Tin Ghi Nhận:
• Nhà dân chủ hàng đầu Việt Nam, giáo sư Hoàng Minh Chính hiện đang phải nằm điều trị ở bệnh viện trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Gia đình cho biết, ông Chính phải vào bệnh viện cấp cứu vì bệnh tiêu chảy kéo dài trong nhiều ngày liền dẫn đến kiệt sức. Tuy nhiên, sau khi tiếp nước, sức khoẻ ông Chính đã bình phục, bệnh viện Việt Xô vẫn tiếp tục truyền 2 chai đạm cho ông mà chưa có ý kiến của gia đình. Kết quả là các khối ung thư tiền liệt tuyến đã bị vỡ. Chỉ trong 2 ngày, ông Chính đã phải trải qua hai cuộc phẫu thuật. Các bác sỹ ở bệnh viện Việt Xô cho biết là có thể sẽ phải đại phẫu cho ông Chính một lần nữa.
• Chuyến đi thăm Hoa Kỳ của Ông Phan Văn Khải vẫn không có dấu hiệu thay đổi. Ngoài việc gặp Tổng thống và các giới chức cao cấp trong chánh phủ Hoa Kỳ, ông Khải sẽ phải đối diện với phản ứng quyết liệt từ phía Cộng Đồng Người Việt tại hải ngoại. Đại diện cộng đồng từ nhiều tiểu bang trên Hoa kỳ và một số quốc gia khác có đông người Việt cư ngụ cũng sẽ tập trung về thủ đô Hoa Thịnh Đốn để bày tỏ thái độ chính trị. Bên cạnh cuộc biểu tình dự đoán to nhất tại Hoa Thịnh Đốn kể từ 1975 đến nay, cộng đồng cũng đóng góp tài chánh hơn $60,000 mỹ kim nhằm đăng thư ngỏ trên tờ báo uy tín Washington Post để thông báo chính giới và nhân dân Hoa kỳ về tình trạng mất nhân quyền, đàn áp tôn giáo và độc tài tại Việt Nam.
• Trung Quốc đang không ngừng nỗ lực phát triển sức mạnh quân sự. Tại Hội nghị an ninh quốc tế, được tổ chức ở Singapore hôm 4/6/2005, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld đã công khai bày tỏ mối quan ngại về diễn biến này.Ông Donald Rumsfeld cho rằng,Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân đội trong bối cảnh nước này không có mối nguy hiểm nào từ bên ngoài sẽ phá vỡ trạng thái cân bằng quân sự, đe doạ an ninh khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Mới đây, cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) cũng đã đưa ra bản "Báo cáo thách thức tình báo toàn cầu 2005". Bản báo cáo này liệt Trung Quốc vào danh sách các nước phổ biến vũ khí giết người hàng loạt cùng với Libya, Iran, Bắc Triều Tiên, và Nga, trong đó nhấn mạnh mối đe doạ của Trung Quốc chỉ sau Iran. Bản báo cáo này sẽ là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chiến lược của chính quyền Bush đưa ra các quyết sách đối với Trung Quốc. Một nghiên cứu của Lầu Năm Góc cũng tiết lộ rằng, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc hiện đứng thứ 3 trên thế giới, và đứng đầu khu vực.
----- O -----
SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ ĐỐI LẬP.
NguyenHai Son
Chính trị là rường cột của quốc gia. Không có nền chính trị vững vàng, quốc gia không thể phát triển được. Ba mươi năm so với chiều dài lịch sử không phải là dài, nhưng cũng đủ thời gian để chứng minh rằng: Con đường mà quốc gia đó chọn lựa là đúng hay sai ?
Quốc gia là tập hợp những con người sống trong một lãnh thổ dưới sự cai trị của một thể chế chính trị. Không có một nền chính trị đúng đắn, quốc gia không thể theo kịp các quốc gia khác; đừng nói gì đến chuyện “sánh vai các cường quốc năm Châu”. Một quốc gia muốn ganh đua, phát triển cùng thế giới phải có một hệ thống chính trị hữu hiệu để thu dụng nhân tài, vật lực của quốc gia mình.
Nền chính trị Cộng sản sai từ gốc. Cái gì đã xuất phát sai thì về sau cũng không thể đúng được. Thiên đường CS được xây dựng trên giáo điều là con người sinh ra không để phục vụ nhân dân, phụng sự đất nước mà để chiến đấu, hy sinh cho lý tưởng CS. Nhưng, CS là một xã hội như thế nào thì không ai biết. Cái gì để nuôi sống con người và điều gì làm quốc gia hưng thịnh thì lý thuyết CS không bàn đến.
Hàng vạn chiến binh CS không sợ tù đày, chết chóc vì họ tin một ngày nào đó cái lý tưởng CS sẽ trở thành hiện thực. Lý tưởng CS đã thấm sâu vào tim óc của họ, đã tạo ra một khoái cảm mà họ cho là chủ nghĩa lạc quan cách mạng. Trong ngục tù họ hát vang bài Quốc tế ca; trước khi bị xử bắn họ ca bài ca cách mạng. Hoàn toàn không có bài hát ca ngợi tinh thần dân tộc.
Con người là nhân tố quyết định trong mọi thể chế chính trị. Không có con người, quốc gia không thể xây dựng được. Một con người bảo thủ, độc đoán không thể xây dựng một thể chế dân chủ, văn minh? Một con người tham lam, dốt nát không thể xây dựng một xã hội rộng lượng… Có thể ví lãnh đạo một quốc gia giống như ông cha một gia đình. Nhìn vào tính cách của người cha, chúng ta có thể nói gia đình đó đang ở tình trạng như thế nào và phát triển ra sao.
Tính cách của những người đứng đầu quốc gia phản ảnh thể chế chính trị mà quốc gia đó theo đuổi? Không có Lý Quang Diệu sẽ không có một Singapore hưng thịnh, không có Hồ Chí Minh sẽ không có nước Việt Nam Cộng sản … Cho nên, nhiều học giả phương Tây muốn tìm hiểu lịch sử hiện đại VN, họ lại đi nghiên cứu về lai lịch của Hồ Chí Minh. Họ muốn biết Hồ Chí Minh là một con người như thế nào ?
Nền chính trị tốt đẹp là nền chính trị thuận lòng dân, nhờ đó mọi người dốc hết sức mình cho công cuộc chấn hưng đất nước. Nền chính trị tốt đẹp là mảnh đất màu mỡ để phát triển nhân tài, còn một nền chính trị phản động sẽ giết chết người tài. Nền chính trị CS không tìm được người tài đã phản ảnh phần nào cái bản chất phản động của chế độ.
Hệ thống cai trị của CS rất chặt chẽ. Tất cả các tổ chức, đoàn thể đều ở trong vòng kiểm soát của họ. Mọi cá nhân và tổ chức đều bị ràng buộc lẫn nhau, không thể thay đổi hoặc cải cách được. Guồng máy CS có nhiều ban bệ, nhiều chức vụ dẫm đạp lên nhau; do đó chức quyền thì nhiều nhưng làm việc không hiệu quả.
CS đang nắm trong tay quyền lực, nhân lực, và tài nguyên. Nhưng do chính sách sai lầm nên không kích thích được sản xuất, không thúc đẩy xã hội phát triển; họ lại còn phải nuôi cả một bộ máy cồng kềnh và không có năng lực. Một nền sản xuất thô sơ, một đội ngũ công chức đông đảo kèm theo đồng lương thấp kém nên các viên chức CS phải kiếm thêm tiền bằng cách ăn hối lộ, ăn cắp, ăn xén…
Lý thuyết CS cho rằng tư tưởng quyết định hành vi, nhưng vật chất lại quyết định ý thức. Như vậy, vật chất quyết định hành vi con người ?
CS luôn lấy tư tưởng Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) làm định hướng cho những chính sách của mình. Mục tiêu của họ là lật đổ chế độ tư bản vì cho rằng bản chất của tư bản là bóc lột. Những ý tưởng ưu việt về công bằng XHCN không thể thực hiện được bằng các chính sách kinh tế, nên họ dùng chuyên chế vô sản để thực hiện sự cào bằng. Đảng đã dùng quyền lực của mình để can thiệp vào các mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, chế độ CS đã sinh ra một kiểu bất công khác, không dựa trên quy tắc và luật lệ xã hội mà dựa trên quyền lực của đảng.
Những bất công mà chế độ CS tạo ra còn nặng nề, sâu xa và nguy hại hơn rất nhiều so với những tồn tại trong chế độ tư bản. Nhân loại sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức để sửa chữa những hậu quả này. Khi chưa sống với CS, nhiều người có thể cho rằng xã hội CS là một thiên đàng; nhưng nếu đã sống rồi, họ sẽ thấy xã hội CS ngu dốt, man rợ và tàn bạo.
Chính sách CS chỉ áp dụng trong những quốc gia có trình độ sản xuất lạc hậu, lôi kéo những con người ít học. Khi xã hội phát triển đến một mức độ nào đó, dân trí được nâng cao, con người ta sống sung túc tiến bộ hơn; cái lý thuyết CS mặc nhiên bị vất bỏ.
Ở những nước có nền sản xuất nhỏ và trình độ thấp, mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với thực tế của đất nước đó. Nhưng do cái bệnh thành tích và duy ý chí, CS bao giờ cũng “thổi to” cái hình thức của mình hơn so với hoàn cảnh. Không có bệnh thành tích, cái vỏ bọc ngoài, thì CS không thể tồn tại.
Doanh nghiệp quốc doanh ôm một mớ tiền, xây một trụ sở thật to nhưng làm ăn không hiệu quả. Hiệu quả là gì? Đơn giản là ít nhân lực, ít vốn, ít chi phí… nhưng hoạt động sinh lợi nhiều. CS chưa bao giờ tính toán hiệu quả bằng những phương pháp khoa học. Do vậy, còn CS lãnh đạo thì đất nước chỉ rơi vào nghèo nàn, tụt hậu chứ làm sao mà tiến lên được. Ngay cả nước Nga, trước cách mạng tháng Mười, là một cường quốc phương Đông, nhưng sau một thời gian theo CS thì họ đã xuống hạng.
Những ai đã sống trong chế độ CS sẽ nhận thấy một điều là CS không có nền tảng cho sự phát triển. Sự áp đặt đã giết chết tính cách, nền kinh tế chỉ huy đã làm tàn lụi sức sáng tạo. Cho nên, càng đầu tư làm ăn càng thua lỗ, càng mở rộng sản xuất càng giảm khả năng cạnh tranh… Bài học mía đường, bài học đánh bắt xa bờ, bài học cà-phê chè ở các tỉnh Trung du Bắc bộ… đã để lại những kinh nghiệm đau thương. Tất cả những hậu quả này là do chính sách cải cách nửa vời, là do theo đuổi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Đảng muốn mở cửa hội nhập để thoát ra khỏi tình trạng bế tắc hiện nay; nhưng nhiều quan chức đảng không muốn thay đổi. Có người lại muốn quay lại thời bao cấp; cái thời mà con người ta cần phải hô khẩu hiệu thật nhiều, thì mới được đánh giá là có tinh thần theo Đảng.
Do vậy có thể nói, những gì CS phải đối mặt ngày hôm nay là hậu quả của những chính sách cai trị của họ ngày hôm qua. Mỗi địa phương, mỗi cộng đồng đều chịu những hậu quả của nó; và chắc chắn, Hà Nội chưa bao giờ tính trước được những khó khăn này. CSVN đã biến thái rất nhiều so với những lý thuyết CS chính thống, và cũng khác xa những gì mà các chính khách phương Tậy dự đoán. Hậu quả của xã hội VN có thể tóm tắt từ ba nguyên nhân sau đây:
Trong lịch sử nhân loại, không thấy một thể chế chính trị nào khoan dung đối với những người trong guồng máy của mình, nhưng lại xử phạt nghiêm khắc dân chúng. Ngay cả chế độ phong kiến ngày xưa, quan có thể bị xét xử một cách nghiêm minh để làm gương.
Trong xã hội CS, cùng một tội danh nhưng quan và dân được xét xử dưới hai hình thức khác nhau và theo hai mức án khác nhau. Sự công bằng đã biến mất ngay chính trong hoạt động tố tụng; và hậu quả là nền tư pháp quốc gia bị bẻ gãy. Đây là khiếm khuyết chung cho những chế độ độc tài, và là nguyên nhân dẫn đến sụp đổ.
Độc tài kích thích sự bạo ngược, bạo ngược giết chết tự do, và mất tự do là con đường dẫn đến suy tàn. CSVN không phải là đế chế nhưng sự bạo tàn của họ còn hơn cả đế chế; sự bạo tàn nhằm khuất phục những kẻ chống đối và tiêu diệt những tư tưởng đối lập.
CS là những con người cực kỳ bảo thủ; quan điểm bảo thủ đã ăn sâu vào tâm thức của họ nên rất khó thay đổi. Những lời phát biểu của ông Lê Đăng Doanh trước cán bộ cao cấp ở Hà Nội vào cuối năm 2004 chỉ làm cho quan chức đảng mơ hồ về những thay đổi sắp xãy ra, còn thay đổi ra sao thì họ không thể mường tượng đựơc.
Trước đây, những họat động trong guồng máy đảng là bí mật; không ai biết chuyện gì đang xảy ra và con số chính thức của nó là bao nhiêu? Chuyện nội bộ đảng không bao giờ được công khai; ai muốn công khai là có ý đồ chống đảng. Hôm nay, những chuyện kín đáo như vậy lại bày ra trước bàn dân thiên hạ, làm cho quan chức CS rất lúng túng.
Một thể chế chính trị sai lầm sẽ dẫn đến những hệ lụy về kinh tế. Một nền kinh tế bệ rạc sẽ phát sinh những vấn nạn xã hội. Những bất công của xã hội VN có nguồn gốc từ chính trị, do đó muốn giải quyết những vấn đề của xã hội VN không có cách nào khác là phải “bứng” cái gốc rễ chính trị thối nát đi.
Từ những phân tích ở trên để thấy rằng: VN cần phải thay đổi cấp bách và triệt để. Có nghĩa là phải thay đổi tận gốc rễ chính trị, chứ không phải thay đổi kinh tế, giáo dục hay xã hội. Những từ ngữ như là “cải cách kinh tế”, “cải cách hành chánh”, “đổi mới tư duy”… chỉ là những trò bịp bợm vẽ vời. Những trò này chỉ làm cho đất nước càng đi vào ngõ cụt.
Ai cũng biết, CS không bao giờ từ bỏ quyền lực của mình. Ngay cả chuyện đơn giản nhất là từ chức để bảo vệ danh dự mà họ còn không làm được, thì việc từ bỏ quyền lực chỉ là chuyện hoang đường. Từ chức có nghĩa là mất tất cả! Từ bỏ quyền lực là một tấn bi kịch mà những người CS kiên cường nhất không bao giờ dám nghĩ tới.
CS cố ngụy tạo cho thế giới thấy rằng; họ muốn xóa đi đói nghèo của đám dân đen, nhưng thực tế họ đang làm cho đám quan chức ngày thêm giàu có; có nghĩa là bất công xã hội ngày càng gia tăng. Họ cho rằng; dưới sự lãnh đạo của đảng, đất nước VN sẽ trở nên hùng cường. Đây chỉ là trò ngụy biện nhằm đeo bám quyền lực.
Một hệ thống chính trị gồm những con người không chịu trách nhiệm trước dân chúng, nhưng cũng không muốn từ bỏ quyền lực thì quốc gia đó sẽ về đâu ?
Ở một quốc gia dân chủ luôn có đảng cầm quyền và đảng đối lập; đây là sự cân bằng ở thượng tầng kiến trúc. Trong một cuộc bầu cử dân chủ, nếu một đảng phái thắng cử, họ có một thời gian để thi thố đường lối của mình. Nếu đường lối lãnh đạo mang lại lợi ích cho xã hội thì quần chúng sẽ tiếp tục ủng hộ, còn không thì “xin mời” xuống cho người khác lên làm.
Một đảng lãnh đạo dở mà cứ tham quyền cố vị thì chắc chắn đất nước sẽ rơi vào khủng hoảng và tụt hậu. Cái tội dở mà làm dai!
Hoạt động chính trị có mục tiêu là mang lại công bằng cho tất cả mọi người và trên mọi lãnh vực.
Trong một xã hội dân chủ-đa đảng, dân chủ về mặt xã hội và đa đảng về mặt chính trị; những đảng phái chính trị có một cơ hội để trình bày những quan điểm của mình. Đó là sự công bằng. Sự công khai và minh bạch trên chính trường sẽ tạo điều kiện công khai và minh bạch trong các hoạt động xã hội khác.
Chính trị sẽ mở đường đi tìm sự công bằng thông qua tiếng nói của mình. Nhưng CS không bao giờ tạo cơ hội cho sự công bằng, dù chỉ là công bằng trong lời ăn tiếng nói. Vậy thì những nhà hoạt động dân chủ sẽ làm gì ?
Trước đây, CS dựa vào ba dòng thác cách mạng của thời đại để tiến công và giành thắng lợi. Hôm nay, những người không cộng sản cũng biết khai thác những suy yếu của CS để giành ưu thắng cho mình:
Chính trị là đức tin về sự công bằng. Niềm tin chính trị là niềm tin mạnh mẽ và lớn lao nhất. Vì niềm tin này, nhiều người cầm súng chiến đấu và hy sinh.
Trước đây, những chiến sĩ Việt Cộng tin rằng; Đế quốc Mỹ là những tên xâm lược, chủ nghĩa Cộng sản sẽ chiến thắng trên toàn thế giới… do đó họ không ngại gian khổ, chết chóc để chiến đấu cho lý tưởng. Lý tưởng CS thì cao xa, còn thân xác thì bé bỏng. Cho đến một ngày, họ nhận ra cái lý tưởng mà họ một thời tôn thờ và chết cho nó, chỉ là cái bánh vẽ. Đức tin đã hoàn toàn sụp đổ!
Chính trị là thống soái, là thượng tầng kiến trúc mà mỗi quốc gia phải xây dựng cho bằng được. Không có tư tưởng chỉ đạo, mọi chính sách kinh tế-xã hội không thể thực hiện được. Và quốc gia có nguy cơ sụp đổ.
Một xã hội thiếu niềm tin chính trị, xã hội đó sẽ dẫn đến khủng hoảng. Xã hội miền Nam trước đây là một ví dụ. Miền Nam được xây dựng trên quyền lực của một số tướng lĩnh; quyền lực và sự giàu sang của họ có được là nhờ vào sự can thiệp và viện trợ quân sự của Mỹ. Khi người Mỹ rút đi đã để lại một khoảng trống chính trị. Cho nên, khi nghe tin CS sắp chiếm một nơi đang sinh sống, họ đã vội vàng từ bỏ nó. Hành vi này đã tạo nên một sự bất an trong binh sĩ và dân chúng. Cuối cùng, sự bỏ chạy của họ đã tạo nên cơn hỗn loạn thật sự khi CS có mặt ở miền Nam vào năm 1975.
Nhiều người than phiền rằng; con người VN hôm nay không có lòng tự hào dân tộc và không tôn trọng danh dự Tổ quốc. Điều này cũng đúng thôi, bởi vì đâu có còn Tổ quốc mà để tự hào. Tất cả những gì của dân tộc, đều đã bị hy sinh cho lý tưởng Cộng sản hết rồi.
Hơn lúc nào hết, trong lúc này, chúng ta cần phải định nghĩa thế nào là lòng yêu nước. Yêu nước là yêu đám dân nghèo không tên, không tuổi? Yêu nước là yêu nơi ta được sinh ra và nuôi lớn? Yêu nước là yêu mồ mả tổ tiên ông bà? Yêu nước là yêu kỷ niệm thời thơ ấu; cây đa đầu làng, dòng sông trưa hè, góc phố quạnh hiu?...
Lòng yêu nước có thể được diễn tả theo cách riêng của mỗi người, nhưng tất cả đều hướng về cội nguồn thiêng liêng. Chúng ta có thể đánh giá lòng yêu nước của một dân tộc thông qua tinh thần cộng đồng của người dân nước đó ?
Cho đến nay, lòng yêu nước của nhân dân VN vẫn tiếp tục bị ngộ nhận và lợi dụng. Ông Lê Duẩn đã từng định nghĩa: Yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã hội. CS dạy cho học sinh yêu những cái to tát, vĩ đại và mơ hồ, chứ không phải yêu những điều gần gũi và thân thương. Hậu quả ngày hôm nay, nếu có hỏi một sinh viên: Thế nào là lòng ái quốc? Anh ta sẽ không trả lời được, và hình như chính quyền không muốn nhắc đến chuyện này. Lòng ái quốc là một danh từ cao đẹp, đến nỗi, nó được giành để đặt tên riêng cho một người.
Yêu thì ai cũng hiểu rồi! Nước là nước non, là giang sơn Tổ quốc… Yêu nước có nghĩa là thương nòi. Thương dân là khi thấy dân đau khổ, phải xót xa căm giận ?
Những con người sống trên đầu trên cổ dân đen, những con người làm cho đất nước ngày càng nghèo nàn, tụt hậu; đó là bọn phá nước hại dân ?
Yêu nước là tìm ra một con đường để đưa đất nước thoát ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu và tủi nhục. Con đường đó có thể là lãnh đạo nhân dân đứng lên lật đổ độc tài; lật đổ những thế lực đã đưa dân tộc vào con đường suy vong, không lối thoát.
Bất cứ xã hội nào cũng có tầng lớp đại diện cho sự thống trị của xã hội đó. Thời trung cổ thì có tầng lớp tăng lữ, quý tộc; thời phong kiến thì có quan lại, địa chủ; thời tư bản thì có ông chủ, chính khách; thời CS thì có các quan chức Đảng… Nhưng bất cứ thời nào cũng có dân; những người lao động lương thiện, chiếm đa số và làm nên bộ mặt của xã hội đó.
Khi quyền lợi của dân chúng và giai cấp thống trị mâu thuẩn sẽ phát sinh những bất ổn xã hội. Và những bất ổn này phải được giải quyết bằng các biện pháp chính trị.
Chính trị là đỉnh cao của nghệ thuật cai trị và là khoa học của mọi khoa học. Những con người ưu tú nhất của quốc gia mới có khả năng theo đuổi con đường chính trị. Chưa thấy một công trình xã hội học nào nghiên cứu: Tại sao những người hành nghề luật sư, bác sĩ thích lao vào con đường chính trị? Có lẽ do quan niệm về sự công bằng và chí hướng của họ?
Trong xã hội CS, sự giàu có xuất phát từ quyền lực hoặc gắn liền với quyền lực. Một tầng lớp quan chức giàu có đông đảo sống trên đầu trên cổ đám dân đen nghèo khó làm cho xã hội mất cân bằng. Những bất ổn xã hội sẽ làm cho vị thế của quyền lực bị chông chênh, và thay đổi chính trị sẽ xóa sổ một tầng lớp lãnh đạo độc tài. Điều này đã từng xảy ra ở những nước theo chế độ CS.
Khi giàu có con người ta sợ mất của, sợ chết… Sự giàu có và quyền lực của tầng lớp thống trị, lẽ ra, được dùng để xây dựng thành lũy chống lại sự đối kháng. Nhưng ngược lại, họ ôm của cải bỏ chạy trước khi sự đối kháng đến. Sự giàu sang không được xây dựng trên nền tảng chính trị sẽ làm chế độ mau sụp đổ hơn. Nguyên lý này cũng đúng cho hoàn cảnh của CSVN hiện nay.
Để kêu gọi đầu tư, Hà Nội cho rằng, VN là một quốc gia có nền chính trị ổn định nhất. Nhưng thật ra, hệ thống chính trị CS là mong manh và dễ sụp đổ nhất.
Ngày 29 tháng ba vừa qua, nhân dịp mit-tinh kỷ niệm 30 năm ngày “giải phóng” thành phố Đà Nẵng. Ông bí thư Ủy thành phát biểu rằng: “Thành tựu mà đảng bộ và chính quyền thành phố đạt được trong ba mươi năm qua là được lòng dân…” CS mà được lòng dân thì chỉ có ông Bí thư này phát biểu. Đây là cái kiểu nói “cả vú lấp miệng em”. Có được lòng dân hay không thì phải hỏi dân, chứ làm sao ông ta có thể chủ quan nói được? Ông ta cũng biết rằng; ý dân là ý trời, cho nên cần phải nói chặn ngọn trước. Đây là đòn chính trị áp đảo, để người dân khỏi phải mất công suy nghĩ là CS đã cho họ được những gì trong ba mươi năm qua ?
Thượng bất chính, hạ tắc loạn. “Chính” ở đây, không chỉ là tính chính trực của tầng lớp lãnh đạo, mà còn là sự chính nghĩa của chế độ và tính đúng đắn của hệ thống chính trị. Xã hội Việt Nam hiện nay bầy hầy, nhếch nhác và hỗn loạn là do cái sự bất minh, bất chính ở thượng tầng...
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc nhưng sự hòa hợp, hòa giải vẫn chưa thấy. Một dân tộc không có hòa hợp, thì dân tộc đó không thể đồng tâm nhất trí để xây dựng đất nước. Hà Nội không có một giải pháp chính trị cho những xung đột trong quá khứ. Họ chỉ muốn giải quyết nhanh chóng mọi xung đột bằng biện pháp bạo lực, do đó mâu thuẩn ngày càng chồng chất và kéo dài đến ngày nay.
CS tự vỗ ngực rằng; họ đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, non sông đã thu về một mối… Không ai nhận thấy sai lầm là họ đã thống nhất đất nước bằng biện pháp quân sự. Không có một giải pháp chính trị, Hà Nội đã tạo nên một lực lượng chống đối từ nơi khác, không phải trong lãnh thổ VN mà từ hải ngoại. Đối với lực lượng này, họ còn khó đối phó và giải quyết hơn là chính phủ miền Nam trước đây.
Những ngày cuối tháng tư năm 1975, nhiều người hy vọng một giải pháp chính trị cho miền Nam. Nhưng CS miền Bắc đang ở thế thắng trận thì ngu gì họ tìm kiếm hòa bình? Ngay cả Pháp và Trung quốc cũng muốn tìm một giải pháp chính trị cho Đông Dương vào thời điểm đó, nhưng làm sao mà có được?
Khi những giá trị về tự do, dân chủ và công bằng được Hà Nội sử dụng như những trò lừa bịp trắng trợn, thì lòng tin của dân chúng đã bị tổn thương một cách nghiêm trọng.
Hơn lúc nào hết, những người yêu nước VN phải ý thức được thân phận của dân tộc mình. Sự bất mãn của dân chúng đã lên đến tột đỉnh, và sự thối rữa của xã hội đã đến mức rã rời. Do vậy, cần phải có một lực lượng chính trị để hướng dẫn sự phản kháng của dân chúng thành những hành động có mục đích, tập trung lực lượng, và cuối cùng là giật bỏ “cái mặt nạ CS”.
Trong hoàn cảnh hiện nay, tầng lớp CS chóp bu có chấp nhận một giải pháp chính trị hay không, là tùy họ. Nhưng sự ra đời của các chính đảng đối lập là tất yếu; bởi vì các lực lượng này không chỉ giải quyết những vấn đề của xã hội Việt Nam hôm nay, mà còn giải quyết những khúc mắc do lịch sử để lại.
Lịch sử đã cho chúng ta một số phận, không có sự chọn lựa nào khác; một số phận vinh quang và tuyệt đẹp.
Việt Nam ngày 19/05/2005.
----- O -----
CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ-KHÁT VỌNG CỦA NHÂN DÂN.
Việt Cường
Tôi tin rằng cho đến lúc này, thì với đa số người Việt Nam chúng ta, những người quan tâm đến vận mệnh đất nước, với tương lai của chính con cháu mình, đã có thể đồng thuận với nhau rằng: Phải có thay đổi về chính trị tại Việt Nam.
Một hạ tầng là nền Kinh tế thị trường mà thượng tầng là Chủ nghĩa cộng sản đã không thể cởi trói cho xã hội Việt Nam phát triển. Hiện tại của Việt Nam sau bao nhiêu năm “đổi mới” đến giờ, cho dù đã có những thành công bước đầu, vẫn không thể có mức tăng trưởng và phát triển cần thiết để so sánh với các quốc gia trong khu vực, chưa nói đến chuyện đuổi kịp các nước phát triển khác trên thế giới.
Muốn cải tổ kinh tế thành công và bền vững phải cải cách chính trị triệt để. Mười năm năm qua, Việt Nam đã có những cố gắng để cải thiện nền kinh tế.Tuy nhiên, do những ràng buộc về quyền lợi gắn chặt giữa kinh tế và chính trị, với việc vẫn lấy khối doanh nghiệp nhà nước làm động lực chính để phát triển nền kinh tế, đã khiến khu vực kinh tế Tư nhân Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn. Cơ sở luật pháp bất cập, thiếu công bằng, thiếu rõ ràng và minh bạch gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Việt Nam vẫn chưa là một nước có nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, thành ra trong các cuộc trao đổi, mua bán, giao dịch quốc tế, chúng ta luôn phải chịu thua thiệt và bất công. Với một xuất phát điểm cực kì thấp như nền kinh tế Việt Nam thì tăng trưởng 7-8% mỗi năm không phải là dấu hiệu cho phép ta lạc quan thái quá, cơ hội để bắt kịp các nước vẫn còn mờ mịt.
Hiện nay, sự phát triển kinh tế ở nước ta mang lại nhiều lợi ích cho một bộ phận nhỏ trong xã hội tập trung ở khu vực kinh tế hướng ngoại, nghĩa là những thành phần giao thương buôn bán với nước ngoài. Còn phần lớn dân chúng, đặc biệt là ở nông thôn Việt Nam chưa hưởng được lợi ích nhiều từ công cuộc “đổi mới” này. Điều đó dẫn đến sự ngăn cách giàu nghèo ngày càng lớn, và đây là mầm mống cho sự bất ổn xã hội trong tương lai.
Đấy là về lĩnh vực kinh tế, bây giờ chúng ta thử bàn về lĩnh vực chính trị.
Trước hết chúng ta phải nhất trí với nhau trên một vài nhận định chung:
- Môn xã hội học, hoặc chính trị học không thể có sự chính xác tuyệt đối như khoa học tự nhiên, tức là không thể như toán học là 1+1=2. Vì thế có những tư tưởng hay học thuyết, lập luận hết sức sai lầm vẫn bị lợi dụng với một sự diễn giải ngụy biện, dối trá để phục vụ cho mục đích của cá nhân, đảng phái, thậm chí bằng những lí lẽ rất cao siêu và nhân văn, nó nhân danh mọi thứ tốt đẹp nhất trên đời như Tổ quốc , Dân tộc, Nhân dân, Lòng yêu nước,…Vì vậy mà chúng ta hãy nhất trí với nhau rằng mọi lí thuyết, tư tưởng đều phải đối chứng với thực tế của cuộc sống. Chúng ta chỉ công nhận những điều mà thực tế đã chứng minh là đúng.
- Chúng ta cần phải thẳng thắn nhìn nhận rằng: Việt Nam đang là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Chúng ta đừng nên mất công đi tìm những chân lí mới, mô hình mới trong tương lai xa vời và mù mịt, cái tương lai mà chưa ai hình dung ra như thế nào. Chúng ta không cần phải chứng minh cho cả thế giới biết rằng chủ nghĩa Cộng sản sẽ đúng hay sai trong tương lai. Điều mà chúng ta phải lo là những chuyện trước mắt như sự ấm no, tự do, hạnh phúc của chính chúng ta, của nhân dân Việt Nam. Mà để làm được những việc đó thì chúng ta cứ việc học hỏi những gì mà các nước khác đã làm, và đã thành công.
- Chúng ta phải khẳng định rằng: Không có nhân dân tồi và xấu mà chỉ có chính quyền là tồi và xấu mà thôi. Sự thành công của các nước giàu có và phát triển là do họ có một chính quyền năng động và giỏi giang, một chính quyền biết lo nghĩ cho nhân dân mình. Một gia đình nghèo khó là do bố mẹ không biết làm ăn tính toán, một công ty thua lỗ phá sản là do lãnh đạo công ty tồi.Cứ như vậy mà suy ra rằng, một đất nước đói nghèo khổ sở là do chính quyền kém cỏi, bất tài. Bất cứ người dân nào, trong bất cứ một quốc gia nào, đều mong muốn một cuộc sống tốt đẹp, có một chính quyền biết lắng nghe và chia sẻ để họ có thể yên ổn làm việc và cống hiến một cách hết mình. Đổi lại, họ sẽ có một cuộc sống đầy đủ và tự do. Nhân dân luôn yêu chuộng hòa bình, lẽ phải, công lí… Khát vọng và mong muốn của mọi người trên hành tinh này là như nhau, người Việt Nam chúng ta cũng vậy. Đó là Sự Thật.
Khi chúng ta nhất trí với nhau về những nhận định trên thì mới có thể bàn luận tiếp về chính trị. Nhiều người trong chúng ta luôn có thái độ lẩn tránh chính trị. Họ cho rằng chính trị không có liên quan gì đến họ. Nhưng thực ra không phải. Sự giàu-nghèo, sướng-khổ của mỗi người dân đều chịu sự tác động trực tiếp từ chính quyền, từ thể chế chính trị. Vì lẽ đó, nhân dân cần phải tham gia vào đời sống chính trị. Ngay từ đầu thế kỷ 20, nhà chí sỹ Phan Châu Trinh đã viết: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân nào ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường... Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi.”
Cụ thể hơn, gắn liền với đời sống xã hội ta ngày nay, một trí thức trong nước cũng bàn về sự tham gia của nhân dân trong đời sống chính trị như sau: “Là một công dân của đất nước, chúng ta có quyền, đồng thời là nghĩa vụ, đóng góp ý kiến về những đường hướng và chính sách của đất nước. Chẳng gì thì những quyết sách này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của chúng ta, ví dụ như quyết định cấm đăng ký xe máy trong nội thành, quy hoạch thành phố, bỏ kỳ thi tuyển sinh đại học, tăng giá xăng dầu, tham gia WTO, chống tham nhũng và cửa quyền như thế nào v.v... Đó là chưa kể đến những quyết định quan trọng liên quan đến sống hàng triệu người: nên đặt ưu tiên giao thương với Hoa Kỳ hay Trung Quốc, nên khai thác nguyên tử năng hay đắp đập thủy điện ?”....
* *
Việt Nam vẫn còn là một trong bốn nước cuối cùng trên thế giới theo Chủ nghĩa Cộng sản. Sự thất bại của chủ nghĩa này đã được chứng minh không chỉ trên lý thuyết, mà còn bằng sự sụp đổ của Liên Xô cũng như các nước Đông Âu. Trong bốn nước cộng sản cuối cùng này, Việt Nam đang có nguy cơ đứng cuối bảng! Đây là một mối nguy mà chúng ta không thể không nghĩ đến. Dẫn đầu trong nhóm 4 nước này là Trung Quốc, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế trong hơn 2 thập niên qua, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc. Trung quốc sẽ có thay đổi về chính trị. Sự phát triển quá nhanh chóng của nền kinh tế Trung quốc đã khiến cho giới lãnh đạo cộng sản phải có những bước đi thích hợp trong việc cải cách chính trị. Nếu không sẽ dẫn đến những bất ổn mà chính quyền cộng sản Trung quốc không thể giải quyết nổi. Một cuộc tổng khủng hoảng tại Trung quốc hoàn toàn có thể xảy ra. Cho dù thế nào thì Trung quốc cũng hơn hẳn Việt Nam về mọi mặt, trong hiện tại cũng như tương lai.
Nước thứ hai là Bắc Triều Tiên, dưới sự lãnh đạo “tài tình và sáng suốt” của đảng cộng sản Bắc Triều Tiên mà nhân dân nước này đang thiếu đói triền miên. Với việc vắt kiệt sức dân để sản xuất vũ khí nguyên tử, nhằm đối phó với bên ngoài, Bắc Triều Tiên đang phải đối đầu với sức ép ngày càng lớn của thế giới. Chính quyền Bush sẽ áp dụng những chính sách cứng rắn hơn về vấn đề vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn. Cuộc sống của người dân Bắc Hàn hiện tại không thể bằng được cuộc sống của người Dân Việt Nam. Thế nhưng một may mắn rất lớn cho Bắc Triều Tiên là người anh em phía Nam của họ, tức Hàn Quốc, đã không mù quáng đi theo chủ nghĩa cộng sản, họ đã nhanh chóng hòa nhập vào nền văn minh của thế giới. Năm mươi năm qua, đi theo con đường phát triển tư bản đã khiến Hàn Quốc từ một nước nghèo nàn và kiệt quệ sau chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, trở thành một nước công nghiệp phát triển. Bằng cách này hoặc cách khác rồi hai miền Triều Tiên sẽ được thống nhất, khi đó người anh em Hàn Quốc sẽ là cứu tinh cho Bắc Hàn. Họ sẽ đổ sức người, sức của để tái thiết Bắc Hàn. Rồi giống như Tây Đức và Đông Đức, người dân Bắc Triều tiên, sau một thời gian sẽ được hạnh phúc và sung sướng, cho dù không thể bằng người Hàn Quốc được nhưng rất có khả năng là sẽ sung sướng hơn người Việt Nam chúng ta.
Nước thứ ba trong nhóm này là Cuba, với thu nhập trung bình của người dân 8$/tháng, quả thật là khủng khiếp. Thế nhưng sự kiện mới đây, lần đầu tiên hơn 200 nhà dân chủ Cuba đã nhóm họp tại thủ đô La Habana, mà không bị chính quyền dùng vũ lực giải tán đã khiến người dân Cuba có thể hy vọng vào một ngày mai tươi sáng. Chắc có lẽ Cuba sẽ là nước đầu tiên trong 4 nước cộng sản cuối cùng này có tự do và dân chủ. Khi đó với sự ủng hộ mạnh mẽ của một lượng kiều dân rất lớn Cuba đang tị nạn tại Mỹ, với ưu thế trong lĩnh vực du lịch, công nghiệp mía đường và sự phát triển về y tế, Cuba sẽ nhanh chóng phát triển và sẽ hơn hẳn chúng ta.
Cuối cùng còn lại Việt Nam chúng ta! Chúng ta sẽ ra sao ? Và sẽ ở đâu trên trường quốc tế ? Đâu là lối thoát cho chúng ta ? Chúng ta phải làm gì ?
Câu trả lời là: Việt Nam phải có thay đổi về chính trị! Nói thẳng ra là phải có Đảng đối lập, phải có báo chí tự do, phải có bầu cử tự do. Một Đảng đối lập ra đời là nhu cầu bức thiết của nhân dân.Thế nhưng Đảng đối lập ở đâu? Ở Việt Nam đã có các lực lượng đối lập dân chủ, nhưng điều mà chúng ta cần là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các thành phần đó. Sau 30 năm có lẽ bây giờ là giai đọan chín muồi để thành lập Mặt trận Dân chủ đối lập. Phải có nơi hội tụ cho những khát vọng thay đổi. Rất nhiều người có tấm lòng với đất nước nhưng đang "bơ vơ", không biết dựa vào lực lượng nào để góp sức.
Chúng ta phải khắc phục những nhược điểm như: óc bè phái, nghi kỵ, thiếu tinh thần đoàn kết,v.v… Chúng ta phải dẹp bỏ sang một bên mọi bất đồng, để sát cánh bên nhau, vì một lí tưởng duy nhất trong lúc này là dân chủ hóa đất nước. Có như vậy, khát vọng dân chủ mới có thể sớm thành hiện thực.
Gần 80 năm về trước, nhà yêu nước vĩ đại Phan Châu Trinh đã đi sâu nghiên cứu những nhược điểm cơ bản về văn hóa xã hội Việt nam, Cụ thấy rõ nguyên nhân sâu xa của sự thua kém về văn hóa xã hội của xã hội ta so với phương Tây đã đưa đến mất nước, bị đô hộ ngày càng khốc liệt…, Phan Châu Trinh là người đầu tiên đi tìm và tìm thấy nguyên nhân sâu xa “đã đưa đến mất nước và bị đô hộ ngày càng khốc liệt” không phải ở đâu khác mà là chính ở trong văn hóa, ở “những nhược điểm cơ bản về văn hóa xã hội của xã hội ta so với phương Tây” (1)
Về nhược điểm văn hoá của chúng ta, một tác giả phân tích: “… Truyền thống nô lệ tuy, một mặt, do những bắt buộc của nó, đem lại cho chúng ta một số đức tính - chịu đựng, nhẫn nại, siêng năng, học nhanh, thích nghi nhanh với những thay đổi đột ngột - nhưng đồng thời cũng tạo ra trong chúng ta những khuyết tật lớn cần phải mau chóng khắc phục. Không có tự do, chúng ta thiếu sáng tạo. Sự thiếu thốn và nghèo khổ khiến chúng ta trở thành ghen tức và nhỏ mọn. Quen chịu đựng sự ác độc của kẻ thống trị, chúng ta trở thành ác độc với nhau. Quen nhìn đồng loại bị khinh bỉ và chà đạp, chúng ta nhiễm tập quán coi thường lẫn nhau và chỉ biết nể sợ người nước ngoài. Không được quyền quyết định, chúng ta thiếu tinh thần trách nhiệm. Quen nhận những mệnh lệnh mâu thuẫn và tùy tiện của kẻ thống trị, chúng ta không quen phê phán và cũng không cảm thấy nhu cầu phải giải quyết những mâu thuẫn của chính mình, v.v. Nhưng khuyết tật lớn nhất là thiếu văn hóa tổ chức. Những kẻ nô lệ không được quyền kết hợp với nhau vì kết hợp với nhau họ sẽ có sức mạnh để bẻ gẫy ách nô lệ, điều mà kẻ thống trị không bao giờ dung túng, từ đó họ không biết kết hợp và dần dần không cảm thấy nhu cầu kết hợp, thay vào đó mỗi người tìm cách giải quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân”. (2)
Điều quan trọng nhất là chúng ta phải đoàn kết. Đoàn kết là sức mạnh. Hãy tin tưởng vào nhau, tránh chia rẽ, công kích nhau. Dân chủ là phải biết lắng nghe, trao đổi trên tinh thần hòa nhã, tôn trọng lẫn nhau. Phải biết chấp nhận những ý kiến khác biệt. Đa nguyên là một đặc tính tất yếu của mọi xã hội.
**
Ở trong nước hiện tại rất khó xuất hiện một vị lãnh tụ dân chủ đứng ra công khai tập hợp quần chúng, bất cứ sự xuất hiện nào cũng có thể bị …vào tù, ngay lập tức. Một cách để dân chủ hóa đất nước nhanh nhất là xuất hiện một Gor-Ba-Chôp Việt Nam, trong thành phần lãnh đạo cao cấp của chế độ cộng sản. Tuy nhiên, hiện tại nhân vật đặc biệt này vẫn chưa thấy xuất hiện. Không phải trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam không có những người tâm huyết với đất nước, thế nhưng ở đây lại vướng mắc một vấn đề rất lớn về văn hóa Việt Nam, đó là những kẻ xấu thì dễ liên kết với nhau hơn là những người tốt. Trong Bộ Chính trị của đảng cộng sản Việt Nam chỉ có 6 người theo đường lối bảo thủ, cực đoan. Nhưng 6 người này lại liên kết với nhau rất chặt chẽ, còn 8 vị kia lại không thể liên kết với nhau được, mặc dù rất có thể là họ cũng tâm huyết với đất nước, và đó là một bi kịch cho đất nước chúng ta.
Một trong những sự kiện rất đáng được quan tâm, đó là trong thời gian qua đã có rất nhiều tiếng nói được cất lên từ những vị cựu lãnh đạo cao cấp của đảng, nổi tiếng nhất là ông cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và ông cựu Tổng bí thư đảng Lê Khả Phiêu… Hai ông đã nói nhiều điều rất khác với những gì hay nói khi còn đương quyền, và tất nhiên những điều nói ra này, đã ít nhiều phản ánh được tâm trạng cũng như suy nghĩ rất thật, ít nhất là cũng thật với những gì đang xảy ra, chứ không phải nói lấy được như trước đây. Dù thế nào đi nữa thì những hành động này cũng đáng hoan nghênh, những lời nói chân tình và thẳng thắn của các vị này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình đổi mới chính trị ở Việt Nam. Một nhân vật cao cấp của chế độ mà qua “tiếp xúc” trên truyền hình cho thấy rằng ông ta có tấm lòng và một bầu nhiệt huyết với đất nước, với dân tộc…ông giản dị và chân thành, thế nhưng có lẽ ông ta không có được nhiều người trong Bộ chính trị ủng hộ nên nhân dân cũng “mất nhờ”. Đó là ông Nguyễn Minh Triết, Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.
Một trong những lực lượng có một tiếng nói và vị trí quan trọng trong đời sống chính trị tại Việt Nam đó Quân Đội. Trong một xã hội dân chủ thì quân đội phi chính trị hóa, họ chỉ thừa hành những mệnh lệnh từ chính phủ, mà chính phủ đó đã được nhân dân bầu lên một cách hợp hiến và hợp pháp. Trong các thể chế độc tài thì quân đội luôn là công cụ để bảo vệ chế độ. Lực lượng này luôn được chế độ ưu ái, họ có thể buôn bán, kinh doanh mà không cần phải nộp thuế. Các Tướng lĩnh cao cấp luôn được hưởng những đặc ân rất lớn từ phía chính quyền. Các chức vụ chủ chốt luôn được đặt vào tay những kẻ thân tín và trung thành với chế độ. Nhưng cái gì cũng có mặt trái của nó. Ân sủng không phải là cái thiêng liêng nhất trên đời này. Tiền bạc cũng vậy, nó chỉ cần khi ta chưa có, khi đã có nhiều tiền rồi thì nó cũng trở thành bình thường.
Với sức mạnh trong tay, những người lãnh đạo quân đội hoàn toàn có thể đứng về phía nhân dân, đòi lại quyền dân chủ cho nhân dân. Danh tiếng để đời, tiếng thơm lưu danh hậu thế, tên tuổi đi vào lịch sử… mới là những cái, mà những người có chí lớn theo đuổi.
Một lực lượng cũng rất quan trọng trong quá trình dân chủ hóa đất nước đó là: Tôn giáo. Dưới các chế độ độc tài, Tôn giáo không bao giờ có được tự do. Các vị lãnh đạo tôn giáo tuy không làm chính trị, nhưng các vị phải có thái độ chính trị, nhất là khi thái độ chính trị đó liên quan đến tự do của tôn giáo mình. Vấn đề tự do tôn giáo là một vấn đề rất nhạy cảm trong các quan hệ quốc tế, nó là một trong những quyền cơ bản của người dân và đã được Liên Hợp Quốc bảo vệ, vì vậy với các cuộc biểu tình ôn hòa của các tôn giáo chính quyền khó lòng dùng vũ lực để giải tán như đối với thường dân. Chính các hành động đàn áp Phật giáo gay gắt đã góp phần vào việc khai tử chế độ độc tài Ngô Đình Diệm trước đây.
Một lực lượng, có thể nói đóng vai trò then chốt trong mọi thay đổi lớn của đất nước đó là thanh niên, sinh viên. Rõ ràng họ đang bị cô lập và bưng bít thông tin. Nhưng với mong muốn khám phá những cái mới và với sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ, họ sẽ biết cách vượt qua các bức tường lửa mà chính quyền dựng lên để đến với những thông tin đa chiều và trung thực của thế giới và người Việt Hải ngoại trên Internet. Với những hiểu biết của mình và sự so sánh với thực tế đang diễn ra trước mắt, những thanh niên ưu tú này sẽ phân biệt và sẽ nhận ra được đâu là thật và đâu là giả? Khi tuổi trẻ có được niềm tin và quyết tâm, họ có thể làm được rất nhiều việc lớn. Họ có nhiều thời gian, cơ hội và nhiệt tình.
Làm cách mạng dân chủ ở Việt Nam thật là khó khăn muôn phần, nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường. Những người dám đứng lên đấu tranh cho dân chủ là những người muôn vạn lần được suy tôn là anh hùng của dân tộc. Nhà tù và sự đàn áp khốc liệt luôn chờ họ, thế nhưng, có những con người sinh ra và hành động không chỉ cho riêng mình, mà họ hành động vì cả dân tộc, vì cả tương lai của tất cả 82 triệu người Việt. Chính quyền dù có hung bạo đến đâu, cũng không thể cưỡng lại những trào lưu tất yếu của lịch sử. Tự do – Dân chủ là khát vọng chính đáng của mọi người trên hành tinh này, trong đó có nhân dân Việt Nam.
Câu thơ của Đại thi hào Nguyễn Trãi cách đây 500 năm vẫn còn nguyên giá trị và chân lí:
… Như nước Việt ta,
dẫu cường nhược có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có ….
Chúng ta có thể hoàn toàn hy vọng vào một lực lượng dân chủ hùng mạnh, để tạo nên những sự thay đổi mạnh mẽ bầu không khí chính trị đang ngày càng bế tắc và ngột ngạt tại Việt Nam.
Chúng ta có quyền hy vọng vào những anh hùng, những hào kiệt của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ 21 này, chính họ sẽ mở sang một trang mới cho lịch sử nước nhà.
----- O -----
LTS. Có một người được nhiều học giả nước ngoài đánh giá là nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX. Không ai khác, đó chính là nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Trong các sách môn “Lịch sử Đảng Cộng sản” được giảng dạy ở Đại học trong nước bấy nay, người ta thường có khuynh hướng đánh giá thấp vai trò, vị trí của những nhà cách mạng phi cộng sản như các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,…., nhằm đề cao vai trò lịch sử của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản . Bài viết sau đây của nhà văn Nguyên Ngọc, là một đánh giá về Phan Châu Trinh, xin trân trọng gửi đến quý độc giả.
TÍNH THỜI SỰ KỲ LẠ CỦA MỘT TƯ TƯỞNG LỚN
Nguyên Ngọc
Như chúng ta đều biết, do những điều kiện lịch sử đặc thù, vào khoảng đầu thế kỉ XX, Quảng Nam đã là một trung tâm nóng bỏng của công cuộc tìm đường cứu nước vô cùng quẫn bách và thống thiết, sau những thất bại đau đớn của phong trào Cần Vương (mà chính Quảng Nam cũng là một trong những trung tâm quan trọng nhất).
Phan Châu Trinh lớn lên và bước vào cuộc đời hoạt động trong chính tình hình đó. Ông ra Huế năm 1902, nhận làm một chức quan nhỏ trong bộ Lễ. Chắc chắn ông không hề có ý đeo đuổi con đường hoạn lộ. Ông ra Huế là muốn đến đứng giữa trung tâm văn hóa chính trị quan trọng nhất của đất nước hồi bấy giờ, nơi cũng đang có mặt các bậc đại trí của dân tộc, trong đó có cả nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu. Chính ở Huế, cùng các bạn đồng chí, ông đã được tiếp xúc với các “tân thư”. Và trong các bậc đại trí được tiếp xúc với các tân thư thời bấy giờ, ông là người bị lay chuyển dữ dội nhất, sâu sắc nhất, đi đến quyết tâm thay đổi cơ bản và sắt đá nhất, đi đến một đường lối cứu nước mới mẻ triệt để và nhất quán nhất.
Học giả Hoàng Xuân Hãn đã nói về chuyển biến tư tưởng có ý nghĩa quyết định đó của Phan Châu Trinh như sau: “Sau khi phong trào Cần Vương bị đàn áp tan rã hoàn toàn, Phan Châu Trinh đã đi sâu nghiên cứu những nhược điểm cơ bản về văn hóa xã hội Việt Nam, cụ thấy rõ nguyên nhân sâu xa của sự thua kém về văn hóa xã hội của xã hội ta so với phương Tây đã đưa đến mất nước, bị đô hộ ngày càng khốc liệt…”. Phân tích này của Hoàng Xuân Hãn là hết sức quan trọng. Khác với tất cả các bậc thức giả, các nhà yêu nước lớn đương thời, Phan Châu Trinh là người đầu tiên đi tìm và tìm thấy nguyên nhân sâu xa “đã đưa đến mất nước và bị đô hộ ngày càng khốc liệt” không phải ở đâu khác mà là chính ở trong văn hóa, ở “những nhược điểm cơ bản về văn hóa xã hội của xã hội ta so với phương Tây”. Đây là một chuyển biến có ý nghĩa cách mạng trong phương hướng tìm đường cứu nước - mà trước hết và quan trọng nhất là tìm đúng nguyên nhân mất nước và thất bại đau đớn của tất cả các phong trào cứu nước trước đó mặc dầu vô cùng anh dũng, lẫm liệt - một nhận thức có tính cách mạng và hết sức cơ bản không chỉ về con đường cứu nước, mà về lâu dài, cả về con đường phát triển của dân tộc…
Phan Châu Trinh cho rằng sở dĩ chúng ta thua Pháp, mất nước, là vì chúng ta thua họ một thời đại…
Suốt mấy nghìn năm lịch sử trước đó, trong tất cả các cuộc chống xâm lược của Trung Hoa, rất nhiều lần chúng ta đã phải ở trong những tình thế chênh lệch lực lượng rất hiểm nghèo mà bất lợi luôn nghiêng về phía ta. Song dầu có chênh lệch đến mấy về lực lượng, thì giữa chúng ta và họ vẫn là đồng đại. Đấy đều là những cuộc xâm lược trong nội bộ của chế độ phong kiến phương Đông. Lần này khác hẳn: Chúng ta đối đầu với những lực lượng cao hơn hẳn chúng ta cả một thời đại. Sự thất bại là tất yếu.
Trước đó, Phạm Phú Thứ là một trong những người đầu tiên đã manh nha nhận ra việc chúng ta lạc hậu quá xa so với đối phương về khoa học kỹ thuật. Nhưng sự so sánh của Phan Châu Trinh được đặt ở một tầm mức cao rộng hơn nhiều. Ông nhận ra sự lạc hậu về văn hóa cả một thời đại của chúng ta so với đối phương. Ông hiểu rằng đối mặt với phương Tây là chúng ta đối mặt với cả một thời đại khác về văn hóa, mới mẻ và tân tiến. Muốn cứu nước, phải khắc phục chính cái khoảng cách về thời đại đó, phải tự thay đổi dân tộc mình, đưa dân tộc vượt lên hẳn một thời đại mới, để từ đó, trong cuộc đối đầu, đọ sức với họ, giữa ta với họ là những đối thủ bình đẳng, ngang bằng nhau về thời đại. Đây là một bước tiến vĩ đại, một cuộc cách mạng trong tư duy. Về ý nghĩa, nó đưa công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chính thức bước sang thời kì hiện đại. Nó chủ trương tạo nên một cơ sở văn hóa xã hội mới có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Là người đứng đầu phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh đã nêu ba nội dung cơ bản của phong trào duy tân: Dân trí, Dân khí, và Dân sinh. Ba nội dung đó gắn liền với nhau, nhưng như ta có thể thấy ngay trong cách sắp xếp vấn đề, chìa khóa là Dân trí. Ông cho Dân trí là quyết định hàng đầu: “Làm thế nào tạo được một số đồng chí (để rồi từ đó tạo được trong toàn dân, điều mà quả thực ông đã làm được một cách tuyệt vời) dám có cái nhìn đảo lộn ngai vàng, đảo lộn quí tộc, đảo lộn Khổng Mạnh, đảo lộn đặc quyền, đảo lộn phương thức sinh hoạt, phong tục tập quán vào một thời xã hội còn tối ngòm ngòm”.
Tức chìa khóa của ông là “khai dân trí” (mở mang dân trí) - ông là người có niềm tin khổng lồ vào tri thức của con người, con người có tri thức mới thì sẽ có thể làm nên tất cả, có thể lay trời chuyển đất.
Trong chỗ này cần có một điều cần chú ý : Phan Bội Châu cũng đã nói đến vấn đề dân trí. Trong Lưu cầu huyết lệ tân thư, ông đề ra “ những kế hoạch sẽ cấp cứu đồ tồn” là:
Nhưng sự khác nhau lớn giữa hai vị họ Phan là về vai trò của nhân dân. Đúng như ông Nguyễn Văn Xuân nhận định: “Chính từ chủ trương nhân dân tham gia việc nước mà Phan Châu Trinh luôn luôn không gặp và phản đối chủ trương của Phan Bội Châu”.
Vậy quan niệm “con người có tri thức mới” trước đây với Phan Châu Trinh phải là nhân dân, toàn dân có tri thức mới (chứ không phải một số ít nhân tài, đương nhiên không hề coi thường vai trò của nhân tài).
Và “tri thức mới” đó trong quan niệm của ông là gì? Ông khẳng định rất quyết liệt: đó là hiểu biết về Dân quyền (ngày nay ta gọi là dân chủ), người dân biết rằng mình có quyền , biết rõ các quyền của mình trong xã hội, trong cuộc sống, trên đất nước, trước thế giới. Theo cách nói ngày nay, có thể ông cho rằng điều cơ bản để tạo nên sức mạnh lay trời chuyển đất là dân chủ về thông tin (“dân biết”), trao đổi thông tin về những quyền của nhân dân cho chính nhân dân. Ông coi đó là nền tảng cơ bản, là cơ sở của độc lập tự chủ, của vận mệnh đất nước, của tiến bộ xã hội, của hạnh phúc nhân dân, là nội dung và ý nghĩa chủ yếu của độc lập dân tộc, và cũng là sức mạnh vô địch để khôi phục và giữ vững nền độc lập. Thậm chí, ông còn cho rằng, nếu có thoát khỏi tay ngoại bang, giành được độc lập, mà không có dân quyền, không có dân chủ, dân trí thấp, người dân không giác ngộ về quyền dân chủ của mình và sử dụng có hiệu quả quyền đó để làm chủ đất nước, xã hội, thì cũng là vô nghĩa, nhân dân không thể có hạnh phúc, đất nước không thể phát triển, và như vậy nền độc lập dân tộc cũng không thể vững chắc.
Phong trào Duy Tân thực chất là một cuộc vận động cách mạng cơ bản và sâu sắc như ta đã thấy, lại chủ yếu là một cuộc vận động cải cách giáo dục rộng lớn và thật kì lạ về nhiều mặt.
Kì lạ:
Phan Châu Trinh đã bắt đầu bằng thực học để tạo nên sức mạnh của xã hội và quốc gia, để xây dựng một xã hội dân chủ trên cơ sở một dân trí được thật sự nâng cao.
Phải chăng bài học cơ bản ấy, cả con đường đi cụ thể ấy, con đường bắt đầu bằng một cuộc đột phá cách mạng về giáo dục, rất có thể có ý nghĩa thực sự thiết thực đối với chúng ta hôm nay ?
----- O -----
Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam - Hội nghị Đoàn chủ tịch mở rộng
góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện đại hội X của Đảng
--------------------
Góp ý kiến về “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới”
GS. Trần Văn Hà
Tôi hoan nghênh phương thức làm việc mới lần này của Trung ương và của Uỷ ban TƯ MTTQ Việt Nam để chuẩn bị cho Đại hội X của Đảng. Đặc biệt có báo cáo “Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới”, làm cơ sở cho việc xây dựng báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng, báo cáo “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010” và các văn kiện khác của đại hội.
Việc ba đồng chí uỷ viện Bộ Chính trị đến Hội nghị Mặt trận trực tiếp giới thiệu các dự thảo báo cáo các văn kiện chính của Đại hội X, các đồng chí lại ở lại theo dõi hội nghị cả ba ngày, chú ý lắng nghe, ghi chép, tôi chợt nhớ tới một câu nói của tiến nhân “Người lãnh đạo càng ở cấp cao bao nhiêu thì đức nghe càng phải dầy bấy nhiêu”, càng thêm kính mến các đồng chí. Cho nên chúng tôi cũng xác định rõ thêm trách nhiệm của mình phải tâm huyết với sự nghiệp của Đảng, vì dân, vì nước, phải nói thẳng, nói thật theo sự suy nghĩ nghiền ngẫm của mình đối với những vấn đề đã được nêu ra trong các văn kiện.
Rất tiếc rằng văn kiện thì nhiều (8 văn kiện, 270 trang) được xây dựng khá công phu, thời gian nghiên cứu quá ngắn, chỉ có 3 ngày cho nên ý kiến phát biểu có thể chưa được chuẩn xác, chưa có hệ thống. Rất mong được sự chỉ giáo và lượng thứ.
Thời gian có hạn (20 phút), tôi chỉ xin tập trung phát biểu ý kiến đối với “Bản tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới”. Điều may mắn đối với tôi hôm nay là được sự có mặt của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, người chịu trách nhiệm xây dựng bản tổng kết này. Rất mong sẽ được đồng chí chỉ dẫn cho những gì chưa đạt hoặc cần tiếp tục nghiên cứu thêm.
* * *
Điều rất đáng mừng là qua tổng kết đã xác nhận được rõ mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội : Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng dân chủ văn minh. Đó là xã hội do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người có cuộc sống ấm no hạnh phúc; được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Tôi đề nghị nên chăng thêm cụm từ vào sau chữ Đảng cộng sản “gồm các phần tử tiên phong cần, kiệm, liêm, chính” vì hiện nay có nhiều đảng bộ thoái hoá đã bị nhân dân phủ định.
Thế là nỗi băn khoăn day dứt thế nào là xã hội chủ nghĩa, thế nào là định hướng xã hội chủ nghĩa từ hàng chục năm nay đã được tháo gỡ, nhưng nhận thức cũ sai lầm về chủ nghĩa xã hội là không có người bóc lột người, là đấu tranh giai cấp, là chuyên chính vô sản, là vô thần... đã được giải quyết. Một nhận thức mới và đúng đắng như vậy có tác dụng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, không còn lo sợ gì chệch hướng, tăng thêm bạn, bớt thù.
Tuy vậy, bản báo cáo với nội dung và cấu trúc như đã được giới thiệu mang tính chất một bản báo cáo thành tích qua 20 năm đổi mới. Tôi xin phép được góp ý thêm một số ý kiến vào phần kết luận thông qua phương pháp tình huống đối với một số sự kiện thành công hoặc chưa thành công đã diễn ra trong 20 năm đổi mới. Sự kiện nào cũng cần được điều tra nghiên cứu, phân tích trên quan điểm hệ thống, toàn diện và trên quan điểm lịch sử.
Sự kiện thành công mang tính lịch sử.
1. Từ 10 năm trước khi có Nghị quyết 10/1988 của Bộ Chính trị, kinh tế nông hộ nằm trong kinh tế hợp tác xã thuộc hệ thống nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khoảng trên dưới 500.000 tấn lương thực. Từ sau khi có Nghị quyết 10 “sản phẩm” đầu tiên của công cuộc đổi mới, đường lối của Đại hội VI (1986), lương thực tăng đều hàng năm, Việt Nam xuất khẩu trong 15 năm liền, bình quân mỗi năm trên dưới 3 triệu tấn gạo, xếp hàng thứ hai trên thế giới.
Vì sao vậy ? Làm gì và làm thế nào để phát triển thêm cả về số lượng và chất lượng, giữ vững được thị trường thế giới ?
2. Từ sau khi có chủ trương hội nhập, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, khuyến khích tư bản nước ngoài vào Việt Nam, thập chí đầu tư 100%, đề cao vai trò các doanh gia Việt Nam cả hiện tại và quá khứ (Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Ngô Tử Hạ...), nền kinh tế Việt Nam khởi sắc hẳn lên. Không những đạt hiệu quả về kinh tế, mà còn đạt nhiều thắng lợi trong mối bang giao quốc tế. Như vậy, với công cuộc đổi mới, Việt Nam đã từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, đã tạm gác ra một bên khái niệm cũ về bóc lột và công thức CVM của Mác, hai đặc thù của CNXH khoa học của Mác. Việt Nam đã ngầm từ bỏ CN Mác – Lênin hay là bổ sung cho chủ nghĩa Mác, hay là phát triển sáng tạo ?
Sự kiện chưa thành công hoặc xấu (tiêu cực) cũng mang tính lịch sử.
1. Việt Nam đã có 30 năm độc lập thống nhất tự do và đã trải qua 20 năm đổi mới 1986-2005, tại sao Việt Nam vẫn thuộc loại nghèo nàn và lạc hậu nhất trên thế giới, với khoảng 500 USD GDP/người, trong khi dó Hàn Quốc đạt 11.000 USD GDP/người; Đài Loan 17.000, Singapore 23.000; Thái Lan 2.500. Riêng Sài Gòn trước năm 1975 gấp khoảng 2 lần Bangkok, thì nay 2005, Bangkok gấp hơn hai lần Thành phố Hồ Chí Minh. Về mặt nghiên cứu lý luận – thực tiễn theo phương pháp sự kiện để giải quyết vẫn đề được sáng rõ hơn (MASI-A – Méthode Analytique et Synthétique des Incidents et concrets – Action) ta có thể đặt câu hỏi tương tự như vậy đối với hai miền Nam và Bắc Triều Tiên (Hàn Quốc và CHND Triều Tiên) đối với Đài Loan và lục địa Trung Quốc.
2. Vì sao nước Việt Nam anh hùng đã thắng đế quốc Pháp năm 1954 và thắng đế quốc Mỹ 30/4/1975, xếp vào loại nhất thế giới, thì sau 30 năm giành được hoà bình thống nhất, trong đó có 20 đổi mới, Việt Nam lại bị Hội Bảo Minh Quốc tế (Transparency International Organization) với 2,4 điểm tiêu chuẩn, xếp ngang hàng với 5 nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới là Tanzania, Soudan, Côngô, Lybie, Iraq ? Trong khi đó, Singapore với 9,4 điểm tiêu chuẩn, được xếp ngang với 5 nước trong sạch nhất thế giới là Thuỵ Điển, Đan Mạch, Anh Quốc và úc. Tại sao vậy ? Lý giải thế nào đây ?
Dân Việt Nam ta lại còn phải đương đầu hàng ngày với 5 quốc nạn : Lãng phí, quan liêu, hình thức, phá huỷ môi trường sống đặc biệt là phá rừng mạnh hơn các thời kỳ miền Nam thuộc chính quyền cũ, hơn nhiều lần hồi thuộc Pháp; quốc nạn giao thông, mỗi ngày có trên 30 người tử vong (có lẽ nhất thế giới); quốc nạn dạy thêm học thêm kèm với quốc nạ quay cóp (Ngô Gia Huy), không thấy có ở một nước nào trên thế giới; ma tuý HIV-AIDS và nhiều tệ nạn xã hội khác, đạo đức xã hội xuống cấp chưa từng thấy, đặc biệt tệ hại nhất trong 5 năm đầu của thế kỷ 21 ?
Rất đau lòng mà phải nhận xét một thực tiễn là chưa thấy có nước nào trên thế giới ở đầu thế kỷ 21 mà lại giống như Việt Nam phải sống trong trạng thái hai quốc nhục (nghèo nàn, lạc hậu nhất, tệ nạn tham nhũng nhất làm suy thoái đất nước) và phải đương đầu hàng ngày với 5 quốc nạn!
Đứng ở góc độ nghiên cứu lý luận và thực tiễn, trong thời kỳ 20 năm đổi mới, rất cần đi sâu nghiên cứu hàng loạt sự kiện tiêu cực lớn khác, chưa hề diễn ra từ ngày lập quốc “Nước Việt nam dân chủ cộng hoà” như :
- Vụ nhân dân biểu tình ở Thái Bình với khẩu hiệu : Chống sưu cao thuế nặng, chống áp bức cường quyền (1997). Lúc đầu cứ cho là do có bàn tay địch, do diễn biến hoà bình. Về sau Cố vấn Phạm Văn Đồng đã phải kết luận : “Phải nói đó là mâu thuẫn giữa nhân dân và những người cầm quyền hư hỏng ức hiếp nhân dân. Nội dung bản chất của sự việc thì mới tìm ra giải pháp đúng, hợp lòng dân. Một nhân dân tốt đến như vậy thì phải khẳng định như vây”. (Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế – Hồi ký – NXB CTQG năm 2002 trang 828).
- Vụ nhân dân biểu tình 2 lần ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004, vụ sau mạnh hơn vụ trước, có bạo lực. Lúc đầu ta cũng cho là có bàn tay địch. Có bàn tay địch thật, nhưng thực chất là vấn đề chiếm hữu ruộng đất của đồng bào Tây Nguyên và vấn đề dân tộc. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn chuyên trách về “Dân tộc” đã nhiều lần phát biểu về vấn đề này tại nhiều cuộc hội nghị của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Các vụ Năm Căn, Epco Minh Phụng Thành phố Hồ Chí Minh, vụ Lã Thị Kim Oanh (Bộ NN-PTNT), vụ sân Mỹ Đình, vụ Vietso Petro... mà các tội phạm phần lớn là các cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước.
Từ việc nghiên cứu phân tích các tình huống lớn trên đây theo “phương pháp xử lý tình huống – hành động” của Bác Hồ (xem Sử đổi lề lối làm việc – Mấy điều kinh nghiệm, trang 19-20, NXB CTQG 2002), tôi xin có một số ý kiến sau đây :
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh đúng là nền tảng, là kim chỉ nam rất đúng đắn cho mọi thời kỳ lịch sử ngay cả cho một tương lai xa của Việt Nam ở thế kỷ 21. Sau này có lên đến xã hội chủ nghĩa đích thực thì cũng sẽ vẫn là : Không có gì quý hơn độc lập – tự do, xã hội dân chủ công bằng văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em. Chắc chắn và đương nhiên là chất lượng ăn, chất lượng mặc, chất lượng học hành sẽ được cao hơn. Nên chăng là xác nhận chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh. Vì chính đã sử dụng cụm từ này “chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh” mà tôi đã giành phần thắng cho Việt Nam trong hai cuộc tranh luận gay go tại Pháp. Một là với nhiều giáo sư và sinh viên Pháp tại giảng đường trường Đại học Nông nghiệp nhiệt đới ESAT – Montpellier. Hai là tại cuộc họp của 20 Việt kiều yêu nước, trí thức Việt Nam tiêu biểu của Paris (theo sự giới thiệu của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn – 1992).
Chủ nghĩa Mác – Lê nin không thể là kim chỉ nam cho Việt Nam ở thế kỷ 21 trong điều kiện Việt Nam đã thừa nhận nền kinh tế thị trường, đã gia nhập khối ASEAN, đang phấn đấu để gia nhập WTO năm 2005-2006; đã công khai tuyên bố từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, đã công khai tuyên bố từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, đã công khai tuyên bố mời tư bản nước ngoài đầu tư 100% vào Việt Nam, đã khuyến khích tư bản tư nhân Việt Nam phát triển để làm giàu cho bản thân, cho đất nước để giải quyết vấn đề lao động, đã khuyến khích Đảng viên làm kinh tế, thuê lao động, đã khuyến khích Đảng viên làm kinh tế, thuê lao động tự do, miễn là phải tuân theo luật pháp Nhà nước và có đạo đức văn hoá trong kinh doanh, làm gương mẫu cho quần chúng.
2. Xét bối cảnh mới của Việt Nam và của thế giới như đã nói được một phần ở trên, bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam không còn như lúc ban đầu được thành lập; Đảng trong hai kỳ đại hội IX (2001) và Đại hội X đã coi mình là Đảng của toàn dân mới mời Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam đóng góp ý kiến, và nhân dân cũng đã tự nguyện thừa nhận Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của mình, cho nên đổi tên thành Đảng Việt Nam như Bác Hồ đã tuyên bố trước quốc dân đồng bào và trước thế giới ngày 31/10/1946 nhân kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá I tại Hà Nội “Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới : Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam...”.
Được như vậy là đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của Đảng và của Việt Nam. Chắc chắn sẽ có ảnh hưởng to lớn trong nước và trên thế giới, có khi còn hơn cả lời tuyên bố của Đảng cộng sản Trung Quốc khi công bố thuyết mới : “Ba đại diện”.
3. Phải đổi mới cơ chế lãnh đạo của Đảng, không thể để như hiện nay. Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhiều lần tuyên bố trên không bảo được dưới, vì dưới nó phải đợi xin ý kiến của bí thư tỉnh là Trung ương uỷ viên, cũng không để rồi lại xẩy ra tình huống “Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tại hội trường Bộ Nông nghiệp, có đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tham dự, tuyên bố : tôi, Thủ tướng Chính phủ, tôi chẳng có quyền gì cả”.
4. Phải đổi mới bộ máy hành chính, thực hiện tam quyền phân lập như nhiều nước dân chủ tiến bộ đã làm, hoặc ngũ quyền phân lập như Đài Loan (theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên mà Hồ Chí Minh rất tôn trọng và thấy rằng phù hợp với Việt Nam. Mọi chức vụ đều phải thi tuyển, tránh tình trạng con ông cháu cha, thân quen, hoặc thanh niên ở Ban Thường vụ Thanh niên cấp tỉnh hết tuổi thanh niên lại chuyển sang làm Phó chủ tịch tỉnh hoặc Giám đốc một sở chuyên ngành, tránh tình trạng như vậy đã diễn ra ở cấp Trung ương và cấp Bộ. Phải thực sự là bộ máy Nhà nước pháp quyền.
Phải trả lương tối thiểu cho một công nhân viên chức là khoảng 100 đến 200 đô la để họ có thể nuôi được một con đến tuổi trưởng thành. Như thế mới tránh được tham nhũng tràn lan như hiện nay ở mọi cấp, từ cấp thấp nhất cho đến cấp cao. Chế độ “phong bì” công khai hối lộ và công khai đòi hối lộ chỉ thấy ở Việt Nam ... Phải làm được việc này trong 2-3 năm, như vậy chỉ có một phương thức trả lương, nhân dân - ngân sách Nhà nước chỉ trả lương cho một hệ thống công nhân viên chức Nhà nước mà thôi. Tăng lương 10-20% mỗi năm như hiện nay không giải quyết được vấn đề gì (1).
5. Đổi mới giáo dục, còn rất nhiều việc phải làm. Đề nghị môn triết học phương Đông và các giá trị của triết học phương Tây, trong đó có chủ nghĩa Mác – Lênin phải được học từ trung học phổ thông và ở đại học. Nếu không kỹ sư, cử nhân Việt Nam thua kỹ sư, cử nhân khu vực và trên thế giới. Phải đổi mới nội dung giảng dạy triết học Mác – Lênin, loại bỏ những gì đã xa lạ với thời hiện đại : “Phải bổ sung chủ nghĩa Mác, củng cố nó bằng dân tộc học phương đông” (Toàn tập Hồ Chí Minh – Tập I – Bài viết về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, trang 465 – NXB CTQG), như Nguyễn ái Quốc đã xác định rõ từ đầu thế kỷ 20. Càng thấy Bác Hồ của chúng ta rất trí tuệ, tài giỏi.
Tôi xin phép nhắc lại kiến nghị của tôi trong kỳ họp Hội nghị lần thứ hai 11-13/1/2005 của Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành lập Uỷ ban giám sát của Mặt trận, phát động quần chúng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu đạt kết quả trước đại hội Đảng X, thì rồi Đại hội Đảng X mới thành công và rồi các Nghị quyết, các kế hoạch chương trình của đại hội X mới thực hiện được. Vì Bác Hồ đã chỉ giáo theo qui luật của dịch lý : Trời có 4 mùa, đất có 4 phương, người có 4 đức Cần – Kiệm – Liêm – Chính ; thiếu một mùa thì không thành Trời, thiếu một phương thì không thành Đất, thiếu một đức thì không thành Người; tham nhũng là giặc nội xâm không thể để cho giặc nội xâm có trong hàng ngũ đảng viên, cấp uỷ của đại hội X.
Kính thưa đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch đoàn và Hội nghị vì thời gian có hạn, tôi xin được phép dừng tại đây. Tuỳ điều kiện thời gian và theo yêu cầu, tôi vui lòng sẽ báo cáo tiếp, nhất là cách giải quyết vấn đề theo phương pháp xử lý tình huống – hành động, với ban soạn thảo văn kiện, với một số lãnh đạo cấp cao có trách nhiệm, như tôi đã phục vụ một số đồng chí lãnh đạo ở cấp Trung ương trước và sau Đại hội VII (1991).
Trần Văn Hà
Ngày 13 tháng 5 năm 2005
----- O -----
Thư của Đại tá Như Thiết
Hà Nội ngày 1 tháng 5 năm 2005.
Kính gửi : Đồng chí Chủ Tịch nước Trần Đức Lương
Đồng kính gửi : Các đồng chí trong Bộ Chính trị.
Tôi là một đảng viên tuổi đã gần đất xa trời. Hàng ngày vẫn nghe đài đọc báo đều đặn, tôi thấy tình hình đất nước bê bối mà chua xót trong lòng. Tôi vẫn luôn mong các đồng chí lãnh đạo phải quyết tâm chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết được các tệ nạn xã hội khác. Nhưng hình như các đồng chí mải lo "việc riêng", không làm tròn trách nhiệm của mình, khiến cho các tệ nạn không những không kiềm chế được mà còn ngày càng gia tăng. Thật là đáng lo lắng biết bao ?
Trong những điều suy tư, tôi muốn đề cập đến một việc cụ thể là gần đây, tôi có dịp tìm hiểu kỹ vụ T4. Đây là một vụ án cực kỳ nghiêm trọng. Đáng lý ra, các đồng chí phải dũng cảm đứng ra giải quyết theo pháp luật. Nhưng Bộ Chính trị đã lờ đi. Như vậy là các đồng chí bao che cho tội phạm (dù chưa được tòa án xử, nhưng tội trạng của những kẻ vi phạm đã quá rõ ràng !). Các đồng chí đã không coi phép nước ra gì, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc Đảng.
Như các đồng chí đã biết, ông Lê Đức Anh đã bị nhiều người đứng tên tố cáo khai man lý lịch Đảng, làm nhiều điều lộng hành vi phạm pháp luật. Vậy mà không bị xử lý gì. Nguyễn Chí Vịnh, người đứng đầu Tổng cục II tác oai tác quái, cũng không bị xử lý mà còn được thăng cấp Trung tướng !!! Tôi thực đau lòng khi thấy Đảng ta ngày càng mất tín nhiệm với dân, đường lối thì bế tắc, đạo đức của đảng viên thì suy đồi, tinh thần đoàn kết bị thách thức nghiêm trọng.
Có một người, cũng là một Đảng viên lão thành, tâm sự với tôi: " Anh ạ, Đảng ta bây giờ là gì ? Có phải là Đảng cách mạng, hay là đảng Mafia? Lãnh đạo Đảng thì tham nhũng, bạc nhược. Có người không phải là Đảng viên mà leo lên đến Chủ tịch nước, lộng hành, phá phách. Có người cấp tướng của Công an; ủy viên Trung Ương Đảng, mà lại câu kết với xã hội đen Năm Cam, gây ra biết bao phiền nhiễu cho xã hội,....Tôi thấy ngán quá!". Tôi kể lại chuyện này để các đồng chí thấy niềm tin của Đảng viên vào Đảng đã bị suy giảm như thế nào. Không phải chỉ có một vài người như anh bạn già của tôi, mà đã có rất nhiều Đảng viên mất niềm tin...Tôi có nhiều dịp gần gũi với dân, nghe họ phản ảnh nhiều điều rất sâu sắc mà xác thực.
Gần đây, nhiều người bàn tán về trường hợp ông Nguyễn Thanh Giang. Ông Giang đã viết một bài bênh vực những nạn nhân của vụ T4, trong đó có đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông Giang đòi hỏi phải mở một phiên tòa đại hình xét xử Lê Đức Anh và đồng bọn.Tôi nghĩ, trong "điều kiện" hiện nay, có những tiếng nói như vậy là vô cùng đáng quý. Đó là biểu hiện đúng đắn của tinh thần trách nhiệm công dân. Phải khuyến khích những tiếng nói như vậy. Phải nói là trong bài viết ấy ông Giang đã đưa ra quan điểm khác với quan điểm chính thống về cuộc chiến tranh chống Mỹ, cho rằng nó là vô nghĩa với cả hai phía. Tôi hiểu là ông ấy muốn nói nó không cần thiết và có thể tránh được.
Thiết nghĩ, trong xã hội ta bây giờ việc một công dân thẳng thắn đưa ra quan điểm của mình phải được coi là chuyện bình thường. Đâu có phải trong thời chiến mà phải có sự đồng tâm nhất trí hoàn toàn. Nếu ai không đồng ý với quan điểm này quan điểm khác thì cứ việc tranh luận bằng văn bản. Nhưng báo chí đã cắt xén, xuyên tạc, rồi bôi nhọ, phỉ báng cá nhân ông Giang. Bất cứ ai hiểu biết đều thấy rằng báo chí của Đảng mà làm như vậy là vi phạm pháp luật. Người ta còn kích động mấy thương binh đến nhà ông Giang với thái độ hung hăng, đe dọa. Người bình thường ắt phải đặt câu hỏi: "Phải chăng những người mang danh thương binh kia đến đe dọa và gây sự với ông G, là người của ông Lê Đức Anh và Tổng cục II (thủ phạm của vụ T4) sai đến? Phải chăng những kẻ côn đồ đó ngang nhiên làm được như vậy là nhờ có công an bao che? Liệu trong việc này Bộ Chính trị có nhúng tay vào không ?" v.v...
Tôi đề nghị các đồng chí phải xem xét nghiêm túc chuyện này, đừng để dư luận kéo dài gây ra bất lợi. Với những người trí thức trung thực dám nói ra điều mình nghĩ để Đảng sửa chữa khuyết điểm cần phải khuyến khích và bảo vệ. Nếu các đồng chí không có biện pháp kịp thời ngăn ngừa những kẻ quá khích, rồi để xảy ra điều gì đáng tiếc đối với ông Giang, thì vết nhơ này Đảng khó mà gột sạch. Nhân dân sẽ còn mất niềm tin vào Đảng hơn nữa và xa lánh Đảng hơn nữa. Những người cương trực sẽ không ai dám nói ra những ý kiến đóng góp chân thành với Đảng.
Trước thềm Đại hội X, tôi khẩn thiết đề nghị các đồng chí phải giải quyết triệt để vụ T4 theo đúng pháp luật, phải giữ gìn toàn vẹn sự trong sạch của Đảng. Những kẻ có tội phải bị nghiêm trị. Có như thế, nhà nước của chúng ta mới đúng là nhà nước pháp quyền. Lời góp ý , đề nghị của tôi được nói ra bằng tất cả tâm huyết của một đảng viên đã quá nửa đời người chiến đấu dưới lá cờ của Đảng. Tôi biết rằng lời nói thẳng khó nghe, nhưng tôi không thể không nói. Tôi chúc các đồng chí làm tròn trách nhiệm và bổn phận trên cương vị của mình.
Chào thân ái và quyết thắng !
Đại tá Như Thiết
Nguyên cục phó cục tác chiến
----- O -----
Thư ngỏ gửi những người chuẩn bị cho Đại Hội Đảng lần thứ 10
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2005
Kính gửi: Những người chuẩn bị cho Đại Hội Đảng lần thứ 10
Hãy trả tự do cho những người bị Đảng bắt giữ vu oan là gián điệp!
Đảng ta làm việc này trái với tư tưởng Hồ Chí Minh ngược với tư tưởng của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.
Đảng cộng sản Việt Nam không được gọi là đạo đức văn minh, Đảng mất uy tín lớn do Đảng tự làm mất uy tín, nhân dân không tin tưởng. Thế giới cho là Việt Nam phạm nhân quyền. Bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền được Liên hiệp quốc thảo ra ngày 10/12/1948, Nhà nước Việt Nam đã ký ngày 24/9/1982.
Do không tôn trọng chữ ký của mình vẫn bắt giữ những người dân chủ nên đoàn Việt Nam đi đâu không ai tiếp. Có đường phố, bà con ở nước ngoài không chơi với Cộng sản đàn áp những người dân chủ cấm không cho đi qua, phải vòng lối khác. Đói thì đi ăn cơm bụi.
Thủ tướng Phan Văn Khải sắp đi thăm nước Mỹ trước khi về nghỉ hưu đang ngại nhân dân Mỹ không tiếp đón.
Thủ tướng Chu Dung Cơ của Trung Quốc ngày còn làm việc đi thăm nước Mỹ. Tổng thống Mỹ Clinton không cho gặp, không tiếp đón.
Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam, nguyên Đại sứ ở Mỹ nhiều năm Lê Văn Bàng vừa được cử đi Mỹ thu xếp. Ông Lê Văn Bàng đã về nước. Theo sự chỉ đạo của Ban Tư tưởng văn hoá, các báo đưa tin đều nói tốt đẹp.
Chúng ta bình tĩnh theo dõi xem sao ?
Tầu tuyên bố Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc đất tỉnh thứ 45 của Trung Quốc mới thành lập là tỉnh Hải Nam.
Mới đây tầu Công an Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt Nam
Việc này Việt kiều hải ngoại coi như "Quốc nhục" biểu tình mít tinh phản đối rầm rộ.
Đảng và Nhà nước ta lờ đi. Vì sợ và phải bảo vệ 16 chữ vàng.
Một số chi bộ cộng sản Việt Nam được giải thích tàu Công an Trung Quốc nổ súng là đúng, vì ngư dân Việt Nam đã vào phá lưới của họ.
Cử nhân luật Lê Chí Quang viết bài “Hãy cảnh giác với Bắc Triều” nhận định và phân tích rất đúng.
Anh không được khen lại bị bắt đưa Toà xử về tội gián điệp để lấy lòng Giang Trạch Dân đang ở thăm Việt Nam.
Hội nghị hơn 100 bác sĩ các nước họp phản đối hành động vô nhân đạo của Đảng và Chính phủ Việt Nam, yêu cầu trả tự do cho Lê Chính Quang về nhà chữa bệnh. Đảng và Nhà nước thấy mình không đúng đã âm thầm lặng lẽ trả tự do cho Cử nhân Luật Lê Chí Quang.
Hiện nay Đảng và Chính phủ Việt Nam vẫn còn giam giữ 3 "gián điệp" ở trại Ba Sao, Hà Nam .
1. Anh Nguyễn Khắc Toàn - tốt nghiệp Đại học Sư phạm đã làm thầy giáo đi dạy học, đã đi Nam vào giải phóng quân đánh Mỹ bị đưa ra Toà xử 12 năm về tội làm "Gián điệp".
2. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn dịch bản “Thế nào là tự do dân chủ”, bị bắt giữ đưa ra Toà xử 5 năm về tội "gián điệp".
3. Nhà báo Nguyễn Vũ Bình, phóng viên Tạp chí Cộng sản, đề nghị thành lập thêm một đảng để cùng Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đất nước cũng bị quy là gián điệp, Toà xử 7 năm tù.
Các anh Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình đều là thanh niên tri thức, có lòng yêu nước cao.
Kết luận
Thủ tưởng Phan Văn Khải muốn chuyến đi thăm nước Mỹ thành công tốt đẹp, điều đầu tiên hãy trả tự do cho những người bị bắt giữ, bị vu oan là gián điệp, chấp hành đúng Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền mà Việt Nam đã ký kết ngày 24/9/1982.
Đề nghị Thủ tướng Phan Văn Khải học tập Giang Trạch Dân đi thăm nước Mỹ rồi tổng kết xem học tập được những gì có thể vận dụng vào Việt Nam để nước ta chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.
Muốn hiểu nước Mỹ đề nghị đọc 2 tập hồi ký.
* Những mới lạ của nước Mỹ đối với tôi của Đặng Văn Việt.
* Người lính già nói chuyện với người lính già của Trương Đăng Đệ.
Hai cụ Đặng Văn Việt và Trương Đăng Đệ đều học trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khoá I tại Sơn Tây.
Cụ Đặng Văn Việt năm 1947 - 1948 làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 đánh giặc Pháp ở đường số 4 nổi tiếng.
Giặc Pháp hoảng sợ gọi con đường số 4 là đường máu và cụ Đặng Văn Việt là con hùm xám đường số 4.
Bạn nào muốn đọc 2 tập hồi ký này mời đến nhà tôi 51 Hàng Bài, Hà Nội..
Kính
Trần Đại Sơn
51 Hàng Bài, HK, HN
ĐT: 8263700
----- O -----
LTS. Ông Đoàn Duy Thành, một cán bộ cao cấp của ĐCS VN, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: bí thư thành uỷ Hải Phòng, bộ trưởng Bộ Ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (phó thủ tướng) chính phủ, tác giả cuốn hồi ký trường thiên "Làm người là khó. Làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều", trong đó tác giả đã hé mở nhiều chuyện trong thâm cung bí sử của Đảng ông ta. Chúng tôi xin lần lượt giới thiệu với bạn đọc những đoạn trích thú vị trong cuốn hồi ký này, ngõ hầu cung cấp cho quý vị những hiểu biết thêm vào những gì đã biết về nội bộ ĐCSVN.
Cuộc đối chất có một không hai trong lịch sử Đảng ta
(Tr 365)
… Suốt hai năm ròng rã, từ khi tôi thôi Uỷ viên Trung ương khoá VII, hằng tháng hoặc hai tháng tôi biên thư cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư xin đối chất với những người có đơn vu khống chính trị tôi. Tôi nghĩ những người này không những loại được tôi ra khỏi chính trường, họ còn muốn làm nhục tôi nữa. Nên họ rêu rao do tôi khai man lý lịch phải ra khỏi các chức vụ. Nếu làm rõ ràng thì tôi còn phải khai trừ và đưa ra toà về tội làm gián điệp cho Pháp. Bởi vậy tôi phải kiên quyết đề nghị đối chất với họ. Đối với người làm hại mình, bên ngoài lại tỏ vẻ hàm ơn cho mình, bao dung cho mình, tôi cũng cần phải làm rõ trắng đen. Tôi nói rõ trong đơn, nếu lý lịch của tôi có chỗ khai man, tôi xin được “xử bắn”. Còn người vu khống tôi, chỉ cần thề trước khi đối chất là: “Nếu vu khống tôi, xin làm con chó là đủ”.
Nhưng nguyện vọng ấy mãi không được chấp nhận. Anh Đỗ Mười và một số đồng chí bảo tôi: “Lý lịch anh đã có văn bản của anh Võ Chí Công kết luận rồi, Đảng có đánh giá gì anh đâu mà phải đòi đối chất”. Tuy nói vậy, nhưng một số người vẫn vu khống, họ cũng không chịu cùng tôi đối chất. Họ nói: “Vì bảo vệ Đảng mà họ nói thôi. Đối chất mất hết tình nghĩa giữa chúng tôi và anh Thành”. Họ nói đạo lý “xanh rờn” như vậy nghe có “thấu tinh đạt lý không” (!?).Tôi viết thư cho anh Lê Đức Anh, nói: “Đề nghị anh chủ trì giúp, vì anh Mười đối với tôi và anh Tô Duy cũng khó nói..” Anh Lê Đức Anh gặp tôi ở Quốc Hội nói: “Việc này đã rõ quá rồi, không làm không được, tôi sẽ nói với anh Mười chủ trì giải quyết sớm”. Nhưng mãi cũng không thấy tổ chức đối chất. Anh Đỗ Mười gặp tôi bảo phía bên kia họ không đối chất.
Một hôm nhà tôi và tôi đến thăm anh Mười. Lúc đó nhà tôi thấy bức xúc quá, nên cứ vừa khóc, vừa đập bàn nói: “Anh phải chủ trì giải quyết cho nhà em. Nhà em phải hy sinh vào đất địch gian khổ, bị bắt, bị tra tấn, giam cầm khổ như thế nào. Nay họ vu khống cho nhà em là gián điệp quốc tế, các cháu đều là đảng viên cả, chúng sẽ nghĩ về Đảng ra sao? v.v..” Anh Mười quay sang bảo tôi: “Tại sao anh Thành lại nói việc này với chị ấy? Việc này để tôi giải quyết. Cô ốm nên yên tâm chữa bệnh. Tại sao anh Thành lại nói với chị ấy trong lúc ốm đau?” Tôi hơi khó chịu, nói:”Thưa anh Mười, việc này cả nước cùng biết, tôi sao giấu được nhà tôi. Anh bảo với Tô Duy có đào mả bố hắn lên cũng không tìm được tài liệu tôi bị bắt tháng 2-1951”. Anh Mười dứng phắt dậy đi ra tủ sách xem, không nói chuyện với chúng tôi nữa. Tôi rỉ tai nhà tôi: “Chạm nọc rồi”. Khoảng 5, 7 phút sau đi vòng xem các tủ sách như tìm cái gì, anh Mười tỏ ra bực tức, nhưng không nói. Sau trở lại ngồi xuống nói với chúng tôi: “Cô cứ yên tâm để việc này tôi giải quyết” . Chúng tôi đứng dậy xin phép anh Mười ra về. Tôi nghĩ phải kéo những người này ra trận tiền, không để họ cứ ở chỗ tranh tối, tranh sáng trong xó tối, nhân danh bảo vệ Đảng để tiếp tục vu khống, làm nhục mình. Tôi bèn viết một lá thư gửi anh Mười và gửi rộng rãi các đồng chí Ban Bí thư, Bộ chính trị, các ban của Đảng. Tôi thôi không xin đối chất nữa, chỉ cần xác minh cho tôi bị bắt tháng 9-1951 không phải tháng 2-1951 là đủ. Lá thư đó lọt đến tay những người vu khống tôi, họ yên trí là tôi sợ đối chất, vì họ có nhân chứng sống như Hoàng Chữ, đã có thư gửi anh Đỗ Mười (phần trên đã nói nội dung bức thư). Họ hí hửng cho rằng chỉ một nhân chứng sống Hoàng Chữ cũng đủ để đánh gục tôi. Còn ngày bị bắt tháng 2 hoặc tháng 9-1951 không còn ý nghĩa nữa. Lập tức những người vu khống ký tên xin đối chất với tôi, gồm 12 người. Sau anh Nguyễn Văn Bút, Phó Bí thư thành uỷ xin rút. Vì hôm họp anh em kháng chiến Đèo Voi, anh Bút gặp tôi giơ tay bắt tay, tôi không bắt tay. Anh Bút vẫn nài tôi bắt tay. Tôi nói: “Anh phải hứa với tôi từ nay không tham gia với nhóm vu khống tôi”. Anh Bút đồng ý, tôi bắt tay anh Bút. Từ đó anh cự tuyệt và không tham gia với nhóm này nữa. Quan hệ giữa tôi và anh Nguyễn Văn Bút trở lại bình thường. Hôm 19-6-2004 vừa qua, trong bữa cơm Thành uỷ và UBND thành phố Hải Phòng chiêu đãi chúng tôi, anh Bút lại kể lại tình bè bạn thân thiết giữa tôi và anh Bút cho mọi người nghe (trong đó có đồng chí Trịnh Văn Sử, Phó Bí thư thường trực, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng cùng nghe). Anh Bút kể lại câu chuyện khi chúng tôi về chuẩn bị nhận chức Bí thư Quân uỷ Bạch Đằng và Ngô Quyền: “Trong lúc chờ đợi ở Đèo Voi, sống khổ sở, mỗi bữa có một con cá phèn nướng, sáng tôi ăn đầu, anh Thành ăn đuôi, chiều ngược lại. Có mấy cọng rau muống cũng chia đôi...” Mọi người nghe rất xúc động.
Mãi đến ngày 26-2-1993, Ban Bí thư mới quyết định cho tổ chức cuộc họp đối chất do anh Đỗ Mười, Tổng Bí thư chủ trì, có anh Nguyễn Đình Hương, uỷ viên Trung ương đảng, trưởng ban Bảo vệ Chính trị nội bộ và 8 cán bộ vụ trưởng, vụ phó Ban tổ chức Trung ương. Ban Bảo vệ chính trị nội bộ cùng tham gia cuộc đối chất xác minh vấn đề bị bắt, bị tù của tôi, và những đơn tố giác. Hải Phòng có đồng chí Lê Danh Xương, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Trần Huy Năng, uỷ viên thường vụ, trưởng Ban tổ chức thành uỷ cùng dự.
Về phía những người tố giác có 11 đồng chí:
Và 7 đồng chí khác là Nguyễn Thắng, Vũ Kính, Phạm Điệt, Vũ Tiến Long, Hoàng Hải, Hoàng Chữ, Phùng Văn Vể.
Về phía nhân chứng cho tôi có 10 đồng chí:
Đến hội nghị đối chất vẫn còn vu khống trắng trợn
Đúng 8 giờ ngày 26-2-1993, Hội nghị họp, đồng chí Đỗ Mười chủ trì hội nghị, tuyên bố: “Hôm nay tôi là Bao Công. Ai có ý kiến gì nói cho hết”. Sau đó anh Mười nói: “Bị bắt tháng 2 hay tháng 9 có gì quan trọng nhỉ? Vấn đề bị khai báo ra sao, trong tù hoạt động thế nào, mới là quan trọng chứ!”. Tôi đứng lên báo cáo với anh Mười: “Các anh đây không tìm thấy khuyết điểm của tôi khi bị bắt, khi bị tù, các anh ấy xoay sang việc tôi bị bắt tháng 2-1951. Trong lý lịch tôi khai bị bắt tháng 9-1951, như vậy chênh lệch nhau 7 tháng. Bảy tháng ấy tôi đi đâu? Chắc đi huấn luyện làm tình báo cho địch. Không đơn giản như anh nói đâu, anh Mười ạ!”
Ban tổ chức báo cáo là còn thiếu anh Hoàng Chữ. Tức thời anh Nguyễn Thắng, anh Vũ Tiến Long đứng dậy nói: “Anh Hoàng Chữ không dám lên Hà Nội họp vì sợ anh Thành giết”. Anh Nguyễn Mạnh Ái cũng nói là anh Hoàng Chữ nói với anh Ái như vậy. Có mỗi một nhân chứng sống lại vắng mặt. Nhân chứng này viết thư trực tiếp cho anh Mười, nếu không có mặt thì chứng lý gì để đối chất? Trong lúc đó, một cán bộ Ban tổ chức đứng dậy báo cáo với anh Mười: “Anh ta trốn đấy! Chứ ai giết mà anh ta sợ”. Anh Mười bảo anh Lê Danh Xương cho người tìm và dẫn bằng được anh Hoàng Chữ lên Hà Nội. Đồng chí Lê Danh Xương điện về Hải Phòng yêu cầu tìm mọi cách đưa anh Hoàng Chữ lên Hà Nội họp ngay.
Cuộc họp bắt đầu. Các anh Tô Duy, Trần Đông phát biểu trước, rồi đến các anh Nguyễn Thắng, Vũ Tiến Long, Phạm Điệt, Nguyễn Mạnh Ái. Họ phát biểu dài dòng đại để như: - tôi đã 20 năm làm công an nên có kinh nghiệm chống gián điệp, âm mưu nọ, âm mưu kia. Họ không nêu được ý gì cụ thể cả, chỉ nghe dư luận, v.v...
Tôi có lúc khó chịu, có lúc suýt bật cười. Tôi ghi chép kỹ, để khi phát biểu sẽ nói cho mỗi vị một trang. Tất cả đều chung chung. Có anh không nói, vì không biết gì cả, như anh Hoàng Hải, anh Lê Quang Tuấn, họ đã định không phát biểu.
Tôi nhắc anh Mười bảo anh Tuấn phát biểu, anh Tuấn mới phát biểu: “Đây là hội nghị của Đảng, nên cứ phát biểu chung, không nên hết phe này phát biểu đến phe kia phát biểu” (chấm hết).
Lúc đó đã là 3 giờ chiều. Một cán bộ Ban tổ chức thành uỷ đưa anh Hoàng Chữ vào hội trường. Ngồi 5 phút, anh Mười bảo anh Hoàng Chữ phát biểu. Anh Chữ nói: “Tôi xin lỗi đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Đoàn Duy Thành, tôi chỉ nghe quân tôi nói, tôi không trông thấy đồng chí Thành mặc quần áo trắng, đọc nhật trình, không bị tra tấn gì, ngồi xem anh em bị tra tấn. Tôi nói như vậy là có sự tác động. Một lần nữa tôi xin lỗi đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Thành”. Rồi anh Hoàng Chữ ngồi xuống. Tôi liền hỏi: “Ai tác động ?” Anh Hoàng Chữ không trả lời.
Còn anh Phùng Văn Vể, cháu ông bà Ngỡi, ở ngõ Sỏi phố Ga Hải Phòng là nhân chứng đã tuyên bố biết tôi bị bắt tháng 2-1951, đã cùng ăn, cùng ngủ với tôi ở nhà ông bà Ngỡi. Anh Vể phát biểu: “Tôi chưa gặp anh Thành lần nào, chỉ thấy cô, chú tôi nói là anh Duy bị bắt ở đây. Tôi nhớ là mùa nóng bức, tôi không nhớ rõ là ngày tháng nào cả”.
Anh Hoàng Hải phát biểu: “Tôi không biết gì cả. Các anh ấy nhờ tôi đưa anh Vể lên đây giúp”. Đặc biệt là anh Vũ Kính, nguyên Uỷ viên thường vụ quận uỷ Ngô Quyền, phụ trách văn phòng từ khi mới lập quận, anh người Hưng Yên, Thường vụ huyện uỷ Mỹ Hào, được điều sang Hải Phòng từ 1949. Anh cũng học Hán tự, cũng biết đạo lý của thánh hiền. Anh biết tôi làm Bí thư quận uỷ, rồi xuống làm Phó bí thư vì không phải là Thành ủy viên. Tháng 7-1951, tôi vào nội thành hoạt động, tôi gửi tài liệu và Trung ương sang cho anh. Sau anh gửi tài liệu và Trung ương sang của tôi cho anh Trần Phương (Phương Xích) là Bí thư quận uỷ Ngô Quyền trả lại tôi. Anh Vũ Kính đã làm chánh văn phòng thành uỷ và đón tôi ở Côn Đảo về. Sau anh làm Phó giám đốc Sở công an, rồi làm Hiệu trưởng trường trung cấp công an của Bộ Nội vụ, trường đóng ở Hà Bắc. Tôi đã có ý định mời anh Vũ Kính làm chứng cho tôi, sau biết dược anh đứng trong danh sách 11 đồng chí dự đối chất với tôi nên tôi không mời nữa, đợi xem ngày họp đối chất anh sẽ nói gì về tôi. Đến khi phát biểu, anh Vũ Kính chỉ nói một câu: “Tôi đến đây chỉ để chứng minh cuộc họp Ban Chấp hành quân uỷ Ngô Quyền tháng 6-1951 là không có. Lúc đó tôi đi học ở trường Trần Phú”. Rồi anh Kính ngồi xuống không nói gì thêm. Tôi cũng hơi buồn cười, vì chẳng có ai nhắc đến cuộc họp tháng 6-1951 cả.
Khi giải lao, tôi gặp anh Kính, nhắc lại chuyện cũ. Anh Kính bảo tôi: “Tôi còn nhớ tất cả, kể cả tháng 7-1951, tôi còn đưa anh ra Đồng Vành chụp ảnh, rồi đưa cậu Văn Te làm giấy chứng minh do Bang Trình Thuỷ Nguyên ký”. Tôi nói lại: “Tôi định mời anh làm nhân chứng cho tôi, nhưng thấy danh sách đối chất với tôi có tên anh rồi, nên tôi không mời nữa". Anh lặng yên không nói gì.
Từ 3 giờ 30 chiều, 10 đồng chí bảo vệ sự thật mới cho tôi phát biểu. Trong lúc những người tố giác nói sai sự thật, các đồng chí phía tôi rât tức giận, như cô Định, đồng chí Thiện, đồng chí Vũ Quang Đạo... Họ giơ tay liên tục đòi phát biểu. Tôi ra hiệu cho họ cứ bình tĩnh, để các anh phía bên kia nói cho hết ý đi, mình phát biểu cũng không muộn. Cô Định tức giận đứng dậy phát biểu rất xúc động. Khi cô phát biểu xong, đồng chí Đỗ Mười ôm hôn cô và nói: “Tôi thương vợ chồng cô quá!”. Đồng chí Nguyễn Tân (Văn Tân) tức giận nói: “... Chúng tôi đã bị địch giày xéo lên xác chúng tôi , các anh còn định giày xéo lên xác chúng tôi lần nữa hay sao ?”
Anh Vũ Quang Đạo, móc một mắt giả (do anh làm “cỏ-về”, đập đá ở Côn Đạo bị đá bắn vào mù mắt), nói: “Tôi lấy một con mắt còn lại, bảo đảm rằng đồng chí Thành là một đảng viên kiên cường, đã cùng với anh Văn (Hiến), anh Lê Đình Thụ cùng các đồng chí trong Đảo uỷ Côn Đảo vạch ra kế hoạch vượt đảo có một không hai trong lịch sử các nhà tù của đế quốc ... “.Khi kết thúc hội nghị, đồng chí Vũ Quang Đạo nói với anh Đỗ Mười: “Hôm nay tôi đem cả thẻ đảng viên đến đây. Nếu anh kết luận khác là tôi trả thẻ Đảng, để xin ra Đảng”. Anh Mười nói: “Đến thế cơ à!?”
Đến 7 giờ tối, hai phía đã phát biểu xong, anh Mười nhìn tôi bảo: “Đủ rồi, để tôi kết luận kẻo muộn. Anh Thành không cần phát biểu nữa”.
Tôi xin phát biểu 5 phút. Tôi nói: “Tôi định phát biểu dài, tôi đã chuẩn bị phát biểu trả lời cho mỗi anh một trang, nhưng anh Mười bảo thôi, vậy tôi chỉ nói về anh Vũ Kính. Anh Kính biết tất cả mọi việc của tôi, nếu anh nói hết sự thật cho các anh này biết, có thể không phải có cuộc họp này. Tôi kể lại đầu duôi từ ngày thành lập quận, anh Vũ Kính ở đủ các thời kỳ tôi vào nội thành hoạt động. Tôi bị bắt, bị tù, ra tù, anh Vũ Kính lại đón tôi, nghe hết mọi chuyện thẩm tra, điều tra xác minh về tôi, v.v... Tất cả lời phát biểu của tôi, anh Kính đều công nhận là đúng.
Tôi định nói thêm về anh Nguyễn Mạnh Ái một chút, nhưng anh Mười bảo tôi quá muộn rồi, để anh kết luận. Tôi ngồi xuống và suy nghĩ. Anh Vũ Kính có học Hán tự nên còn giữ được chữ “Tín”. Còn anh Tô Duy, việc rành rành như “canh nấu hẹ”, như việc vợ chồng anh và chị Lê Thu cưới tập thể với vợ chồng anh chị Linh và Phụng Dương, anh Lê Xuân Thịnh và chị Kiệm, 5 người còn sống (trừ anh Thịnh đã hy sinh từ 1952), cớ sao anh có thể nói khác đi. Năm 1982, vợ chồng anh Tô Duy và chị Lê Thu còn xác minh lại với tôi là: họ cưới nhau 8-7-1951 ở Hồ Lao, có mặt tôi ở đó, rồi mấy hôm sau họ còn đến thăm tôi. Anh Linh (Nghĩa), chị Phụng Dương, chị Kiệm đều chứng nhận tôi có mặt trong sự kiện trọng đại của ba đôi vợ chồng. Thế mà anh Tô Duy phủi tay để vu khống tôi bị bắt tháng 2-1951 chứ không phải tháng 9-1951, để ghép cho tôi 7 tháng vắng mặt là được địch cho đi đào tạo làm gián điệp. Anh Tô Duy còn bảo các anh em đi thẩm tra, bắt tôi phải tả lại đám cưới, nơi tổ chức đám cưới, trang trí như thế nào? Để bảo đảm tính trung thực của mình, tôi tả lại đầy đủ đám cưới cho cán bộ đi thẩm tra. Anh Tô Duy lại xoay ra việc khác, nói với cán bộ đi kiểm tra: “Cậu Thành đã đi điều tra tỉ mỉ nơi tổ chức đám cưới...”. Anh Tô Duy có biết đâu từ đó đến nay tôi chưa lần nào trở lại Hồ Lao, và cũng chẳng hỏi lại ai về việc này làm gì.
....
Anh Đỗ Mười kết luận (... ). Trước khi kết thúc anh Mười nói: “Đề nghị anh Thành thôi không truy ngược lại nữa. Vì Đảng ta còn khó khăn” (??)". Bản thông báo lời lẽ rõ ràng, nghiêm túc. Có đoạn viết: “... các đồng chí nghi vấn chính trị đối với đồng chí Đoàn Duy Thành là sai, không có căn cứ xác thực, yêu cầu các đảng viên phải nghiêm túc chấp hành kết luận của Ban Bí thư. Nếu đồng chí nào còn có ý kiến bảo lưu ở khía cạnh này, hay khía cạnh khác thì để lưu vào hồ sơ. Không đồng chí nào được nói khác kết luận của Ban Bí thư. Phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và kỷ cương của Đảng”. Thông báo này phổ biến đến các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, Riêng đảng bộ thành phố Hải Phòng và Đảng bộ cơ sở nơi đồng chí Đoàn Duy Thành sinh hoạt đảng được phổ biến đến chi bộ (đ/c Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư đã ký).
Sau 3, 4 tháng, tình hình lắng dịu. Khoảng tháng 9-1993, có hội nghị giữa nhiệm kỳ, bầu bổ sung Trung ương. Số đại biểu đi dự đại hội lần thứ VII chỉ được triệu tập khoảng 70%, tôi không được triệu tập đi họp, dù tôi là đại biểu chính thức. Đại hội Đảng lần thứ VII, tôi không được cử đi họp là chắc chắn như dự đoán của tôi. Tôi cũng không biết chính xác số đại biểu dự hội nghị giữa nhiệm kỳ là bao nhiêu. Nhiều đồng chí uỷ viên, có cả uỷ viên BCT nói với tôi, yêu cầu Trung ương mời tôi đi dự Hội nghị giữa nhiệm kỳ và bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương. Nhưng tôi đều cảm ơn và từ chối, không đặt vấn đề này ra làm gì nữa. Việc đã qua rồi, cho nó qua. Có đồng chí còn nói găng: “Cứ đến bắt đền ông Mười là ông ấy phải giải quyết”. Tôi nói lại: “Tôi đã nói với anh Mười, tôi chỉ đến xin công việc làm ích quốc lợi dân, còn xin chức vụ, quyền lợi không bao giờ tôi xin”.
Trong bản dự thảo thông báo cuả Văn phòng Trung ương về vấn đề của tôi, đưa cho anh Mười duyệt, anh chỉ gạch đi 2 từ “hoàn toàn” ở câu: “Các đồng chí nghi vấn chính tị đối với đồng chí Đoàn Duy Thành là hoàn toàn sai”. Nay chỉ còn “là sai”. Nó cũng làm nhẹ khuyết điểm cho những đồng chí vu khống tôi một ít. Anh Đỗ Mười thừa biết là họ “hoàn toàn” bịa đặt
Sau một thời gian, họ lại tung tin: “Anh Đỗ Mười vội vàng, hồ đồ kết luận không chính xác về Đoàn Duy Thành”. Rồi họ đi “vơ bèo vạt tép” tung tin thất thiệt về tôi, như nhân chứng Nguyễn Văn Cấp, nguyên bí thư huyện uỷ Kim Thành nói là không có việc tôi về chữa bệnh ở Kim Thành. Tôi yêu cầu cho đối chất với anh Cấp. Anh Mười bảo: “Đối chất thế là đủ rồi. Vấn đề là để làm rõ bị bắt tháng 9 hay tháng 2-1951. Tháng 7-1951, cậu còn ở cơ quan Văn phòng thành uỷ. Còn dự đám cưới tập thể, bao nhiêu người làm chứng. Còn việc đi chữa bệnh ở Kim Thành tháng 2 đến tháng 5-1951 đã có anh Lê Công Thiệu làm chứng là đủ” .
Tôi muốn đối chất với anh Cấp để vạch bộ mặt giả dối của anh ta. Vì tôi về chữa bệnh ở cơ quan huyện đội, anh Cấp cùng đồng chí Nguyễn Đình Củng, chánh văn phòng đến thăm tôi ở nhà bà Kỷ, xóm Chùa, thôn Quê Phương, xã Bình Dân. Khi cơ quan huyện đội chuyển sang sơ tán ở Bãi Xuân Đám, Thành Hà, ban đêm ngủ trên thuyền, anh Cấp còn đánh cờ tướng bằng trí nhớ với tôi, vv... Anh Cấp quen biết quá rõ tôi. Thế mà trong đơn tố cáo tôi, anh Cấp nói: “Tôi không biết anh Thành, tôi cũng không gặp anh Thành lần nào. Chỉ khi anh Thành làm Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tôi mới biết”. Anh bị một số anh em tù Côn Đảo ở Hải Dương và đồng chí Lê Công Thiện phản bác lại. Anh Cấp lại đến đồng chí Nguyễn Đình Củng xác minh việc anh ta đến thăm tôi và có ý vận động anh Củng nói là không có. Khi thấy đấu tranh nội bộ nếu không nghiêm, nó sẽ lây lan rất phức tạp. Chính sau khi đối chất xong, các đồng chí Ban tổ chức kiến nghị với anh Mười nên có hình thức kỷ luật với những người nói sai sự thật, nhưng anh Mười gạt đi. (!?).
Một số anh em trong số 11 người đi phân bua với nhiều người, nói là vì việc chung phải làm. Có người còn nói với một đồng chí bạn thân của tôi là: “Mình phục vụ cho ông ấy (ý nói anh Mười), ông ấy lại kết luận mình sai. Nay mình chỉ yêu cầu ông ấy sửa bản thông cáo, bỏ chữ “là sai” là chúng mình không làm tiếp nữa (nghĩa là không vu khống ông Thành tiếp nữa)”.
Cổ nhân đã răn dạy, cần phải nhớ: “Sinh sự, sự sinh, hà nhật liễu!” (Sinh ra việc, gây sự với người ta, người ta phải gây sự lại, không ngày nào kết thúc được). Do đó ngưòi lãnh đạo vì dân, vì nước, phải biết vì lợi ích của nhân dân, phải chọn điểm dừng, chấm dứt sự việc. Chỉ biết có mình và quên việc người khác phản ứng lại ra sao, tất nhiên phải đẻ thêm chuyện, không biết giải quyết đến lúc nào cho hết. Đến nay tháy rõ hai phía đều đòi nợ anh Mười. Tôi đòi anh Mười phải trả lại những gì anh đã làm ảnh hưởng đến tôi, gia đình vợ con tôi. Còn phía bên kia họ đòi công phục vụ anh, hơn nữa đã không được trả công lại bị kết luận là sai. Cứ thế, và cứ thế... Từ việc làm không đàng hoàng chính trực, biết bao cán bộ cấp dưới bắt chước, sinh nhờn kỷ luật. Từ kỷ luật sắt, thành kỷ luật “mỡ”, đó chẳng phải là bài học xây dựng Đảng, xây dựng con người lãnh đạo phải có đức, có tài để làm gương tốt cho đời nay và mai sau hay sao ?”.
Các con tôi, bốn trai, các cháu đã trường thành, đều là đảng viên và cán bộ trung cấp. Chúng biết suy nghĩ và đều có bản lĩnh. Các cháu không buồn, không nản lòng, chỉ cám cảnh cho những đồng chí của bố mình lại làm những việc đen tối, nhằm hãm hại bố mình một cách độc ác. Có một số nhà văn, nhà báo đến phỏng vấn các cháu, cháu Đoàn Duy Khương, con trai thứ ba của tôi đã trả lời: “Tôi biết bố tôi đã hy sinh cho đất nước, cho gia đình và chúng tôi như thế nào. Mẹ tôi và bạn bè của bố tôi kể lại cho chúng tôi nghe. Tôi tin tưởng sắt đá rằng bố tôi là người trung thành tuyệt đối với Đảng và dân tộc. Nhưng cứ giả thiết rằng bố tôi là “gián điệp quốc tế”, thì tôi rất tự hào được là con một người thông minh nhất thế giới. Vì tất cả các loại gián điệp, phải thay tên đổi họ, phải bỏ vợ con gia đình ở quê hương, đi một nơi khác... Thế mà bố tôi làm “gián điệp quốc tế” vẫn sống đầm ấm với mẹ con tôi, vẫn sống ở quê nhà với cái tên thật mà trong nước lẫn thế giới đều quen thuộc: “Ông Đoàn Duy Thành”. Như thế phải là người thông minh nhất thế giới mới che mắt được cơ quan chống gián điệp của ta chứ”.
Đồng chí Đỗ Mười đã dùng rất nhiều cách để hạ uy tín của tôi. Có rất nhiều chuyện, tôi chỉ kể ra đây hai chuyện. Trước đại hội VII, trong cuộc họp bàn về nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, anh Mười đứng lên phát biểu: “Bây giờ mới khui ra Đoàn Duy Thành có 3, 4 nhà ở Hải Phòng”. Đồng chí Nguyễn Dình Hương phải đứng lên cải chính: “Anh Đoàn Duy Thanh chỉ có một nhà ở Hải Phòng do thành phố thu xếp cho, chúng tôi đã đi kiểm tra. Khi về công tác ở Trung ương, anh Thành đã trả lại nhà cho thành phố”.
Câu chuyện thứ hai, anh Mười nói với một số cán bộ thân anh Mười để họ làm cái loa nói theo: “Đoàn Duy Thanh ôm chân Võ Văn Kiệt”. Họ rêu rao chuyện đó hằng năm. Anh Lê Đức Thọ nghe biết chuyện này. Anh Thọ đã nói trong một cuộc họp: “Đoàn Duy Thành nó thèm ôm chân ai. Đến tôi, nó cũng cãi tới số”. Một hôm tôi gặp anh Mười, tôi bảo: “Anh bảo tôi ôm chân anh Võ Văn Kiệt? Anh biết đấy, ở cái đất nước này, tôi không thèm ôm chân ai. Tôi đề nghị anh không nên nói như vậy. Tôi quí trọng người có đức, có tài; lễ độ, tôn kính người biết tự trọng và đối nhân xử thế có nhân cách...” Từ đó anh Mười mới không nói nữa. v.v... Kẻ ra còn nhiều, nhưng tôi nghĩ những chuyện sinh hoạt tầm thường của cá nhân không nên kể.
Năm 1997, Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp có dư luận nói là lần này tôi không làm Chủ tịch và về hưu. Việc về nghỉ, với tôi, tôi đã nói nhiều rồi. Bao giờ Đảng và Nhà nước bảo nghỉ là nghỉ ngay. Tôi không xin. Không rõ ai nói đến tai nhà tôi, nhà tôi đến nhà anh Mười, xin cho nhà tôi ở thêm khoá nữa. Khi nhà tôi về, tôi hỏi nhà tôi đi đâu. Nhà tôi bảo đi đòi nợ ông Mười. Tôi hỏi lại, đòi cái gì? Nhà tôi mới cho biết đến đề nghị anh Mười để tôi làm thêm một khoá nữa. Tôi bảo: “Anh đã bảo em nhiều lần, không nên xin anh Mười chức vụ, quyền lợi gì?. Nhà tôi đứng phắt dậy nói: “Em đến đòi nợ ông ta. Ông ta đã làm anh khổ sở, quá thiệt thòi. Đến đòi được ít nào hay ít ấy... Anh để mặc em, lần này em phải làm cho ra nhẽ. Không để ông ấy bắt nạt mình mãi...”
Mấy hôm sau, anh Mười gọi tôi đến bảo: “Cậu về làm đơn xin làm thêm khoá nữa”. Anh không nhắc gì chuyện nhà tôi đến gặp anh. Tôi bảo: “Anh bảo tôi làm đơn, anh có ủng hộ không? Nếu anh không ủng hộ, không sao đâu” . Anh Mười chỉ bảo: “Cậu về làm đơn đi”. Tôi về suy nghĩ, bàn với mấy đồng chí giúp việc. Các đồng chí khuyên tôi nên viết đơn. Phòng Thương mại và Công nghiệp cũng rất cần tôi làm thêm khoá nữa. Còn tôi, tôi cũng nghĩ đến những công trình dở dang, cơ chế về vai trò của doanh nghiệp và doanh nhân chưa được thông qua, nếu tôi làm tiếp cũng là để hoàn tât được công việc. Tôi viết đơn gửi anh Mười và gửi đồng chí Nguyễn Văn An, uỷ viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, anh Mười đi một số nơi tại Hải Phòng, anh Mười nói: “Đấy, Đoàn Duy Thành xin tôi làm khoá nữa, tôi cho làm đấy”. Tôi nghe các đồng chí nói lại. Tôi bảo nhà tôi: "Anh Mười đã kể công với mình đấy” Nhà tôi bực mình nói: “Mặc ông ấy, mình đòi được một ít nợ là được rồi”. Tôi bảo: “Nợ này được cái gì? Chỉ biết trước mắt phải làm bao nhiêu việc cho doanh nghiệp, cho VCCI ...”. Nhà tôi lại lý sự với tôi: “Được làm việc cho cách mạng, đem lại lợi ích cho mọi người chứ sao. Để người khác họ đến phá và thu vén hết cho cá nhân, thì công lao khoá trước của anh cũng mất hết...”. Tôi cười vui và nói: “Tôi lại thấp mưu hơn cô”.
Đến giữa nhiệm kỳ khoá VII, tôi lại thăm anh Mười. Dù anh đối xử với tôi thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn giữ tình cảm anh em, đồng chí với anh. Lúc nào tôi cũng coi anh là thủ trưởng. Anh kể cho tôi nghe, cuộc họp Trung ương giữa nhiệm kỳ này, anh xin nghỉ. Tôi hỏi ai thay, anh bảo tôi: “Lê Khả Phiêu”. Rồi anh giới thiệu quá trình của anh Lê Khả Phiêu, có đoạn đáng lưu ý và buồn cười với sự giới thiệu và giải thích này: “Cậu Phiêu nó chiến đấu ở Bình Trị Thiên được rèn luyện 14 năm. Nó lên có thể giữ được 2 khoá. Còn bảo nó hủ hoá thì mấy người còn hủ hoá quá nó!... ”. Tôi nói phải giữ được hàng trăm năm chứ sao lại hai khoá? Còn đoạn sau tôi không bình luận. Khi nghĩ một Tổng Bí thư giới thiệu một Tổng Bí thư mới thay mình mà nói như vậy nghe không được. Không rõ anh Mười đã nói với bao nhiêu cán bộ về câu chuyện này? Tôi thấy cách giải thích đó không đúng tầm của một cán bộ lãnh đạo quốc gia.
Đến Đại hội IX, trong thời gian chuẩn bị nhân sự đại hội, tôi biết có nhiều phức tạp. Hôm Bộ Chính trị mời một số cán bộ cao cấp đến tham khảo ý kiến về nhân sự, trước khi đến họp, tôi lại thăm anh Mười. Anh nói nhiều chuyện về nhân sự. Khi nói đến Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, anh Mười nói: “Cậu Phiêu bây giờ gái nó nắm hết rồi. Có đứa là CIA. Kỳ này phải thay người khác...”. Tôi đã định nói một câu, nhưng suy đi nghĩ lại sợ anh Mười phật lòng, nên tôi không nói nữa. (Câu tôi định nói là: “Nay chắc anh Lê Khả Phiêu hủ hoá hơn mấy người trước ?”)
Tôi thấy rât buồn, cán bộ chủ chốt không đào tạo, không qui hoạch, thay đổi vội vàng thì lòng Đảng không yên, lòng dân yên sao được ?
Trong việc thay anh Lê Khả Phiêu, tôi đến đự hội nghị được một đồng chí cho biết: có một cán bộ thân với anh Mười, hỏi anh Mười sao lại làm như vậy. Anh Mười trả lời: “Nó lật tôi, tôi lật lại”. Tôi nghĩ trong nội bộ mà xử sự như vậy lộn xộn lắm! Tôi nhớ lại Đại hội VII, anh Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư sẽ nghỉ. Anh bảo tôi lại nhà chơi. Anh hỏi tôi giới thiệu ai là người thay anh. Rồi anh đưa vài người ra phân tích cho tôi nghe. Khi anh lại hỏi ý kiến, tôi nói: “Như anh đã nói nhiều lần khi anh làm Tổng Bí thư khoá VI; Cán bộ không qui hoạch, không đào tạo, nước đến chân mới nhảy, như cầm đóm đi soi ếch... Còn bây giờ tuỳ anh và Bộ Chính trị chọn. Tôi nghĩ: “Cạn ao, bèo đến đất”, “Chọn bó đũa lấy cột cờ”, giữ được đoàn kết nội bộ, ổn định chính trị là tốt nhất. Còn các đồng chí mà anh giới thiệu, kẻ tám lạng, người nửa cân, người được mặt này, yếu mặt kia, tuỳ anh lựa chọn. Tôi không dám tham gia cụ thể”.
Sắp hết đời chỉ mong được tự do
nhưng vẫn không yên thân
Cuối năm 2002, mọi người đều biết là đến 4-2003, tôi sẽ nghỉ hưu, sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Một số nhà văn, nhà báo đến chơi. Trong các buổi đến chơi, các đồng chí cũng không đặt vấn đề phỏng vấn, chỉ đề nghị tôi trong đời hoạt động cách mạng có những gì còn đọng lại, mang dấu ấn vui buồn thì kể lại cho nghe. Trong các cuộc gặp gỡ cuối năm vui vẻ đó, tôi kể một số chuyện mà tôi tâm đắc nhất... Rồi các nhà báo về tự viết. Họ đưa lại tôi xem những sự kiện viết có chính xác không, còn văn vẻ, đầu đề bài báo do nhà báo, nhà văn viết, tôi không duyệt lại. Số báo có các bài khi xuất bản các đồng chí đều biếu tôi. nơi một bản, nơi 2, 3 bản, như các bài “Vị tướng của doanh nhân” (báo Thế Giới Mới); bài “Thủ lĩnh của doanh nghiệp” (báo Tài Chính); bài “Người say mê với sự nghiệp làm giàu” (báo Khoa Học), va một số báo khác.
Những bài báo trên là hoàn toàn sự thật 100% nhưng không hiểu sao anh Đỗ Mười lại tức giận đến thế! Anh không nói gì với tôi, nhưng qua nhiều nguồn tin tôi biết. Tôi nghĩ có dịp đến thăm, tôi sẽ nói cho anh Mười rõ là tôi không có ý định viết về mình. Ngay các nhà báo viết những bài trên, gần đây đến chơi và gọi điện cho tôi nói rằng họ viết hoàn toàn tự nguyện, không ai đề nghị, nhưng áy náy vì đã làm cho tôi phải phiền lòng. Tôi bảo không sao cả, quan trong là sự thật.
Đến ngày 2-8-2003, anh Đỗ Mười bảo tôi đến chơi. Nhân đó tôi hỏi anh Mười sao không kỷ luật những người tái vu khống tôi trên tờ báo An Ninh Thế Giới? “Tôi sẽ kiện ra toà về tội vu khống chính trị. Hôm nay tôi chính thức đề nghị với anh đồng ý cho tôi kiện”. Anh Mười vội vàng tìm máy gọi anh Nông Đức Mạnh, anh Phan Diễn, anh Trần Đình Hoan để nói chuyện. Nhưng ba anh trên đều đi vắng. Anh Mười nói chuyện với thư ký của ba anh, nhắc ba anh giải quyết sớm vụ việc của tôi không để tôi đi kiện.
Sau đó anh ngồi nói chuyện với tôi, anh bảo: “Mình đã vo tròn lại, cậu lại rũ rối ra”. Câu nói đó tôi rất sửng sốt, không hiểu tôi rũ rối cái gì. Vụ anh Tô Duy vu khống tôi, từ ngày có kết luận của Tổng Bí thư tôi có nói gì nữa đâu. Chỉ khi họ tung tin anh Mười kết luận “hồ đồ”, “vội vàng”, ám chỉ anh Mười thiên vị tôi, tôi mới làm đơn xin đối chất lại, xoá kết luận cũ, giao cho một người chủ trì do phía anh Tô Duy giới thiệu, để khỏi mang tiếng cho anh Mười. Có thế thôi. Tôi có rũ rối gì đâu.
Anh Mười nói: “Tôi nhận được miếng giấy con của anh Nguyễn Văn Trân (anh giơ ba đầu ngón tay ra, và nói: “Bằng từng đây này”), phản đối bài báo của cậu ”Vị tướng của doanh nhân”. Tôi nghĩ liên quan gì đến anh Nguyễn Văn Trân về bài báo này nhỉ? Tôi ngồi suy nghĩ phân vân quá! Vì sao mấy bài báo nói sự thật vừa qua, lại dẫn đến bài báo của anh Tô Duy đăng ở trang 31 báo An Ninh Thế Giới ra ngày 17-4-2003? Trước ngày họp Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam? Thật là khó hiểu... .
Sau đó anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện Tô Duy nữa: “Hai ông gộc, một Phó Thủ tướng, một Bộ trưởng đi kiện nhau làm gì?" Tôi nói tôi kiện thì anh và anh Võ Chí Công cũng phải ra toà làm chứng. Anh Mười bảo: “Thế cơ à?” Tôi cười và nói: “Luật của thế giới là vậy đấy. Còn ở ta các anh viết một lá thư, hoặc cho luật sư nói thay là đủ”. Anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện nữa, sẽ bảo anh Nông Đức Mạnh giải quyết sớm. Còn việc nhập vàng hỏi chú Thuý, anh không nhớ. Tôi nghĩ việc nhập vàng anh “chửi” tôi hàng năm, anh lại không nhớ. Thật là kỳ lạ! Tôi chào anh ra về. Anh tiễn tôi ra đến cổng một cách thân mật.
Tôi về nhà, tôi tiếp tục suy nghĩ. Mở lá thư của anh Tô Duy viết ngày 15-5-2003 gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và anh Đỗ Mười, trang 4 có đoạn viết: “Đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư Trung ương đảng tố cáo bài báo đó chứa đựng nhiều điều bịa đặt, lừa bịp rất trắng trợn, để đề cao cá nhân Đoàn Duy Thành một cách hết sức lố bịch”.
Tôi lại nhớ buổi gặp anh Mười, khi tôi mới đến, anh Mười nói ngay: “Cậu Tài nó mới được phong Anh hùng đấy!”. Thoáng nghĩ tôi hiểu anh lại muốn động viên tôi (anh Tài cũng bị nghi oan khi ở tù như tôi, sau được thẩm tra kết luận tốt).
Khi tôi nói đến các bài báo mới đăng dịp tết năm 2002-2003 đều hoàn toàn là sự thật, chẳng có một việc nào bịa đặt, tôi chìa lá thư của anh Tô Duy ra. Anh Mười tỏ vẻ hơi bối rối, nói lảng sang chuyện khác. Vì lá thư này anh Tô Duy cũng gửi cho anh Mười. Tôi định đọc đoạn anh Mười nhận xét bài báo như đã nói trên, nhưng suy nghĩ tôi lại thôi. Vì anh mời tôi đến chơi chứ tôi không chủ động đến để “đôi co” với anh.
Mấy hôm sau khi chị Kiệm, nguyên Vụ trưởng Viện Kiếm sát nhân dân tối cao (phu nhân đồng chí Lê Xuân Thịnh, nguyên Bí thư thành uỷ Hải Phòng đã hy sinh ở Thái Bình) đến chơi kể lại chuyện mới gặp anh Mười. Chị kể: “Anh Mười nói: cậu Thành cũng có khuyết điểm. Tôi đã vo tròn rồi cậu Thành lại cho đăng báo tâng bốc mình qúa mức. Việc nhập vàng là tôi bảo Cao Sĩ Kiêm nhập. Cậu Trần Phương và cậu Thành lúc đó tính đều sai cả. Tôi làm, tôi tính mới đúng, mới giải quyết được lạm phát, khủng hoảng kinh tế”... Chị Kiệm nói lại với anh Mười: “Tôi tưởng khuyết điểm gì, chứ nói quá mức thành tích thì không khuyết điểm để so sánh với việc anh Tô Duy đăng trên báo An Ninh thế Giới...”
Sau khi tôi nghe chị Kiệm kể lại câu chuyện gặp anh Mười, tôi buồn cười về một đồng chí thủ trưởng vơ hết thành tích về mình, đổ lỗi cho người khác, nhất là nói sai sự thật:
Còn bài tính của tôi khi làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, anh Mười đã tuyên bố hai lần ở các phiên họp Hội đồng Bộ trưởng và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng là “làm theo bài tính của anh Đoàn Duy Thành”. Nay anh Mười (lại) nói với chị Kiệm là tôi tính sai hết.
Tôi vừa buồn cười vừa suy nghĩ, nói với chị Kiệm: “Đúng là nhân dục vô nhai. Mình là thằng đầy tớ dọn cỗ cho thày ăn, mình chỉ đợi vét đĩa mà cũng không được vét đĩa, thầy lại đòi vét nốt...”.
Tôi nhớ lại khi được điều về Hà Nội công tác, vội vàng khăn gói ra đi, nhà tôi sợ tôi ốm cũng theo lên Hà Nội phục vụ chồng, giao cho bà ngoại trong nom các cháu ở Hải Phòng. Các cháu cũng đã lớn, đi làm việc nhưng vẫn ăn ở chung tại số 10 Đinh Tiên Hoàng. Nghe chú Xuân Khang, kỹ sư, nhạc sĩ kể lại mà tôi rơi nước mắt: “Đến gặp chú Tiến, cháu Khương, cháu Trọng đang ăn cơm trưa, chẳng thấy có gì. Cháu Khương bảo cháu Trọng xem còn gì mang cho anh ăn cơm. Cháu Trọng bảo chỉ còn mấy con tôm, bà dặn để dành tối ăn...”. Tôi nhắc câu chuyện đó với nhà tôi, bảo nhà tôi lo cho các cháu đôi chút về đời sống. Nhà tôi gắt: “Lương chỉ có thế thì ăn thế. Nghe cái mồm chú Khang làm gì...”
Trong lúc đó, không biết theo chỉ thị của ai, họ đem camera, đặt ở tầng hai nhà kế bên nhà số 10 Đinh Tiên Hoàng để theo dõi nhà tôi. Sau này tôi biết một chi tiết rất nhỏ: “Đặt camera theo dõi nhà ông Thành xem có di chuyển tài sản gì đi đâu không. Nếu có, báo ngay cho biết chuyển tài sản gì đi, nhất là ban đêm, sẽ ập vào bắt và khám nhà”. Theo dõi nửa năm chẳng thấy động tĩnh gì nên họ rút. Phòng gác hai là của đồng chí Phan Văn, giám đốc Sở Văn hoá được phân phối. Nhưng đồng chí Phan Văn về ở với con, phòng khoá cửa. Còn do ai cho muợn để đặt máy quay thì đồng chí kể lại chuyện này không cho tôi biết.
Họ nghĩ rằng tôi công tác ở Hải Phòng 36 năm, làm Chủ tịch và Bí thư thành uỷ 7 năm, chắc vơ vét được nhiều tiền của lắm, nhiều tài sản quí hiếm lắm! Sau khi được nghe kể lại chuyện này, tôi rất buồn. Làm cho dân, cho nước, mình không vụ lợi một xu nhỏ, đối xử với mình lại như thế?
Mãi đến năm 1990, khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại và xin về hưu, một số công ty thuộc Bộ và địa phương đến thăm thấy Bộ trưởng tài sản chẳng có gì, đồng chí Mai Văn Dâu, giám đốc Tổng hợp I của Bộ mang xuống tặng một cái tivi cũ của Nhật Bản; công ty Xuất nhập khẩu thành phố Vũng Tàu và tỉnh Đồng Tháp cho cái tủ lạnh và bộ radio cassette, vợ chồng đồng chí giám đốc Công ty Huy Hoàng - Cẩm Nhung cho bộ cassette 4 tầng mới nhất của Nhật Bản và 5 triệu đồng. Nhà tôi từ chối mãi không được. Chú Huy Hoàng và cô Cẩm Nhung nằn nì mãi, và nói: :”Anh đã nghỉ rồi, đây là tình cảm, chị nhận cho”. Nhà tôi nhất định không nhận, Hai cô chú cứ để lại và ra về... Công ty Rau quả Hải Phòng cho nhà tôi một điều hoà cũ do Liên Xô sản xuất. Từ đó trong nhà chúng tôi mới có hàng “xịn” để dùng. Còn trước chỉ có một tivi Neptun của BaLan sản xuất, một đài Hồng Đăng của Trung Quốc. Nghỉ Bộ trưởng, thành ra đổi đời về sinh hoạt.
Khi đương chức, một số anh em biếu quà bình thường thì nhà tôi nhận, còn thì không nhận. Có người đi nước ngoài về cho mấy củ sâm Cao Ly, khách ra đến cổng rồi, nhà tôi còn đuổi theo trả lại.
Năm 1993, tôi sang thăm Thái Lan. Biết anh Nguyễn Văn Linh mới đi thăm Italia về cùng nghỉ ở lầu trên khách sạn Principale- Băng Cốc, tôi lên thăm anh. Anh kể chuyện đi thăm Italia cho tôi nghe. Rồi anh nhắc lại việc tôi xin từ chức, anh lại khóc, anh lại nói lại: “Tôi không cứu được anh”. Tôi bảo: “Tôi làm gì khiến anh phải cứu? Có ủng hộ tôi thì ủng hộ”. Tôi biết anh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Hải Phòng và với tôi. Anh lớn lên từ 6 tuổi đã ở với ông chú tại Hải Phòng. Qua nhiều năm công tác, tôi quen biết anh, lại cùng ở tù Côn Đảo, tuy anh là bậc đàn anh, lớp tù trước so với tôi nhưng mỗi khi anh em gặp nhau là chuyện trò rất sôi nổi... Các đồng chí Tỉnh uỷ Hải Hưng kể lại với tôi, anh đến thăm Hải Hưng, nói chuyện với tỉnh uỷ, anh cũng nhắc đến tôi một cách trìu mến và nói:”Trong Đảng ta, cán bộ cao cấp được thử thách, thẩm tra, xem xét kỹ nhất là đồng chí Đoàn Duy Thành...”. Có đồng chí hỏi anh: “Tại sao anh không bảo vệ được anh Thành?”. Anh trả lời: “Ba thằng đánh một, chẳng chột cũng què”. Tôi cũng chẳng tìm hiểu họ là ai, mặc dù một số đồng chí tỉnh uỷ Hải Hưng nói rõ là anh Linh đã chỉ ra họ, tên là gì, nhưng tôi nghĩ tìm hiểu để làm gì? Mình theo tư tưởng và đạo dức của Bác Hồ, và đối nhân xử thế của Khổng đạo. Sách Luận ngữ đã chép, có một học trò hỏi Khổng Tử một câu về xử thế: “Dĩ đức báo oán hà như ?” (Lấy điều đức để báo oán lại oán thù có được không?) Khổng tử trả lời: “Bất nhược dĩ trực báo oán” (Không bằng lấy điều thẳng để báo lại). Bởi vậy tìm hiểu chỉ thêm phải suy nghĩ. Một người đã quá đủ rồi, hưống chi lại ba người đánh một! Tôi bỏ qua, chằng nghĩ, chằng nói làm gì, họ chỉ là người “góp cỗ chia phần” thôi. “Giậu đổ thì bìm leo”, đó là thói đời.
Trước khi anh Nguyễn Văn Linh mất 25 ngày, tôi đến thăm anh ở nhà riêng, có các đồng chí Vũ Tiến Lộc, Nguyễn Hữu Hải, Phạm Gia Túc cùng đi. Lúc này anh yếu nhiều. Anh vẫn đi từ gác xuống, một tay bịt một bên mắt, một tay ôm bụng, tiếp chúng tôi hơn một giờ. Tôi tặng anh cuốn “Côn Đảo một thời để nhớ”, hồi ký của tập thể anh em tù chính trị Côn Đảo sinh sống ở Hà Nội. Anh cố vui để tiếp chúng tôi, nói nhiều chuyện trong nước và thế giới. Bất thình lình anh hỏi: “Tại sao lúc đó anh lại thôi Phó Thủ tướng nhỉ?” Tôi cũng bất ngờ, tôi trả lời anh: "Tôi từ chức tại hội trường T78, anh chủ trì mà anh quên rồi à!”. Anh suy nghĩ một lát rồi nhớ ra: “Tại sao tôi lại cho anh từ chức nhỉ?”. Rồi anh lại khóc. Tôi vừa cảm động, vừa thương anh, không biết với anh chống đỡ được đến bao giờ bệnh ung thư đang hoành hành ở anh. Đau yếu thế, mà anh chỉ bàn việc, lo cho nước, cho dân. Bao nhiêu suy nghĩ mà anh bộc lộ với tôi và các đồng chí cùng đi. Chúng tôi rất cảm động về con người cộng sản này. Hoạt động từ năm 13 tuổi, đến 16 tuổi đã bị băt, bị tra tấn và đầy đi Côn Đảo. Gần đây đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên BCT khi làm trưởng ban Tổ chức kể lại với tôi là: “Anh Linh là người mà bảo nghỉ là nghỉ ngay, rất vui vẻ, không khó khăn như những anh khác...”
Kể, từ sau ngày tôi từ chức đến lúc anh Nguyễn Văn Linh qua đời, tôi gặp anh bốn lần. Lần nào anh cũng khóc mỗi khi nhắc đến việc từ chức của tôi. Còn tôi từ chức là vì lý tưởng và phẩm chất của tôi, giữ cho Đảng ta nội bộ đoàn kết, tìm được người có tài-đức để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đối với anh Nguyễn Văn Linh, tôi biết ơn anh đã có tình cảm thực sự chân thành với tôi.
Và, từ ngày 2-8-2003, tôi khẳng định được hơn 20 năm qua anh Đỗ Mười là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây rắc rối cho đời hoạt động của tôi. Còn anh Tô Duy là người trung thành với anh Đỗ Mười, được anh Mười giao mọi việc, đã cung cấp tài liệu giả để anh Mười tin. Khi sự thật đã quá rõ ràng, anh Mười không còn cách nào khác, phải kết luận là tôi đúng. Anh Tô Duy vừa không bằng lòng, vừa cố ý tìm chứng cứ để cho anh Mười tin mình đúng, nên đã táng tận lương tâm cứ nói tôi bị bắt tháng 2-1951, dù không có chứng cứ gì cả. Còn anh Mười cũng phải bảo vệ anh Tô Duy. Anh Tô Duy vì anh Mười mà làm. Bởi thế sự việc giải quyết không dứt điểm được. Tôi tự hỏi sự việc này còn kéo dài đến bao giờ? Đó là nguy cơ tiềm ẩn, gây rối ren trong nội bộ, gây bài học xấu cho hiện nay và mai sau về việc tranh chức, tranh quyền trong nội bộ. Còn tôi sống được đến hôm nay vì trong Đảng cũng còn dân chủ, cũng có những cán bộ trung thực, không a dua làm điều bất nghĩa.
Tôi nhớ năm 1996, tôi đến Paris dự hội thảo và dự triển làm Việt Nam tại Pháp. Xong việc, tôi cùng đồng chí Bùi Việt Cường, đại diện Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc đóng ở Geneve, Thụy Sĩ và ông Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Việt kiều ở Pháp, đến thăm người em con ông cậu tôi là Nguyễn Đức Riễm đã gần 90 tuổi. Hai vợ chồng chú Riễm đón chúng tôi, chú mừng rỡ nói: “Bác còn giữ được cái đầu đến thăm em là quí lắm rồi! Bên này người ta đồn bác là gián điệp quốc tế, em rất lo. Thế là chế độ cộng sản cũng còn công minh hơn phong kiến nhà Lê. Nếu không thì đã có vụ Lệ Chi Viên thứ hai ở Việt Nam”. Tôi buồn cười hỏi: “Sao, ghê thế cơ à? Tôi chẳng thấy gì đáng sợ. Tôi không lúc nào buồn và suy nghĩ ghê gớm như chú cả. Tôi vẫn làm việc bình thường”. (Chú Riễm là cơ sở tình báo của ta, từ 1954 đưa vào vùng tạm chiếm hoạt động, còn hoạt động như thế nào tôi không biết. Chú Riễm đã mất năm 2000). Trong nước cũng nhiều người lo lắng cho tôi, nhưng tôi không kể làm gì cho thêm đau lòng. Mong sao từ nay trở về sau không còn có những con người như vậy, để Đảng ta vượt lên tầm của thời đại, để có một Đảng trong sáng tuyệt vời. Noi gương Bác Hồ để xây dựng Đảng thì mọi việc sẽ thành công.
Còn đối với anh Đỗ Mười, tôi phải phục anh là người “siêu” trong việc che giấu nội tâm của mình. Ngày 21-6-2003, trong thư tôi gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, anh Đỗ Mười, anh Võ Chí Công, ở trang 7 tôi còn đánh giá: “Chắc cả nước ta ai cũng biết đồng chí Đỗ Mười là người thẳng thắn trung thực”. Nhưng mãi đến ngày 2-8-2003, hơn 20 năm sau, sự thật trần truồng (La vérité toute nue), tôi mới khẳng định được người đứng sau vụ án “gián điệp quốc tế” này, chính là đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta. Đồng chí Đỗ mười đạo diễn và chỉ đạo rất tinh vi, lúc cứng lúc mềm đối với tôi, làm cho đối Tượng như rơi vào trận đồ bát quái, không xác định được phương hướng. Do đó, quá trình diễn ra vụ án nghi vấn chính trị lớn nhất đối với tôi, có rất nhiều đồng chí, kể cả hầu hết Uỷ viên BCT, Uy viên Ban Bí thư lúc đó đặt câu hỏi với tôi: “Cần phải xem xét còn có nguyên nhân sâu xa gì nưã mà hơn một chục cán bộ chủ chốt Hải Phòng, không ai có chứng cứ cụ thể, lại dám ký vào đơn tố cáo ? Anh cần xem xét kỹ việc này”. Tôi chưa trả lời được câu hỏi ấy.
Nhưng từ sau ngày 2-8-2003, tôi đã có thể trả lời câu hỏi này, khi đồng chí Trần Đình Hoan, Uỷ viên BCT, Ban Bí thư, trưởng ban Tổ chức Trung ương, ngày 8-8-2003 đặt câu hỏi như nội dung trên. Xin thưa: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”. Tháng 1-2004, đồng chí Nguyễn Đức Tâm,. nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tổ chức Trung ương lại đặt lại câu hỏi này với tôi, mà trước đây đồng chí đã hỏi tôi nhiều lần, tôi chưa trả lời được. Nay tôi đã trả lời chính thức đồng chí Nguyễn Đức Tâm: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”.
Viết đến đây tôi nhớ đến Nguyễn Trãi. Trước khi qua dời ông đã than rằng:
“... .Mọi chưng khắp chốn đều thông cả,
Bui một lòng người cực hiểm thay!”
Và lời trăng trối cuối cùng của Phu-xích, Uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Tiệp khắc, tác giả tiểu thuyết “Viết dưới giá treo cổ” :
“Nhân loại hỡi! Ta yêu tất cả mọi người,
Hãy cảnh giác!”
(Tr 491)
Anh Nguyễn Đức Tâm - nhà tổ chức thận trọng và khiêm tốn. Anh nghiên cứu về cán bộ, hoặc đi thăm những nơi sản xuất, đến các công trình của Hải Phòng. Anh suy nghĩ cách làm, gợi ý nhỏ nhẹ cho địa phương suy nghĩ từng việc cụ thể, để thực hiện cho tốt.
Anh làm tổ chức nên rất quan tâm đến quá trình hoạt động của cán bộ. Anh lo cho những cán bộ chủ chốt có được một lý lịch chân thực trong sạch, không còn hiện tượng man khai lý lịch, lừa dối tổ chức để lên chức lên quyền. Đối với cá nhân tôi, tôi biết anh theo dõi và nghiên cứu tiểu sử của tôi rất kỹ. Nên khi một số người xấu vu khống lý lịch tôi, anh thường đặt đi đặt lại câu hỏi rất nhiều lần với tôi: “Anh phải xem kỹ, đằng sau vấn đề này là vấn đề gì? Chẳng nhẽ hơn một chục cán bộ chủ chốt của Hải Phòng không có thù ghét gì với anh, họ chẳng có chút chứng cứ gì trong tay, mà dám ký tên tập thể tố cáo anh, tại sao? Cần suy nghĩ tìm ra cho được nguyên nhân”. Tôi phải khất lại để suy nghĩ và tìm hiểu, không thể suy diễn được. Đến ngày 2-8-2003, tôi đã tìm ra nguyên nhân để trả lời câu hỏi khó khăn phức tạp đó.
Tháng 1-2004, tôi gặp anh. Tôi tưởng bây giờ anh đã nghỉ, chắc anh cũng quên việc của tôi. Không ngờ sau những câu chuyện thông thường, anh lại nghiêm nghị hỏi: “Cái việc anh Tô Duy, anh đã tìm ra cái gì ở đằng sau đó chưa ?”. Hôm đó tôi báo cáo với anh, tôi đã tìm ra rồi. Đó là anh Đỗ Mười chỉ đạo anh Tô Duy vu khống tôi hơn 20 năm qua.
Anh Tâm bảo tôi: “Có thế chứ, vô lý những con người đó tự nhiên lại ký và tố cáo dai dẳng. Khi tổ chức đã kết luận và đã chứng minh đầy đủ họ sai, nhưng họ vẫn làm, vậy phải có nguyên nhân sâu xa. Tôi làm tổ chức, tôi hiểu điều đó rất rõ”. Rồi anh thở phào nhẹ nhõm, như vừa trút được một gánh nặng. Tôi báo cáo anh tôi cũng thấy buồn, tôi không nghĩ con người đó lại là con người như vậy, buồn cho mình, buồn cho Đảng ta...