Vượt qua Việt
🌐    A  A  A  A 
Lịch sử
Trả lại Sự thậtCông lý cho Lịch sử

Gạc Ma

Diễm Thi, RFA 2021-03-13 - RFA

Gạc Ma: Trung Quốc xâm lược và thảm sát không phải chỉ là một ngày 14/3/1988

Biểu tình phản đối Trung Quốc nhân kỷ niệm trận chiến ở Đá Gạc Ma, quần đảo Trường Sa năm 1988. Hình chụp hôm 14/3/2016 ở Hà Nội

Việt Nam mất Gạc Ma vào tay Trung Quốc đến nay đã 33 năm, nhưng vẫn còn những điều chưa được làm sáng tỏ. Việt Nam cần làm gì để bảo vệ chủ quyền biển đảo khi Trung Quốc ngày càng hung hăng và đe dọa chiến tranh?

Diễm Thi phỏng vấn nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, tác giả của nhiều nghiên cứu về chủ quyền biển, đảo Việt Nam về những vấn đề liên quan.

Diễm Thi: Thưa ông Đinh Kim Phúc, xin ông cho biết từ khi nào Trung Quốc có âm mưu đánh chiếm quần đảo Trường Sa?

Đinh Kim Phúc: Âm mưu đánh chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã được Trung Quốc lên kế hoạch từ sau ngày 19 tháng Một năm 1974 (ngày Trung Quốc cưỡng chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa).

Trước tình hình đó, trong tháng Tư năm 1975, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã mở chiến dịch Trường Sa và đánh chiếm, thu hồi năm đảo từ tay quân đội Sài Gòn gồm Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa Lớn. Việc Hải quân Nhân dân Việt Nam thu hồi và đóng giữ tại 5 đảo quan trọng này đã bước đầu ngăn chặn âm mưu thôn tính quần đảo Trường Sa của Trung Quốc.

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Trung Quốc đã vạch một chiến lược khác để thôn tính Trường Sa và xâm lấn chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Thay vì chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" như đã làm ở Hoàng Sa năm 1974, Trung Quốc thực hiện chiến lược “vết dầu loang" và Việt Nam trở thành đối tượng tác chiến chủ yếu của quân đội Trung Quốc.

Diễm Thi: Theo ông, sự kiện Gạc Ma có thể gọi là trận hải chiến hay đó là cuộc thảm sát của phía hải quân Trung Quốc?

Đinh Kim Phúc: Chiến dịch CQ-88 (tên đầy đủ là Chiến dịch Chủ quyền 1988) là một chuỗi các hoạt động quân sự trên biển Đông do Hải quân Nhân dân Việt Nam tiến hành từ năm 1978 đến năm 1988 nhằm thiết lập quyền kiểm soát đối với các thực thể địa lý tại quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Chiến dịch được tiến hành trong hoàn cảnh có 6 quốc gia và vùng lãnh thổ (Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei) cùng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và có các hành động chiếm đóng quân sự đối với một số thực thể địa lý tại quần đảo này.

Cuối tháng 12 năm 1986, Trung Quốc cho máy bay và tàu thuyền có cả tàu chiến hoạt động trinh sát, thăm dò từ khu vực đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài. Trong khi đó, Philippines đẩy mạnh việc vận chuyển xây dựng công trình trên các đảo của họ đóng giữ (Song Tử Đông, Panatag). Cùng lúc đó ở phía nam Trường Sa, Malaysia bí mật đưa lực lượng ra chiếm đóng bãi đá Kỳ Vân, và tháng Một năm 1987, Malaysia chiếm đóng bãi đá Kiều Ngựa, làm cho tình hình thêm căng thẳng.

Trong khi đó, Hải quân Nhân dân Việt Nam vào cuối những năm 1970 và những năm 1980 còn mỏng và yếu (trong tháng Tư năm 1975, nếu như phần lớn các chiến đấu cơ của VNCH bay sang đất Thái, thì phần lớn các chiến hạm quan trọng của VNCH đã bỏ chạy sang Subic Bay của Philippines) nhưng với “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta", Hải quân nhân dân Việt Nam đã bảo vệ chủ quyền với tất cả những gì đang có và bằng máu của người lính biển.

Hình minh hoạ. Biểu tình phản đối Trung Quốc ở Hà Nội hôm 9/12/2012. AFP

Trận đánh giữ Gạc Ma là đỉnh điểm trong Chiến dịch CQ-88. Trong trận đánh này, Việt Nam bị thiệt hại ba tàu bị bắn cháy và chìm, ba người tử trận, 11 người khác bị thương, 70 người bị mất tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam chín người bị bắt, 61 người vẫn mất tích và được xem là đã tử trận.

Việt Nam bị chiếm đảo Gạc Ma nhưng vẫn bảo vệ được chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao cho đến nay.

Trong trận chiến ngày 14 tháng Ba, phía Trung Quốc thống kê họ đã bắn tổng cộng 285 viên đạn pháo 100 mm và 266 viên đạn pháo 37 mm, chưa kể các cỡ đạn nhỏ. Việc Trung Quốc dùng trọng pháo và súng phòng không tiêu diệt 64 chiến sĩ Công binh và Hải quân quân Việt Nam tay không đang giữ đảo là một cuộc thảm sát.

Cho đến hôm nay, 56 xương cốt của các cán bộ chiến sĩ Việt Nam vẫn nằm lại Gạc Ma, đã cho thấy bản lĩnh của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong tình hữu nghị với Trung Quốc hiện nay.

Diễm Thi: Lệnh “Không được nổ súng” hay “không được nổ súng trước” được hiểu như thế nào, thưa ông?

Đinh Kim Phúc: Đã có nhiều tranh luận về tin đồn việc Bộ trưởng Quốc phòng lúc bấy giờ ra lệnh “không được nổ súng”?

Từng là người lính, nhưng tôi không tham gia trận đánh Gạc Ma. Với tư cách là người học lịch sử, dạy-học và nghiên cứu lịch sử, tôi chỉ nói rằng: nhìn toàn cục chiến dịch CQ-88 với những hy sinh, mất mát của những người trong cuộc, để ngày nay, Việt Nam mở rộng khu vực kiểm soát của mình lên 21 thực thể địa lý với 33 điểm đóng quân, kiểm soát một vùng nước rộng gần 100.000 km2 trên Biển Đông. Và cũng kể từ năm 1988 đến nay, Việt Nam không mất thêm một thực thể nào trên biển.

“Mệnh lệnh chiến đấu”? Hãy để các thế hệ lãnh đạo chiến dịch CQ-88 và những người trong cuộc lên tiếng. Xin đừng đứng trên bờ và ngồi trong phòng máy lạnh mà làm suy yếu niềm tin của nhân dân với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.

Người dân tham dự buổi tưởng niệm 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam bị thảm sát hôm 14/3/1988. Ảnh chụp hôm 14/3/2013 tại Hà Nội. AFP

Diễm Thi: Sự kiện Gạc Ma phải chăng thúc đẩy tiến trình trở lại quan hệ bình thường với Trung Quốc bằng mật ước Thành Đô năm 1990?

Đinh Kim Phúc: Nếu nói chỉ một sự kiện Gạc Ma vào năm 1988 để dẫn đến tiến trình trở lại quan hệ bình thường với Trung Quốc là không đầy đủ.

Tại Đại hội lần thứ sáu của Đảng cộng sản Việt Nam, một trong những phương hướng chính về đối ngoại được thông qua đó là “sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước”.

Cũng cần nhắc lại là tại hội nghị không chính thức giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Thành Đô trong hai ngày ba và bốn tháng Chín năm 1990, có chín nguyên tắc được thông qua, trong đó bảy nguyên tắc về mặt quốc tế của vấn đề Campuchia và hai nguyên tắc về bình thường hóa quan hệ Việt Nam Trung Quốc.

Diễm Thi: Ông nhận định thực chất quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay ra sao, thưa ông?

Đinh Kim Phúc: Kể từ khi tuyên bố thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa vào năm 2007, 14 năm qua Trung Quốc tăng cường quấy phá, uy hiếp an ninh khu vực Biển Đông.

Trung Quốc trong các năm gần đây liên tục điều các tàu chấp pháp, dân quân biển vào các vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng bao gồm Việt Nam, quấy nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của các quốc gia này.

Trong 14 năm qua, theo tôi, Trung Quốc có hai hành động tại Biển Đông được coi là đe dọa trực tiếp đến an ninh của Việt Nam. Thứ nhất là việc Trung Quốc kéo giàn khoan HD 981 và thềm lục địa của Việt Nam. Trong sự việc này cần phải ghi nhớ rằng Trung Quốc đã 30 lần từ chối tiếp xúc với Việt Nam. Thứ hai, tờ Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc hôm ba tháng Ba cho hay, cuộc tập trận ở vùng biển cách xa Hoa lục nhưng không cho biết rõ địa điểm, tuy nhiên tờ South China Morning Post của Hồng Kông ngày bốn tháng Ba lại cho hay, địa điểm diễn ra cuộc tập trận là đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974.

Tại sao nói chuyện Trung Quốc tập trận đổ bộ chiếm đảo tại đảo Tri tôn đầu tháng Ba năm 2021 nghiêm trọng nhiều lần hơn vụ giàn khoan HD 981 năm 2014.

Vụ HD 981 năm 2014 là Trung Quốc tìm cách "khẳng định chủ quyền lãnh thổ và hải phận quốc gia" tại khu vực đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã thất bại vì bị Việt Nam một mặt phản đối trên mặt trận ngoại giao, mặt khác đưa tàu cảnh sát biển ra ngăn cản. Biến cố này cho dư luận thế giới thấy rằng quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ "có tranh chấp" chớ không phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Cuộc tập trận đổ bộ ở đảo Tri tôn của quân đội Trung Quốc nhằm mục đích răn đe Việt Nam (và các quốc gia có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc như Đài Loan, Nhật Bản, Philippines, Malaysia). Như vậy ngoài Việt Nam, các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc có thể "có xung đột quân sự" với Trung Quốc từ nay đến cuối năm 2021.

Năm 2021 là năm kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng CS Trung Quốc. Năm 2022 cũng là năm Tập Cận Bình hết nhiệm kỳ Chủ tịch nước thứ hai (hai nhiệm kỳ 10 năm). Tập Cận Bình cần một dấu ấn về kinh tế hoặc quân sự để khẳng định mình, hòng tìm thêm một vài nhiệm kỳ nữa.

Diễm Thi: Với tất cả những gì Trung Quốc đã làm và đang làm với Việt Nam về Biển Đông, ông nghĩ Việt Nam nên có giải pháp gì để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ?

Đinh Kim Phúc: Trước khi bàn đến giải pháp cho vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điều đầu tiên theo tôi, Nhà nước cần phải khẳng định và ra một nghị quyết thành lập Huyện đảo Hoàng Sa. Phải có dân, phải có chính quyền và phải có lãnh thổ vì Trung Quốc đã có cái gọi là thành phố Tam Sa. Đó là yêu cầu đầu tiên mà chúng ta phải làm cho bằng được.

Vấn đề thứ hai là vấn đề chiến lược ngoại giao của Việt Nam nói chung và Biển Đông nói riêng là vấn đề tuyệt mật của Đảng và Nhà nước. Vậy giới nghiên cứu trong nước và các học giả trên thế giới dựa trên các dữ kiện nào để đánh giá, phân tích và góp ý?

Vấn đề thứ ba là quan điểm chính thức của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay đối với Công hàm Phạm Văn Đồng như thế nào? Thừa nhận hay phủ nhận? Những giải thích trên mặt trận truyền thông là “ta nói để ta nghe” hay nói để “Tòa án Công lý quốc tế” nghe?

Vấn đề thứ tư, trong lịch sử bang giao giữa VNDCCH và Trung Quốc từ năm 1949 đến 1975, ngoài Công hàm Phạm Văn Đồng còn có thỏa thuận nào khác không?

Tại hội nghị không chính thức ở Thành Đô vào tháng Chín năm 1990, ngoài chín nguyên tắc thỏa thuận để giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ Trung-Việt, còn có thỏa thuận nào khác không để giải quyết vấn đề Hoàng Sa và vấn đề Trường Sa?

Nếu không có câu trả lời cho bốn vấn đề trên thì Việt Nam chỉ còn cách căng mình ra đối phó với Trung Quốc mà không chỉ ngày một ngày hai. Và vấn đề kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế sẽ không bao giờ xảy ra.

Diễm Thi: Cảm ơn ông đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.

Tin, bài liên quan

Đầu trang

14-3-2021 - baotiengdan

Vòng tròn bất tử!

Nguyễn Thùy Dương
14-3-2021

Họ xếp thành hình tròn trên đảo nhỏ, bảo vệ ngọn cờ Tổ Quốc. Từng người gục xuống đau đớn cho ngọn cờ bay giữa biển khơi. Cái chết của họ không người thân, không gia đình. Chỉ có những đồng đội cùng nhau tử trận.

Nếu ai đó nói họ ngốc, nếu ai đó hỏi tại sao họ lại làm vậy thì đó là kẻ không có trái tim.

Lịch sử là những gì đã diễn ra, đối với những cái chết để bảo vệ Tổ Quốc không ai có thể lý giải tại sao họ lại làm vậy. Chúng ta không là họ, chúng ta không đối mặt với thứ họ đối mặt, chúng ta không chịu nỗi đau, nỗi sợ họ đã chịu. Cho nên hãy tri ân, tưởng nhớ, thương cho họ hơn là phán xét họ.

Người lính cuối cùng cầm ngọn cờ còn rất trẻ, anh cũng như các đồng đội mình. Các anh đều có một gia đình chờ đợi họ đoàn viên.

Mẹ của họ, vợ của, con của họ sẽ ra sao khi biết con mình đau đớn tận cùng, bị thảm sát dã man khi đang làm nhiệm vụ?

Họ mất đi, không chỉ là nỗi đau của gia đình họ mà còn là nỗi đau chung của cả dân tộc.

Lá cờ của Việt Nam mang hình tượng một ngôi sao năm cánh giữa nền cờ đỏ. Năm sao vàng 5 cánh tượng trưng cho sự vinh quang của 5 tầng lớp Nhân Dân: Sĩ – Nông – Công – Thương- Binh.

Bất kỳ vinh quang xây trên máu là một loại vinh quang sắt máu đau thương. Chẳng lẽ chỉ có máu mới có thể tôn vinh vinh quang? Lẽ nào đó là số phận của một dân tộc nhỏ từng trải qua hàng ngàn năm với những trận chiến lớn?

Và chúng ta sẽ làm gì để trả lại cho tiền nhân một phần an ủi như Trung Quốc làm phim về sự tàn ác của lính Nhật chẳng hạn? Vinh quang xây dựng trên máu vậy hãy cho thế hệ sau biết được sự thật về máu đã đổ như thế nào?

Tôi mong rằng mình sẽ xem được bộ phim tái hiện lại trận Hải chiến Hoàng Sa 1974, chiến tranh biên giới 1979, cuộc thảm sát Gạc Ma 1988.

Bộ Giáo Dục phải đưa 3 trận chiến lớn kia vào Chương trình dạy chính thức của SGK các cấp, môn thi Văn, Sử tốt nghiệp cấp 2-3 buộc phải có câu liên quan đến 3 cuộc chiến này.

Nhất định phải trả lại dân tộc quyền được đau thương hợp pháp, rõ ràng.

Đầu trang

14/03/2021 By Y CHAN - luatkhoa

Gạc Ma: Lời nhắc nhở về chứng mất trí (nhớ) tập thể

Ảnh: Reuters.

Vài năm trước, khi đang trốn trong góc của tiệm sách cũ quen thuộc, tôi nghe tiếng một người khách bước vào hỏi tìm một quyển sách.

Có cuốn “Vòng tròn Gạc Ma” không chú?

Vòng tròn Đạt Ma hả?

Không phải, sách về Gạc Ma đó.

À. Chưa nghe bao giờ. Sách về Đạt Ma thì có nè.

Chủ tiệm chỉ tay về chồng sách tôn giáo, rồi hỏi lại khách “quyển đó nói cái gì vậy”.

Người khách có vẻ ngạc nhiên. Tôi thì không ngạc nhiên lắm. Đơn giản vì tôi cũng giống như người chủ tiệm.

Trong suốt cuộc đời mình, tôi chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của “Gạc Ma”.

***

Sự việc trên diễn ra vào thời điểm quyển sách “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” được cho xuất hiện.

Gọi là xuất hiện, thay cho xuất bản, là bởi vì, theo những người làm sách, họ đã “trải qua hàng trăm lần chỉnh sửa, 48 lần biên tập, 14 nhà xuất bản trong thời gian 4 năm xin cấp phép” để cuốn sách có thể đến được bạn đọc. Để rồi chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng sau khi xuất bản, quyển sách đã bị thu hồi.

Xuất hiện trong chớp mắt, và lại bị dập tắt.

Nó giống như tia nắng hiếm hoi chiếu trên bầu trời xám xịt, chỉ le lói được một lúc trước khi đám mây đen giật mình nhận ra, hò nhau hùng hổ tụm lại bịt đi khe hở đó.

Nó cũng giống khoảnh khắc ngắn ngủi của những người lính trên đảo Gạc Ma vào sáng sớm 14/3/1988 định mệnh đó. Họ chỉ vừa đặt chân lên đảo là đã trở thành bia ngắm bắn cho lính Trung Quốc.

Tôi biết những chuyện này 30 năm sau khi nó đã xảy ra. Và chỉ được biết qua những thông tin vụn vặt, thay vì được tìm hiểu cụ thể cặn kẽ qua những trang sách.

Là một người được học hành bài bản qua tất cả các loại trường lớp của chế độ này, dù có muốn đến đâu, tôi không thể nhận mình là người thiếu học.

Chủ tiệm sách, tất nhiên, không thể gọi mình là người thiếu sách.

Người khách kia không thiếu óc cởi mở để đón nhận tri thức.

Nhưng tất cả chúng tôi đều thiếu ký ức.

Chính xác hơn, chúng tôi là một thế hệ mất trí nhớ.

***

Mất trí nhớ tập thể (collective amnesia) không phải là chuyện mới, cũng không phải là chuyện chỉ có ở Việt Nam.

Người ta đã nói nhiều về cả một thế hệ mất trí nhớ (generation amnesia) ở Trung Quốc. Đó là những người sinh ra sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Họ không biết gì về cuộc thảm sát đó. Họ không biết gì về những tháng ngày sôi động độc nhất vô nhị trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, về một phong trào đấu tranh dân chủ có thể đã thay đổi toàn bộ bức tranh của nhân loại.

Và không chỉ có họ, tất cả những người Trung Quốc, già trẻ lớn bé đang sống dưới chế độ độc tài ở đại lục đều được yêu cầu phải có chung “cái nhìn đúng đắn về lịch sử” (correct views on history).

Người ta không còn nói về thế hệ mất trí nhớ ở nước này. Giờ đây, nó đã nâng tầm thành cả một dân tộc mất trí nhớ (national amnesia).

Bộ máy tuyên truyền, kiểm duyệt và đàn áp bạo lực của cộng sản cùng ganh đua với nhau để xóa đi những sự thật lịch sử không hay ho, cùng lúc đó tô hồng, thậm chí nặn ra những “sự thật mới”.

Không chỉ có những người mặc đồng phục thi đấu cho “đội nhà nước”, cả những cổ động viên hưởng lợi – dân thường, đặc biệt là giới trí thức – cũng hăng hái muốn tham gia “thi đấu”.

Yan Lianke (Diêm Liên Khoa), một tác gia người Trung Quốc, đã ví von cuộc đua bôi xóa ký ức này như “môn thể thao được nhà nước tài trợ” (state-sponsored sport).

Trong cuộc đua đó, ai quên lâu nhất, và khiến nhiều người quên giống mình nhất, là người chiến thắng.

***

Tất nhiên, chuyện bôi xóa ký ức không phải chỉ xuất hiện ở Việt Nam và Trung Quốc. Nó cũng không phải là sản phẩm của thế hệ hiện tại.

Từ hàng ngàn năm trước, những kẻ ám ảnh quyền lực đã luôn có sở thích đốt sách, tẩy trắng tư duy của người khác hòng nhào nặn ra một phiên bản giống mình.

Nhưng trong thời đại ngày nay, khi phần lớn nhân loại đang được tự do tiếp cận với tri thức, việc vẫn còn tồn tại những chế độ trắng trợn che giấu và bôi vẽ lịch sử như Việt Nam với Trung Quốc là một điều không thể chấp nhận.

Chúng ta không chỉ có Gạc Ma, mà còn có cuộc chiến biên giới 1979 vẫn bị cho là “nhạy cảm”, vẫn còn những sự thật về “cải cách ruộng đất” bị giấu kín, và còn cả cuộc chiến tranh Việt Nam mà đến nay vẫn phải được kể theo lời của “bên thắng cuộc”.

Chúng ta cũng không chỉ bị bôi đi ký ức quá khứ, mà ngay thời điểm hiện tại, bức tranh thực tế của người Việt Nam vẫn đang hàng ngày hàng giờ bị cắt gọt méo mó.

Các trang mạng bị chính quyền chặn truy cập (như trang Luật Khoa bạn đang đọc). Các quyển sách bị kiểm duyệt không cho xuất bản. Các bài hát không được phổ biến. Và những ai thường xem tivi các kênh tin tức nước ngoài sẽ rất quen thuộc với cảnh tượng một màn hình có dòng chữ “nội dung không phù hợp” nhảy ra đập vào mặt bất kỳ lúc nào.

Những sự kiện như Gạc Ma không chỉ là dịp để giữ lại ký ức bị xóa bỏ. Nó còn là cơ hội để chữa một thứ bệnh nguy hiểm hơn cả ung thư: bệnh mất trí.

Khi bị xóa đi ký ức, người ta sẽ mất trí nhớ. Người đó sẽ mất trí, theo nghĩa đen thật sự, khi không còn nhớ được gì.

Ung thư chỉ lấy đi tính mạng, còn mất trí (nhớ) lấy đi toàn bộ căn tính của con người.

Nói như Yan Lianke, một người không biết gì về quá khứ sẽ không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra vào hiện tại, và dần dần mất đi toàn bộ ý thức về mọi thứ xung quanh.

Họ sẽ chỉ còn hành động như một cỗ máy được sai khiến. Bảo ngồi thì ngồi, đứng thì đứng, cho nói thì hào hứng mở miệng, bắt câm thì ngoan ngoãn khép nép.

Một dân tộc không có quá khứ là một dân tộc không có hiện tại. Dân tộc đó sẽ mất cả tương lai. Nó chỉ là tập hợp của những thây ma biết đi.

Chúng ta không thể cho phép người khác biến mình thành những thây ma.

Đầu trang