Nguyễn Đình Cống
29-10-2018
Trong kho tàng văn học dân gian có câu “Con chim gần chết hót hay, con người sắp chết nói lời phải” (dị bản: chim sắp chết kêu thương). Lời phải ở đây mang nhiều ý nghĩa sâu xa, là lời trăng trối do tích lũy các suy nghĩ đúng sai của cuộc đời, là nhận thức sâu sắc về thế sự, là sự sám hối về sai lầm hoặc tội lỗi v.v… Trước khi chết ông Lê Hiếu Đằng đã nói lời hay: từ bỏ ĐCS.
Thư tuyên bố từ bỏ ĐCS của ông Lê Hiếu Đằng. Ảnh trên mạng
Ông Đằng là nhà hoạt động chính trị nổi tiêng một thời. Sau khi ông mất vào tháng 1 năm 2014, các trí thức lớn ở TP HCM lấy tên ông đặt cho Câu lạc bộ của mình. Trước tháng 4 năm 1975 ông Đằng là một trong các “lãnh tụ” sinh viên trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam, thành viên Ban chấp hành Tổng hội Sinh viên Sài Gòn và Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn (một tổ chức thân cộng sản), là luật sư, phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên Minh các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam, tổng thư ký Ủy ban nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn Gia Định. Sau tháng 4/1975 ông là nhà hoạt động chính trị-xã hội, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM.. Tính tới 2013, trước khi chết, ông có 45 năm là Đảng viên Đảng CSVN.
Trước khi chết ông Lê Hiếu Đằng bỗng ngộ ra rằng con đường mình đã chọn, tưởng là đúng đắn, nhưng thật sự đã sai lầm. Thời trẻ ông đã quyết chí theo ĐCS từ những năm tháng hoạt động bí mật giữa Sài Gòn, chịu nhiều nguy hiểm và thử thách. Ông đã công nhận chủ thuyết cộng sản là lý tưởng, công nhận ĐCS là tổ chức ưu tú, tiên phong, sáng suốt. Nhưng rồi ông nhận ra thực chất, rằng đã bị nhầm, một sự nhầm lẫn quá tai hại. Tháng 8/2013 ông công bố bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”, trong đó ông vạch ra rằng, ĐCS đã phản bội lý tưởng cách mạng, phản bội nhân dân, rằng ông và phần đông nhân dân VN đã bị nhầm như thế nào. Ngày 4/12/2013, trước khi chết khoảng 1 tháng ông tuyên bố từ bỏ ĐCS.
Đám tang Lê Hiếu Đằng được tổ chức tại chùa Xá Lợi, bị bọn côn đồ phá phách. Người ta nghi ngờ bọn đó là công an trá hình.
Trong kho tàng văn học có bài thơ Dại- Khôn. (Thế sự đua nhau nói dại khôn. Biết ai là dại, biết ai khôn…) Trong điếu văn Lê Hiếu Đằng không có câu: Ông có 45 năm tuổi đảng. Người ta bình luận việc ông Đằng từ bỏ ĐCS là dại hay khôn. Hãy để dại khôn cho người đời bàn tán. Riêng ông Đằng, trước khi chết cố tìm lời nói phải. Ông đã nhầm, làm đảng viên CS trong 45 năm, nay ông sám hối, phản tĩnh. Ông phải rũ bỏ chất CS trước khi sang thế giới khác. Chắc có lúc nào đó ông tin rằng có chất cộng sản trong nghiệp chướng, linh hồn dễ sa vào địa ngục, khó được siêu thoát.
Cho đến bây giờ, đảng viên lớn tuổi nhất công khai từ bỏ ĐCS có lẽ là nhà văn Nguyên Ngọc, 87 tuổi. Cầu mong cho ông Ngọc sống thêm nhiều chục tuổi nữa để chứng kiến sự sụp đổ của chế độ CS. Ông Ngọc đã có trí tuệ lớn và thời gian đủ dài, tức cổ nghiệm kim để biết đâu là chân lý, để biết rõ đâu là dại, đâu là khôn.
Rất mong việc làm của Nguyên Ngọc, của Lê Hiếu Đằng soi đường cho những ai đã nguyện: ‘Sống làm người CS, chết làm ma CS’. Người ta cầu mong cho linh hồn người chết được nhanh chóng siêu thoát. Tôi nghĩ rằng hồn ma CS khó siêu thoát lắm, trong lúc linh hồn của ông Lê Hiếu Đằng chắc đã được siêu thoát.
Giỗ đầu luật gia Lê Hiếu Đằng
Khánh Trâm
Bài “Tự nguyện” với những câu thơ: “Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng, nếu là hoa tôi sẽ làm một đóa hướng dương, nếu là mây tôi sẽ làm một vầng mây ấm, là NGƯỜI tôi xin chết cho quê hương”. Lời bài hát được cất lên sau điếu văn của BS Huỳnh Tấn Mẫm đọc trong buổi tang lễ luật gia Lê Hiếu Đằng trước giờ phút đưa anh về nơi chín suối, ngày 26/1/2014.
Vâng, mới đó mà đã gần một năm. Phút giây gia đình, bạn bè, người thân…cùng cất tiếng hát, tôi chìm trong lời ca “là NGƯỜI tôi xin chết cho quê hương” bởi đó chính là hình ảnh người đàn ông đang sắp từ biệt cõi trần nhưng đã để lại nhiều hình ảnh đẹp, với cả ước mơ và những trăn trở….
Là thế hệ đàn em, tôi biết anh qua những cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, qua những buổi tưởng niệm các chiến sỹ đã hy sinh ở biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, ở Hoàng Sa và Trường Sa, qua những lần gặp mặt với bè bạn, qua cả những lần thăm viếng nơi bệnh viện hay nhà riêng khi anh lâm trọng bệnh tất cả những phút giây ấy tôi đều học được ở anh nhiều điều của một người tri thức dấn thân. Làm sao quên được hình ảnh Lê Hiếu Đằng kiên quyết đấu tranh với lệnh “cấm biểu tình” để hiên ngang xuống đường , hay những ngày nằm viện vừa chiến đấu với bệnh tật vừa trăn trở trước hiện tình đất nước anh đã cất tiếng nói để người dân thấy được “CNXH chỉ là ảo tưởng, mơ hồ, dân tộc không có lối ra, đất nước khổ đau”… đặc biệt là nguy cơ rơi vào tay phương Bắc. Mặc dù 45 năm là đảng viên , anh đã tuyên bố bỏ đảng cộng sản bởi “ đảng hôm nay đi ngược lại lợi ích dân tộc, đất nước. Mình từ bỏ để không phải chia sẻ trách nhiệm gì nữa”. Từ trải nghiệm của một người trong cuộc, một thời giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở TP HCM, anh thấu hiểu cơ chế chính trị hiện hành: “Quốc hội thông qua hiến pháp đi ngược lại lợi ích của dân chúng, chứng tỏ Quốc hội chỉ là bù nhìn, là tay sai của đảng cộng sản. Mình ra khỏi đảng, là công dân tự do, đấu tranh thoải mái. Đấu tranh cho nhân quyền, dân quyền, bảo vệ môi trường. Ba vấn đề gắn với cuộc sống con người”. Qua trả lời phỏng vấn hay trong thư gửi sinh viên, học sinh với trải nghiệm và trách nhiệm của một người đi trước, anh cũng khuyên : “ Giới trẻ đừng có sợ, phải đặt lợi ích dân tộc, đất nước lên trên. Đấu tranh trước hết là vì dân chủ, bảo vệ độc lập , dân quyền, đấu tranh cho quyền lợi của người dân nhất là vấn đề ruộng đất…”. Anh chính là hình ảnh trong câu LS Trần Lâm đọc tại đám tang ông Hoàng Minh Chính năm 2008: “Trước đây người thanh niên yêu nước HMC vì yêu nước mà đi theo CNCS, giờ đây cũng vì yêu nước mà người trí thức HMC từ bỏ CNCS.
Đám tang anh chính quyền đã cho côn đồ đến lấy đi những dải băng tang ghi lời tiếc thương của trang Bauxit VN, Diễn đàn XHDS, Hiệp hội dân oan, Dòng Chúa cứu thế… Ngày ấy lúc hay tin, dưới góc nhìn của một người ngoài đảng, của một nhân chứn,g tôi tự thốt lên với chính mình: Ôi chao ơi, đúng là “đảng chưa trưởng thành” thật, đường đường nắm chính quyền mà toàn giở những trò bẩn thỉu (mà người tử tế không ai dám làm). Họ chẳng đếm xỉa gì đến đạo lý “nghĩa tử là nghĩa tận”. Hết biết. Thế là đến nay đã có 2 đám tang có chung một thứ hành xử “độc đáo” này của chính quyền là tướng Trần Độ và luật gia Lê Hiếu Đằng.
Ngồi gõ những dòng này, đám tang anh lại hiện về trong tôi. Làm sao quên được cái buổi sáng còn mờ sương ấy tôi và con gái đi tiễn anh nhòa nước mắt. Đám tang hôm ấy trong và ngoài nước có cả triệu người thương xót anh, mỗi người là một vòng hoa- vòng hoa trong tim mình. Nhiều bạn bè anh là những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học: Nguyên Ngọc, Hoàng Hưng, Bùi Văn Nam Sơn, Tô Hải, Lưu Trọng Văn, Ngô Kim Hoa, Tô Hòa, Hoàng Lại Giang, Thế Thanh, Huỳnh Ngọc Chênh, Đỗ Trung Quân, Phạm Chí Dũng, Lê Phú Khải, Mai Oanh, Phạm Đình Trọng, Phan Đắc Lữ, Tô Lê Sơn, Vũ Trọng Khải, Tương Lai, Hoàng Dũng, Vũ Thị Phương Anh, Hoàng Oanh, Nguyễn Đắc Diên… Tiếng điếu văn BS Huỳnh Tấn Mẫm hòa nhịp nhàng trong tiếng nhạc “hồn tử sỹ” mà người nghệ sỹ già Tạ Chí Hải gửi lòng mình vào chiếc violon bé nhỏ của ông. Tiếng hát “ là NGƯỜI tôi xin chết cho quê hương ” vang lên của những mái đầu có đủ ba thế hệ hôm ấy. Tiếng hát này khiến tôi nhớ đến hình ảnh người luật gia ôm đàn hát ở nhà chị Bạch Tuyết khi mà cuộc sống của anh chỉ còn đếm từng ngày. Anh Lê Hiếu Đằng ơi, em sẽ còn nhớ mãi giọng hát vượt lên bệnh tật của anh sáng chủ nhật ấy, cả tiếng ghi ta sôi nổi của Bs Miên Đức Thắng nữa – đôi bạn tù thời xưa, thời tranh đấu. Hai anh song ca, cả nhóm hòa ca. Nào những Kha Lương Ngãi, Lê Công Giầu, Tư Kết, Cao Lập, Trần Quốc Thuận, Hạ Đình Nguyên, Trần Công Thạch, Huỳnh Kim Báu, Bùi Tiến An, Bạch Tuyết, Hồng Lam, Minh Nguyệt… Các anh, chị hát để tìm về dĩ vãng và tuy rằng sống trong cái xã hội phủ đầy những thứ xấu xa đen tối hôm nay nhưng “cuộc đời vẫn đẹp sao” khi những trái tim cùng nhịp đập, sát cánh bên nhau… Những người con này hôm anh cũng đang ở bên anh đấy anh ơi !
Rồi ai cũng về cõi âm, nhưng tên anh đã hóa thành bất tử : “Bạch Đằng, Hiếu Đằng đằng đằng dũng khí/ ngoại tặc, nội tặc tặc tặc tiêu vong”. Và CLB Lê Hiếu Đằng đã ra đời sau 100 ngày giỗ anh.
Thương nhớ anh khôn nguôi! Dòng sông Sài Gòn đón nhận anh về nơi vĩnh hằng, bình an anh nhé. Gia đình và bạn bè sẽ mãi mãi nhớ về anh, về Lê Hiếu Đằng. Anh là một GIỌT NẮNG góp tiếp và sưởi ấm con đường dân chủ mong manh nhưng không bao giờ tắt.
Vĩnh biệt anh, người CHIẾN SỸ thời chiến, thời bình !
SG 10/12/2014
Lê Hiếu Đằng, nguyên lãnh tụ phong trào sinh viên đô thị miền Nam trước 1975, nguyên phó tổng thư ký UBTW Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên tổng thư kí UB Nhân Dân Cách Mạng khu Sài Gòn Gia Định, nguyên phó chủ nhiệm Hội Đồng Tư Vấn về Dân Chủ và Pháp Luật thuộc UBTW MTTQVN, đã ra đi mãi mãi.
Như tất cả những người kính trọng và thương tiếc Anh, tôi cũng cảm thấy thôi thúc trong lòng được nói điều gì đó về Anh.
*
Cuộc đời Lê Hiếu Đằng có cả vinh quang và cay đắng, cả hào khí và bi kịch. Và có lẽ nét đặc trưng nhất là bi kịch. Một bi kịch chung cho tất cả những ai đã từng dấn thân vào cuộc đấu tranh chống lại một xã hội chưa tốt đẹp và còn nhiều khuyết tật, để hướng về và ủng hộ một xã hội khác, lúc đầu tưởng như vô cùng tốt đẹp, nhưng ngày càng để lộ ra những mặt trái và bản chất không những không thể tự hoàn thiện mà còn chỉ có thể ngày một suy đồi. Nói như nhà văn Đào Hiếu, đó là hệ quả của “bệnh tưởng bở”. Tưởng bở rằng những lời nói mỹ miều về một thứ chủ nghĩa cao siêu và tốt đẹp chưa từng có là thật, thậm chí là “khoa học”, để rồi tẽn tò nhận ra rằng tất cả những thứ đó chỉ là những thứ hão huyền, rằng những lời mỹ miều chỉ là trò lừa mị.
Nếu như trước 1975, khi nhận ra những khuyết tật và sai trái của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và hy vọng rằng có thể xây dựng một xã hội khác tốt đẹp hơn để thay thế, những người như Lê Hiếu Đằng đã nhanh chóng đi đến quyết định tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại chính quyền VNCH, thì sau 1975, việc quyết định phải chống lại hệ thống mới không hề đơn giản. Đó là bi kịch của những người có trái tim, những người vốn nặng tình, một khi đã trao gửi lời thề non hẹn biển thì rất khó dứt bỏ lời thề đó. Bởi với người có lương tri, việc bội ước – ngay cả khi đã bị bội ước trước – cũng là điều gần như cấm kỵ. Người ta gần như chỉ còn biết hy vọng rằng những trò nhiễu nhương đang diễn ra hàng ngày kia chỉ là tạm thời, rồi xã hội sẽ tốt đẹp lên. Cho đến một ngày, người ta nhận ra tất cả đều vô vọng…
Nhưng ngay cả khi đã nhận ra điều đó, tôi nghĩ rằng các anh, những Lê Hiếu Đằng, vẫn còn tiếp tục dằn vặt bản thân, vò xé lương tâm hàng năm, thậm chí nhiều năm, trước khi “tính sổ” với thực tại. Và cũng có không ít những người đành chép miệng hay tặc lưỡi thở dài: thôi thì mặc kệ cho cuộc sống trôi đi, đến đâu thì đến.
Vào phút chót, Lê Hiếu Đằng, người vừa ra đi hôm 22 tháng 1, đã quyết định dứt khoát từ bỏ Thực Tại, quyết định đối mặt với Nó, vạch mặt chỉ tên Nó.
Và cùng với làn sóng ủng hộ lập trường của Anh, như dự đoán, Anh cũng đã phải chịu những lời chỉ trích và thóa mạ từ nhiều phía. Những người trước đây ủng hộ chính thể VNCH thì “tính sổ” với Anh vì Anh đã từng chống lại chính thể của họ. Đối với họ, việc “phản tỉnh” của Lê Hiếu Đằng chỉ chứng tỏ hoạt động của Anh trước 1975 là sai trái. Những người của chính thể đương quyền thì coi Anh là kẻ phản bội, phản lại cái lý tưởng mà Anh đã đi theo trong những năm trước đây.
Chỉ những người từng ít nhiều hy vọng vào chính thể đương quyền và trong ba-bốn thập niên qua phải đứng nhìn nó múa may quay cuồng trên nỗi đau của hàng chục triệu người dân lao động mới hiểu Lê Hiếu Đằng. Và họ tìm thấy ở Anh người đã cất lên tiếng nói thay cho hàng ngàn người vừa có tâm đức, vừa có trí tuệ, nhưng đã nhận nhầm lớp mặt nạ là gương mặt nhân hậu, từ bi và thông tuệ. Bằng những lời tuyên cáo hùng hồn, Lê Hiếu Đằng đã dứt khoát bước ra khỏi bi kịch. Giờ đây, Anh đã có thể nhắm mắt mà cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng.
*
Trong lịch sử, những người gặp phải bi kịch như Lê Hiếu Đằng không phải là ít.
Đã từng có những con người như Trần Đức Thảo, một nhà triết học được các học giả phương Tây kính nể, như Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức nổi tiếng ngay từ tuổi đôi mươi ở Pháp, như Tạ Quang Bửu, một trí tuệ mênh mông và sâu thẳm,… đã từng vì tình yêu quê hương đất nước mà từ bỏ môi trường khoa học và sự nghiệp mà họ mơ ước suốt những năm trẻ tuổi để về phục vụ cho cái chính thể mà họ hy vọng là tốt đẹp hơn chế độ cũ, để rồi cuối cùng, người thì bị vắt như những trái chanh, người thì bị đè bẹp, bị hành hạ suốt đời.
Đã từng có những con người, ngay tại một đất nước trong nhiều thế kỷ đã đi đầu trong nền văn minh thế giới như nước Đức, như Heidelberg, Nietzsche,… và hàng chục nhà tư tưởng và khoa học lỗi lạc, đã hy vọng rằng học thuyết của Hitler là đỉnh cao của lương tri.
Đã có hàng trăm hàng ngàn những con người vừa có tâm đức, vừa có trí tuệ đã nhận diện nhầm những chính thể.
Cũng có những người tỉnh táo hơn, đã sớm nhận ra bộ mặt giả dối. Hoàng Xuân Hãn khi nhận ra sự phản phúc đã quyết định ở hẳn lại Pháp từ 1951. Albert Einstein, ngay từ trước năm 1933 đã cảm thấy ghê tởm cái không khí quân phiệt ở Đức, và ông quyết định tới sống ở tận bán cầu Tây…
Nhưng không thể vì thế mà chúng ta có thể thóa mạ những người trót để mình rơi vào bi kịch. Bởi chính chúng ta cũng đang còn sống trong bi kịch.
Điều quan trọng là hãy biết vượt ra khỏi bi kịch, như Lê Hiếu Đằng đã làm.
Song Chi/Người Việt
Gần đây, ông Lê Hiếu Ðằng, một đảng viên cộng sản 45 năm tuổi đảng, đã có bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” đăng trên trang Bauxite Vietnam, và những bài trả lời phỏng vấn (“Lê Hiếu Ðằng: Cần cho lập thêm các đảng đối lập với đảng Cộng sản Việt Nam,” RFI), (“Luật gia Lê Hiếu Ðằng: ‘Một xã hội dân sự mạnh mới mong huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc để chống lại bành trướng Bắc Kinh,’” Bauxite Vietnam)…
Ông Lê Hiếu Ðằng. (Hình: Internet)
Qua đó, ông Lê Hiếu Ðằng công khai nói về việc đảng cộng sản đã phản bội lý tưởng cách mạng, phản bội nhân dân, phản bội những người góp phần xây dựng nên chế độ trong đó có ông, cũng như việc cần thiết phải dân chủ hóa, đa nguyên đa đảng để cứu đất nước thoát khỏi tình thế bế tắc và nguy cấp hiện tại.
Ông kêu gọi thành lập đảng Dân Chủ Xã Hội để công khai đấu tranh với đảng cộng sản.
Tiếp lời ông Lê Hiếu Ðằng, ông Hồ Ngọc Nhuận trong bài “Phá xiềng,” kêu gọi mọi người đứng vào hàng ngũ đảng Dân Chủ Xã Hội “để tính toán nợ nần với quá khứ lịch sử, với dòng tộc, với chính mình; giũ sổ với đảng cầm quyền toàn trị; mở một trang mới cho tương lai dân tộc.”
Ông Lê Hiếu Ðằng và ông Hồ Ngọc Nhuận đều là những đảng viên cộng sản kỳ cựu, từng nắm giữ những chức vụ, vị trí quan trọng trong bộ máy của nhà cầm quyền.
Trước đó nữa, ông Lê Hiếu Ðằng là một trong các “lãnh tụ” sinh viên trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975, ông Hồ Ngọc Nhuận là dân biểu đối lập thời VNCH, giám đốc chánh trị chủ bút nhật báo Tin Sáng.
Do đó, không có gì khó hiểu khi lời kêu gọi của hai ông được cả nhà cầm quyền, các đảng phái chính trị khác cho tới người dân trong và ngoài nước chú ý.
Phản ứng của nhà cầm quyền bộc lộ qua việc “lệnh” cho báo chí “lề đảng” tung ra hàng loạt bài đánh vào ông Lê Hiếu Ðằng trên báo Quân Ðội Nhân Dân, Ðại Ðoàn Kết, Nhân Dân… Báo Quân Ðội Nhân Dân còn mở cả mục “Dư luận phê phán tác giả Lê Hiếu Ðằng” về “Kiến nghị lỗi thời, nhận thức sai lệch.”
Như hầu hết những bài viết đứng về phía đảng và nhà nước cộng sản, những luận điểm trong các bài viết trên cũ rích, mà người dân đã phải nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần.
Nào đâu cứ phải có nhiều đảng là có dân chủ, đa nguyên đa đảng đã chắc gì sẽ mang lại tốt đẹp hơn hay chỉ tổ rối loạn, hãy nhìn các nước láng giềng “mất ổn định” ra sao, mùa Xuân cách mạng ở các nước Ả rập đã mang lại điều gì hay chỉ tranh giành quyền lực đẫm máu…
Nào đảng cộng sản có công đánh thắng Pháp, Mỹ, thống nhất đất nước, đem lại độc lập tự do cho dân tộc, cũng là đảng duy nhất đã đưa đất nước vượt qua bao nhiêu gian khó thời bình, cho nên đảng cộng sản có quyền tiếp tục lãnh đạo đất nước, v.v…
Và cũng như những bài viết trước đây, “nhân dân” luôn luôn được vơ vào mà không hề được hỏi ý kiến, chẳng hạn, nhân dân Việt Nam không cần đa nguyên đa đảng, nhân dân đã chọn lựa đảng cộng sản là đảng duy nhất cầm quyền, chọn lựa con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội…
Có lẽ không cần phải đập lại những luận điệu nói lấy được này nữa bởi đã có nhiều bài viết trả lời lại, đăng trên trang Bauxite Vietnam, Ba Sàm, Dân Luận…
Thời đại hiện nay đã khác, người dân không còn bị bưng bít thông tin như trước để khi đảng cộng sản nói gì họ cũng tin, cũng nghe theo. Cộng với thực trạng đáng buồn của đất nước sau gần 40 năm thống nhất, những gì diễn ra trên thế giới từ sự sụp đổ của Liên Xô và khối XHCN ở Ðông Âu, xu hướng dân chủ hóa không thể cưỡng lại trên toàn cầu…
Tất cả đã khiến cho những luận điệu ngụy biện của “đảng ta” trở nên không còn lọt tai nổi, và rõ ràng là từ lâu nay trên mặt trận truyền thông, lý luận, “đảng ta” đã hoàn toàn thất bại thảm hại, từ đội ngũ bồi bút trên báo đảng cho tới đám dư luận viên trên mạng.
Trong khi nhà cầm quyền thông qua mạng lưới báo chí quốc doanh ra sức đả kích ông Lê Hiếu Ðằng, ông Hồ Ngọc Nhuận vì sợ mất ngôi vị độc tôn lãnh đạo đất nước, thì từ phía những người chống Cộng, cũng xuất hiện nhiều dư luận đả kích trên một số diễn đàn, báo chí độc lập.
Phần lớn nhắm vào “lý lịch, nhân thân” của hai ông. Phản ứng này người ta từng thấy đối với những người bị gọi là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” như hai ông Lê Hiếu Ðằng, Hồ Ngọc Nhuận, những người “thân Cộng” trước năm 1975 như ông André Menras, tên Việt là Hồ Cương Quyết, hay những người từng là cộng sản “gộc” như Ðại tá Bùi Tín chẳng hạn.
Bất kể bây giờ những con người như vậy đã thức tỉnh ra sao, những người chống Cộng cực đoan thường không tin vào sự thực lòng của họ.
Người Việt mình vốn có thói nghi kỵ, chia rẽ sâu sắc mà nguyên nhân là từ thực trạng đất nước bị chia cắt bao nhiêu năm, cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn diễn ra quá lâu, cộng thêm những chính sách sai lầm nghiêm trọng của chế độ cộng sản sau ngày thống nhất.
Từ đó ngay trong một số người gọi là dân chủ, đang đấu tranh vì một tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước cũng có những đặc tính không khác gì nhà cầm quyền cộng sản: chụp mũ, bôi nhọ, vu khống…
Nếu như nhà cầm quyền hở chút lại vu khống những người dân chủ là phản động, là thế lực thù địch, thì những người chống Cộng cực đoan cũng sẵn sàng chụp mũ cho người khác là Việt Cộng hoặc “chim mồi,” “cánh tay nối dài”… của Việt Cộng.
Trên con đường dài đấu tranh đòi lại tự do dân chủ, đoàn kết là điều quan trọng trước tiên. Bất cứ ai chỉ cần nhận ra hoặc không hài lòng với đảng cộng sản, với chế độ, muốn thay đổi, là đủ để cùng chí hướng.
Khi đã xác định dân chủ hóa, đa nguyên đa đảng là cần thiết thì việc thành lập càng nhiều đảng càng có sự cạnh tranh. Việt Nam rồi sẽ có những chính đảng trong đó đa phần là cựu đảng viên cộng sản, có đảng đa phần là người dân trong nước, có đảng đa phần là người Việt ở hải ngoại…
Tất cả cùng một mục tiêu chung là vì một nước Việt Nam tự do, dân chủ, pháp trị, tam quyền phân lập. Sau này khi đảng cộng sản đã bị lật đổ hoặc tự diệt vong, đất nước đã thay đổi về mặt thể chế chính trị, lúc đó người dân sẽ chọn lựa đảng cầm quyền thông qua hình thức bầu cử.
Việc cần thiết phải thành lập các đảng đối lập để đấu tranh công khai với đảng cộng sản, buộc đảng cộng sản phải thay đổi đã đành, mà còn để chuẩn bị nhân sự, chuẩn bị quá trình chuyển giao quyền lực sau này.
Kinh nghiệm gần nhất từ đất nước Myanmar, đảng đối lập Liên Minh Quốc Gia Vì Dân Chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi có cơ hội tham gia vào bộ máy cầm quyền từ cuộc bầu cử Quốc Hội 2012. Nếu một ngày nào đó bà Aung San Suu Kyi có lên làm tổng thống thì cá nhân bà và đảng của bà đã có kinh nghiệm trong việc điều hành đất nước, sẽ không xảy ra những rối loạn đáng kể.
Ngược lại, các nước Ả Rập sau khi Cách Mạng Hoa Lài thành công, lật đổ chế độ độc tài thì việc khủng hoảng nhân sự, khủng hoảng về kinh nghiệm điều hành lãnh đạo đất nước đã dẫn đến rối loạn, nội chiến như hiện nay.
Bước chuẩn bị là tốt cho cả những người đấu tranh vì dân chủ lẫn nhà cầm quyền. Nếu nhà cầm quyền ngay từ bây giờ không chấp nhận một sự cạnh tranh chính trị lành mạnh mà cứ thẳng tay đàn áp để nắm giữ quyền độc tôn lãnh đạo, thì khi tình thế tức nước vỡ bờ diễn ra, chính họ sẽ phải chịu số phận không có đường lui trước tiên.
Vì tương lai, vận mệnh sống còn của đất nước, dân tộc, con đường dân chủ hóa là không thể đảo ngược.
Vấn đề bây giờ là cùng nhau suy nghĩ, đóng góp vào tiến trình đó một cách êm thấm và tích cực, trong đó nguyên tắc đầu tiên là tôn trọng sự khác biệt của người khác, học để có văn hóa tranh luận, học để hành xử một cách dân chủ.
Nói như ông Lê Hiếu Ðằng, những việc đã qua hãy để cho lịch sử phán xét, đây là lúc cùng hành động, hướng tới tương lai.
Việt Nam, do số phận đặc biệt, cộng thêm việc đã từng nhỡ tàu bao nhiêu lần trong quá khứ, càng cần phải thay đổi trước Trung Quốc. Bởi khác với Trung Quốc, Việt Nam, nếu đảng cộng sản còn tiếp tục cầm quyền thì chắc chắn sẽ mất nước vào tay Trung Quốc.
Luật gia Lê Hiếu Đằng. Hình: RFI/Capdevielle
LTS: Trong những ngày gần đây, bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” của ông Lê Hiếu Đằng –một người lớn lên ở Miền Nam nhưng theo Việt Cộng và nay đã “phản tỉnh”—đã nhận được nhiều lời khen ngợi nhưng cũng không thiếu sự chê bai. Bài sau đây được trích đăng từ mạng boxitvn.net, để rộng đường dư luận.
Sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với 45 tuổi Đảng, những trải nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng, thôi thúc tôi phải viết lại những suy ngẫm của mình nhằm “thanh toán”, “tính sổ” lại những việc đã làm, những chặng đường đời đã đi qua, những đúng sai mà mình đã trải.
Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển Chuyện nghề của Thủy của đạo diễn Trần Văn Thủy, truyện của các nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua tivi xem các chuyến đi thăm Mỹ của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Hàn Quốc, Myanmar (Miến Điện) lại càng giục giã tôi viết những dòng này.
Các nhà văn đã cho tôi thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là chủ nghĩa xã hội từng được xây dựng ở Miền Bắc, một xã hội thiếu vắng sự tôn trọng cá nhân, tôn trọng con người và quyền làm người.
Tôi cứ lan man nghĩ mãi về những chuyến công du vừa rồi của các nhà lãnh đạo cao nhất của nước ta như chuyến đi của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang không nhận được những nghi thức đón tiếp dành cho nguyên thủ quốc gia, hay chuyến đi thăm Hàn Quốc, Myanmar của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Nếu đem so sánh các chuyến đi thăm Trung Quốc của các vị thì không khí hoàn toàn khác nhau. Không biết các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với lòng tự trọng dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó không? Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi vì công bằng mà nói anh không thể “mở lòng” với một nước mà thái độ không rõ ràng, bất nhất.
Tất cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước ngoài làm tôi suy nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh, càng khẳng định con đường mà tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân chủ. Ở đó con người sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải phóng từ người nô lệ thành người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không có nghĩa như ngày nay người ta thường dùng mà là sự thoát xác thật sự làm người tự do dù cho người cai trị là da trắng hay da vàng; điều đau khổ, bi thảm là hệ thống cai trị khắc nghiệt nhất lại là của những người cùng dân tộc, như Việt Nam, như Trung Quốc, v.v.
Nếu hiểu từ giải phóng theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng tình với nhận xét của nhiều nhà báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn Bên thắng cuộc mới đây. Trên một số lĩnh vực, đặc biệt là sự giải phóng cá nhân, tôn trọng quyền con người, quyền được tự do suy nghĩ, tranh luận, về tập quán tôn trọng pháp luật, về cách quản trị trong thương mại, trong kinh doanh sản xuất thì chính là Miền Nam đã “giải phóng” Miền Bắc… Đấy là chưa nói đến thóc gạo của đồng bằng sông Cửu Long đã giải quyết vân đề lương thực cho cả nước như thế nào…
Vì những lẽ trên tôi nói là cần phải “tính sổ” với Đảng Cộng sản Việt Nam và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới.
1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào Đảng Cộng sản Việt Nam?
Vào thế kỷ trước, chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đã làm say mê biết bao trí thức, văn nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân chủ mà cả thời kỳ ánh sáng với các tên tuổi như Montesquieu, Voltaire, Jean Jacques Rousseau, v.v. với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng. Chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản chẳng những lôi cuốn, làm say mê nhiều thế hệ trí thức phương Tây mà ở Việt Nam cũng vậy. Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng như Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thế Lữ, v.v. hay những trí thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường.
Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh mà đi vào chiến khu chứ phần lớn trong họ ít hoặc chưa am hiểu lắm về chủ nghĩa Marx, càng chưa hiểu chủ nghĩa xã hội rồi sẽ ra sao, nhưng họ hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp năm 1946 ông Hồ Chí Minh đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân tại quảng trường Ba Đình lịch sử.
Lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia Cách mạng tháng 8 và sau đó đi kháng chiến. Bạn bè tôi và bản thân tôi cũng được thôi thúc bởi những tình cảm đó: lòng yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ quốc để rồi sẽ xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân, người lao động, những người hy sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Tôi vào Đảng cũng rất đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ trách đơn tuyến tôi, hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3-2) để sinh hoạt. Anh Nguyễn Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đồng chí Bắc Sơn [bí danh của tôi lúc đó], đồng chí từ nay là Đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng [thực chất là Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi]. Lẽ ra tôi đưa điều lệ để đồng chí nghiên cứu nhưng đồng chí là người hoạt động công khai trong Ban Chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và Đại học Luật Khoa nên tôi bây giờ mới phổ biến một số điều trong điều lệ để đồng chí biết”. Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt, cờ quạt gì cả.
Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là người lớn lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi tiếng Bảo Quốc. Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi đã từng tham gia phong trào đấu tranh sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc) vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Miền Nam.
Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Thuỳ Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche của Nguyễn Đình Thi trước năm 1975. Gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ.
Những ngày ba tôi đến đón tôi ra thi, ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?
Trong thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn nghệ, tôi thường hát bài “Tình quê hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn. Gia đình của người phụ trách lao Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường đi bao quanh nhà tù để xem. Đúng là cái máu lãng mạn của đám sinh viên học sinh chúng tôi lúc đó ngay trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó. Lý Thiện Sanh đùa: “Nó khoái mày rồi đó”.
Về anh Nguyễn Ngọc Phương – người phụ trách tôi sau này bị địch bắt, đã hy sinh trong tù năm 1973. Năm ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể lại việc mỗi lần sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh viên mà sao thích bài hát ướt át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói: “Chúng ta chiến đấu xét đến cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay về con người thì sao mình không thích được!”.
Nghe anh tôi càng cảm phục người đồng chí phụ trách tôi và hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng anh. Sau đó, chị Cao Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương không thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.
Tôi đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
2. Vấn đề đa nguyên, đa đảng
Có thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học ở trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin mà tôi hiểu được, có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó.
Với những sai lầm kéo dài như chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi ngược lại tất cả quy luật tự nhiên, cop-py mô hình kinh tế của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết. Các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng người vượt biên ngày càng nhiều và biết bao “thuyền nhân” phải chết tức tưởi trên biển. Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã cùng tôi vào chiến khu và đã hy sinh vào ngày 11.10.1968 tại căn cứ Ban Tuyên huấn Tuyên huấn cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang Long sau trận bom ác liệt của F105 của Mỹ. Tất cả điều đó là hệ lụy thảm khốc của chủ thuyết “chuyên chính vô sản” trong tư duy bảo thủ, giáo điều của những người lãnh đạo, nếu không gọi là tội ác thì cũng không thể tha thứ được.
Trước sự rên xiết của người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và sự gắn bó với dân đã nhận ra được sai lầm dẫn đến chủ trương “Đổi Mới”, chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau thì tất yếu họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là quy luật tất yếu: không thể không đa nguyên đa đảng được. Như vậy điều 4 Hiến pháp hiện nay là đi ngược lại với sự vận động của thực tiễn, cản trở sự phát triển của đất nước. Nếu Đảng cộng sản chấp nhận đa đảng thì sẽ tạo ra cho mình có sức kháng thể, tạo cơ may thoát được tình trạng quan liêu, tham nhũng làm ruỗng nát như hiện nay. Tôi hi vọng sẽ có những vị lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam dám chấp nhận thách thức này: Các Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với Đảng Cộng sản Việt Nam trong các cuộc bầu cử hợp pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như Campuchia đã làm.
Tôi thách bất cứ ai trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong Ban Tuyên huấn của Đảng mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương trả lời luôn một cách công khai, minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá người” như thường sử dụng hiện nay.
Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo Hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam ngoài Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các giáo sư Hoàng Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, những trợ lý Tổng Bí thư, Thủ tướng hoặc Đại sứ nhiều thời kỳ như ông Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung, v.v.; các nhà kinh tế có uy tín lớn như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ trí thức kỳ cựu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Quốc Thái; và các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy lừng trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975 như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm huyết khác. Trong đó có những người, mặc dầu đời sống kinh tế đã khá giả, có những người là giàu có nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những tiện nghi của đời sống đã dũng cảm chấp nhận mọi rủi ro, nguy hiểm cho bản thân mình cũng như gia đình, dấn thân vào cuộc chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý tưởng thời trai trẻ của họ, cái lý tưởng đang bị phản bội, bị chà đạp, những lời hứa tốt đẹp năm nào trong kháng chiến đã bị vứt bỏ. Ngoài ra còn cả một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những blogger, những sinh viên đang có những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều tổ chức khác.
Tình hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta, hàng trăm đảng viên, không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ Xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị Đảng Cộng sản bức tử phải tự giải tán.
Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này? Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này, mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta.
Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta sao? Chúng ta phải đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn hòa, bất bạo động, phản đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực khiêu khích gây chiến tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết đại khái trong bất cứ cuộc chiến tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ hành động đã đến. Không chần chừ, do dự được nữa.
3. Độc lập dân tộc đang bị thách thức!
Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết thực sự. Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hy sinh biết bao xương máu, nay Đảng và Nhà nước Việt Nam đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta và vào năm 1979 họ đã xua quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc mà tên Đặng Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài học.
Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa đã cho họ nhiều bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, v.v. Không biết tập đoàn Tập Cận Bình có còn nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh của dân tộc Việt Nam nên quá “hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất “tiểu nhân” (chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về “bốn tốt, mười sáu chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là uy hiếp, săn đuổi, bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang hành nghề trong ngư trường truyền thống của mình, hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu thăm dò dầu khí của chúng ta.
Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và khó chịu của người phát ngôn viên Bộ Ngoại giao. Đến nỗi có những vụ việc lớn cũng không dám thực hiện một việc bình thường trong quan hệ quốc tế là triệu tập đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội để trao công hàm phản đối, chứ không chỉ là đưa công hàm đến toà đại sứ. Vậy thì độc lập cái gì? Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước này chống các nước khác nhưng thực tế quốc tế hiện nay rất thuận lợi cho chúng ta liên kết với các nước dân chủ để đấu tranh chống thủ đoạn bành trướng của Trung Quốc về Biển Đông.
Tôi rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-La chống lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam. Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ Chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết về vấn đề này đã hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến năm lần.
4. Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc
Thực chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kỳ kháng chiến hoặc trước 1975 Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động để đấu tranh giành quyền sống. Đây là vấn đề về con người.
+ Về dân chủ thì đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập và kiểm soát lẫn nhau. Phải có một nền tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng hiệu quả. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ để bầu quốc hội lập pháp theo đúng các nguyên tắc mà học giả Jeane Kirkpatrick đã tổng kết: “Phải có các tính chất cạnh tranh, định kỳ, phổ thông, bỏ phiếu kín”. Đảng Cộng sản phải thông qua cuộc bầu cử tự do, bình đẳng như vậy mới trở thành Đảng cầm quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân một cách thuyết phục.
Tôi nghĩ trong một thời gian dài Đảng Cộng sản vẫn là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản cần tự tin điều đó. Dần dần các đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối lập mà cứ duy trì thể chế “toàn trị độc đảng” thì tham nhũng, cửa quyền, xâu xé giữa các nhóm lợi ích đang kết nối với quyền lực thành một thế lực mafia khuynh loát toàn bộ hoạt động xã hội, đẩy đất nước vốn đang lâm vào cơn bạo bệnh trở nên vô phương cứu chữa, chỉ còn chờ chết mà thôi.
+ Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (như cách Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu nói). Không có tự do thì không thể có khoa học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật sự. Do đó Hiến pháp 1946 đã qui định những quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người. Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội lại Hiến pháp đó, tước đoạt tất cả các quyền cơ bản mà Hiến pháp 1946 đã ghi, vất bỏ Tuyên ngôn Nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng để lấp liếm cho sự phản dân chủ, phản tiến hóa của họ. Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế hệ mới có được.
Nhà văn Nguyễn Khải đã nói: “Khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mill thì vỡ ra nhiều vấn đề”, và cuốn sách đó khơi nguồn cảm hứng cho ông viết bài tùy bút để đời: Đi tìm cái tôi đã mất. Nguyễn Khải đã nhìn lại những gì mà ông đã trải nghiệm một cách sâu sắc với một giọng văn nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển sách đã đi sâu vào tim óc của chế độ mà không thấy các vị “phê bình chỉ điểm” (cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, đối với Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc “bề hội đồng” bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám phê phán, chửi rủa.
Các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản tại sao không suy nghĩ trong chế độ thuộc Pháp lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho đến nay chưa có thời kỳ nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do gấp vạn lần” như bà Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách hàm hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Báo chí thì nở rộ Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam Phong, Phong hóa, Ngày nay… với những học giả Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,… Văn học nghệ thuật thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài thơ bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu thuyết thì có nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…
Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, v.v. Với Thanh Tịnh, tôi vẫn nhớ bài “Tôi đi học” trong tập Quê mẹ của ông. “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã. Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học”.
Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực rỡ với các tên tuổi như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương… Thế mà rồi Thanh Tịnh cũng như một số nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khác không có nổi những tác phẩm lớn mà họ ấp ủ khi phải sống trong sự ngột ngạt của chế độ toàn trị, bóp nghẹt dân chủ và tự do.
Sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày đầu đã tạo hứng khởi để nhạc sĩ Văn Cao làm bài “Mùa xuân đầu tiên” với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng “Từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết quê người…”. Cũng phải nói thêm rằng bài ca này cũng mấy năm bị cấm hát!
Những năm sau khi vào chơi với Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam ông đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù tội trong đó có người bạn văn chương của các ông đã làm ông chỉ biết trầm ngâm bên ly rượu. Có một điều an ủi ông là vào Nam, vào Sài Gòn ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”, v.v. của ông.
Vấn đề là Đảng Cộng sản Việt Nam cần trả lại những gì của lịch sử, của tiền nhân để lại. Việc đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn Đình Chiểu, v.v. là việc làm thiếu suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp lên lịch sử, xúc phạm những chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu tranh bảo vệ đất nước trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân.
Ngay trong lĩnh vực báo chí, tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh niên, báo của tổ chức Cộng sản làm ngày báo chí Việt Nam? Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số báo đầu tiên của Gia Định báo năm 1865 làm ngày báo chí Việt Nam. Năm sau, một số nhà báo cùng chúng tôi sẽ tổ chức ngày báo chí Việt Nam vào ngày 15-4. Còn Đảng Cộng sản và các tổ chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không sao. Việc ai nấy làm. Thế thôi.
Tại Miền Bắc gọi là xã hội chủ nghĩa khi hòa bình mới lập lại, các văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội, tiêu biểu là Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,… đã gây chấn động trong vụ Nhân văn Giai phẩm. Có lẽ là những người trực tiếp chiến đấu chứng kiến cảnh chết chóc của nhân dân trong chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một chế độ xã hội tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh quyết liệt đòi hỏi tự do sáng tác, đòi hỏi chính trị không được can thiệp vào sáng tác của văn nghệ sĩ.
Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây là nguy cơ đe dọa của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách không nương tay. Công thần Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946, bị tù với vụ án ngụy tạo. Hữu Loan với lòng tự trọng của một người văn nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá nuôi vợ con. Nguyên Hồng khảng khái bỏ về Yên Thế nuôi heo để kiếm sống. Nguyễn Hữu Đang sau khi ra tù sống những ngày tủi nhục phải góp nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu” với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ chung quanh.
Năm 1989, tôi gặp Tiến sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp, người đã theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó, bị cô lập đến nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quý để sống qua ngày. Còn nhà triết học Trần Đức Thảo, khi tôi còn làm Phó Chủ tịch thường trực Mặt trận Tổ quốc Thành phố HCM đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền xem có công an theo dõi ông không.
Tôi còn có những kỷ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ thống chính trị của nhà nước toàn trị, lúc còn là Phó Chủ tịch thường trực Mặt trận Tổ quốc Thành phố HCM và là đại biểu Hội đồng Nhân dân Thành phố khóa 4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ngày trở thành kiêu binh. Đâu đâu cũng vỗ ngực xưng tên là “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Ngay cả Hội trường của cơ quan dân cử như Hội đồng Nhân dân Thành phố mà cũngchẳng thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu to chần dần [to đùng] “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Một số đại biểu trong Hội đồng Nhân dân trong Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng mắt nhưng không dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi thông cảm họ. Trong Hội đồng Nhân dân khóa 5, khi lên phát biểu ở Hội trường, tôi trầm giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân Thành phố, nhưng tôi không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có Đảng Cộng sản muôn năm thôi là sao? Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc, nhân dân thì làm gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết, vì vậy tôi đề nghị thay đổi khẩu hiệu này bằng Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Cả hội trường im phăng phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên nước.
+ Tôi là Trưởng ban Văn hoá – Xã hội, Hội đồng Nhân dân Thành phố khóa 5. Trong các kỳ họp Hội đồng Nhân dân Thành phố, các ban có bài thẩm định khá công phu. Phải đi thực tế, làm việc với các ngành và sau đó họp toàn ban để thông qua; Trưởng ban là người quyết định cuối cùng. Tôi nhớ trong một kỳ họp, tôi thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản để phát biểu trước Hội đồng Nhân dân. Khi lên phát biểu, nhìn xuống thì không thấy vị Phó Chủ tịch nào dự, kể cả Phó Chủ tịch phụ trách Văn hoá – Xã hội. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, cho các thư ký, trợ lý điện gấp cho các Phó Chủ tịch, nhất là các Phó Chủ tịch phụ trách Văn hoá – Xã hội về dự họp.
Ban thẩm định chuẩn bị công phu để phân tích những vấn đề, nhất là những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác – những vấn đề có liên quan thiết yếu đến đời sống nhân dân Thành phố. Khi thấy các Phó Chủ tịch lục tục về họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây là lần đầu tiên các phóng viên báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ đó, kỳ họp nào các Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cũng đều có mặt trừ một số Phó Chủ tịch có lý do chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng, Thành ủy, xem thường Hội đồng Nhân dân đã vào máu các vị quan chức của chúng ta.
+ Việc thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Võ Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay không? Cuộc đấu khẩu gay gắt đến nỗi Chủ tịch Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đồng chí Đằng thấy Đảng chật hẹp quá thì xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là chuyện mà tôi và anh sẽ nói trong Đảng, còn đây là Hội đồng Nhân dân. Giữa lúc có nhiều đại biểu đồng ý với tôi, trong đó có Trần Văn Tạo, Ủy viên Thường vụ Thành uỷ, Phó Giám đốc Công an Thành phố, Phạm Phương Thảo, Ủy viên Thường vụ Thành uỷ, Phó Chủ tịch phụ trách Văn hoá – Xã hội Uỷ ban Nhân dân Thành phố thì chủ tọa kỳ họp lại được tin ban Thường vụ Thành ủy họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa Thành phố. Tôi cương quyết đề nghị phải có nghị quyết riêng về vấn đề này, nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua nghị quyết ở Hội đồng Nhân dân Thành phố. Tuy đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn trọng tính trung thực, quyết đoán của anh.
Lúc đó tôi với tư cách đại biểu Hội đồng Nhân dân Thành phố có phối hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị trường Thành phố để tố cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng Vương. Phối hợp với cuộc đấu tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên Thường vụ Quận ủy Quận 6, Trưởng ban Tuyên huấn Quận 6. Thắng cũng là dân phong trào sinh viên. Không hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12 người gọi là điệp báo của Cục tình báo Trung ương Mỹ trong đó Nguyễn Văn Thắng nằm ở số 7. Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm Phó Bí thư thường trực của Trung ương. Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh về vấn đề này thì anh đề nghị tôi không can thiệp nữa vì danh sách đã có dấu đỏ của Đặc ủy tình báo Trung ương của Mỹ. Trước đó có người biết chuyện ngụy tạo danh sách này và nói danh sách láo được đánh máy trên giấy Bãi Bằng là giấy sản xuất sau 1975. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận nhưng Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng.
Lúc ấy Quận 6 tính lấy lại nhà của Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Quận 6. Tôi gặp Chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị anh xem xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện chính trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo đảm không ai lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom, Quận 6 như cũ.
Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao anh không đi học Cử nhân, Tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất Nam Bộ: “Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi học thật sự, không như những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”. Từ đó quan hệ giữa anh và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu nảy lửa ở Hội đồng Nhân dân về vụ chợ hoa Nguyễn Huệ. Sau này anh bị thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển Bên thắng cuộc nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo, tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi để thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu Trinh: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Cuối cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán, tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại để gửi các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, để mong các vị hiểu ra mà có sự lựa chọn con đường sống cho dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã sụp đổ tan tành ở ngay quê hương Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân quyền, dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghĩa là đây là cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người, vì con người chống lại các thế lực phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá hoại môi trường vì những lợi ích kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lũng đoạn nhà nước.
Tôi không tin lắm, nhưng dù sao thì vẫn cố hy vọng một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm thấy tình hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của Đất nước, Tổ quốc lên trên hết mà có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích và sự tồn tại của Đảng, của chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại hiện nay.
Tôi nghĩ, chúng ta hiện nay cùng có trách nhiệm phải cương quyết đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng và thực hiện lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh chúng ta về một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, văn minh và giàu mạnh. Xã hội công dân một khi mạnh lên sẽ có đủ sức kìm hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một nhà nước toàn trị. Trước mắt là phải “chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài viết này cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ, các bạn thanh niên, sinh viên, học sinh mà tôi đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một điều: với lòng tự trọng của một công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta phải hành động. Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên này hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài người trong đó có người Việt Nam khát khao với một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái ác, cái xấu nên đã có thời gian dài nuôi ảo tưởng về đường lối xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô viết Stalin của Đảng Cộng sản.
Trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số vấn đề sống còn của đất nước nhưng hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới đã thay đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại. Nhận thức lại và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng loay hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch sử. Còn chúng ta trước mắt là hành động, hành động và hành động. Điều này tôi nói một lần rồi thôi…
Viết trong những ngày nằm bịnh.
Kim Chi thân mến, Anh (cho phép anh xưng hô như ngày nào chúng ta còn ở chiến khu, ở trên R gần 45 năm trước) vừa sửng sốt, vừa xúc động và cảm phục khi đọc thư Kim Chi gởi cho Hội Điện ảnh Việt Nam, từ chối việc báo cáo thành tích để được Thủ tướng khen thưởng với lý do: “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác mình bị xúc phạm”.
Thú thật với Kim Chi, ở Sài Gòn, một số nhân sĩ trí thức cũng như một số anh chị em trong phong trào sinh viên học sinh trước 1975 làm được một số việc nhưng chưa có ai “cả gan”, đủ dũng khí để phát biểu một cách công khai, minh bạch những điều mà Kim Chi đã làm như trang mạng Bauxite Việt Nam và các trang mạng khác đã đăng tải. Có những lúc bản thân anh cũng thấy nhụt nhuệ khí, nản lòng trước sự thờ ơ, “khôn vặt” của một số người chỉ hô hào ôn lại cái quá khứ, truyền thống hào hùng mà không dám nhìn vào sự thật và nói rõ sự thật của tình hình đất nước hiện nay. Tệ hại hơn nữa lại có người lợi dụng để đánh bóng tên tuổi của mình vì mục đích tư lợi.
Theo anh, quá khứ và truyền thống hào hùng chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành “bà đỡ”, sức mạnh cho hiện tại, nó làm cho ta có đủ dũng khí và sáng suốt để nhận thức lại những gì do hoàn cảnh lịch sử trước đây chưa cho phép ta thấy một cách đúng đắn. Nhận thức lại và hành động cho một đất nước Việt Nam thật sự “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”, cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ phù hợp với dòng chảy của thế giới văn minh hiện nay là tiếng gọi của lương tri, của trách nhiệm công dân của chúng ta. Ôm quá khứ, tôn vinh quá khứ để rồi làm ngơ, im lặng, thậm chí là ngụy biện để cho đỡ xấu hổ, trước cái ác, cái xấu, trước tệ nạn quan liêu tham nhũng, trước tình trạng bất công xã hội, đạo đức xã hội suy đồi, mất dân chủ nghiêm trọng, trước tình hình nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ hằng ngày hằng giờ bị tập đoàn bành trướng Bắc Kinh xâm phạm, đe dọa, trước cảnh đàn áp, bắt bớ, dùng nhục hình đối với những người yêu nước… là không thể chấp nhận được. Hẳn nhiên, mỗi người có hoàn cảnh, vị trí xã hội khác nhau không thể đòi hỏi ai cũng như ai, nhưng mỗi người chỉ cần một việc nhỏ hoặc ủng hộ bằng sự im lặng đồng tình là như góp gió thành bão cuốn phăng đi mọi trở lực dù bất cứ ở đâu tới, bạo tàn như thế nào.
Chính trong bối cảnh đó mà lá thư của Kim Chi như ngọn lửa ấm áp truyền vào tâm hồn anh trong lúc này, làm anh vững tin hơn con đường mà anh và nhiều đồng đội, bạn bè anh đã chọn lựa.
Tuổi trẻ chúng ta – tuổi trẻ Hà Nội, tuổi trẻ Sài Gòn - Gia Định – rời bỏ trường học, gia đình, nếp sống êm ấm để vượt Trường Sơn, để vào chiến khu, để đấu tranh trong lòng các đô thị và đã có nhiều đồng đội, đồng chí chúng ta đã nằm xuống vĩnh viễn – “Ta đi không kịp ẵm con thơ, không kịp về thăm người vợ chờ” (Tiếng hát người tù, thơ Trần Quang Long, Ủy viên văn nghệ Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, chủ biên tập thơ “Tiếng hát những người đi tới”) – để rồi chúng ta có một xã hội như ngày nay sao? Lý tưởng chiến đấu cho nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ đã bị phản bội. Ai tự diễn biến và ai phản bội ai? Tình hình thực tế hiện nay đã phơi bày tất cả, không ai có thể dùng bạo lực, trấn áp để lấp liếm, che đậy được.
Thế hệ chúng ta và nhiều thế hệ khác, dù miền Bắc hay miền Nam đều sống trong bi kịch: chết trên chiến trường, chết trong tù ngục… để rồi bây giờ chứng kiến cảnh đất nước tụt hậu trở về với “chủ nghĩa tư bản man rợ”, giẫm đạp lên nhau mà sống của thời kỳ mông muội của con người. Nhưng bi kịch không có nghĩa là bi quan, hối tiếc, mà như GS Huệ Chi đã viết trên trang Bauxite Việt Nam cũng về lá thư của Kim Chi gởi Hội Điện Ảnh: “nếu ta đã sống, đã hành động với tất cả niềm tin trong sáng và giữ được đến cuối đời phẩm chất lương thiện của mình, thì sự đổ vỡ của cái hiện thực mà mình từng dâng trọn niềm tin chỉ có ý nghĩa của một bi kịch chứ không bao giờ là hài kịch. Mà đối với bi kịch, phẩm giá con người chỉ càng được tôn lên chứ không bao giờ bị hạ thấp. “Không nghi ngờ gì nữa, bi kịch là một cái gì đó thuộc về CÁI ĐẸP khi nó được/bị chạm đến tận nơi sâu thẳm" (La tragédie, sans doute, est quelque chose de beau quand elle est bien touchée – Molière)”.
Chúng ta sống trong bi kịch và nhận thức rõ bi kịch để xác tín niềm tin của mình về chính nghĩa của cuộc chiến đấu mới không khoan nhượng vì những lý tưởng của thời tuổi trẻ của chúng ta.
Thật ra thái độ quyết liệt, dứt khoát của Kim Chi không phải bột phát mà có từ sự suy nghĩ, ray rứt trong một thời gian dài. Vì anh nhớ, cách đây ba năm, gặp Kim Chi ở Sài Gòn, Kim Chi có đưa anh xem mấy bài thơ Kim Chi mới làm. Những bài thơ làm anh cảm động và vui mừng vì có người cũng suy nghĩ, cũng ray rứt như mình trước tình hình hiện nay của đất nước. Nhiều nhà thơ, nhà văn như Nguyễn Duy, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Minh Quốc, Lại Nguyên Ân, Lữ Phương, Phạm Đình Trọng, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Quốc Thái, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Khắc Vỹ, Võ Thị Hảo, Thùy Linh, Ngô Minh, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Võ Quê, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Lập. v.v. đã viết, phát biểu hoặc đã ký tên vào các kiến nghị, thư ngỏ, mà gần đây nhất là “Lời kêu gọi thực hiện quyền con người theo Hiến pháp Việt Nam”. Anh thực sự vui mừng vì đội ngũ của chúng ta ngày càng đông vui, anh và Kim Chi cũng như biết bao người khác đang dấn thân cho cuộc chiến đấu mới vì một nước Việt Nam thật sự “Hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh” (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Điều cuối cùng đọng lại ở anh qua bức thư đầu năm nay là hình ảnh của Kim Chi (lúc ấy lấy tên là Hồng Anh), của Tô Lan Phương, Dư An, Trần Mùi, Thế Hải và nhiều diễn viên khác trong Đoàn Văn công Giải phóng hôm đến diễn cho đại hội thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam vào ngày 20/4/1968. Các đại biểu đêm hôm ấy như “hút hồn” vì lời ca, tiếng hát và những vở kịch làm xúc động lòng người. Luật sư Trịnh Đình Thảo, kỹ sư Lâm Văn Tết, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, nhà văn Thanh Nghị, giáo sư Lê Văn Giáp, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ… về chỗ nghỉ rồi mà cứ khen mãi. Riêng anh em sinh viên trong Hội đồng Đại diện Sinh viên Sài Gòn và Tổng hội Sinh viên Sài Gòn gồm có Trần Triệu Luật, Trần Quang Long, Trần Thiện Tứ, Lê Quang Lộc và anh tham dự đại hội Liên minh, đêm đó xúc động không ngủ được ngồi nói chuyện với nhau đến gần sáng mới chợp mắt. Lúc ra đi vào mùa xuân 1968, sinh viên có năm đứa nhưng khi về lại Sài Gòn chỉ còn hai. Trần Quang Long, Trần Triệu Luật hy sinh ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam (B9) ngày 11/10/1968, Lê Quang Lộc hy sinh ngay tại cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn ngày 15/4/1975. Sau 1975, anh em mình mỗi người một ngả, có anh chị trong Đoàn Văn công Giải phóng sống trong cảnh nghèo khó, anh Thế Hải và nhiều đồng chí khác phải chạy vạy, vận động lo nhà tình nghĩa cho một số anh chị. Kim Chi nghe có đau lòng không? Chúng ta chiến đấu và đã có bao biết bao người đã ngã xuống thế mà ngày nay bạn bè, đồng chí, đồng bào chúng ta gần 45 năm rồi – một thời gian có thừa để cho một đất nước cất cánh – vẫn còn sống cơ cực, mất đất, mất nhà, mất tự do. Trong khi bọn cơ hội, hãnh tiến hoặc quan lại giàu lên từng ngày một cách bất chính lại sống phè phỡn, vô cảm trước nỗi khổ của nhân dân. Ta có thể khoanh tay ngồi yên được không? Thái độ dũng cảm, không hề sợ hãi trước quyền lực của Kim Chi đã trả lời cho câu hỏi này. Không, dứt khoát là không!
Cuối cùng, nhân dịp đầu năm 2013, anh gởi đến Kim Chi và qua Kim Chi gởi đến người bạn đời và hai con của Kim, mà những người thân yêu này đều ủng hộ việc làm của Kim Chi (đó là điều hạnh phúc nhất đời mà không dễ gì có được trong hoàn cảnh bị o ép, bắt bớ hiện nay) lời chúc một năm khỏe, vui, an lành và giữ vững niềm tin về con đường mà chúng ta đã chọn và đang đi. Chúc Kim Chi và gia đình nhận nhiều hơn nữa những bó hoa tươi của những người hâm mộ từ khắp nơi gởi về Hà Nội.
Nguồn: Lê Hiếu Đằng/ Bauxite Việt Nam
![]() |
Hôm nay 05/12/2013, luật gia Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra tuyên bố rời bỏ Đảng Cộng sản.
Người đảng viên hơn 40 tuổi đảng đã từng bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa kết án tử vì những hoạt động đấu tranh trong thời chiến đầy gian khổ trước đây. Nay khi đảng Cộng sản đang trên đỉnh cao quyền lực lại quyết định rời bỏ vì theo ông, đảng bây giờ thực chất là của các tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản và đi ngược lại quyền lợi của lợi ích dân tộc.
Cũng như lời đề nghị thành lập đảng Dân chủ Xã hội trước đây, tuyên bố rời bỏ đảng Cộng sản Việt Nam của luật gia Lê Hiếu Đằng một lần nữa đã gây bão dư luận. Hôm nay trên các mạng xã hội đã có rất nhiều lời bàn tán về sự kiện này.
Từ giường bệnh tại bệnh viện 115 ở Thành phố Hồ Chí Minh, luật gia Lê Hiếu Đằng dù đang phải chống chọi với căn bệnh nan y, vẫn cố gắng trả lời RFI Việt ngữ.
RFI : Thưa anh, vì sao anh quyết định rời bỏ đảng Cộng sản Việt Nam ?
Trong bài viết khi nằm trên giường bệnh, về việc bỏ đảng có một thời gian tôi chưa làm được, bây giờ phải làm. Đó là hệ quả tất yếu thôi. Còn lý do bỏ đảng là vì bây giờ đảng không còn như thời kỳ giải phóng dân tộc nữa, mà trở thành một nhóm lợi ích đặt quyền lợi của gia đình, của cá nhân lên trên, chứ không phải quyền lợi của đất nước, của Tổ quốc. Đảng trở thành sức cản cho sự phát triển của đất nước, tiền của của dân bị lãng phí không biết bao nhiêu.
Điều làm tôi đau lòng nhất là người dân mất đất, mất ruộng, phải ly hương, ly tán, trong khi họ là những người chịu hy sinh rất nhiều trong chiến tranh. Thế bây giờ thì ai phản bội ai ? Rõ ràng là các ông ấy phản bội nông dân, phản bội dân tộc Việt Nam. Nói chung là phản bội lại những gì đã hứa hẹn trước kia.
Khi tôi vào đảng, tôi hy vọng là sau khi giải phóng dân tộc rồi thì sẽ xây dựng một chế độ tốt đẹp hơn. Nhưng bây giờ chế độ lại tồi tệ hơn xưa, mọi thứ đều xuống cấp, từ giáo dục, y tế cho đến đạo đức con người. Đảng Cộng sản trở thành sức cản của đất nước, của dân tộc, mà thực chất đây chỉ là tập đoàn lợi ích thôi. Thành ra tôi nghĩ phải từ bỏ, vì nếu là thành viên của đảng dù sao cũng là trách nhiệm. Trở thành một người công dân tự do để đấu tranh.
Chứ còn chủ nghĩa xã hội thì nó đã tanh bành ở Liên Xô rồi, nước nào người ta cũng đã từ bỏ…
RFI : Thưa anh, anh có nuối tiếc khi từ bỏ một tổ chức mà mình đã cống hiến bao nhiêu năm tuổi thanh xuân không ?
Tất nhiên là mình cũng thấy tiếc, nhưng không thể nào không từ bỏ được vì nó trở thành xấu xa. Chứ nếu vẫn còn là thành viên thì mình phải có trách nhiệm, vì vậy thôi bây giờ rút ra để mình trở thành công dân tự do; để đấu tranh cho chủ quyền, dân chủ, bảo vệ môi trường.
Đó là ba yếu tố thực chất vì con người, chứ còn chủ nghĩa xã hội cuối thế kỷ này như thế nào thì ai cũng biết. Trong khi con cái mấy ông (lãnh đạo) đi các nước tư bản, mấy ông lại bắt cả dân tộc phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một con đường hiện nay chẳng có lối ra, và ngay trên quê hương sinh ra nó người ta đã chối từ, đã phủ nhận.
RFI : Còn những đảng viên khác thì sao, và anh có nhắn nhủ gì với những người đang đấu tranh cho dân chủ không ?
Nhiều đảng viên người ta cũng thất vọng. Nhiều người trong đảng cũng rất tâm huyết, nhưng vì lý do gia đình hoặc những lý do khác…Tôi nghĩ nếu ai cũng vì lý do gia đình, vì lợi ích cá nhân mà không đặt lợi ích đất nước lên trên thì đất nước này sẽ đi về đâu ?
Do đó tôi hy vọng sau khi tôi từ bỏ đảng, thì những người khác cũng sẽ hưởng ứng.
RFI : Không chỉ trong đối nội, có lẽ cũng có những thất vọng về đối ngoại, như cách đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông ?
Đúng vậy. Chính sách của ta nó nhu nhược, nói cách khác là hèn yếu trước sự hung hãn của bọn bành trướng Bắc Kinh. Thật ra nguy hiểm nhất là hiện nay Trung Quốc đã tràn lan khắp nơi, điển hình là ở huyện Kỳ Anh ở Nghệ An. Biển Đông thì còn lúc này lúc kia, chứ còn trên đất liền có biết bao nhiêu là nhân viên quân sự cũng như dân sự Trung Quốc. Tội lỗi là tại sao lại để cho tình hình xảy ra như thế.
Tôi nhắc lại, tôi từ bỏ để không còn là thành viên có trách nhiệm, là một đảng viên của đảng nữa, mà trở thành một công dân tự do. Khi ra khỏi đảng, tôi được tự do đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ; bảo vệ nhân quyền và dân quyền ; bảo vệ môi trường. Đó là những vấn đề thiết thực cho con người, vì con người đối với người Việt, chứ còn cái thứ chủ nghĩa xã hội rất là mơ hồ.
RFI : Tức là dù đang trên giường bệnh, nhưng anh vẫn bức xúc khi cả dân tộc phải đi theo một chủ nghĩa mà tương lai có vẻ vẫn còn mù mịt ?
Đúng rồi, một tương lai mù mịt, chẳng đi đến đâu cả.
RFI : RFI Việt ngữ xin chân thành cảm ơn luật gia Lê Hiếu Đằng, kính chúc luật gia sức khỏe.
Vượt qua Việt: xem thêm:
Trí Thức
Theo blog Quê Choa
Kính gửi ông Lê Hiếu Đằng
Tôi đã được đọc bản li khai đảng cộng sản VN của ông trên blog quê choa. Tôi khâm phục lòng dũng cảm của ông và tôi nghĩ hiện nay có rất nhiều đảng viên ĐCS cũng đang có ý nghĩ như ông , có điều họ không dám công khai như ông, cứ lặng lẽ ra khỏi đảng. Với lại họ có chân trong đảng thì cũng chỉ là bù nhìn, có cái danh hiệu đảng viên chỉ để mà đóng…đảng phí, để rồi sau này kiếm cái giấy xác nhận số tuổi đảng mà thôi.
Tôi đồng tình với hành động của ông. Thiết nghĩ, với những gì đã nghe đã thấy thực trạng hiện nay trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh…dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của ĐCS thì những người đảng viên càng nhiều năm tuổi đảng chỉ càng thấy xấu hổ mà thôi. Những đảng viên lâu năm được nhận cái huy hiệu, cái danh hiệu nhiều năm tuổi đảng thực chất chỉ là cái bánh vẽ, chẳng nói lên điều gì. Thử hỏi trong bấy nhiêu năm tuổi đảng có bao nhiêu năm ông cống hiến sức lực cho đất nước, cho xã hội? Bao nhiêu năm chỉ ngồi chơi xơi nước để mỗi năm lại tính thêm một tuổi đảng mà thực chất nó chỉ là thêm một tuổi đời . Cũng đừng nên sống giả dối nữa. Đã nghỉ hưu, thôi công tác xã hội thì cũng nghỉ sinh hoạt đảng luôn, giữ lại cái ranh hiệu đảng viên làm gì!
Thiết nghĩ, ham hố vào đảng hiện nay chỉ rặt bọn cơ hội. Chúng muốn có danh hiệu đảng viên để chui vào cơ quan công quyền, đoàn hội mà đục khoét ngân sách nhà nước, mà hà hiếp nhân dân. Trước đây, khi trợ cấp còn ít ỏi thì chẳng đảng viên nào thèm làm tổ trưởng dân phố, trưởng thôn hay các chức danh khác trong các đoàn, hội . Khi thấy có chế độ bổng lộc khá hơn thì rặt đảng viên bất tài được tổ chức đảng bố trí vào các vai trò chủ chốt ở địa phương. Chúng đấu đá tranh cướp nhau như “quần cẩu tranh thực”.
Thưa ông Lê Hiếu Đằng!
Ông ra khỏi đảng chính là ông đã về với nhân dân, từ bỏ tất cả những gì thuộc về quá khứ, có thể là những công lao, cống hiến…Nhưng thà như thế còn hơn là tiếp tục ở lại trong cái đội ngũ càng ngày càng bị nhân dân mất lòng tin và chán ghét.
Tôi còn nhớ một câu chuyện trong truyện ngắn của nhà văn Vũ Bão đa xuất bản lâu lắm rồi. Chuyện đại thể thế này. Một đảng viên quá tồi, quá đốn mạt, khi bị kỉ luật khai trừ khỏi đảng thì quần chúng ngoài đảng đã la ó lên ngăn rằng : Thôi các ông cứ để nó ở trong đảng, chứ đội ngũ quần chúng ngoài đảng chúng tôi không có người xấu như thế, kiên quyết không cho nó trở lại nhập vào đâu!
Thân ái kính chào ông
Trí Thức
Điếu văn của bạn hữu do BS Huỳnh Tấn Mẫm đọc tại Lễ Truy Điệu luật gia Lê Hiếu Đằng sáng ngày 26.01.2014
Blog Quê Choa
Nhà văn Nguyễn Quang Lập: Lễ truy điệu lúc 6 giờ sáng nay (26/01/2014). Sau điếu văn của bs Huỳnh Tấn Mẫm, nhạc sĩ Miên Đức Thắng cất cao tiếng hát bài Tự Nguyện:Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng/ Nếu là hoa tôi sẽ làm một đóa hướng dương/Nếu là mây tôi sẽ làm một vầng mây ấm/Là người tôi sẽ chết cho quê hương.... Mọi người rì rầm hát theo. Mình đã bật khóc.
Thưa quý vị, thưa quý bằng hữu,
Thay mặt Ban tang lễ và gia đình Anh Lê Hiếu Đằng, chúng tôi xin chân thành cám ơn quý vị đã đến đây viếng Anh lần cuối mà cũng để từ biệt Anh lần cuối. Chúng ta đã chứng kiến những ngày tháng sau cùng khi Anh vừa chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, vừa đau đáu một lòng đối với vận mệnh đầy cam go hiện nay của đất nước. Và hôm nay, chúng ta đau buồn biết rằng sẽ không bao giờ còn có thể gặp lại Anh trên thế gian này một lần nào nữa. Anh đã vĩnh viễn từ giã chúng ta để đi về Miền Tĩnh Lặng của riêng Anh và cũng là Miền Anh Linh của những tinh hoa dân tộc.
Anh Lê Hiếu Đằng sinh ngày 06.01 năm 1944, tại Đà Nẵng, Quảng Nam, nguyên quán Thừa Thiên - Huế. Sau khi học xong Tú tài phần 1 ở Đà Nẵng, Anh ra Huế hoàn thành Tú Tài phần 2, chính ở nơi đây, Anh đã tiếp cận phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh xung quanh sự biến 1963, và đã trả giá cho thái độ đầu tiên về chính trị đó bằng sự kiện bị chính quyền Sàigòn giam vào lao Thừa Phủ. 1964, theo gia đình vào Sài gòn, ghi danh học Đại học Luật, rồi từ những hoạt động công khai trong cộng đồng sinh viên, Anh bí mật liên hệ với phong trào cách mạng và trở thành cơ sở của Đảng uỷ sinh viên và Thành đoàn Sài Gòn. Năm 1968, cùng với một số trí thức, nhân sĩ thuộc “lực lượng thứ ba”, Anh ra chiến khu tham gia Liên Minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình (khu Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định), tổ chức này ra đời để vận động cho cuộc hoà giải dân tộc, chấm dứt chiến tranh và Anh đã bị chế độ cũ kết án tử hình vắng mặt. Năm 1969 Anh được hai ông Huỳnh Tấn Phát và Tôn Thất Dương Kỵ giới thiệu vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đất nước thống nhất, sau một thời gian đảm nhiệm công tác đào tạo cán bộ tại các trường Đảng ở Sài Gòn đến 1983, Anh được điều động về Mặt Trận với chức danh Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt Trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, và giữ chức danh này cho đến khi về hưu. Gần đây, vướng phải căn bệnh ngặt nghèo, được gia đình, bạn bè, các y, bác sĩ hết lòng giúp đỡ điều trị nhưng do bệnh tình quá trầm trọng, Anh đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22.01.2014, lúc 22 giờ, tại Bệnh viện 115, hưởng thọ 70 tuổi.
Qua mấy nét tiểu sử trên đây, chúng ta thấy xuyên suốt cuộc đời Anh, vận mệnh của đất nước là điều không lúc nào rời khỏi sự bận tâm suy nghĩ của Anh. Thái độ đó đã thể hiện rất sớm khi Anh mới chỉ là một học sinh trung học và có lẽ rất sớm như vậy vì đã diễn ra trong hoàn cảnh một đất nước liên tục bị các thế lực bên ngoài xâm lược thống trị, mà vào thời Anh lớn lên là tình thế tổ quốc bị chia đôi sau 1954: do không thống nhất được trong hoà bình, những xung đột tiềm ẩn nội tại đã bùng lên với sự can thiệp trực tiếp của chính quyền Mỹ bấy giờ, cuối cùng phát triển thành một cuộc đối đầu quân sự vô cùng tàn khốc, có nguy cơ đẩy cả dân tộc vào một thảm hoạ huỷ diệt chưa từng có. Sự chọn lựa chính trị của Anh đã phát sinh từ tình thế đó và thường được giải thích như một thức tỉnh mang tính truyền thống của những thanh niên trí thức trước họa ngoại xâm. Nhưng như tất cả chúng ta đều biết: sự chọn lựa của Anh không dừng lại ở tình tự yêu nước tự nhiên đó mà lại được bồi đắp cho mạnh mẽ hơn bằng một niềm tin mới mẻ, hấp dẫn hơn nhiều lần: đó là niềm tin vào một thứ chủ nghĩa cộng sản nào đó mà Anh tin rằng sau này khi nước nhà đã độc lập trong thống nhất, hoà bình, nếu đem ra áp dụng, chúng ta sẽ kiến tạo nên được một xã hội tốt đẹp bội phần. Anh đã gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng vì niềm tin ấy, sống chết với Đảng Cộng sản suốt 45 năm kể từ ngay Anh gia nhập cũng vì niềm tin ấy.
Giữ gìn sự liêm khiết là công việc bình thường, điều quan trọng hơn nhiều lần với Anh chính là thái độ bảo vệ sự trong sáng làm nên những nguyên lý về phẩm chất để thực hiện cho được lý tưởng của mình. Cũng chính vì quan niệm như vậy mà trước những chuệch choạc, bế tắc, sai lầm của Đảng Cộng sản trong việc đem lý tưởng ra thực hiện, Anh đã có những phản ứng rất mạnh mẽ đi đôi với những đề xuất táo bạo để chấn chỉnh. Thái độ nhiều khi khá gay gắt của Anh đều xuất phát từ nỗi ưu tư của Anh về vận mệnh của toàn dân tộc: những sai lầm ấy nếu không được khắc phục một cách triệt để, thì đất nước sẽ suy sụp toàn diện và không thể nào tránh khỏi nguy cơ rơi vào vòng xiềng xích của ngoại bang một lần nữa, dưới một hình thức thâm độc hơn nhiều lần. Giữ gìn cho được những phẩm chất làm nên cái lý tưởng lành mạnh ban đầu trong thời kỳ tranh đấu giải phóng dân tộc hầu như đã trở thành chuẩn mực định hướng cho mọi hành động của Anh. Lý tưởng đó có thể điều chỉnh cho thực tế hơn, mang ra thực hiện bằng những biện pháp thích đáng hơn, nhưng cái mơ ước ban đầu về một xã hội tương lai tất yếu phải tốt đẹp hơn quá khứ đối với Anh vẫn là cái đích đến, không thể quên lãng, nhất là không thể cố tình xoá bỏ bằng những lời nói đãi bôi để che giấu những toan tính chà đạp con người, bán đứng đất nước, đi ngược lại quyền lợi của tổ quốc, của nhân dân.
Cũng chính vì vậy mỗi khi có dịp nhắc lại những tháng ngày gian khổ cũ của mình như một tổng kết về cuộc sống, Anh không hề tỏ ra tiếc nuối với những gì đã làm để phải trách móc bản thân hay “sám hối” với ai khác cả. Những gì diễn ra trong quá khứ đối với Anh là một hành trình thể nghiệm đầy hào sảng, cần phân tích thấu đáo nhiều mặt để tiếp sức cho cuộc chiến đấu hôm nay với những nội dung và biện pháp khác, trong những điều kiện mới của đất nước. Với những ai hiểu Anh thì những gì Anh bộc lộ trong thời gian gần đây cũng chỉ biểu hiện cho những dằn vặt và đau xót về sự suy đồi đến mức thảm hại những giá trị mà những lớp người như Anh đã bỏ tuổi xuân và xương máu để chắt chiu nuôi dưỡng. Một số quyết định đến mức quyết liệt của Anh vào lúc cuối đời sẽ hoàn toàn lý giải được khi chúng ta biết tất cả đều không bắt nguồn từ đâu ngoài sự phẫn nộ trước những thứ làm vẩn đục những nguyên tắc đơn giản nhưng thiêng liêng, tạo nên cái cái lý tưởng cải biến xã hội mà Anh đã tiếp nhận được từ thời trai trẻ trong tranh đấu. Đó là độc lập dân tộc, cải thiện dân sinh, xây dựng cho kỳ được nền dân chủ tiến bộ trong tự do và phẩm giá, xứng đáng với bao khát vọng và hy sinh cao cả của nhân dân yêu quý.
Anh Đằng thân thiết!
Với những việc Anh đã làm, với những phẩm chất mà Anh gửi lại cho những người thân thích, những bạn bè xa gần của Anh, Anh có quyền thanh thản an nghỉ trong Miền Yên tĩnh của riêng Anh với những bài tình ca mà Anh mang theo trong suốt cuộc đời dấn thân đầy lãng mạn của mình. Cuộc từ biệt mang lẽ tử sinh này sẽ để lại cho anh em chúng tôi, những bằng hữu, những người thân của Anh, nhiều kỷ niệm tốt đẹp cùng với nhiều điều thật đáng suy ngẫm về cuộc đấu tranh thay đổi đời sống, những suy ngẫm cũng là những thao thức mà chắc hẳn không một ai trong chúng ta có thể tránh mặt được mỗi khi tưởng nhớ đến Anh. Những ước nguyện chưa thành của Anh nhất định sẽ được thế hệ sau gánh vác và thực hiện!
Đau đớn vĩnh biệt Anh, người Bạn thân thiết, nhà Trí thức dũng cảm, trang Hiền sĩ đáng kính, đáng yêu trong tâm khảm của thế hệ hôm nay.