VuotQuaViet_Kp_DarkGreen_Logo_212x80
acrobat  📂  🏠   

Thực hiện dân chủ trong ổn định

Lội Ngược (⬇️)

I. Nhu cầu thời cuộc.

Từ hơn chục năm nay, thế giới bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của dân chủ trên mức độ toàn cầu. Tại các nước Phi châu, dân chủ đang trở thành một khái niệm phổ cập với sự hình thành giai tầng thượng lưu có kiến thức dân chủ, các chế độ độc tài lần lượt sụp đổ. Tại Á châu, nhu cầu của xã hội, khủng hoảng kinh tế buộc các chính quyền đương thời phải cải tổ hay chuyển đổi sang chế độ dân chủ. Tại Ðông Âu, sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghiã Liên Xô và Ðông Âu dẫn tới sự dân chủ hóa các chế độ này. Tại các nước Trung, Nam Mỹ, dân chủ ở trên đà phát triển và dần dần trở thành tập quán chính trị. Mặc dù đây còn là các nền dân chủ non trẻ nhưng nhìn chung, dân chủ đang trở thành nhu cầu bức thiết và tất yếu của cả nhân loại.

Trong bối cảnh chính trị Việt Nam hiện nay, dân chủ và thực hiện dân chủ là một đề tài tế nhị thậm chí có thể gây nên nhiều "vấn đề". Dù muốn, dù không Việt Nam cũng vẫn phải đi theo đà tiến hóa của nhân loại:

Về lý thuyết, những người cộng sản đã dầy công xây dựng một lý thuyết với mục đích thực hiện dân chủ (nhân dân) và công bằng (cào bằng) xã hội, bằng phương tiện chuyên chính vô sản; tự nó, cứu cánh (dân chủ, công bằng) và phương tiện đã là mâu thuẫn đối kháng; hơn nữa mục tiêu trước mắt của chủ nghĩa này là dùng chuyên chính vô sản để tiêu diệt tư bản, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội ra sao thì còn nằm trong trí tưởng tượng của mỗi người (đã có rất nhiều lý thuyết từ Marx, Lenine, Staline tới Mao Trạch Ðông, nhưng tất cả đều là lý thuyết xuông). Ðể giải quyết khủng hoảng lý thuyết, các đảng cộng sản Tây Âu từ bỏ chuyên chính vô sản(Eurocommunisme), còn ở Ðông Âu thì đưa ra chủ nghĩa xã hội nhân bản (một cách phủ nhận chuyên chính vô sản trong hoàn cảnh của các nước này, Socialisme à visage humain). Bức tường Bá-Linh sụp đổ là hậu quả tất yếu của bế tắc lý thuyết mà những người cộng sản đã thấy từ trước đó rất lâu.

Về thực tế, chế độ đảng trị và toàn trị dẫn tới một cơ chế xã hội xơ cứng với guồng máy nhà nước khổng lồ, nó bóp chết mọi sáng kiến cá nhân, với "tập thể" là cái bung xung, điều tốt là của cá nhân, còn điều xấu là trách nhiệm tập thể, tài sản nhà nước trở thành "của chùa". Hơn nữa, thay vì tiêu diệt giai cấp, lại nẩy sinh giai cấp mới là giai cấp đảng viên (hiển nhiên là đảng viên cỡ lớn, Nomenklatura). Cho tới nay chưa có một chế độ chuyên chính vô sản nào tự ý từ bỏ chuyên chính của họ để thực hiện nền dân chủ nhân dân với mục đích sau cùng là xoá bỏ Nhà Nước; cái mà mọi người đều thấy là các chế độ này là các chế độ độc tài mang tính quân phiệt (Staline), phong kiến Âu châu (Ceaucescu) hay phong kiến Ðông Á (Mao Trạch Ðông, Kim Nhật Thành) ...; về thực chất thì chỉ là các chế độ độc tài thường thấy mà thôi. Sự thực hiện dân chủ nhân dân chỉ là lý thuyết, thậm chí trở thành cái bình phong của chế độ.

Bế tắc lý thuyết, khủng hoảng chế độ tất nhiên dẫn tới nguy cơ chế độ tự sụp đổ. Ðây chính là lý do khiến cho Kroutchev và sau này là Gorbatchev phải thực hiện những cải cách chế độ. Chính sách "đổi mới" của Việt Nam thể hiện sự đồng ý với những nhận định của Liên Xô, đã có một thời người ta nhắc đi, nhắc lại câu "đổi mới hay là chết". Ở Trung quốc, sau những thất bại xây dựng kinh tế (như chương trình Ðại Nhẩy Vọt), Mao Trạch Ðông thấy không thể áp dụng lý thuyết xã hội chủ nghĩa được nên từ năm 1973, Mao bắt tay với Mỹ, khởi đầu tiến trình từ bỏ nền kinh tế hoạch định xã hội chủ nghĩa (có nghĩa là từ bỏ chủ nghĩa xã hội, ít ra là về mặt kinh tế); ông ta cũng không tiêu diệt địch thủ của mình, Ðặng Tiểu Bình (điều hiếm thấy và là một điểm son khi xét về bản chất của Mao) vì ông ta thừa biết là chỉ có họ Ðặng mới có thể xây dựng lại nền kinh tế Trung quốc (*3).

Nhìn chung thì hầu như tất cả các đảng cộng sản đều thấy bế tắc và nguy cơ tự sụp đổ, đây là vấn đề thường được bàn cãi trong hậu cung của họ. Sự tan rã của Liên Xô và Ðông Âu là điều không thể tránh, dù có Gorbatchev hay không, hơn nữa, chính nhờ ông ta mà giới hạn được những hậu quả xấu của sự tan rã này, khi chúng ta so sánh sự tàn lụi của các đế quốc khác trong lịch sử (từ đế quốc được hiểu theo nghĩa có một quốc gia cầm đầu với các nước chư hầu, tự nó không nhất thiết có nghĩa là xấu).

Do không tránh được sự tự sụp đổ nên vấn đề còn lại là phải thay đổi cơ chế (với câu hỏi đầu tiên là sự lựa chọn cơ chế mới) và làm sao để chuyển sang cơ chế mới.

Có hai lựa chọn cơ chế mới:

Như tất cả mọi lựa chọn khác, các giải pháp này đều có những hậu quả của nó:

Ðể chuyển sang cơ chế mới, tất nhiên phải có một dự án chính trị như chương trình "đổi mới" của ông Gorbatchev hay "bốn hiện đại" của ông Ðặng Tiểu Bình.

Trong hoàn cảnh Việt Nam, sự chuyển đổi từ chế độ hiện nay sang chế độ dân chủ là một tiến trình đòi hỏi nhiều suy nghĩ, cả về lý thuyết lẫn phương án thực hiện; hơn nữa thực hiện sự chuyển đổi này trong ổn định lại càng cần động não hơn. Tất nhiên, sự tìm kiếm những giải pháp là nhằm giải quyết thoả đáng quyền lợi của tất cả, kể cả quyền lợi của đảng cộng sản Việt Nam.

II. Bốn phương án.

Công cuộc dân chủ hóa xã hội Việt Nam là sự thay đổi toàn diện xã hội, từ cơ chế chính trị tới quan niệm, quan điểm, chính sách kinh tế, từ quan hệ giữa công dân và chính quyền tới văn hóa, tư tưởng; hơn nữa ngay cả trong nếp nghĩ cũng cần phải xem xét lại. Sau hơn 24 năm có hòa bình, về chính trị, xã hội và con người (nhất là các nạn nhân chiến tranh của cả hai phe), hậu quả của hai cuộc chiến tranh vẫn còn nặng nề, hận thù còn dai dẳng và nằm trong tiềm thức của nhiều người và làm sao hóa giải hận thù khi bất công, thành kiến và tinh thần phe phái vẫn còn đè nặng lên xã hội ta; đây cũng là một yếu tố bùng nổ xã hội, chính trị và là một vấn đề phải giải quyết trong bài toán dân chủ hóa xã hội; hơn nữa, đất nước là của chung, do đó, mọi người đều phải có "phần bánh" của mình, đây là công lý và là nguyên tắc điều hành của xã hội văn minh.

Mặc dù là một công cuộc to lớn và có thể dùng từ cách mạng dân chủ (mà nhiều người thường tránh né) để nói lên được hết ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, nhưng công cuộc này không nhất thiết phải là một cuộc cách mạng, lật đổ đầy máu lửa như thói quen thường liên tưởng của nhiều người (và của những kẻ chuyên nghề tuyên truyền). Lịch sử sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ tại nhiều nước từ trên mười năm nay đã chứng minh điều này, giành và giữ chính quyền không nhất thiết phải ở trên đầu mũi súng (*4).

Trong công cuộc dân chủ hóa, có rất nhiều phương diện và liên hệ giữa các phương diện, cần phải xem xét và thực hiện. Trước tiên, thực hiện dân chủ là xây dựng Nhà Nước pháp quyền (État de droit) với cơ cấu chính trị, xã hội và phương thức điều hành dân chủ. Sự thực hiện này mang tính chất tổ chức và hình thức trong khi nội dung của dân chủ là ở nông thôn, với các trì kéo của quá khứ phong kiến Ðông Á từ hàng nghìn năm nay; cần thiết phải lưu tâm tới các đặc thù ở nông thôn và có một dự án dân chủ hóa riêng, vì nếu không khả năng có những ông quan dân chủ trong một chế độ dân chủ (hình thức) là rất lớn. Sự bình đẳng và bình đẳng chính trị là một nguyên tắc của chế độ dân chủ, trong thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ độc đảng sang dân chủ (thường có nghĩa là đa đảng), sự dân chủ hóa ở trong đảng và đưa đảng trở về vị trí của một đảng bình thường trong sinh hoạt chính trị là điều tối cần thiết để thực hiện dân chủ trong ổn định và mở đường cho sự hình thành xã hội dân sự. Nhìn toàn bộ xã hội thì dân chủ hóa có nghĩa là xây dựng xã hội dân sự, chủ động xây dựng xã hội dân sự có nghĩa là tạo khả năng phát triển dân chủ trong ổn định; xã hội dân sự được hình thành sẽ tạo thế đối trọng giữa công dân và quyền lực chính trị, theo cách nói dân gian là thay đổi tương quan giữa dân (chi dân) và quan (phụ mẫu).

Dưới đây, xin trình bầy bốn phương diện cơ bản này và xin trình bầy dưới dạng bốn phương án thực hiện trong giai đoạn chuyển tiếp.

II.1. Từ trên xuống dưới.

II.1.1. Phương án.

Phương án này là tổ chức tổng tuyển cử bầu quốc hội lập hiến. Ðây là mục tiêu của sự chuyển đổi cơ chế, là sự cải tạo toàn bộ cơ cấu chính trị và xã hội: từ chế độ độc đảng sang đa đảng, từ bỏ chế độ làm chủ tập thể ..., công nhận quyền tư hữu, tự do cá nhân, ngôn luận, tư tưởng, tín ngưỡng ..., công nhận quyền thành lập các tổ chức tư nhân như nghiệp đoàn, báo chí, tôn giáo ...(theo từ ngữ thời nay là dân lập, điều khác biệt là hiện nay chỉ là dân lập có định hướng).

Ðây là sự xử dụng các biện pháp hành chính (tổng tuyển cử) với mục đích xây dựng khuôn khổ hình thức của một chế độ pháp quyền (hay pháp trị), tạo điều kiện thuận lợi cho sự (đang) hình thành và phát triển xã hội dân sự.

Về chương trình thực hiện, cần có các bước sau:

Trên đây là đại cương về chương trình thực hiện. Cần phải xem xét về tính khả thi của phương án này. Sau đây là một số yếu tố :

Ðây là xét tình hình trước mắt, còn về lâu dài thì tổng tuyển cử vẫn là giai đoạn sau cùng trong quá trình chuyển đổi cơ chế độc tài sang dân chủ và là điểm khởi đầu bảo vệ và phát triển nền dân chủ non trẻ này.

II.1.2. Những kinh nghiệm.

Cho tới nay, chưa thấy có một chế độ nào tự ý giải thể và thực hiện tổng tuyển cử lập hiến chỉ vì thấy chế độ dân chủ là tốt đẹp cả (trường hợp Liên Xô khá đặc biệt, xin trình bầy ở phần sau). Thường thì sau khi chế độ cũ đã tan rã, một chính phủ lâm thời lên thay với nhiệm vụ tổ chức bầu cử, sự lựa chọn cơ chế mới sẽ tùy thuộc vào kết quả bầu cử.

Mặc dù là một giai đoạn và là một biện pháp tổ chức cần thiết nhưng tổng tuyển cử, tự nó không đồng nghĩa với dân chủ. Có dân chủ hay không còn tùy thuộc hoàn cảnh mỗi nước, cần phải xem xét sâu hơn về tình trạng xã hội, chính trị mỗi xứ và không thể vơ đũa cả nắm để kết luận rằng dân chủ là tốt hay xấu được. Do đó, có những nước thực hiện dân chủ một cách xuông xẻ như Tiệp Khắc, Ba Lan hay Hun-ga-ri, còn như ở Nga; Rou-ma-ni thì vẫn còn những yếu kém. Có nước như Indonésie thì mới chỉ bắt đầu tiến trình thực hiện. Thậm tệ hơn, ở Nam Tư, Milosovic xử dụng chiêu bài chủng tộc quá khích để thắng cử.

Sau đây là một số kinh nghiệm:

Một khía cạnh quan trọng cần nêu lên là sau khi chuyển đổi chế độ, giai tầng thượng lưu ở các xứ này, từ Ðông Âu tới Á, Phi, cũng vẫn chiếm các địa vị chủ chốt trong xã hội, họ không mấy bị thiệt hại. Ngày nay, các chủ thuyết chính trị nặng mùi phe phái, cực đoan, đòi tiêu diệt (trong thực tế thường có nghĩa là giết bỏ) đối thủ (thậm chí cả một giai cấp) đã trở thành lỗi thời. Nhu cầu của xã hội là cải tổ cơ cấu và qui chế điều hành chính trị (dân chủ hóa) chứ không phải là con người, giai cấp.

II.2. Từ dưới lên trên.

II.2.1. Phương án.

Ðây là phương án thực hiện dân chủ ở nông thôn. Xác định lại vai trò, chức năng và quyền hạn của các tổ chức địa phương, từ làng, xã, huyện, quận, tỉnh; quan hệ với chính quyền trung ương. Thực hiện các cải cách về cơ chế. Ban đầu, thực hiện bầu cử các hội đồng hành chính địa phương trong cả nước dựa trên nguyên tắc tự do và ứng cử cá nhân (vì chưa có chế độ đa đảng). Xét cho cùng thì đây chính là thực hiện khẩu hiệu "dân thấy, dân bàn và dân làm": nông dân có thừa sức để thấy người mà họ sẽ bầu lên, họ có điều kiện để nói lên và thực hiện những nguyện vọng của họ thông qua bầu cử và ngưòi mà họ bầu lên chính là từ nhân dân mà ra, để thực hiện những điều mà họ mong muốn.

Thực hiện dân chủ ở cơ sở xã hội là thực hiện nội dung dân chủ, từ đó những cải tổ cơ chế chính trị trung ương (phương án một) sẽ dễ dàng hơn và hầu như trở thành vấn đề hình thức, tổ chức và pháp lý (không còn là vấn đề cốt lõi, hay giảm thiểu tính chất, của công cuộc chuyển đổi sang chế độ dân chủ).

Sự cải tổ cơ chế này là để thay đổi quan hệ công dân và chính quyền, địa phương và trung ương. Trong thời phong kiến, đây là quan hệ hàng dọc, hoàn toàn tôn ti trật tự, với quan niệm chi dân phụ mẫu; người dân có nhiệm vụ đi lính, đóng thuế và phục tùng triều đình còn ơn mưa móc thì tùy vào sự bốc đồng của vua mà thôi. Thời Pháp thuộc (*6), với mục đích cai trị và khai thác có hiệu quả, mặc dù chính quyền thuộc địa có thay đổi cơ chế hành chính nhưng họ chẳng dại gì xóa bỏ tinh thần tôn ti trật tự thể hiện trong cơ chế phong kiến (họ vẫn giữ chế độ cai tổng, lý trưởng). Sau giải phóng, chế độ phong kiến được thay thế bằng chế độ đảng trị, các ông lý tân thời này lại theo đường cũ mà thôi (vì thiếu ý thức và cũng vì chẳng ai buộc họ phải làm khác). Sự cải tổ sang cơ chế dân chủ nhằm giảm thiểu quan hệ hàng dọc (mặc dù trong hành chính, tập quyền là điều khó thể tránh và dù sao cũng vẫn cần có cái tối thiểu), xây dựng cơ chế đối trọng, tăng cường sự tham gia trực tiếp của người dân vào các công việc địa phương, bước đầu thực hiện tản quyền. Một điểm cơ bản khác của sự cải tổ là tách rời (hay giảm thiểu) quan hệ quyền (quyền lực chính trị) và lợi (ruộng đất) của giới cầm quyền ở nông thôn (xử dụng quyền lực chính trị để chiếm phần hơn, thậm chí cưỡng đoạt ruộng đất), là điều vẫn có từ nghìn xưa tới nay.

Trên đây là vấn đề cải tổ cơ chế, sự cải tổ này sẽ rỗng tuếch ý nghĩa nếu như không có chương trình kinh tế nông nghiệp phù hợp. Trước hết, tư hữu hóa nông nghiệp dựa trên nguyên tắc bình đẳng (như không phân biệt đảng viên hay không) và nâng đỡ các hộ nghèo; đây là chương trình cải cách điền địa, thực sự thực hiện khẩu hiệu "người cầy có ruộng"; đồng thời cũng cần phải trả lại ruộng đất đã tịch thu trước đây (với chương trình bù đắp, nếu như khó thể trả lại toàn bộ đất đai trong ngắn hạn). Về trung hạn, cần phải có chương trình kinh tế nông nghiệp phù hợp với đà phát triển chung của cả nước: sự kỹ nghệ hóa nền kinh tế quốc gia và nông nghiệp là tất yếu với tất cả các khả năng và hậu quả của nó; một trong các hậu quả là sự thặng dư sức sản xuất nông nghiệp (nói cách khác là nạn thất nghiệp), do đó, chương trình kinh tế nông nghiệp phải đề ra hướng giải quyết.

Có ít nhất là bốn phương diện cơ bản trong việc dân chủ hóa nông thôn cần phải nêu lên:

Trên đây là những vấn đề lý thuyết, trong thực tế, thực hiện dân chủ hóa nông thôn tất nhiên gặp phải sự kháng cự quyết liệt của thành phần thủ cựu địa phương, mặc dù có chính quyền trung ương đủ uy lực và có các chính sách, biện pháp tổ chức thích đáng.

II.2.2. Những kinh nghiệm.

Có một số kinh nghiệm, tổng quát và riêng biệt, xin trình bầy ở đây :

II.3. Từ trong ra ngoài.

II.3.1. Phương án.

Trước tiên, thực hiện dân chủ hóa đảng cộng sản Việt Nam. Sự thực hiện này trở thành cơ sở để hướng dẫn, chủ động trong công cuộc dân chủ hóa xã hội.

Do hoàn cảnh lịch sử, có những lẫn lộn trong sinh hoạt đảng, chính quyền và nhân dân; từ đó, việc đưa đảng trở về vị trí bình thường của một đảng chính trị có những chồng chéo tế nhị, cần phải phân định và tìm ra các hướng giải quyết thỏa đáng. Một thí dụ là có những đảng viên cả đời làm công tác đảng khi về hưu thì lãnh hưu bổng của một cán bộ đảng và được tương đương hóa với lương hưu của một công chức nhà nước; trong khi với một nhà nước dân chủ thì có sự phân biệt rõ rệt giữa công và tư. Sự lẫn lộn giữa đảng và nhà nước có lẽ cũng gần giống như sự lẫn lộn giữa nhà thờ và chính quyền tại các nước Âu châu trước đây (cho tới nay cũng vẫn chưa hết hậu quả). Tất nhiên, sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ là thực hiện những cải cách cơ chế nhằm phục vụ con người, có nghĩa là cho tất cả mọi người, đảng viên hay không; do đó cần tìm những giải pháp, pháp lý (phân biệt công, tư) và cụ thể (không để cá nhân, đảng viên, bị thiệt thòi), thỏa đáng. Các khuynh hướng thủ cựu trong đảng thường dựa vào những điều này làm thủ thuật hù họa.

II.3.2. Những kinh nghiệm.

Như trên đã trình bầy, những bế tắc của chủ nghĩa xã hội, từ lý thuyết tới chế độ, đã được thấy từ lâu. Ðã có nhiều khuynh hướng cải cách, dưới đây chỉ xin trình bầy ba trường hợp:

II.4. Từ ngoài vào trong.

II.4.1. Phương án.

Thực hiện dân chủ hóa xã hội, chủ động xây dựng từng bước xã hội dân sự song song với sự phát triển của kinh tế (thị trường) và xã hội (dân sự). Nới rộng các quyền dân sinh, dân chủ, tự do thành lập các tổ chức dân sự (báo chí, nghiệp đoàn, ...), chấp nhận sự hình thành xã hội đa thành phần, đa diện, đa đạng, chuẩn bị cho sự hình thành cơ chế chính trị dân chủ (đa đảng) sau này. Một trong những cải cách phải làm là tự do ngôn luận, vì vai trò trọng yếu của báo chí. Xã hội được dân chủ hóa có sức ép buộc các thành phần thủ cựu trong đảng phải thay đổi.

Về đại thể, chương trình dân chủ hóa xã hội là sự tiếp nối chính sách "đổi mới" thời 1986-1987, với những cải cách sâu, rộng hơn và phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Một thí dụ là chương trình trả lại nhà, đất đã được thi hành theo kiểu nửa giơi, nửa chuột; thường thì những cái không có giá trị được trả lại, còn "của bở" được trả lại là điều hiếm thấy (và thường thì "phí tổn" khá bộn, coi khi lại mất tiền toi); tất nhiên, chương trình trả lại nhà, đất mới phải giải quyết đối kháng quyền lợi giữa người chủ thực sự và người đang xử dụng trên nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của chủ nhân (tôn trọng quyền tư hữu), đồng thời tránh gây sáo trộn xã hội; đây là chương trình dài hạn, phức tạp và tốn kém cho ngân quỹ quốc gia.

Các người lãnh đạo thường coi những cải cách chính trị (dân chủ hóa) là nguyên nhân sụp đổ của khối Ðông Âu và những xáo trộn sau này. Ðây là lý do bề nổi. Lý do sâu xa thì rất giản dị: từ tâm lý hoảng sợ trước sự sụp đổ của một chế độ tương đương và gắn sự sụp đổ này với quyền lợi trước mắt của họ (mất chế độ thì mất quyền lợi) dẫn tới khuynh hướng co cụm và dùng bạo lực (công an) trấn áp. Ðây là phản ứng bình thường của một con người, đáng tiếc là những người có tầm nhìn chính trị xa hơn không (hay ít) có tiếng nói.

Các người lãnh đạo thường đặt câu hỏi "có trụ được không ?". Ðể trả lời câu hỏi "có trụ được không ?", cần thiết phải trở về vấn đề quan niệm: một chế độ chỉ là một cơ chế chính trị do con người tạo nên để quản lý xã hội, khi nhu cầu của xã hội đòi hỏi thì phải có những cải cách để đạt mục đích mong muốn; tự nó không có chuyện còn hay mất (trụ được hay không trụ được). Ðiều này khác với cách nhìn thâm căn cố đế theo kiểu nhà Lê mất, nhà Nguyễn lên thì quân thần nhà Lê phải tháo chạy bán mạng.

Dưới bất kỳ một chế độ nào, quyền lợi của một cá nhân thì thường trực là chuyện còn hay mất; những đấu đá và phân định ngôi thứ, trong hậu cung hay ngoài xã hội, là chuyện muôn thủa của con người (trong cùng một chế độ, ông A lên thì hiển nhiên là ông ta đem nhân sự của mình vào; còn nhân sự cũ thì hoặc ngồi chầu rìa, hoặc phất cờ mới). Tất nhiên, cải tổ cơ chế dẫn đến ít, nhiều thay đổi nhân sự. Vả chăng, việc thực hiện dân chủ trong ổn định chính là để giảm thiểu những xáo trộn không cần thiết.

Trong lịch sử, có những chế độ quá gắn bó với quyền lợi trước mắt và cương quyết dùng bạo lực để bảo vệ; trong trường hợp này thì chỉ còn nước nổi loạn, làm cách mạng lật đổ (cách mạng 1789, cách mạng vô sản, ... là điều đã xẩy ra). Ðây là điều cần tránh và cũng là một khả năng.

II.4.2. Những kinh nghiệm.

Thực hiện dân chủ trong đảng hay ngoài xã hội có liên hệ mật thiết với nhau, đây là hai khía cạnh của vấn đề; do đó xin xem những kinh nghiệm của phương án ba.

Ngoài ra, thời kỳ Mặt Trận Bình Dân ở Pháp và Tây Ba Nha cũng là những kinh nghiệm cần xem xét. Những cải cách trong thời kỳ này dân chủ hóa xã hội, nâng cao sức mua của người lao động, góp phần tạo điều kiện hình thành xã hội tiêu thụ sau này; xã hội tiêu thụ lại trở thành một động cơ chính của sự phát triển kinh tế tại các nước Tây Âu sau chiến tranh. Ðây chính là thông điệp về ích lợi của dân chủ trong phát triển kinh tế của phương Tây.

III. Thay lời kết.

Những điều trình bầy trên đây mang nặng tính chất gợi ý và đại thể, cần thiết có những nghiên cứu bề sâu và cụ thể. Những vấn đề của dân tộc là rất lớn và thậm chí có khi là những vấn đề từ hàng nghìn năm nay. Việt Nam hiện nay đang ở trong thời kỳ tư bản tự phát với tất cả những hậu quả của nó, bùng nổ xã hội với khả năng biến động chính trị là điều có thể thấy trước; dân chủ hóa xã hội là để giảm, tránh những biến động này. Nhu cầu dân chủ ngày càng trở nên bức thiết và để tránh đổ vỡ thì thời gian không đợi chúng ta. ( *10 )

Bruxelles, ngày 1-11-1999.
Nhặt sạn & thêm link, ngày 19-10-2020.


*1. Trước đây (1-11-1999), để tránh đụng chạm nên tôi ghi chú như sau (nguyên văn):

Bài này được viết nhân dịp Hội Thảo Mùa Hè 1999 tại Liège, tác giả dùng tên thật là Nguyễn Lân. Vì có một số điểm cần sửa đổi vào lúc chót và cũng vì không tiện nên rốt cuộc không đăng ký. Dưới đây là bài viết đã được sửa đổi, các phần sửa đổi sẽ được chú thích đầy đủ. Tác giả xin chân thành cảm tạ các góp ý và nhặt sạn, có lẽ vẫn còn nhiều sạn !.

Nay, cần trình bày sự thật như sau:

Tại Hội Thảo, để được trình bày, các tác giả phải đăng ký và gửi bài cho ban tổ chức duyệt. Tôi không được lên diễn đàn trình bày, theo ban tổ chức, Nguyễn Mạnh Cầm, ủy viên bộ chính trị, bộ trưởng ngoại giao đương thời không đồng ý. Tôi không ngạc nhiên về quyết định này, đối với tôi, đây là phép thử cuối cùng đối với chế độ độc tài toàn trị kiểu cộng sản trị này. Sau đó, tôi ca bài giã từ chế độ và chuẩn bị làm YKien.net.

*2. Sự tự sụp đổ này là một quá trình lâu dài, bắt đầu từ sự thạch hoá chế độ (từ thời Staline) tới sự đất hoá chế độ (từ sau thời Kroutchev : từ thạch biến thành đất : sự kiện bắn rơi máy bay Boing của hãng hàng không dân sự Nam Hàn với những lủng củng, thiếu nhất quán của giới lãnh đạo quân sự, mang đầy ý nghĩa; nó chứng minh rằng ngay cả guồng máy quân sự - là con chủ bài của chế độ, được đặc biệt ưu đãi, chăm lo - cũng không còn hoạt động hữu hiệu nữa) và sau cùng là thời kỳ sụp đổ (khoảng 1989; sự thất bại của cuộc đảo chính chống Gorbatchev nhằm thiết lập lại chế độ chuyên chính kiểu Staline chứng tỏ là khi đất đã rã thì không làm sao cứu vãn được). Ðây không phải là sự nổ sụm (implosion) vì từ này mang nặng tính chất bùng nổ, đột biến khác với quá trình ung thối lâu dài và giống như người bị kiệt sức, tới lúc thì sụm thôi.

*3. Khoảng những năm 70-80, tác giả có đọc bài báo viết về chuyện có những phái đoàn thuộc thế giới thứ ba gặp Mao và hỏi về việc áp dụng chủ nghĩa xã hội tại các nước này thì được Mao trả lời là không nên áp dụng chủ nghĩa này. Ðây là theo trí nhớ thôi, nếu độc giả nào sưu tầm được bài báo này, xin gửi cho tác giả làm tài liệu chứng minh rằng Mao không còn tin chủ nghĩa nữa; xin chân thành cảm tạ. Có một vấn đề về việc xem xét lịch sử cũng xin nêu lên ở đây : ai cũng biết rằng Ðặng là người thực hiện đổi mới, đây là sự thật phổ biến, còn chuyện Mao cũng có ý định từ bỏ chủ nghĩa là chuyện cần chứng minh; trong trường hợp đúng thì nó chứng minh rằng ngay cả một ông tổ lý thuyết của chủ nghĩa xã hội cũng không còn tin chủ nghĩa nữa !.

*4. Trong thời kỳ 1968, có nhiều người thiên tả phương tây rất chuộng khẩu hiệu "chính quyền trên đầu mũi súng" (le pouvoir est au bout du fusil) của Mao.

*5. Có lẽ lịch sử Ba Lan sẽ ghi công tướng Zaruzelki trong trong công cuộc bảo vệ Ba Lan không bị khối Varsovie can thiệp và giữ lối thoát để sự chuyển đổi chế độ diễn ra trong ổn định trong trường hợp chế độ của chính ông sụp đổ.

*6. Trước đây viết là: "Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa có thay đổi cơ chế hành chính với mục đích cai trị và khai thác có hiệu quả và do đó họ chẳng dại gì xóa bỏ tinh thần tôn ti trật tự thể hiện trong cơ chế phong kiến".

*7. Trước đây viết là: "cơ chế quốc phòng và chính trị".

*8. Nhặn sạn : trước đây viết là "Nguyên tắc chuyên chính vô sản", dùng cụm từ "tập trung dân chủ" thì đúng hơn. Theo thiển ý, chuyên chính vô sản là nguyên tắc chung, được áp dụng cho toàn xã hội, còn tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức, được áp dụng trong đảng nhưng dù sao cũng vẫn phải thể hiện tính chất chuyên chính vô sản và "dân chủ" chẳng qua chỉ là chuyện nói cho vui; chính vì vậy mà trong các chế độ này mới nẩy sinh các nhà độc tài lớn, nhỏ như Staline, Mao, Kim Nhật Thành ... : trước tiên họ là kẻ cầm đầu đảng với nguyên tắc tập trung dân chủ và sau đó, trong hoàn cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa thì họ là kẻ nắm quyền tối thượng trên toàn xã hội với nguyên tắc chuyên chính vô sản.

*9. Nhặn sạn : trước đây viết là "Sự kiện đảng lấy hơn nửa ngân sách quốc gia để chi tiêu cho riêng mình là một sự lãng phí của công và (trực tiếp hay gián tiếp) làm tăng giá thành sản phẩm". Ðể tránh những ngộ nhận, những đồn đại trong dân gian, đảng nên công bố ngân sách của mình.

*10. Sau đây là phần trả lời một số câu hỏi chung. Những câu hỏi này đều là những vấn đề lớn, cần phải có những bài nghiên cứu riêng, bao gồm mọi khía cạnh, từ chính trị, kinh tế, xã hội, hành chính ... đến cả triết lý, quan niệm sống hay phong tục, tập quán; từ lý thuyết đến thực hiện và ngược lại. Ðiều này có nghĩa là cần ý kiến của các chuyên viên. Nhân đây xin cảm tạ đã nêu lên nhiều vấn đề vì quả thật thực hiện dân chủ tại Việt Nam đặt ra rất nhiều vấn đề và những điểm tác giả nêu lên trong bài chẳng qua chỉ phản ảnh một phần thực trạng Việt Nam mà thôi. Với những giới hạn của mình, tác giả cố gắng trả lời một số điểm; tất nhiên đây chỉ là các trả lời ngắn gọn, còn về sau sẽ được đề cập tới trong những bài viết khác trên trang Web này.

🔝