Thứ Tư, 06/12/2024 - 20:01 — Nguyễn Hữu Vinh
Vấn nạn quốc doanh
Từ rất lâu, những câu chuyện về nhà chùa, nhà sư trong xã hội Việt Nam đã trở thành một đề tài được cộng đồng mạng bàn tán xôn xao hoặc rộ lên từng đợt sau mỗi sự việc trong “hậu cung nhà chùa” bị bại lộ. Để rồi sau đó lại như đá ném ao bèo, nghĩa là dần dần đi vào quy luật “nói lắm cũng nhàm” và mọi chuyện trở nên bình thường trong một hoàn cảnh không bình thường của hệ thống Phật giáo tại Việt Nam.
Đó là hệ thống Phật giáo đã được định hướng theo khẩu hiệu: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, một khái niệm mông lung mà có lẽ Đức Phật có sống lại cũng chẳng hiểu cái “Chủ nghĩa Xã hội” mà các thế hệ sư sãi hiện nay ở Việt Nam đặt chắn trước mặt các tượng Phật là cái gì.
Theo ngôn ngữ dân gian, thì hệ thống Phật giáo đó được định nghĩa là hệ thống Phật giáo Quốc doanh – nghĩa là Phật giáo dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng Sản Việt Nam ( CSVN) là một đảng lấy chủ thuyết Mác – Lein vô thần, bạo lực và bất khoan dung với mọi tôn giáo là “Kim chỉ nam” của mọi hành động.
Hệ thống Phật giáo đó, được nhào nặn bằng sự quy tập tất cả 9 hệ phái tôn giáo nguyên ủy đã tồn tại ở Việt Nam cho đến năm 1981 - mấy năm sau khi người Cộng sản hoàn thành việc xâm lược một quốc gia anh em qua một cuộc chiến tranh bạo tàn vì hệ tư tưởng Cộng sản. Cuộc quy tập và nhào nặn tạo thành cái gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam này, là một hình thức “nấu lẩu” bằng cách trộn lẫn tất cả mọi thứ vào một nồi cho dễ quản lý.
Hệ thống đó được hình thành, nhằm thay thế cho hệ thống Phật giáo chân truyền lâu đời đã tồn tại ở Việt Nam và đã bị chính sách tiêu diệt tận gốc của đảng tàn sát trước đó trong “Cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa”.
Và hệ thống mới, được quản lý bởi hệ thống sư sãi do đảng đào tạo, lựa chọn, bổ nhiệm hoặc được đào tạo, bổ nhiệm từ đội ngũ an ninh sang nhận “nhiệm vụ đặc biệt”. Vì thế, cái tiêu chuẩn “Hồng hơn chuyên” được áp dụng triệt để cho các “Chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng” này của đảng CSVN.
Với tiêu chuẩn “Hồng hơn chuyên” nên việc tu tập, việc thực hành tôn giáo theo yêu cầu của Giáo lý, Phật pháp là điều không quan trọng bằng quá trình lập thành tích, quá trình phấn đấu kết nạp đảng hoặc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị là chính.
Cũng chính vì vậy, mà hiện tượng “Lạ” liên tục xuất hiện trước cửa thiền môn, bởi chính các tăng lữ, bởi các chùa chiền và đội ngũ sư sãi. Thế rồi dần dần, trong xã hội Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều và càng phổ biến hiện tượng “ma tăng” theo cách gọi của dân chúng cõi đời.
Báo chí, mạng xã hội thỉnh thoảng lại rộ lên những vụ việc không thể giấu kín, không thể che đậy và làm choáng váng xã hội Việt Nam.
Đó là những vụ như nhà sư Thích Trí Hộ ở Quảng Trị giết người tình rồi ném xác xuống sông phi tang. Vụ Đại đức, Thượng tọa Thích Thanh Toàn quấy rối tình dục nữ phóng viên bằng nhiều cách bẩn thỉu và khi bị bại lộ thì “Hòa thượng Xin tí Khí” đề nghị được nhận lại khối tài sản mấy trăm tỷ có được nhờ tu hành mấy năm. Hay tập thể nhà sư hùa nhau xâm hại tính dục đồng tính những nam phật tử đến chùa ở Vĩnh Phúc.
Người ta cũng chẳng thấy lạ khi ngày nay, sư sãi chỉ cần ở chùa ban ngày còn buổi tối thay áo đội mũ đi quán bar, hát karaoke và chơi gái. Thậm chí, những ngày đầu năm mới đây, Đại đức Thích Nhuận Nghi chùa Từ Đức đã phải hồi tục sau khi một đoạn video đen mà Đại đức và ni cô đã thực hiện cái việc mà cha ông nói là “ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau”.
Đó là những vụ nhà sư nghiện ma túy rồi trộm cả chuông chùa để bán hay nhà sư lừa đảo hàng chục nạn nhân với số tiền khổng lồ hoặc Hòa thượng trụ trì kiêm chạy án, đã nhận cả mấy triệu đola để chạy án ở những vụ án động trời…
Rất, rất nhiều những vụ việc nổi tiếng về sự sa đọa của hàng ngũ tăng lữ trong cái gọi là Phật giáo Quốc doanh ngày nay.
Tuy nhiên, nếu chỉ sa đọa về tư cách, về đạo đức cá nhân, về hành xử và lừa đảo cá nhân, thì chưa hết. Cộng đồng mang và dư luận gần đây chú ý nhiều đến những hiện tượng sư sãi quốc doanh làm khuynh đảo xã hội bởi những vụ lừa đảo có tính chất quốc gia, có tính chất phổ thông toàn xã hội với những mớ lý thuyết đi ngược với giáo lý nhà Phật với mục đích nhằm dọa dẫm các tín đồ, các phật tử đi vào con đường sai lạc. Để từ đó, nhằm moi từ họ những khoản tiền khổng lồ.
Những hiện tương sư sãi bày trò mê tín dị đoan nổi tiếng như “Oan gia trái chủ” tại chùa Ba Vàng của Thích Trúc Thái Minh – một hình thức mê tín bịa đặt nhằm dọa dẫm người u mê bỏ ra những khoản tiền lớn cho thầy chùa. Thế rồi khi bị lên án, thì không lâu sau đó, hệ thống chùa này lại bịa chuyện “Xá lợi lông” của đức Phật. Và một vụ lừa đảo mới lại bị phanh phui.
Không chỉ có mỗi Thích Trúc Thái Minh, trong hàng ngũ tăng đoàn của Phật giáo Quốc doanh hiện tại, những nhân vật như Thích Nhật Từ, Thích Chân Quang… đã và đang là những điển hình được nhắc tới trên mạng xã hội về những trò đi ngược giáo lý Phật giáo với mục đích duy nhất, tối thượng là lừa đảo kiếm tiền bá tánh u mê.
Có lẽ không cần nói nhiều, những người chỉ cần đầu óc tỉnh táo đã có thể thấy được sự lỳ lợm bất chấp của những kẻ mang áo nhà sư quốc doanh này.
Và người ta nói, người ta lên án, người ta phê phán đủ mọi cách.
Nhưng mọi việc vẫn cứ như cũ, chẳng hề suy suyển, những bộ mặt nhà sư vẫn nhăn nhở, vẫn lẻo mép và vẫn lừa đảo như thường.
Và cả hệ thống Phật giáo Quốc doanh lừa đảo ấy vẫn câu kết với nhau, vẫn bảo vệ lẫn nhau để tồn tại, để bất chấp dư luận, để kiếm ăn bằng sự mê muội của đám con nhang đệ tử được hướng dẫn, được đào tạo bằng mọi cách để phục vụ đám quốc doanh và quên đi mọi thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay.
Không chỉ có Phật giáo
Nói đến vấn nạn tôn giáo Quốc doanh hiện nay tại Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến Phật giáo.
Bởi nó đã là điển hình cho sự thành công của chính sách khuynh loát của đảng CSVN đối với các tôn giáo, nhằm thực hiện chiến lược “Tận dụng các phần tử tiến bộ trong các tôn giáo nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng của đảng CS của giai cấp vô sản” như trong lý thuyết Mác – Lenin đã ghi.
Nhưng sự khuynh loát không chỉ có ở trong một tôn giáo hay một lĩnh vực đời sống xã hội. Mọi tôn giáo, mọi mặt đời sống xã hội đều phải được sự quan tâm của đảng và bàn tay của đảng phải thò vào tận nơi, thì khi đó mới mong được yên ổn không bị coi là “thế lực thù địch”.
Ngay cả trong Phật giáo, thì nhóm Phật Giáo thống nhất không chịu sự khuyunh loát của đảng, cũng đã bị loại ra khỏi xã hội bằng cái gọi là “Bất hợp pháp”.
Những tôn giáo khác như Hòa Hảo, Cao Đài… đều được sự quan tâm của đảng và đảng thừa lực lượng, đầy khả năng để vô hiệu hóa những nhóm tôn giáo chân truyền, lập ra những nhóm Quốc doanh để thay thế, để chia rẽ, để lũng đoạn.
Riêng hệ thống Công giáo, là một tôn giáo khó lũng đoạn nhất, bởi Giáo hội Công giáo có một tổ chức toàn cầu vững chắc, bền vững và chặt chẽ từ xưa đến nay, độc lập trong đào tạo, nghiêm cẩn trong chọn lựa nhân sự… nên việc khuynh loát không hề dễ dàng như các tổ chức tôn giáo khác.
Thế nhưng, khó, không có nghĩa là nhà cầm quyền buông tha.
Và một chiến lược lâu dài, bền bỉ và có sách lược, được thực hiện bằng cả hệ thống chính trị với những chi phí, đầu tư không hề tiếc tiền dân cho các bộ phận nghiệp vụ nhằm khuất phục tôn giáo này từ trung ương đến địa phương ròng rã mấy chục năm nay.
Bắt đầu từ việc thành lập tổ chức “ma giáo” thay tổ chức tôn giáo chân chính như cách làm xưa nay của các chế độ cộng sản. Cái gọi là “Ủy ban đoàn kết công giáo” được thành lập hơn 70 năm trước vẫn được nuôi bằng tiền dân, vẫn dai dẳng sống và lập thành tích dâng đảng bằng mọi cách, mọi lúc và mọi khả năng.
Rồi việc hệ thống chính trị Việt Nam dùng con mồi “bang giao” với Vatican, nhằm đưa Vatican vào hết cạm này đến bẫy khác trong quá trình giao thiệp, để cuối cùng Vatican đồng ý trao ngọn roi quyền lực vào tay nhà cầm quyền CSVN trong việc cho họ có vai trò trong lựa chọn nhân sự quyết định của Giáo hội xưa nay người có quyền lực duy nhất là Giáo hoàng.
Và chiếc bẫy đã sập xuống.
Và những hệ lụy của nó đã lập tức được thể hiện rất… ngoạn mục.
Đó là thay vì thái độ kiên quyết với trò ma giáo đi ngược lại đức tin, đường lối của Giáo hội Công giáo, kiên quyết nói không với những nạn khuynh loát và kiềm chế giáo hội, thì ngày nay, nhiều nơi, các Giám mục được bổ nhiệm sau khi đã được sự đồng ý của nhà cầm quyền CSVN, đã coi chuyện khối ung bướu “Ủy ban đoàn kết” mà đảng dựng lên bên canh Giáo hội là chuyện bình thường, thậm chí là còn cử các linh mục của mình vào đó để “Công tác”. Điều này đi ngược lại nguyên tắc giáo luật của Giáo hội Công giáo là tu sĩ không được tham gia chính trị.
Đặc biệt, việc kiềm chế, điều khiển những nhân vật, chức sắc, tu sĩ đi theo nhà nước là nghề riêng của đám an ninh Việt Nam. Rất nhiều các linh mục, tu sĩ trong số những người xếp hàng trong hàng ngũ cơ quan của đảng ấy, đã lập những “thành tích đen” trong đời sống tu trì của họ trong giáo hội.
Và đó là chiếc dây thừng mà nhà cầm quyền cầm chắc để dẫn họ đi theo mình.
Nhưng giáo hội vẫn để hiện tượng đó tồn tại ngang nhiên.
Bởi không dễ dàng để xử lý những điều đó từ những Giám mục không có thái độ thẳng thắn, rõ ràng đen trắng phân minh.
Đó là những Giám mục mà nói theo Công an là “Chúa không chọn, thì chúng tôi chọn”, thay vì thái độ kiên quyết lên án cái xấu, từ bỏ sự đen tối, sự cám dỗ đi ngược lại đường lối Đức tin cho giáo dân noi gương, thì ngược lại đã thực hiện chính sách “đề huề” và coi việc giao lưu, giao hảo với đám quan chức lãnh đạo của Cộng sản như một ân huệ, một thành công, một sự hãnh diện cho cá nhân mình.
Và các ngài không nhớ rằng thiên hạ đã có câu: “Hãy nói cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai”. Bởi sau những cuộc đón tiếp trang trọng, kính cẩn, sau những cái bắt tay hữu hảo và những bó hoa, nụ cười kia với các Giám mục, linh mục, thì đám quan chức đó đã hiện nguyên hình là đám cướp, đám tội phạm.
Và không chỉ có vậy, rất nhiều hiện tượng tục hóa trong Giáo hội đã xảy ra, những mâu thuẫn khó giải quyết giữa giáo dân và linh mục đã có nhiều nơi, nhiều lúc đến tình trạng căng thẳng.
Bởi não trạng Giáo sĩ trị đã thay thế não trạng phục vụ cho cộng đồng dân Chúa.
Bởi một số giáo sĩ, linh mục tự coi mình như những vua, quan, và trên hết, họ coi việc đi tu, là một nghề kiếm sống. Và khi đó, rất nhiều linh mục đã phải chống chọi gian nan giữa con đường tu trì và cuộc sống hiện đại với những tham vọng vật chất, nhục dục, danh vọng và nhiều vấn đề trong đời sống cộng đồng xuất phát từ sự tha hóa, khuynh loát của hệ thống chính trị một cách ngang nhiên.
Rất tiếc là điều ít khi người giáo dân nghĩ đến và không thể chấp nhận, đã xuất hiện không ít và thậm chí ngày càng nhiều trong đời sống giáo hội mà với mạng truyền thông hiện đại ngày nay, thì việc che đậy không phải là giải pháp tốt nhất.
Thậm chí, không chỉ linh mục, tu sĩ mà ngay cả Giám mục, một Chức vị được coi trọng bậc nhất trong giáo hội Công giáo. Với truyền thống xưa nay của Giáo hội Việt Nam, là hiện thân của Chúa, người được sai đến “Nhân danh Chúa”. Thì ngày nay, đã xuất hiện hiện tượng giáo dân bất phục tùng, giáo dân đã thẳng thừng đề nghị các ngài tự nguyện ra khỏi chức vụ của mình khi đã không còn chỗ đứng trong trái tim và khối óc của họ.
Những điều đó, nói cho cùng, là kết quả của nạn khuynh loát bởi bàn tay Cộng sản với giáo hội Công giáo.
12.06.2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Năm, 05/30/2024 - 01:24 — Nguyễn Hữu Vinh
Từ chuyện cờ vàng trong phòng ngủ… bên Mỹ
Một đoạn video clip được đưa lên mạng của đôi vợ chồng ca sĩ vui đùa với con trong phòng ngủ của họ có hình ảnh hai lá cờ, một cờ Mỹ và một cờ Việt Nam Cộng Hòa để đầu giường.
Ngay lập tức, đoạn video đó có sức nóng hơn cả việc các ca sĩ, nghệ sĩ muốn nổi danh bằng mọi cách tung ra các đoạn video trong phòng the của họ. Trên các diễn đàn, đám Dư luận viên, đám “bò đỏ” nhảy dựng lên như phải bỏng, đua nhau chia sẻ thông tin này nhanh hơn cả việc cháy chung cư hay quân Tàu giết dân Việt trên Biển Đông.
Đủ mọi lời lẽ kích động, chửi bới, lên gân, lên giọng thể hiện “tinh thần yêu nước” bằng những ngôn từ, lời lẽ hạ đẳng nhất trong mọi lại ngôn ngữ đầu đường xó chợ được sử dụng. Đội quân “3 củ” được dịp để thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhượng đối với hai nghệ sĩ này bằng mọi hình thức, bằng mọi ngôn từ có thể nói ra được bằng miệng đều được sử dụng triệt để.
Nhanh hơn nữa, là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã lập tức lên tiếng về việc này. Ngày 28/5, Chánh Văn phòng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Danh Hoàng Việt cho báo chí biết rằng Bộ này đang xác minh đoạn video cảnh vợ chồng ca sĩ Ngọc Mai đang đùa cùng con tại Mỹ trong căn phòng có để lá “cờ vàng ba sọc đỏ” của Việt Nam Cộng Hòa.
Trước đó, ngày 27/5, nghệ sĩ Quốc Nghiệp giải thích rằng gia đình anh sang Mỹ du lịch nhân dịp nghỉ hè. Vợ anh góp mặt trong một chương trình từ thiện. Cả đoàn luôn được các tình nguyện viên chuyên chở và cho ở nhờ. Căn phòng trong video cũng là phòng của tình nguyện viên. "Chồng vợ, cha con hạnh phúc vui đùa nên không để ý xung quanh, không kiểm soát chi tiết lọt vào camera. Qua việc này Quốc Nghiệp, Ngọc Mai đã rút kinh nghiệm sâu sắc và sẽ không để những việc tương tự xảy ra".
Nghĩa là cái phòng ấy, có cái cờ ấy là ở tận bên… Mỹ và căn phòng ấy là của người dân Mỹ, đôi vợ chồng này được cho ở nhờ trong những ngày ghé thăm, du lịch nước Mỹ mà thôi.
Tuy đã giải thích vậy, nhưng vẫn chưa làm thỏa mãn được đám cán bộ, ông quan chức Bộ Văn Hóa còn cho biết là các đơn vị chức năng của Bộ vẫn đang tiến hành xác minh trước khi đưa ra những bước xử lý tiếp theo.
Chưa rõ Bộ này sẽ còn làm những điều gì với đôi nghệ sĩ này. Tuy nhiên, tờ báo Văn Hóa, là cơ quan của Bộ này thì cho biết rằng trong ngày 28/5, Công an TP.HCM đã có buổi làm việc với Nhạc viện TP.HCM về vụ liên quan đến ca sĩ Osen Ngọc Mai.
Và cũng như cha ông đã nói, người ta “phù thịnh, chẳng ai phù suy” và hễ có dậu đổ thì bìm leo ngay lập tức. Giá như hai nghệ sĩ này có sự kiện nào đó được đảng và nhà nước tung hô thì hẳn nhiên những lời lẽ của Nhạc viện sẽ khác, sẽ nhận rằng đây là nơi các nghệ sĩ nọ nghệ sĩ kia công tác hoặc đã từng công tác, rằng còn nhiều duyên nợ với họ, rằng là… nhiều thứ. Còn với những sự việc này, lập tức Nhạc viện phủi tay. Nhạc viện còn cho biết năm 2019, Nhạc viện TP. HCM đã xóa tên Osen Ngọc Mai khỏi danh sách giảng viên do vi phạm các quy định.
Phía Nhạc viện cũng cho biết thêm là Osen Ngọc Mai từng là đảng viên từ hồi còn sinh viên. Nhưng đã bị khai trừ ra khỏi Đảng do vi phạm kỳ luật của đơn vị, như là không tham gia sinh hoạt, không chấp hành chủ trương, quy định. Phía đơn vị đã nhiều lần mời Osen Ngọc Mai đi họp và làm rõ, nhưng Osen Ngọc Mai không đi, cũng không phản hồi lại. Nghĩa là nghệ sĩ này cũng chẳng coi đảng ra cái thá gì và bây giờ, nói theo Thích Chân Quang là đảng cho “quả báo” ngay.
Đến chuyện mấy cái miếng huy hiệu trên người ca sĩ
Cũng trong tháng này, báo chí nói về việc tay ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng khi biểu diễn đã mang trên người mấy cái huy hiệu chẳng giống ai, bị cho là giống như huy hiệu của “chính quyền cũ” hoặc “quân đội nước ngoài”.
Chuyện cái tay ca sĩ này thỉnh thoảng phát biểu hoặc làm những chuyện mà thiên hạ hay nói là “Chơi ngu lấy tiếng” là chuyện cơm bữa. Cái giống bệnh này khi đã nhiễm vào một số cá nhân vốn tự huyễn hoặc về mình thì không bung ra chỗ nọ thì cũng bục ra chỗ kia, không bằng lời nói, thì cũng bằng hành động, không bằng thái độ thì cũng bằng trang phục là chuyện bình thường.
Sẽ chẳng ai vô công rồi nghề mà đi soi, đi tìm những việc của đám này múa may quay cuồng. Bởi có nhiều, rất nhiều những vụ việc khác, xúc phạm không chỉ là một người, một nhóm mà cả cộng đồng tôn giáo hẳn hoi mà công an vẫn cứ giả vờ như điếc.
Người ta nói rằng, nếu chỉ cần chú ý, chỉ cần chăm chỉ, cần mẫn và nhất là bảo vệ luật pháp thật, thì công an sẽ làm không hết việc. Bởi nhan nhản trên mạng các video của đám sư sãi lừa đảo dân chúng, dọa nạt hết bệnh tật thì mất phước, hết ma quỷ thì đến vong, đến oan hồn… chỉ nhằm mục đích là đám dân u mê nôn tiền ra cho các “thượng tọa”, “Đại đức” để các vị ấy mua xe sang, gửi ngân hàng, dùng hàng hiệu… để các vị còn sửa mặt, bơm dái tai cho giống Phật hoặc đúc tượng cho giống mình…
Công an có thể đến tận nhà một cô gái để “ngăn chặn chia rẽ tôn giáo” vì cô ta đã đưa lại mấy cái video kêu gọi cúng dường với những lời lẽ phê phán thói lừa đảo. Nhưng Công an bỏ quên những thầy chùa, những đứa chuyên môn xúc phạm đến không chỉ biểu tượng mà cả hệ thống tôn giáo.
Ấy thế mà hết Sở Thông tin rồi đến Bộ Công an đua nhau “Vào cuộc” chỉ vì mấy cái huy hiệu chẳng biết nó moi từ đâu ra đeo lên như thằng ngáo đá ấy.
Nhiều người không hiểu vì sao công an chăm chỉ soi đám nghệ sĩ này đến thế? Rồi người ta giải thích rằng: Ngoài cái yếu tố “chính trị chính em” thì chẳng loại trừ việc các ca sĩ, các nghệ sĩ là những đối tượng nổi tiếng là nhiều tiền, nhưng nhát gan.
Nỗi ám ảnh không dứt
Nhiều người tỏ ra ngạc nhiên trước phản ứng của nhà cầm quyền Việt Nam với các biểu tượng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Mặc dù sau “chiến thắng”, người Cộng sản đã tiếp quản, chiếm dụng tất cả mọi thứ mà Việt Nam Cộng Hòa để lại từ đất đai, tiền bạc, tài sản… Dù chế độ đó đã lùi vào dĩ vãng đến nửa thế kỷ nay và đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam đã “Tuyên bố chiến thắng” và “Bỏ qua quá khứ để tiến về tương lai”?
Tuy nhiên, trong sâu thẳm ý nghĩ và hành động của người Cộng sản, thì điều đó chỉ là những lời nói. Người cộng sản vẫn ám ảnh nặng nề và sợ hãi những gì liên quan đến chế độ Việt Nam Cộng hòa trước đây tại Miền Nam Việt Nam.
Và nhiều khi, sự sợ hãi đó đã biến thành những việc làm, những hành động vô cớ và vô lý đến nực cười.
Trong trận đấu vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 ở Melbourne giữa Úc và Việt Nam, các đài truyền hình Việt Nam đã trì hoãn việc chiếu trận đấu bởi mười phút do một số người Úc gốc Việt vẫy cờ Nam Việt Nam để ủng hộ Úc, mặc dù an ninh địa phương đã cố gắng ngăn cản việc cờ đi lên khán đài. Một vấn đề tương tự sẽ xảy ra khi Việt Nam cũng trì hoãn phát sóng trận đấu vòng loại với Nhật Bản vào năm đó khi cờ Nam Việt Nam được tìm thấy trong đám đông.
Những hành vi đó cho thấy vẫn còn đó sự ám ảnh, sự sợ hãi một thể chế đã qua đi, mà thể chế ấy đã bị đảng CSVN với hệ thống tuyên truyền cho rằng là xấu xa, là “ngụy”, là đủ mọi ngôn từ để miêu tả cho ra xấu xí.
Đôi điều suy nghĩ
Chưa rõ trong hệ thống văn bản của nhà nước Việt Nam hiện nay, có văn bản nào có giá trị pháp luật cấm người dân nói đến, sử dụng, hoặc đứng gần các biểu tượng về cờ quạt, về huy hiệu huy chương và những thứ liên quan đến các chế độ cũ tại Việt Nam hay không?
Bởi với nhà nước cộng sản, thì tất cả các chế độ đã qua, đều là thù địch, đều là không tử tế, từ thực dân đế quốc đến phong kiến lạc hậu cho đến “ngụy quyền”… Tất cả đều phải “đào tận gốc, trốc tận rễ” vì đều là kẻ thù của nhân dân, chỉ có đảng và cờ đảng, cờ đỏ mới là hợp pháp là tử tế.
Vậy nhưng, cái cờ đỏ năm sao kia từ Phương Bắc, đã từng được xác định là “kẻ thù truyền kiếp của dân tộc” thì sao? Sao lãnh đạo đảng và nhà nước vẫn ngang nhiên trưng nó lên tại Việt Nam? Thậm chí còn gắn thêm một ngôi sao thứ 6 làm biểu tượng nô lệ của Việt Nam với Thiên triều?
Nếu quy định chung chung là cứ chế độ cũ, thì cờ quạt, biểu tượng không được sử dụng nữa, sử dụng là có tội là bị lên án… thì những biểu tượng từ thời xa xưa như trống đồng hoặc gần đây như cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt Trận Giải phóng liệu còn có được dùng?
Thậm chí có văn bản nào quy định công dân Việt Nam dưới sự quản lý của đảng thì không được bén mảng đến các biểu tượng khác với cờ quạt và biểu tượng của đảng?
Tất cả đều mù mờ, đều u minh như thái độ phân biệt bạn thù, phân biệt đen trắng của đảng xưa nay. Thế nên mới có chuyện nhà nước Việt Nam ngang nhiên can thiệp vào nội bộ của Australia khi phản đối đồng xu của Úc có hình lá Việt Nam Cộng hòa trong thiết kế nhằm tôn vinh những người Úc đã chiến đấu trong Chiến tranh Việt Nam.
Đó là hành động lỗ mãng, thiếu văn hóa và thiếu hiểu biết đến mức thậm tệ.
Thế rồi giờ đây, cái cờ trong phòng ngủ của thiên hạ ở nước người, bỗng dưng công dân Việt Nam được đến ở nhờ và chẳng may hình ảnh đó bị lộ, thế là đảng hành cho đến sặc máu hoặc vài miếng sắt gỉ mấy đứa ca sĩ ngáo đá mang trên người thì lập tức bị Bộ công an “vào cuộc” điều tra.
Hẳn là hệ thống công an giờ quá rỗi việc?
Người ta thấy buồn cười. Khi mà các cô đầu, con hát tha hồ đóng phim đen, đưa clip giường chiếu lên mạng để nổi tiếng, để thu hút độc giả thì đảng im re, thậm chí đài truyền hình Trung ương còn đưa nhân vật chính của phim người lớn ấy lên mà mếu máo rằng: “Em vô tội”.
Người ta thấy xót xa, khi mà bạn vàng của đảng nổ súng trên bắn chết ngư dân trên biển Việt Nam thì đảng im thin thít. Nhưng đảng lập tức xua công an vào cuộc ngay khi mà tận bên xứ người, thuộc quốc gia khác người dân Việt Nam vào nhà làm khách đã không đỏi chủ nhà sửa nhà, dọn dẹp những thứ đảng không ưa trước khi cho người dân Việt ở nhờ.
Và điều oái oăm, hài hước, là nhà cầm quyền Việt Nam đã vẫn mang theo tâm trạng tẩy chay, tiêu diệt đó để kêu gọi “Hòa giải, hòa hợp dân tộc” mấy chục năm nay.
Nhưng cốt lõi của vấn đề, vẫn là nỗi sợ hãi ngấm ngầm truyền đời của người cộng sản khi nhớ về Việt Nam Cộng hòa, ở đó đã có một thể chế, dù chưa hoàn thiện, dù có nhiều khiếm khuyết… nhưng là một thể chế dân chủ, có một chính quyền do chính người dân bầu ra.
Đó chính là tử huyệt, là điều không thể chấp nhận của chính quyền cộng sản độc tài.
29.05.2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Ba, 05/28/2024 - 05:29 — Nguyễn Hữu Vinh
Tôn giáo trong thời kỳ khuynh loát và tham nhũng
Kể từ khi những người Cộng sản manh nha và phát triển rồi cướp chính quyền thành công tại Việt Nam, học thuyết Mác – Lenin được sử dụng làm “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” và là nền tảng tư tưởng cho mọi hành động xã hội.
Để lãnh đạo xã hội theo đường lối Cộng sản quốc tế vạch ra, nhà cầm quyền Việt Nam đã căn cứ học thuyết Mác – Lenin để đề ra cái gọi là tiến hành đồng thời, song song 3 cuộc cách mạng. Đó là những cuộc cách mạng nhằm đưa miền Bắc, rồi sau đó là cả nước “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa xã hội”.
Cuộc Cách mạng về quan hệ sản xuất – bằng những cuộc Cải cách, cướp bóc tài sản và nguyên liệu sản xuất xã hội để phân phối lại, thực hiện “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, đặt giai cấp công nhân lên hàng đầu lãnh đạo cách mạng mà đảng là đội quân tiên phong được phát động gần hơn 2/3 thế kỷ trước. Hình thành nền kinh tế tập thể. Nặn ra cái gọi là “Quyền làm chủ tập thể”....
Để cuối cùng là thừa nhận sự thất bại thảm hại, hiện nay nhà nước đang cầu xin các quốc gia thừa nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó là “Cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật” với những lời hò hét, những nhà khoa học minh họa cho các chính sách của đảng để rồi sau cả gần thế kỷ, đất nước chưa làm nổi một con ốc vít đủ tiêu chuẩn quốc tế.
Còn lại, cuộc “Cách mạng về tư tưởng và văn hóa” là một cuộc tàn sát các tôn giáo với chính sách tận diệt bằng mọi cách, mọi hình thức từ tàn bạo đến tinh vi nhằm để xây dựng một hệ tư tưởng mới, nền văn hóa mới: Văn hóa cộng sản.
Cuộc cách mạng này được tiến hành bằng những phong trào, chương trình hết sức trắng trợn, hầu hết chùa chiền đã bị đập bỏ, hệ thống sư sãi bị đuổi khỏi nơi tu hành, các cơ sở vật chất, chùa chiền bị đập bỏ, bị biến tướng… nghĩa là xóa trắng hệ thống Phật giáo tại Việt Nam nhất là miền Bắc những năm chiến tranh. Những tôn giáo khác bị bách hại cũng không kém.
Thế nhưng, kết quả đến nay, chỉ là tạo ra một thứ văn hóa trang bị cho lớp người dối trá và một số thiếu nhận thức cuồng tín thần tượng. Phần còn lại, là hiện tượng trở cờ đi ngược đường lối của đảng. Điều đó được thể hiện bằng ngay chính bản thân các lãnh đạo đảng, họ đi đầu trong việc tôn sùng thần tượng, mê tín dị đoan và xa rời, thậm chí bỏ hẳn lý tưởng Cộng sản, ùn ùn đua nhau đưa con cái sang các quốc gia tư bản giãy chết.
Đặc biệt, đảng đã thay đổi cách hành động đối với tôn giáo.
Từ chỗ tiêu diệt bằng mọi cách, mọi hình thức cho đến khi nhận ra bằng thực tế rằng không thể tiêu diệt được niềm tin, tín ngưỡng của nhân dân, thì đảng thay việc tiêu diệt trực tiếp, bằng việc thò bàn tay vào lãnh đạo, “thay máu” và làm thay đổi bản chất tôn giáo.
Thực chất, đảng CSVN đang thực hiện chính sách mới: “Liên minh tiêu diệt” đối với mọi tôn giáo.
Tuy nhiên, sách lược này thành công nhất là việc Đảng CSVN thực hành đối với Phật giáo.
Giáo hội của tệ nạn, cúng dường và lừa đảo
Cái gọi là Giáo Hội Phật giáo Việt Nam được dùng để chỉ một tổ chức được thành lập từ năm 1981 bằng cách gom tất cả 9 hệ phái Phật giáo từ Nam ra Bắc vào một tổ chức để đặt dưới sự “lãnh đạo tuyệt đối” của đảng. Mặc dù mỗi hệ phái có một tôn chỉ, một Giáo lý không giống nhau và cách hành đạo không như nhau. Nhưng để tiện lợi cho việc “quản lý và lãnh đạo”, nhà nước Việt Nam đã lùa tất cả vào một rọ gọi là Giáo Hội Phật giáo Việt Nam.
Và từ đó, cái gọi là Giáo hội Quốc doanh được sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CSVN, bằng những ông sư với hàng mấy chục tuổi đảng, bằng một hệ thống sư sãi và hệ thống quản trị cái gọi là Giáo hội Phật Giáo Việt Nam với phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, mặc dù ngay cả những ông trùm cộng sản cũng đã thừa nhận là chưa hề biết cái Chủ nghĩa Xã hội nó mặt ngang, mũi dọc như thế nào.
Cần phải nói rõ rằng: Trừ một nhóm của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không chịu sự sáp nhập vào các hệ phái khác để chịu sự quản lý của nhà nước nên đã tuyên bố hoạt động độc lập dù không được nhà cầm quyền Việt Nam công nhận. Sở dĩ như vậy, bởi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (Xuất thân từ Phật giáo Ấn Quang) với lịch sử một quá trình đã có nhiều hoạt động phản đối chế độ Việt Nam Cộng hòa và ủng hộ mạnh mẽ Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam - một công cụ do Miền Bắc Cộng sản dựng lên trong cuộc xâm lược Việt Nam Cộng hòa. Với những hoạt động của mình trong một quá trình dài được sự ca tụng của nhà nước cộng sản Miền Bắc, nhưng khi đã hoàn thành công cuộc xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa, thì nhà nước Cộng sản Việt Nam quyết định loại bỏ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất để trừ hậu họa, lùa tất cả vào một Giáo hội Quốc Doanh.
Và với sự độc lập của mình, thì nhóm Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất là nhóm ít bị chi phối bởi nhà cầm quyền CSVN, thậm chí còn bị đưa vào diện “thế lực thù địch” vì không ngoan ngoãn chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng. Cũng vì vậy, nhóm này không bị tha hóa như những nhóm đã được quốc doanh hóa nói trên.
Có lẽ, hiếm có thời nào mà Phật Giáo Việt Nam tệ hại như giai đoạn hiện nay, khi mà các diễn đàn mạng xã hội nhức nhối với hiện tượng sư sãi hư hỏng, đốn mạt đến cùng cực.
Có lẽ, ít ai nghĩ rằng hệ thống Phật giáo Việt Nam có thể chứng kiến những vụ việc như thời gian qua trong hệ thống sư sãi cũng như tổ chức của cái gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Có thể không có đủ thời gian và công sức để kể hết những thối tha, bẩn thỉu đã xảy ra trước bàn dân thiên hạ của hệ thống Phật giáo Quốc doanh này.
Ở đó, chứa chấp một hệ thống các sư sãi được cài cắm từ lực lượng an ninh, những nhà sư cộng sản với 50 năm tuổi đảng. Các sư sãi, thượng tọa, đại đức đua nhau ăn chơi hưởng lạc và đua nhau vào tù bởi đủ những tội trạng ít ai ngờ đến như sư chạy án, sư giết người tình ném xác phi tang, sư chơi ma túy, sư trộm chuông chùa… Đó là chưa kể đủ mọi trò bệnh hoạn về cưỡng bức giới tính, trộm cắp trong giới tăng lữ Phật giáo Quốc doanh.
Ở đó các sư sãi tha hồ hò hét “cúng dường” bằng mọi cách, mọi thủ đoạn và đủ kiểu dọa dẫm bằng những trò mê tín, dị đoan lừa đảo những kẻ u mê. Chúng dọa nạt người dân bằng kiếp sau, bằng những nguy cơ, bằng bệnh tật, bằng cách chữa bệnh… thôi thì đủ cả miễn là nộp tiền chẵn, mệnh giá cao cho thầy.
Điều hài hước là họ lừa đảo hết sức trắng trợn bằng hệ thống truyền thông hẳn hoi với sự chuẩn bị hết sức bài bản, công phu mà hệ thống an ninh “có mắt như mù”. Trong khi đó, một câu nói, một comments của người dân trái ý công an là lập tức bị triệu tập, bị bắt, bị phạt không hề bỏ sót.
Không những vậy, thay vì việc đập bỏ tất cả chùa chiền khi xưa, nay hệ thống quan chức kết hợp đại gia lại lấy cả trăm, cả ngàn ha đất dễ dàng để xây chùa to, tượng lớn với mục đích… kinh doanh.
Thế rồi, bằng mọi trò từ xem ngày, cúng giải hạn cho đến trò gọi là “Oan gia trái chủ” hay “Xá lợi lông của đức Phật” ở chùa Ba Vàng hay “Cúng dường” chùa Phật Quang… với đủ mọi thứ tệ nạn.
Điều nguy hiểm nhất cho hệ thống Phật giáo Việt Nam, đó là sự phát hoại giáo lý nhà Phật từ gốc rễ, từ căn bản. Tất cả mọi điều đều có thể nhân danh Đức Phật, nhân danh Phật giáo nếu có cơ may đem lại tiền, có thể lừa bịp, dọa nạt được dân chúng phải nôn tiền ra thì các Thượng tọa, các đại đức lập tức phát huy bất chấp đi ngược tinh thần, giáo lý nhà Phật.
Đó mới là thảm trạng lớn nhất của Phật giáo Việt Nam dưới thời Cộng sản.
Khủng hoảng
Hẳn nhiên, con người ta, có những lúc u mê thì cũng sẽ có lúc tỉnh táo, cha ông đã dạy rằng: “Cháu lú có chú nó khôn”. Những trò lừa đảo đó chỉ được một thời gian với một số đối tượng. Những sự dối trá, bịa đặt và lừa đảo nhanh chóng bị mạng xã hội phanh phui.
Sau khi hàng loạt sư sãi ra trước tòa án hoặc phơi mặt trên báo chí với đủ mọi tội lỗi như lừa đảo, chạy án, giết người, ma túy… thì lần lượt đám sư được bảo kê như Thích Trúc Thái Minh, Thích Chân Quang, Thích Nhật Từ, Thích Bảo Chánh… với những mánh mung làm tiền, lừa đảo kêu cúng dường, cúng vacxin hay những trò lừa đảo tập thể ở Chùa Ba Vàng đã bị mạng xã hội vạch trần.
Những phản ứng dữ dội từ mạng xã hội vẫn vấp phải sự lạnh lùng đến lỳ lợm từ cái gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Điều này cũng không lạ lắm. Bởi cứ nghiêm, cứ đúng thì các quan chức Giáo hội lấy đâu ra mà ăn, mà chùa to, tượng lớn, mà xe sang, mà ăn chơi trác táng. Người ta còn xác định ra rõ ràng những khoản tiền khổng lồ của những Thượng tọa, đại đức trụ trì các chùa là bao nhiêu, và người ta ngao ngán ngầm hiểu rằng: Tất cả, từ cái mõ cho đến bộ áo cà sa đều là công cụ của một nghề làm ăn và tu… huýt.
Thế nên những tiếng vọng ngoài xã hội không làm mảy may suy suyển chùa chiền.
Bỗng nhiên, như có một luồng sáng, một hiện tượng lạ xuất hiện.
Đó là một thanh niên tự tu hành, không thèm chùa chiền, không cần bất cứ thứ gì ngoài đôi bàn chân và cái ruột nồi cơm điện đi khất thực khắp mọi nơi, từ chối nhận tiền bạc, áo quần, không ăn diện, không hưởng thụ những điều tối thiểu nhất. Anh ta mang tên Thích Minh Tuệ. Anh ta đi tu tập theo đúng yêu cầu của hệ phái Phật giáo mà anh theo đuổi, bất chấp mọi khó khăn.
Và con đường âm thầm của anh đã đi đến 6 năm qua một mình như vậy.
Và như một phát minh, dòng người đổ đi theo anh ta nườm nượp. Người ta kính phục, người ta ngưỡng mộ, người ta thương cảm một nhà tu hành chân chính.
Anh ta xuất hiện như một luồng sáng chiếu vào cõi tối tăm của hệ thống Phật giáo Quốc doanh. Ở đó lúc nhúc những ma tăng, những sự bẩn thỉu mà không ai chấp nhận được ở chốn thiền môn.
Ánh sáng đó, cho thấy nạn ăn chơi, hưởng lạc của giới tăng lữ, giới tu hành hiện nay trong hệ thống quốc doanh, là một sự sa đọa của Phật giáo hiện tại, là không chỉ nguy cơ mà là đại họa cần dẹp bỏ.
Ánh sáng đó, cho thấy hệ thống Giáo lý Phật giáo đã bị xuyên tạc, bị lũng đoạn đến mức tan hoang, đến mức trái ngược, cần được chấn chỉnh.
Và dòng người đổ xô đi theo anh ta càng ngày càng dài với sự ngưỡng mộ thành kính nhất mà ít có một Đại đức, thượng tọa nào có được, dù anh ta chỉ xưng “Con” mà không nhận bất cứ một danh xưng nào.
Lập tức, hệ thống Giáo hội Quốc doanh cũng như Ban Tôn giáo lên tiếng.
Rằng thì anh ta không phải là Phật giáo, không phải là người tu hành vì không thuộc chùa nào, không thuộc Giáo hội nhà nước.
Người dân được trận cười hả hê rằng: Vậy thì những người đàn bà sẽ không là đàn bà vì không nằm trong Hội liên hiệp phụ nữ chăng?
Thế rồi, hàng loạt các nhân vật mà cộng đồng mạng đặt cho những xú danh như ma tăng, thợ tu… như Thích Chân Quang đã lập tức lên tiếng chửi bới thanh niên kia là “Đồ ba trợn”.
Đơn giản, chỉ vì cái lõi nồi cơm điện đã làm bể nồi cơm của Giáo hội Phật giáo Quốc doanh.
Thế nhưng, trong hoạn nạn, người ta mới hiểu được lòng người, một số người tu hành khác, trước hiện tượng Thích Minh Tuệ, đã cổ vũ, ủng hộ và kính phục anh. Trong số đó, có nhà sư Thích Minh Đạo. Thế là lập tức Giáo hội Quốc doanh ra tay kỷ luật buộc phải sám hối và đủ trò bẩn thỉu.
Và ông đã từ bỏ tất cả các chức vụ của mình, bởi ông thấy được cái thối tha, bẩn thỉu ở đó đến mức không thể chấp nhận.
Và cộng đồng mạng lại dậy sóng.
Và Giáo hội Phật giáo Quốc doanh, lại tiếp tục đẩy cuộc khủng hoảng lên cao trào.
27.05.2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Bảy, 05/25/2024 - 04:16 — Nguyễn Hữu Vinh
Một bản quy định mới
Mới đây, ngày 9/5/2024, Tổng Bí thư (TBT) đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng ký ban hành một văn bản có tên: Quy định số 144-QĐ/TW với nội dung: Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới.
Như vậy, qua một quá trình hơn 60 năm đảng ra sức phát huy mọi yếu tố, mọi hoạt động nhằm chứng minh rằng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” như lời Hồ Chí Minh nói năm 1960. Thì nay, đảng tự thấy rằng cái đạo đức, cái văn minh ấy phải vứt đi để thay thế bằng một thứ “đạo đức cách mạng” khác.
Vậy cái gọi là “Đạo đức cách mạng” là gì?
Có thể nói rằng, mọi người dân Việt Nam sống dưới chế độ cộng sản, nhất là giai đoạn trước đây, khi mà đảng CSVN luôn mồm hô hào những câu sáo ngữ “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội” bằng “Ba cuộc cách mạng” được tiến hành đồng thời… thì không một ai không nghe nói, không được (hoặc bị) đóng đinh vào đầu những chữ này, nhưng chẳng mấy ai hiểu được ngọn ngành cái gọi là “Đạo đức cách mạng” hay “Quyền làm chủ tập thế”. Bởi, nó cũng mông lung, cũng chung chung và dựa dẫm vào nhiều khái niệm khác không rành mạch.
Có thể nói rằng, khái niệm đạo đức là một khái niệm khó xâm nhập vào hệ thống Cộng sản với chủ thuyết vô thần, chủ thuyết duy vật vốn quan niệm “Vật chất có trước, tinh thần có sau”. Nghĩa là vật chất quyết định ý thức con người. Mọi cuộc bạo lực cách mạng, vấn đề mục đích cướp chính quyền, chiếm đoạt vật chất là quan trọng bậc nhất.
Đạo đức là thứ xa lạ.
Cái gọi là “Đạo đức cách mạng” trước đây, cũng như khái niệm “đạo đức” chung chung, đảng CSVN chưa hề có một sự định nghĩa chính xác, cụ thể nào. Đảng CSVN đã xuất bản một tác phẩm với tựa đề: “Nâng cao đạo đức Cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Mặc dù tác phẩm này được ghi với bút danh T.L. như một thói quen thường có là giấu mặt khi viết các bài viết - thì Đảng vẫn khẳng định rằng đây là sản phẩm của Hồ Chí Minh được đăng trên báo Nhân Dân, số 5409, ngày 3/2/1969.
Tuy nhiên, cũng như bao nhiêu sách vở của các lãnh đạo được sản xuất, được xuất bản, có lẽ cũng ít có ai chú ý đến những cuốn sách tuyên truyền kiểu này. Nó được sản xuất, được in ra hàng đống, đặt trên các giá sách hoặc thậm chí để nguyên trong kho, để rồi sau đó một thời gian lại được tái chế qua hệ thống giấy loại như các loại Tuyển tập hoặc tác phẩm khác của các lãnh đạo đảng và nhà nước.
Thực tế, những sản phẩm ấy chẳng có tác dụng gì. Tác dụng chủ yếu là lấy oai cho lãnh đạo, rằng cũng biết viết sách, cũng để lại tác phẩm… Bởi ai có ngờ ngay cả như Đỗ Mười cũng có hàng loạt “tác phẩm” để lại thành “Tuyển tập Đỗ Mười” đấy thôi.
Thế nên, việc lãnh đạo viết sách, để lại tác phẩm… đã là nguyên tắc, đã là quán tính và có vậy mới là lãnh đạo, là tầm cỡ. Còn viết để làm gì, có viết thật không và nội dung ra sao, chẳng phải là quan trọng.
Đã có người nói đùa rằng: Đọc toàn bộ tác phẩm của Đỗ Mười mà không hề tìm thấy một bài nào về chuyên môn của ông ta là nghề hoạn lợn. Và có người trả lời lại: “Có thể ông ta không viết về nghề hoạn lợn, nhưng tất cả nội dung những điều ông ta để lại, thì ông ta không chỉ hoạn lợn mà còn thiến cả đất nước, cả dân tộc đến mức không thể phát triển, sinh sôi được đấy thôi”.
Thế nên, tác phẩm “Nâng cao đạo đức Cách mạng, quét sạch Chủ nghĩa Cá nhân” của Hồ Chí Minh cũng nằm trong số những tác phẩm lãnh đạo như trên. Người ta không chú ý đến nội dung của nó nhiều ngoài cái nhan đề cuốn sách, và người ta chú ý xem người viết cuốn sách đó hành động ra sao.
Rồi người ta thấy một Hồ Chí Minh được thêu dệt nên như một thánh nhân ngay khi còn sống, được ca ngợi, tôn thờ bằng mọi khả năng, bằng mọi cách mà hệ thống tuyên truyền, hệ thống chính trị có thể nghĩ ra như thánh thần khi đang ngồi trên ghế quyền lực.
Người ta thấy Hồ Chí Minh kêu gọi “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân” ngay khi ông ta đang tự tôn sùng mình bằng mọi cách, mọi hình thức. Ông ta có thể ngồi hàng giờ, hàng buổi, có thể hết ngày nọ sang ngày kia cho hàng loạt các họa sĩ, nhà nhiếp ảnh, các nhà sáng tác sản xuất tác phẩm về mình. Ông ta ngồi ngay dưới tấm hình của mình lớn bằng cái chiếu và câu khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm” ngay trên đầu mình để nói về việc “nâng cao đạo đức Cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Thậm chí, người ta còn moi ra được việc ông giấu mặt, lấy tên người khác để tự viết tác phẩm tự ca ngợi mình… Điều mà không có một lãnh đạo đất nước nào trên thế giới, dù là độc tài, phát xít hay thực dân đế quốc có thể làm. Tác phẩm ấy là “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” được tái bản liên tục như muốn khẳng định việc “Nâng cao đạo đức Cách mạng, quét sạch Chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh.
Thế nên, cái gọi là “Đạo đức cách mạng” dù được nói đến nhiều, được kêu gọi bằng mọi cách, thì người ta cũng không thể hiểu được cụ thể nó là cái gì trong thực tế.
Hồ Chí Minh, trong bài viết giấu mặt, lấy tên Trần Lực, đăng trên tạp chí Học tập số 12 -1958 đã viết như sau:
“Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
Có nghĩa là cái “Đạo đức cách mạng” ấy tức là làm mọi việc cho đảng để phục vụ đảng, còn mọi thứ khác, đều là thứ không cần chú ý, kể cả đạo đức con người.
Hậu quả của một quá trình “Nâng cao đạo đức cách mạng”.
Đã 65 năm, kể từ khi Hồ Chí Minh đặt ra khái niệm “Đạo đức cách mạng” ấy cho đến nay, nghĩa là đã hơn 3 lớp người được sinh ra và trưởng thành, được giáo dục bằng cái gọi là đạo đức cách mạng ấy, ngày nay đảng ra sao và cơ đồ đất nước như thế nào?
Đó là câu trả lời cho cái “Đạo đức Cách mạng” mà Hồ Chí Minh đã đặt ra 65 năm trước.
Sau gần 1 thế kỷ có mặt tại Việt Nam, chủ thuyết Cộng sản đã để lại những thành quả hay hậu quả nào trên đất nước, dân tộc này?
Ngoài việc đất nước cạn kiệt mọi nguồn tài nguyên vốn dồi dào, giàu có, nợ đầm đìa và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao ở những vụ việc liên quan đến người Việt khi đi làm thuê, khi đi làm nô lệ hoặc trốn chạy khỏi đất nước đến khắp thế giới.
Điều ai cũng thấy rõ ràng là một xã hội suy đồi đạo đức đến tận đáy. Những việc suy đồi tưởng như ngày xưa, với truyền thống đạo đức ngàn đời nay của xã hội Việt Nam chẳng ai có thể nghĩ ra, ngày nay đã trở thành chuyện bình thường trong thời cộng sản.
Chỉ riêng nội bộ đảng CSVN. Từ khi Hồ Chí Minh hô lên rằng: “Đảng ta vĩ đại thật” con số đảng viên chỉ nửa triệu người. Đến nay, con số đảng viên đã tăng lên gấp cả hơn chục lần. Hơn 5 triệu đảng viên ấy đã đưa đất nước đến ngày hôm nay. Đánh giá về đội ngũ này, không cần dẫn chứng nào khác của “thế lực thù địch”, chỉ cần nghe các lãnh đạo cộng sản, các văn bản của người Cộng sản nói về họ, đủ để thấy thực chất của đảng ra sao.
Đó là ngay từ 2006, nghị quyết Đại hội đảng lần thứ 10 viết: “Một bộ phận không nhỏ (có nghĩa là một bộ phận lớn trong đảng -NV) cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt cao cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tinh thần chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng…Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”.
Như vậy, một tổ chức, một đảng mà phần lớn là hư hỏng, là cơ hội, là chủ nghĩa cá nhân… thì cái tổ chức ấy là tổ chức của đa số những kẻ cơ hội, tội phạm, không thể nói cách nào khác hơn.
Cụ thể hơn, đó là “một bầy sâu” – Lời Trương Tấn Sang, chủ tịch nước.
Bầy sâu đó, “ăn của dân không chừa một thứ gì” – Lời Nguyễn Thị Doan, Phó chủ tịch nước.
Chúng đã hùa nhau “ăn quá dày” – Lời Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội.
Và bây giờ, “Nếu ai vi phạm cũng kỷ luật thì lấy ai mà làm việc” – Lời Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc hội Việt Nam – Bởi từ trên xuống dưới, từ nhỏ đến lớn, từ nam ra bắc đều là đua nhau phạm tội, đua nhau tham nhũng, ăn cắp của công, ăn cướp của dân.
Vậy thì đó có phải là kết quả của một quá trình gần 2/3 thế kỷ đảng hô hào “Nâng cao đạo đức Cách mạng”?
Bình cũ mà rượu… không mới.
Bản Quy định số 144-QĐ/TW mà TBT Nguyễn Phú Trọng vừa ký ban hành có nội dung gì? Có gì mới, có gì đặc biệt để đến mức phải đưa ra một bản quy định mới trong giai đoạn hiện nay?
Văn bản này có 5 điều được nêu ra như sau:
- (1) Yêu nước, tôn trọng Nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc.
- (2) Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập.
- (3) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- (4) Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm.
- (5) Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời
Đọc qua nội dung, chúng ta thấy cái “Đạo đức Cách mạng” ngày nay có điều gì mới so với những quy định về “đạo đức cách mạng trước đây? Chúng ta thấy khác với cái “Đạo đức cách mạng” trước đây, là ở đây có nói đến Tổ Quốc và Nhân Dân chứ không chỉ có đảng như cũ.
Nhưng, thực tế của đảng hiện nay như thế nào qua các quy định?
“Yêu nước, tôn trọng Nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc” – Đây là một đòi hỏi trái ngược với thực tế đảng hiện nay.
Bởi đã yêu nước, tôn trọng Nhân dân, thì không thể trung thành với Đảng CS. Ngay từ đầu, đảng CS khẳng định rằng: “Đảng chỉ có một lợi ích là lợi ích của nhân dân”. Ngày nay, cái lợi ích, quyền lợi của nhân dân, đảng đã tự coi như là của mình, mặc sức đảng “thu hồi”, định đoạt, tàn phá, cho, tặng cũng như mặc sức tham nhũng… mà nhân dân đố dám mở mồm nếu không muốn bị trấn áp, vào tù, hay “giải phóng”. Và người dân được tự do làm dân oan khắp nơi.
Còn Tổ Quốc ư? Có Tổ Quốc nào ở đây để trung thành, khi mà Tinh thần Quốc tế cộng sản vẫn là sợi dây trói buộc đảng vào hệ thống mấy quốc gia mang danh độc tài, cộng sản hoặc tàn dư Cộng sản như Nga, Trung Quốc, Cuba, Triều Tiên, Lào, những “quái gở” của thế giới.
Liệu có còn Tổ Quốc không, khi mà chính cái mồm TBT Đảng nói rằng: “Nếu có đụng độ ngoài Biển Đông, liệu có thể ngồi đây mà bàn Đại hội đảng được không” khi mà dân tình đòi hỏi lên tiếng vì Tổ Quốc, biển đảo đang bị xâm lăng? Thế rồi, những người lên tiếng vì đất nước, vì Tổ Quốc đã được đảng dành cho những chỗ ở trong các nhà tù với những bản án kinh hoàng.
“Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập” ư? Người ta chưa thấy đảng bản lĩnh nào ngoài việc đứng vào phe thiểu số, vào những quốc gia quái gở, bị khinh rẻ nhất, được coi là những côn đồ quốc tế, những con bệnh của thế giới văn minh. Những cái gọi là sáng tạo, hội nhập, chỉ là chuyện “Không học bắt chuột, chỉ học ỉa bếp” là nhanh.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo cách nào? Hãy cứ nhìn vào hệ thống cán bộ đảng hiện nay từ trên xuống dưới, từ mọi ngành, mọi cấp… hễ cứ đụng đến chỗ nào, thì từng đoàn, từng ổ từ Bí Thư, Chủ tịch cho đến các Đầu ban ngành, từ trưởng đến phó, từ đương chức cho đến cựu, cán bộ đến nhân viên… đều bị dọn sạch bởi tham nhũng chùm, tham ô tập thể. Hàng chục Tỉnh đảng bộ hiện không còn cán bộ lãnh đạo.
Còn cái “Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” hay “Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời”?. Thiết nghĩ rằng những câu khẩu hiệu hay ho này, đã được chứng minh hết sức sinh động qua một nhóm nhỏ 18 Ủy viên Bộ Chính trị nay thì bị kỷ luật 1/3, Tứ trụ triều đình bị đốn mất một nữa bằng những cú Knokout không thể nào thanh minh nửa lời.
Có lẽ không cần phải chứng minh nhiều, chỉ mấy ví dụ trên đã đủ để chứng minh rằng những lời hò hét của Bản Quy định này, chỉ là những câu khẩu hiệu nơi cửa miệng xưa nay của người Cộng sản, chúng hoàn toàn không có trong thực tế và không hề tồn tại trong môi trường Cộng sản.
Và nếu vẫn bám vào những khẩu hiệu này, thì đó chỉ là một ví dụ để chứng minh lời nói bất hủ của Cố TT Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu: “Hãy xem việc Cộng sản làm. Đừng nghe lời người Cộng sản nói”.
23.05.2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Bảy, 05/25/2024 - 03:47 — Nguyễn Hữu Vinh
Nhà nước pháp quyền XHCN?
Nhà nước pháp quyền được mô tả là nhà nước mà ở đó, mọi người, mọi tổ chức trong xã hội (bao gồm cả nhà nước), phải được cai trị và hành xử tuân theo luật pháp, đồng thời, luật pháp đó phải sao cho mọi người có thể và sẵn sàng tuân theo.
Trong nhà nước pháp quyền một số nguyên tắc phải được áp dụng vào thực tế: Đó là pháp luật phải được xây dựng một cách bình đẳng, công bằng và không ai được đứng trên luật pháp. Sự phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hệ thống tư pháp độc lập, công bằng , công khai. Luật pháp được đưa ra bởi đại diện của người dân một cách công khai và minh bạch. Pháp luật có khả năng được mọi người biết đến, để mọi người đều có thể tuân theo.
Tuy nhiên, trong cái gọi là Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa – một “sáng kiến” hoặc được gọi là mô hình quái gở tại Việt Nam – thì mọi điều không tuân theo nguyên tắc đó.
Ở đó, câu khẩu hiệu “Mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” được giăng khắp nơi, từ hang cùng ngõ hẻm. Nhưng cái Hiến pháp và pháp luật đó, được đưa ra bằng chủ quan của một tổ chức với 5 triệu thành viên trên tổng số 100 triệu người dân Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thế nên, trong cái gọi là “Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam” theo Nguyễn Phú Trọng, TBT Đảng thì ai nào nói đến “Tam quyền phân lập” là đã suy thoái về tư tưởng. Dù nhà nước Pháp quyền, thì cũng phải được đảng lãnh đạo tuyệt đối thì mới là tiến bộ. Tất tần tật, tuốt tuồn tuột đều “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng”. Đó mới là thể chế tiến bộ nhất hiện nay trên thế giới – theo nghiên cứu của TBT Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng.
Thế nhưng, nếu tổ chức đó là một tổ chức có đủ các tố chất là “khoa học của mọi khoa học, là đội quân tiên phong, là đạo đức, là văn minh”… nhưng những lời tự ca ngợi mình thì có lẽ còn phần nào có thể giải thích. Trái lại, ở đây, cái tổ chức ấy, cái đảng ấy - theo chính lời của những người lãnh đạo cấp cao của đảng – thì đó là “một bầy sâu” – Trương Tấn Sang, chủ tịch nước; Nó là một bình đựng chuột, nên “đánh chuột nhưng đừng để vỡ bình” – Nguyễn Phú Trọng; Nó là một tổ chức ăn cắp, ăn cướp của dân mà chúng ăn “Không chừa một thứ gì” – Nguyễn Thị Doan, Phó chủ tịch nước; và không chỉ ăn, “chúng vừa ăn, vừa phá, chúng phá tàn canh đất nước” – Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính của đảng. Và kết luận cuối cùng, thì đảng là ổ tham nhũng, trộm cướp, vì thế mà “Chống tham nhũng là Ta đánh Ta” – Nguyễn Phú Trọng, TBT Đảng CSVN.
Vậy nên, quá trình hình thành và ban hành, thi hành luật pháp tại Việt Nam có những điều đi ngược với thế giới văn minh vì nó chỉ nhằm phục vụ cho cái ổ tham nhũng ấy.
Và câu định nghĩa về luật pháp rằng: “Luật pháp là những nguyên tắc cai trị mà giai cấp thống trị đặt ra để bảo vệ giai cấp đó” được chủ nghĩa cộng sản đưa ra, đã được áp dụng triệt để tại Việt Nam, chỉ nhằm bảo vệ sự cai trị của đảng Cộng sản, bất chấp ý nguyện, bất chấp thực tế đời sống xã hội Việt Nam.
Một dự luật quái gở
Dù đã bị phản đối, thì Bộ Công an vẫn tiếp tục đưa ra cái Quốc hội để bàn về dự thảo “Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ” (sửa đổi) để lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trong đó đề xuất nhiều quy định mới về vũ khí.
Theo đề xuất của cái gọi là “Luật” này thì ngoài Vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ và vũ khí thể thao. Trong đó, súng bắn đạn ghém, súng kíp, súng bắn đạn nổ, súng bắn đạn sơn, súng nén gas, súng nén khí, súng nén hơi… được bổ sung vào danh mục vũ khí quân dụng. Thì lần này, Bộ Công an còn đưa vào danh mục Vũ Khí bao gồm: “Các loại dao có tính sát thương cao”, những loại này được bổ sung vào danh mục “các loại vũ khí thô sơ”.
Hẳn nhiên, đã là dao thì dao nào mà chẳng có tính sát thương. Dao mà không có tính sát thương đâu còn là dao. Bởi chức năng của dao, hẳn nhiên là phải sắc, phải bén.
Mà định nghĩa dao là “Vũ khí” – Nghĩa là công dân không được sử dụng mà không phải xin phép công an hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bộ Công an cho rằng: “Dao có tính sát thương cao được định nghĩa là dao sắc, dao nhọn, dao sắc nhọn, có chiều dài lưỡi từ 20cm trở lên, hoặc dao có chiều dài lưỡi dưới 20cm nhưng được hoán cải, lắp ráp để có công năng, tác dụng tương tự dao có tính sát thương cao”.
Thế rồi hôm nay, khi đưa ra thảo luận tại cái gọi là Quốc hội, một đại biểu còn cho biết rằng không chỉ dao dài 20 cm trở lên, mà có những con dao nhỏ, vẫn có công năng sát thương rất cao. Vậy liệu có nên cấm tất, cấm tuốt những gì liên quan đến dao búa, đến sắt thép.
Tước vũ khí - đưa xã hội về thời kỳ đồ đá.
Thông thường, khi một thực thể đứng trước một thực thể khác với mối quan hệ bình đẳng, cộng sinh, với ý chí cùng xây dựng hòa bình và sự tử tế thì ít khi bạo lực được đề cập đến, trái lại, ở đó là những quan hệ tốt đẹp, hòa bình và cùng phát triển.
Ở những nhà nước bình thường, nhà nước của nhân dân thì nhà nước được sự xây dựng, chăm nuôi bởi người dân và nhà nước ấy phục vụ mục đích, lợi ích của nhân dân, thì nhà nước ấy sẵn sàng đứng trước mũi súng của nhân dân mà không bao giờ sợ hãi. Bởi họ biết chắc chắn rằng nhân dân coi họ là của mình.
Theo con số thống kê gần đây, thì Hoa Kỳ có 331 triệu người, nhưng có đến gần 400 triệu khẩu súng trong dân chúng. Điều đó có nghĩa là ở Hoa Kỳ, mỗi người trưởng thành sử dụng trung bình nhiều hơn 2 khẩu súng.
Dù xã hội Mỹ thỉnh thoảng vẫn có những vụ xả súng và tai nạn súng đạn mà mỗi lần xảy ra là cơ hội cho báo chí Việt Nam tung hê rằng xã hội ấy mất an toàn. Nhưng, chính phủ Hoa Kỳ vẫn đứng vững trước mũi của hàng trăm triệu khẩu súng ấy của người dân.
Và hơn 200 năm qua, người dân vẫn không nổ súng vào chính phủ. Mặc cho chính phủ ấy không tự xưng là “Của dân, do dân, vì dân”.
Ngược lại, trước một thực thể luôn coi đối tác là thù địch, là đối tượng cần trấn áp, cần thống trị bằng vũ lực, thì bạo lực được tính đến.
Và khi đó, việc tước vũ khí đối phương là điều quan trọng.
Tại Việt Nam, một nhà nước được hình thành bằng cuộc Cướp chính quyền năm 1945, rồi tự xưng là “Nhà nước pháp quyền Của dân, Do dân, Vì dân”, nhưng nhà nước ấy, do đảng tạo ra và nhằm phục vụ đảng. Khi mà quyền lợi đảng chính là những nguồn sống, là thành quả của người dân, là tài nguyên của đất nước, đảng thực hiện chính sách “Cùa mày, là của tao”, thì đảng luôn luôn cảnh giác trước nhân dân và đặt nhân dân vào “thế lực thù địch”. Bằng nhiều cách cái nhà nước ấy đã tìm mọi cách “tước vũ khí của nhân dân”.
Không phải bây giờ, nhà nước Việt Nam mới nghĩ ra cái chuyện “tước vũ khí”.
Trước tình hình người dân oán hận đủ mọi lĩnh vực, mọi hình thức và nhất là càng ngày, nhà cầm quyền càng lộ rõ bản chất của mình trước nhân dân, nhà cầm quyền Việt Nam đã đánh hơi thấy sự nguy cấp của mình khi họ biết rằng dân đã rõ bản chất của đảng và mất hết lòng tin, vào sự mơ hồ được đảng gieo rắc bấy lâu vào đảng.
Từ năm 1995, khi nhà cầm quyền CSVN ra lệnh cấm pháo Tết, bắt đầu từ pháo nổ rồi pháo bông, rồi các loại pháo khác nhau đều bị cấm trong mọi trường hợp. Nguyên nhân là nỗi sợ hãi những tiếng nổ. Bởi chính Tết Mậu Thân 1968, người Cộng sản đã lợi dụng thời điểm nổ pháo mừng xuân mà thay bằng đại bác vào toàn Miền Nam. Nay họ sợ người dân học tập và làm theo khii mà lòng căm phẫn trong dân càng ngày càng sôi sục.
Bước tiếp theo là tịch thu toàn bộ vũ khí trong dân, kể cả súng đạn trước cấp cho các lực lượng tự vệ, dân quân.
Chưa yên tâm, nhà cầm quyền Việt Nam lại tịch thu toàn bộ vật liệu nổ, vũ khí thô sơ, súng săn, súng hơi… miễn là có tính sát thương, có nguy cơ nổ vào cơ quan đảng và nhà nước.
Rồi sau đó, là công cụ hỗ trợ và bây giờ là… dao.
Điều này nói lên rằng, Nhà cầm quyền Việt Nam sợ hãi đến từng dụng cụ hàng ngày trong đời sống xã hội.
Điều này, cũng có nghĩa là nhà cầm quyền Việt Nam đã phần nào hiểu được lòng dân và tự họ biết được vị trí của họ trong lòng dân ra sao.
Nhiều người nghĩ rằng chẳng lẽ Bộ Công an là nơi soạn thảo văn bản này lại không hiểu được con dao trong đời sống xã hội Việt Nam nó quen thuộc, thân thiết và cần cho đời sống con người như thế nào?
Một xã hội từ bà nấu bếp cho đến thái rau, từ ông tiều phu đến người dân bán thịt, người đi rừng đến ra đồng cày cuốc… từ ngàn đời nay trên tay họ vẫn là con dao. Hẳn ai cũng biết rằng cái gọi là “Dao có tính sát thương cao” là một sự ngây ngô và mù mờ. Đã là dao mà không sắc, không bén thì ai gọi là dao. Mà đã sắc, đã bén thì cái gì chẳng có tính sát thương cao?
Và trong đời sống xã hội, con dao không chỉ dài có 20 cm là đủ. Có những con dao lớn, dao bé, dao mẹ, dao con phù hợp với từng lĩnh vực công việc, nghề nghiệp của mỗi người. Muôn bình vạn trạng với dao thẳng, dao cong, dao nặng dao nhẹ.
Bỗng nhiên, bây giờ nhà nước đưa ra cái gọi là “Luật”. Những ai muốn chế tạo, mua bán, nhập cảnh, cất giữ, sử dụng phải có giấy phép, có lệnh của Công an, còn không là “Cấm”.
Và điều hiển nhiên, là cả xã hội Việt Nam từ lớn đến bé, từ Nam đến Bắc, từ xuôi đến ngược, từ thành thị đến nông thôn đều là con tin, là tội phạm tiềm năng của công an.
Và khi đó, được bình an, được sống là ơn mưa móc của đảng qua hệ thống Công an.
Vậy làm sao để không ảnh hưởng đến xã hội?
Thế nên, nếu “Luật” này được thông qua, người dân không được dùng dao có mũi nhọn, không được dùng dao sắc, chỉ được dùng dao cùn, dao ngắn dưới 20 cm, và không được hoán cải khác thông thường… hoặc tốt nhất là chỉ được dùng đồ đá, đồ bằng xương, bằng sành… như thời nguyên thủy.
Như vậy, đảng nói TT Mỹ Nixon đã ra lệnh thực hiện Chiến dịch Linebacker II nhằm "đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá" nhưng không làm được, thì nay đảng đang từng bước hiện thực hóa thời kỳ đồ đá tại Việt Nam.
Vậy thì chắc lại phải sửa dự luât, cấm tất cả các loại dao thì may ra lãnh đạo đảng và nhà nước mới ăn ngon, ngủ yên mà không hề phải sợ nhân dân phản ứng. Phải đưa nhân dân về trang thái tuyệt đối “tay không tấc sắt”.
Bởi dân còn cầm vũ khí, thì đảng còn mất ăn, mất ngủ.
Biểu hiện của nỗi sợ hãi
Dù cho đến tận khi đưa ra trước Quốc hội để bàn, thì ông Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Duy Ngọc vẫn thú nhận là văn bản soạn thảo của Dự án này vẫn chưa đâu vào đâu và: “khẳng định ban soạn thảo sẽ tiếp tục nghiên cứu thận trọng, thấu đáo vấn đề này, để làm sao đạt được cả thuận lợi cho công tác quản lý cũng như không làm ảnh hưởng tới hoạt động xã hội”.
Hẳn nhiên, ai cũng biết rằng, có đưa những nội dung nhảm nhí này vào đời sống xã hội, thì công an mới có công ăn việc làm đủ cho lực lượng hùng hậu của mình đã phình to một cách đáng sợ mấy chục năm qua. Và qua đó, hệ thống công an mới đủ lý, đủ lẽ bằng giấy trắng, mực đen vào tận nhà bếp, buồng ngủ công dân, mới có cớ mà bắt, mà phạt, mà kiếm ăn.
Hẳn nhiên, ai cũng biết rõ ràng rằng, khi đảng đã thích, thì chuyện lấy ý kiến, góp ý… chỉ là trò hề, trò trẻ con chẳng đánh lừa được ai, ngoại trừ những ý định bán nước lộ liễu bằng văn bản như “Luật đặc khu” hay những thứ tương tự kích động lòng dân đến mức hoặc đồng ý hoặc bị tiêu diệt tập thể. Còn lại, hầu như Ý đảng đều được các đại biểu “Đảng hội” giơ tay thông qua với tỷ lệ cao nhất dù đi ngược lòng dân.
Người ta biết rằng, với hệ thống chính trị nát bét như hiện nay và với cái gọi là Quốc hội với mỗi nhiệm vụ là “Giơ tay” theo nghị quyết, ý định của đảng. Trong khi đó, từ trứ trụ triều đình đến Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương đến Quốc hội, đều được điều hành bởi hệ thống công an, thì việc đưa ra các chỉ thị, nội dung theo ý đồ công an không là chuyện khó.
Thế nhưng, nói rằng nó có tác dụng cho xã hội, cho đất nước thì chắc chắn là không.
Nó càng không thể là cái mà nhà cầm quyền, mà lực lượng nhà nước đang hà hiếp dân có thể yên tâm kê cao gối mà ngủ.
Bởi, điều mà nhà cầm quyền CSVN quên mất, rằng điều cốt yếu là ở lòng dân, chứ không phải vũ khí mà họ đang cầm trong tay.
Bởi lòng dân mới là biển lớn, sẽ đến lúc nhấn chìm bọn vô lại, đi ngược lại quyền và lợi ích của người dân, của đất nước, của dân tộc.
Ngày 24.05.2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Ba, 04/30/2024 - 07:16 — Nguyễn Hữu Vinh
Đến hẹn, lại lên của con nghiện
Kỷ niệm biến cố Sài Gòn thất thủ trước đội quân Miền Bắc Cộng sản - kết thúc một giai đoạn tồn tại của chính thể Việt Nam Cộng Hòa - vào ngày 30.04.1975 là một dịp để “Bên Thắng cuộc” hàng năm có dịp thể hiện “tầm vóc, vĩ đại, thành quả” của sức mạnh của “Chiến tranh nhân dân do đảng lãnh đạo”.
Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, việc nhà cầm quyền Việt Nam hàng năm diễn đi diễn lại các màn kịch, bài viết, hoạt động nhằm kỷ niệm một ngày mà Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Việt Nam (không bị đuổi) đã nói: “Đó là ngày mà có triệu người vui, nhưng cũng có triệu người buồn” đã trở thành một thói quen, một “phản xạ có điều kiện”. Các màn diễn ấy hàng năm, được tung hứng, được ca ngợi, được thể hiện bằng nhiều hình thức để kỷ niệm cái gọi là “Chiến thắng vĩ đại” do Đảng CSVN là “Người tổ chức và lãnh đạo”.
Đó là cuộc chiến mà người Cộng sản Miền Bắc gọi là “Giải phóng” cho đồng bào Miền Nam thoát khỏi sự “xâm lăng của Đế quốc Mỹ” và “Ngụy quyền Sài Gòn” làm tay sai cho Mỹ. Tuy nhiên, nhìn lại bản chất, thì đó là một cuộc xâm lăng trắng trợn của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa là quốc gia cộng sản vào Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia được công nhận tại Miền Nam.
Điều khác nhau ở hai quốc gia ấy, là ở Miền Bắc có một chính quyền độc tài do phe đảng Cộng sản, là thành viên của Cộng sản Quốc tế dựng lên. Còn Miền Nam, có một chính quyền được bầu chọn từ người dân bằng những cuộc bầu cử tiến bộ và dân chủ hơn nhiều. Chính vì vậy, chế độ Việt Nam Cộng Hòa lúc đó, dù có thể là một chế độ chưa đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của người dân, vẫn có những khuyết tật của nó, nhưng ở đó, quyền con người, quyền công dân được tôn trọng, được thể hiện bằng hành vi của chính phủ chứ không chỉ bằng mấy tờ giấy như ở Miền Bắc Cộng sản dưới chế độ “Độc lập, Trừ Tự do, Trừ Hạnh phúc” như trên cái gọi là Quốc hiệu đã ghi và trở thành câu chuyện tiếu lâm thời Cộng sản trong dân chúng.
Hậu quả của cuộc chiến mà Đảng CSVN là “Người tổ chức và lãnh đạo” tiến hành. Bởi khi đó Việt Nam tự nhận là “Tiền đồn của Phe Xã hội Chủ nghĩa” để chống lại Đế quốc, thực dân ấy, đã gây ra cái chết cho khoảng từ 2 đến 4 triệu người Việt (tính cả binh lính và dân thường tùy theo từng nguồn thống kê khác nhau).
Và cuộc chiến ấy không chỉ có sự tổn thất của người Việt. Theo số liệu hiện nay được công bố từ wikipedia, thì ngoài Việt Nam, các quốc gia liên quan đã tổn thất tại đó những con số không nhỏ về người và của. Hoa Kỳ có số thương vong cao nhất với khoảng 58.200 binh sĩ chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Hàn Quốc có từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ chết và khoảng từ 11.000 đến 17.000 người bị thương, Trung Quốc có 1.446 binh sĩ chết (Trong đó 18 người chết và 67 bị thương trong Hải chiến Hoàng Sa cướp lãnh hải, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam).
Australia có khoảng 500 binh sĩ chết và hơn 3.000 người bị thương, New Zealand có 38 binh sĩ chết và 187 người bị thương, Thái Lan có 351 binh sĩ chết, Liên Xô có 16 cố vấn quân sự chết, Bắc Triều Tiên có 14 phi công chết, còn Philippines có 9 binh sĩ chết và 64 người bị thương.
Đó là chưa nói đến sự tàn phá cơ đồ đất nước được xây dựng từ bao đời bị xóa sạch, nguồn lực quốc gia tan hoang bởi chiến tranh với mấy chục năm bom đạn.
Và điều đau đớn nhất, lớn lao nhất là vết thương hận thù trong nội tại của một quốc gia đã trải qua cuộc chiến huynh đệ tương tàn chỉ vì những lý tưởng, vì những hệ tư tưởng viễn vông giữa hai miền Bắc – Nam Việt Nam với mục đích rõ rệt là để bảo vệ, gieo rắc và chống lại hệ thống tư tưởng Cộng sản lan truyền ở khu vực Đông Nam Á.
Lẽ thường, người ta vẫn quan niệm rằng mọi cuộc chiến tranh là một nỗi bất hạnh, dù đó là những cuộc chiến tranh chính nghĩa. Và vì thế, sau mỗi cuộc chiến, dù là cuộc chiến chính nghĩa hay phi nghĩa, thì người ta coi như đó là một hoạn nạn và mong xóa nó ra khỏi ký ức đau đớn của mình, để xây dựng lại đất nước, non sông.
Vậy nhưng, ở Việt Nam, nơi có một chính quyền cộng sản, điều đó đã không xảy ra, mà ngược lại. Đã gần nửa thế kỷ nay, cứ mỗi lần đến ngày này, khi mà hai miền đất nước, tại hàng triệu gia đình, khói hương đang nghi ngút tưởng nhớ đến những nạn nhân của cuộc chiến, thì trên Tivi, báo chí, đường phố, loa công cộng và mọi nơi, mọi lúc, nhà cầm quyền lại lên gân hò hét, ca ngợi, tự sướng đủ mọi cách, mọi thể loại, mọi hình thức như để khoét thêm một lần nữa vết thương của từng cá nhân, từng gia đình đã mấy chục năm qua chưa được hàn miệng.
Và đảng coi những hành động như vậy, là sự vinh danh cho đảng qua những ngôn từ xủng xoảng tiếng súng gươm là “Chiến thắng”, là “Giải phóng”, là “Tiêu diệt” là “Xóa sổ”, là “Trừng trị”…
Quan sát hiện tượng này, người ta có cảm giác rằng đảng giống như một con nghiện. Nhân tố gây nghiện ở đây là bạo lực, là hình ảnh của sự tàn bạo, sự giết chóc để thỏa mãn bản chất bạo lực của Đảng của Giai cấp vô sản” chuyên nghề lật đổ và cướp từ chính quyền cho đến lợi ích, tài sản.
Hết thiêng hay cơ hội?
Năm nay, là kỷ niệm lần thứ 49 biến cố “Giải Phóng” trên đất nước Việt Nam không được hò hét, tung hứng bằng những màn trình diễn, bằng văn nghệ, bằng tuyên truyền như mọi năm.
Quan sát trên lĩnh vực báo chí, người ta thấy rõ điều đó.
Hàng năm, cứ đến những ngày này, Tuyên giáo cộng sản đều có kế hoạch hò hét cả ngàn tờ báo với chỉ tiêu rõ ràng, mục đích cụ thể cho mỗi tờ báo, mỗi tạp chí, đài truyền hình, thậm chí là từng chi bộ, phố xóm, từng loa phường… phải có bao nhiêu bài viết “Cúng cụ” để nâng đảng lên thành thánh, thần và đủ mọi trò nhiều khi đến hài hước.
Đọc qua các báo năm nay, hầu như không mấy tờ đề cập đến biến cố “Giải phóng” và “Chiến thắng” dày đặc như mọi năm. Mặc dù theo quán tính, thì tờ báo Đảng Cộng sản và tờ Công an Nhân dân vẫn lên gân lên cốt bằng vài bài viết với tư duy “cả vú lấp miệng em” nói lấy được về cái gọi là “Ý nghĩa của chiến thắng 30.04”. Tuy nhiên, đọc những bài viết ấy, người ta thấy cái sự đuối, sự lúng túng, sự gượng gạo bất ổn ngay cả trong tư duy người viết.
Mặc dù trên các đường phố Hà Nội và nhiều nơi, hệ thống quan chức địa phương vẫn coi đây là một cơ hội để có thể rỉa rói ngân sách quốc dân bằng cờ, bằng khẩu hiệu, bằng cổng chào… như một căn bệnh kinh niên. Nhưng, tâm trí người dân hầu như không coi điều đó như một sự lạ hay để gây chú ý cho ai. Cũng bởi từ xưa đến nay, người dân Việt đã quen với cảm giác cứ chỗ nào nhiều cờ đảng, cờ đỏ và băng rôn, khẩu hiệu thì phản xạ đầu tiên là cẩn thận, cảnh giác. Bao nhiêu cuộc cướp bóc tài sản, đất đai của người dân đã chẳng tràn ngập cờ đỏ, ảnh Hồ Chí Minh và khẩu hiệu đó sao.
Nhiều người tỏ ra ngạc nhiên và tự hỏi là tại sao, có vẻ như năm nay, đảng quên mất ngày “Chiến thắng, Giải phóng miền Nam”? Nhưng lập tức đã có người phản bác rằng làm sao có chuyện đảng lại quên đi được việc ăn mày dĩ vãng đó được. Đó là nghề của đảng xưa nay.
Bởi đảng có gì để lấy làm tự hào nữa, nếu không lôi ra mà gặm nhấm mấy cái cuộc chiến và mấy cái “Chiến thắng” ấy. Chẳng lẽ đảng lại lôi mấy cái thành tích như đã ký văn bản Hiệp định với giặc để mất đi cả chục ngàn cây số vuông lãnh thổ trên bộ rồi cả các di tích quốc gia như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc.
Chẳng lẽ đảng lại tự hào rằng sau nửa thế kỷ Tổng Bí thư Đảng tuyên bố: “Tổ quốc chúng ta từ nay vĩnh viễn sạch bóng xâm lăng” thì bây giờ cả một Quần đảo Hoàng Sa và một loạt đảo Trường Sa đang nằm dưới gót giày quân xâm lược mà quân ấy, lại là bạn vàng, là quan thầy của đảng?
Nhiều người giải thích rằng: Chẳng phải vậy, mà đảng đang tập trung nhân tài, vật lực để kỷ niệm “Giải phóng Điện Biên” vì đây là năm chẵn. Nhưng lại có người đáp trả rằng: Vậy thì cái ngày kỷ niệm lần thứ 45 đảng gọi là “Chiến thắng” ở cuộc chiến Biên giới phía Bắc năm 1979 mới qua đây, sao không thấy đảng hé răng nửa lời.
Và câu giải thích khả dĩ được mọi người thấy đúng, đó là làm sao Đảng có thể dám mở miệng nói về cuộc chiến ấy hay những hành vi của giặc với biển, đảo quê hương với lãnh thổ đất nước hiện nay. Bởi những hành vi đó, đều do quan thầy của đảng, đều do bạn vàng của đảng gây ra. Mà Tổng bí thư đã khẳng định: “Nếu có đụng độ trên biển, liệu có thể ngồi bàn Đại hội Đảng được không?”. Trong khi đảng lại đang chuẩn bị cho Đại hội đảng, thì việc lên án kẻ thù xâm lược lãnh thổ, lãnh hải cũng bằng việc xúi đảng “sờ dái ngựa”.
Nhưng, đảng thì không dại đến thế. Mất lãnh thổ là của quốc gia, còn cái ghế cai trị là của đảng.
Và người ta lại đặt câu hỏi rằng: Tại sao, cũng sự kiện ấy, nghĩa là cũng là “Giải phóng Miền Nam” cũng là “Chiến thắng Sài Gòn” mà mỗi năm, Đảng lại có thái độ khác nhau? Phải chăng, năm trước thì có ý nghĩa trọng đại, quan trọng và nhất định phải gào lên cho cả thế giới biết là chúng tao tài giỏi, đánh đâu thắng đấy, là vĩ đại, là bất khả chiến bại… còn năm nay nó không còn vĩ đại nữa, không còn ý nghĩa nữa?
Cũng có người giải thích rằng: Không hề, đảng vẫn nhớ, vẫn cứ tự hào, nhưng năm nay tự hào trong im lặng vậy thôi. Không ồn ào, vì đảng mới cố gắng thiết lập được mối quan hệ với Mỹ ở tầm cao hơn, ở mức độ “Chiến lược Toàn diện” nên đảng im, đảng lượng tình cho kẻ thù của mình.
Và người khác đáp lại: À, thì ra vậy, điều đó có nghĩa là cái vĩ đại, cái tuyệt đối, cái giòn giã, cái quan trọng ấy nó phụ thuộc vào thời điểm, vào đối tượng ấy khi nào đảng cần và khi nào đảng không cần chứ không phụ thuộc vào chính sự kiện đó nó ra sao.
Có nghĩa rằng đó là một sự kiện mang tính cơ hội như đảng ta vẫn là đám cơ hội xưa nay. Để rồi nếu ngày mai, mối quan hệ xấu đi hoặc cần cho mục đích nào khác, thì những sự kiện bị bỏ qua hôm nay, lại có ý nghĩa ngay lập tức trên miệng của đảng.
Học lấy cái khôn
Nhiều người coi rằng việc đảng không lên gân, không hò hét nhai lại món ăn đã quá ôi thiu gọi là “Chiến thắng” là “Giải phóng” ấy, vì mỗi lần nhai lại, thì không gây đau bụng cũng gây ngộ độc trong xã hội nên đảng từ bỏ.
Nhưng cũng có người cho rằng, đó là cái khôn, nhưng cái khôn đó không xuất phát từ nhận thức vì nó đem lại điều có hại cho xã hội, mà cái chính là từ đảng.
Bởi đảng càng hò hét bao nhiêu, thì người ta hỏi lại những câu hỏi mà chắc chắn là đảng chỉ biết… ngọng. Chẳng hạn:
Rằng: Vậy thì qua nửa thế kỷ sau “Chiến thắng” ấy, đảng đã lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối cả đất nước “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Thiên đường Xã hội Chủ nghĩa” thì nó đi đến đoạn nào rồi?
Liệu con đường mà “Đảng và bác đã chọn” ấy, có đi đến XHCN theo các định nghĩa mà người dân đã đưa ra – nghĩa là Xuống Hố Cả Nút? Hay Xuống Hàng Chó Ngựa?
Rằng: Tại sao đảng đã lãnh đạo tài tình, sáng suốt đưa cả nước tiến lên Thiên đường XHCN đã nửa thế kỷ, vậy mà con dân Việt hễ cứ có cơ hội là bằng mọi cách để thoát khỏi “sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng quang vinh là vì sao”? Vậy thì có khác gì dân Việt ngầm bảo rằng tránh xa đảng ra như tránh hủi?
Rằng: Vậy đảng “tài tình, đạo đức, văn minh” thì con số hàng trăm ngàn đảng viên tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp kia nó thuộc thành phần nào? Ai đẻ ra cái đống ấy và vì sao đảng tử tế vậy mà sản phẩm đảng lại thối tha đến thế?
Rằng: Tại sao đảng vẫn ra rả là đảng chiến thắng, đảng chửi Mỹ, chửi đế quốc như hát hay, vậy mà đảng hành động ngược lại: Con cái của đảng, gia đình của lãnh đạo đảng cứ sểnh ra là đến Mỹ, đến các quốc gia đế quốc sài lang, là tư bản giãy chết.
Rằng: Còn cái nội bộ đảng trong sạch, vững mạnh và là đội quân tiên phong của Giai cấp, của dân tộc. Vậy sao trong cái đội quân ấy, tiên phong ở mức nào mà hễ sểnh ra là người ta biết đều là một lũ ăn cắp, ăn cướp công quỹ, ngân sách hơn cả đám lục lâm thảo khấu, đầu đường xó chợ.
Rằng: Cách nào mà đảng dạy được cái đám từ Ủy viên Trung Ương và thậm chí là Ủy viên Bộ Chính trị như Đinh La Thăng, Phạm Bình Minh, Nguyễn Xuân Phúc. Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ… nếu chưa hiện nguyên hình là kẻ cướp, thì đều là những chính trị gia lão luyện, những người thầy giảng dạy, rao giảng đạo đức cho cả dân tộc mà không hề biết ngượng?
Với những câu hỏi đó, nếu đảng đối diện, e rằng sẽ “Sập nguồn” nếu cón chút liêm sỉ và tự trọng.
Thế nên, đảng im lặng, cũng là cách để may ra học được phần nào cái chữ “Khôn”.
30.04.2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Năm, 04/25/2024 - 08:31 — Nguyễn Hữu Vinh
Mới đây, Nhà thờ Thái Hà thuộc Dòng Chúa Cứu thế nhận được giấy mời từ Ủy Ban Nhân dân Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội với nội dung: “Mời đồng chí tới dự họp lấy ý kiến về quy hoạch Tổng Mặt bằng tỷ lệ 1/500 phương án kiến trúc, Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp bệnh viện Đống Đa. Phòng hợp lại là Trụ sở Đảng ủy, UBND Phường Quang Trung”
Đọc qua cái “Giấy mời” này, người thấy sự hài hước, dốt nát cũng như sự lỳ lợm của hệ thống công quyền, cán bộ cộng sản. Và người ta hiểu rằng: Một lần nữa, âm mưu của nhà cầm quyền Việt Nam với tài sản Giáo hội Công giáo vẫn không thay đổi và ngày càng trắng trợn.
Cuộc đấu tranh dai dẳng và sự lỳ lợm, trắng trợn của nhà cầm quyền Hà Nội.
Cuộc đấu tranh của giáo dân Giáo xứ Thái Hà cùng với các tu sĩ, linh mục Dòng Chúa Cứu thế Hà Nội hàng chục năm nay, vẫn chưa có hồi kết. Họ đấu tranh để đòi lại công bằng, đòi lại tài sản của mình như một điều đương nhiên đã đành, mà còn là một việc làm để khẳng định, để trả lại cho xã hội Việt Nam một lần những cái không thể thay đổi trong đời sống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt. Đó là việc không thể đổi đen thành trắng, đổi sai thành đúng, đổi xuôi thành ngược, đổi sự thật thành gian trá mà nhà cầm quyền Việt Nam đã áp dụng vào xã hội Việt Nam mấy chục năm nay kể từ khi người Cộng sản xuất hiện tại Việt Nam cho đến hiện tại.
Cần nhắc lại rằng: Dòng Chúa Cứu thế Hà Nội được thành lập, được xây dựng từ rất lâu trước khi người Cộng sản manh nha ở mảnh đất Việt Nam. Bằng chứng là các tu sĩ, linh mục đã mua khu đất nơi có Giáo xứ Thái Hà hiện nay với diện tích là hơn 71.000 mét vuông và năm 1928 đã bắt đầu tiến hành xây dựng tu viện tại đây.
Cho đến nay, dù nhà cầm quyền Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn, bằng nhiều cách để xóa vết tích, rồi chiến tranh, rồi loạn lạc… thì những công trình của Dòng Chúa Cứu thế vẫn còn sừng sững đứng đó để chứng minh một điều: Sự thật không dễ gì đảo ngược, không dễ gì xuyên tạc, bóp méo hoặc che đậy.
Ở đây, dù đã nhiều lần ở nhiều nơi, nhiều cấp, qua văn bản, qua đấu tranh, đối thoại trực tiếp, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn không thể trả lời được câu hỏi: Cơ sở pháp lý nào, để tài sản của Giáo hội Công giáo trở thành tài sản của Bệnh viện?
Bởi trong lịch sử tồn tại của Cộng sản ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, chưa bao giờ có văn bản nào để những tài sản này được coi là đối tượng của bất cứ chính sách nào của cộng sản. Hẳn nhiên là điều ai cũng biết rằng người Cộng sản xưa nay vẫn nói cái không làm và làm cái không nói.
Tuy nhiên khi mà họ luôn luôn rêu rao rằng nhà nước Cộng sản này là nhà nước pháp quyền, thì việc yêu cầu đúng luật pháp là điều đương nhiên.
Và đó cũng chính là sự khó khăn cho nhà cầm quyền Việt Nam khi bộ mặt của họ bị vạch ra rõ nhất qua những vụ việc này.
Trong truyền thống văn hóa ngàn đời nay của dân tộc, chuyện có vay, có mượn thì phải trả là chuyện đương nhiên, chẳng cần phải lý giải, chẳng cần phải giải thích bằng bất cứ loại ngôn ngữ lập luận nào thi điều đó cũng là chân lý hiển nhiên.
Có lẽ, với công trình Tu viện của DCCT tại Giáo xứ Thái Hà, nhà cầm quyền Hà Nội qua biết bao đời Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND Thành phố đã giở đủ trò nhằm cướp bằng được một tài sản của tôn giáo đã từng “mượn” rồi nay không chịu trả. Đã không chịu trả lại còn cù nhầy đủ cách để nhằm “Cả vú lấp miệng em” và đủ mọi trò bẩn thỉu, nham nhở nhằm cướp bằng được tài sản này của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Với một nhà nước luôn tự xưng là “Nhà nước pháp quyền” lẽ ra không cần phải để công dân, tổ chức xã hội, tôn giáo đòi hỏi mà chính nhà nước phải gương mẫu thi hành điều đó. Nhưng, ở đây đã xảy ra những điều hoàn toàn ngược lại. Những đơn từ, những phản ứng của người dân luôn bị bỏ qua, bị bóp méo nhằm thực hiện cho được việc chiếm và cướp. Những tiếng kêu cứu thất thanh của giáo dân, giáo sĩ đã được xếp vào hàng ngũ thù địch, được đối phó bằng công an, cảnh sát, bằng nhiều thủ đoạn đê hèn.
Tu viện không thể là bệnh viện
Tu viện Dòng Chúa Cứu thế Thái Hà được xây dựng từ những năm 1928 - 1931 của thế kỷ trước, vốn là một nơi tu hành của Giáo hội, quá trình thiết kế và xây dựng chắc chắn chẳng ai nghĩ đến sẽ ngự trị một bệnh viện sau này. Do đó, từ phần cấu trúc xây dựng, dây chuyền sinh hoạt cho đến bố trí các phòng chức năng của Tu viện không thể đem áp dụng vào cho bệnh viện.
Việc cố tình áp đặt quy trình bệnh viện là nơi chữa bệnh cho nhân dân vào một nơi không đúng chức năng, không đủ điều kiện chắc chắn sẽ gây nên những hậu quả rất lớn cho việc điều trị và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Có phải vì thế mà người dân nơi đây có câu truyền miệng rằng “Vào Đống Đa, ra Văn Điển”. Việc cố tình bố trí sai trái như thế để làm chỗ đùa giỡn với tính mạng nhân dân của nhà cầm quyền, phải được coi là tội ác.
Hệ thống công trình phụ trợ, khu vệ sinh, lây nhiễm của bệnh viện được gò gẵng ép vào cơ sở của Tu viện khi không đủ các điều kiện về cách ly cần thiết cho dân cư, cho cộng đồng xung quanh theo yêu cầu nghiêm ngặt của việc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Trong khi chính nhà nước đã công nhận rằng Bệnh viện Đống Đa được coi là một trong các bệnh viện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất . Việc đó vẫn cố tình áp đặt thời gian dài mấy chục năm qua gây những hậu quả lây nhiễm cho nhân dân, những người dân lành vô tội, phải được coi là tội ác.
Với quy mô khu vực Tu viện, chỉ hơn 12.000 mét vuông, đây không thể là một mặt bằng phù hợp để xây dựng một bệnh viện tầm cỡ với những nhiệm vụ như đã được giao. Vì thế việc cố tình đổ tiền đổ của của nhân dân vào những nơi này chỉ nhằm cướp đoạt trái pháp luật bằng được Tu viện của tổ chức tôn giáo, phải được coi là tội ác.
Đăc biệt mới đây UBND Thành phố Hà Nội đã có chủ trương di dời một số bệnh viện và Trường Đại học ra khỏi Trung tâm Hà Nội. Hàng loạt bệnh viện lớn được đề xuất đưa ra ngoại thành, kể cả những bệnh viện hiện đại mới xây dựng như Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Hữu Nghị, Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương… hay ngay cả bênh viện mới xây như Bệnh viện Đại học Y Hà Nội cũng đều có phương án di chuyển ra ngoại thành. Chủ trương của Thành phố Hà Nội ghi rõ: “Trong số các bệnh viện được đề xuất di dời đợt này chủ yếu là các bệnh viện truyền nhiễm nằm trong khu vực mật độ dân cư quá dày đặc, bệnh viên có lượng chất thải y tế lớn không có khả năng xử lý, bệnh viện đa khoa có khoa lây không đủ điều kiện cách ly theo quy định”.
Hệ thống các bệnh viện Bạch Mai, Việt Đức cơ sở 2 đang được xây dựng tại Hà Nam và các tỉnh xung quanh Hà Nội là ví dụ cụ thể cho chủ trương này.
Vậy thì tại sao, nhà cầm quyền Hà Nội nhất định không di dời bệnh viện Đống Đa dù ai cũng biết rõ ràng sự vô lý, sự bẩn thỉu và nham nhở của bộ mặt nhà cầm quyền đối với Dự án này.
Tất cả chỉ nhằm phục vụ mục đích của nhà cầm quyền Hà Nội là cướp bằng được Tu viện của Dòng Chúa Cứu thế tại Hà Nội, hạn chế một tôn giáo mà từ xưa đến nay, nhà cầm quyền Cộng sản không thể khuynh loát.
Người ta thừa biết rằng, nếu đây không phải là tài sản của Giáo hội công giáo bị chiếm cướp bất hợp pháp, thì bệnh viện này đã không tồn tại từ lâu. Mỗi chiều, mỗi sáng đứng trước bệnh viện này, nhìn dòng người ra vào tắc nghẽn, cũng đủ thấy sự vô lý của cái gọi là bệnh viện này dù nó vẫn tồn tại và trêu ngươi biết bao thế hệ.
Thế nên, một bệnh viện với đủ loại bệnh tật truyền nhiễm được đưa vào một trung tâm sinh hoạt tôn giáo cũng như những tệ nạn xã hội đã được tổ chức bao vây nhà thờ.
Hậu quả của sói gửi chân
Chẳng rõ với tư cách nào, mà ả Chủ tịch UBND Phường Quang Trung lại gọi linh mục đại diện Nhà thờ Thái Hà là “đồng chí”?
Phải chăng là ả đã nhầm tưởng rằng khi làm thân được với nhà thờ, thì tất cả đều là “Đồng chí” của ả?
Mấy năm gần đây, sau khi phong trào đòi Sự thật – Công lý – Hòa Bình của toàn xã hội dâng cao, nhất là người Công giáo Việt Nam vốn đi đầu trong công cuộc công chính đó, đã đặt nhà cầm quyền Việt Nam vào thế bị động. Họ bị động, bởi hễ đụng vào đâu là ở đó lại lúng túng như gà mắc tóc, lại bí, lại mất mặt và khó ăn khó nói trước thiên hạ.
Thế nên, những năm qua, nhà cầm quyền CSVN đã đổ tiền của, công sức vào việc tập trung bằng mọi cách tiêu diệt mọi tiếng nói đối lập, bất đồng ở trong nước. Hàng trăm người bị bắt vào tù với những cái gọi là bản án nặng nề khủng khiếp nhằm hăm dọa, dập tắt những tiếng nói bất đồng, phản đối chính sách phản động của nhà cầm quyền Hà Nội đối với người dân, với đất nước, dân tộc.
Đặc biệt, nhà cầm quyền Hà Nội đã đổ công sức đầu tư, kết thân, can thiệp bằng nhiều cách vào Giáo hội Công giáo Việt Nam, một thành trí khá vững chắc bảo vệ tính độc lập bấy lâu nay của tôn giáo.
Và những cuộc thương lượng, và con bài ngoại giao, “bang giao”… tổng hợp bằng nhiều cách, nhiều kiểu kể cả trắng trợn lẫn tinh vi, nhà cầm quyền CSVN đã đạt được những ý đồ nhất định.
Điều ai cũng thấy, là Vatican, đã cắn khá sâu miếng mồi câu “Bang giao” của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, để rồi mấy chục năm nay, có điều khoản đồng ý với việc Hà Nội được ý kiến, được thông qua việc bổ nhiệm các Giám mục Công giáo vốn là một đặc quyền riêng của Giáo Hoàng.
Và chỉ cần có thế, bằng mọi cách lươn lẹo của mình, nhà cầm quyền Việt Nam đã dần dần thò được bàn tay khuynh loát vào Giáo hội bằng nhiều cách.
Và sản phẩm là một số chức sắc công giáo là linh mục, thậm chí là cả Giám mục đã thỏa hiệp và sự thỏa hiệp đó ngày càng công khai, trắng trợn trước mặt giáo dân.
Cũng trong trào lưu đó, nhiều vị linh mục, nhiều giáo xứ coi việc kết thân với chính quyền Cộng sản là việc làm bình thường và thậm chí nhiều nơi, nhiều vị còn lấy làm hãnh diện mà bỏ qua điều cơ bản, căn nguyên nhất mà người xưa đã từng dạy: “Hãy cho tôi biết ai là bạn anh, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai”.
Xem lại những hình ảnh “tay bắt mặt mừng” của một số chức sắc trong Hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam với các quan chức cộng sản, ta thấy điều gì?
Hầu hết, những quan chức đã đến bắt tay, chúc mừng, hàn huyên và giao hữu với các đấng bậc trong hàng Giáo phẩm Việt Nam như Đinh La Thăng, Tất Thành Cang… chăm chỉ đến Tòa TGM Sài Gòn thì nay đang ở trong tù. Cho đến Nguyễn Đức Chung, Chu Ngọc Anh đến thăm hỏi chúc mừng Giáng sinh chỗ nọ, chỗ kia, thì sau đó cũng đã lần lượt rủ nhau vào tù để “học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh” là viết nhật ký trong tù.
Ở mức cao hơn, Võ Văn Thưởng vừa đến Tòa TGM Huế tươi cười hớn hở thông báo mời Giáo hoàng sang thăm Việt Nam, thì ngay sau đó, chỉ việc đón tiếp Hoàng Gia Hà Lan lại bị hoãn đột xuất vì Thưởng vi phạm luật pháp và bị đuổi cổ nhục nhã.
Và người ta nhớ lại, Nguyễn Xuân Phúc cũng từng vác mặt đến chúc tết, chụp hình hớn hở tại các Tòa TGM của Việt Nam.
Vậy giờ đây, các Tòa TGM, các giáo xứ ấy, các chức sắc ấy có thấy xấu hổ, ăn năn vì đã trót làm bạn với quân trộm cướp?
Trở lại vụ việc tại Giáo xứ Thái Hà hôm nay.
Khoảng hơn mười lăm năm nay, cuộc đấu tranh của giáo dân, linh mục, tu sĩ tại Giáo xứ Thái Hà đã thức tỉnh trái tim những người khao khát sự thật, công lý trên khắp thế giới. Thái Hà đã trở thành biểu tượng đấu tranh cho Sự thật – Công lý – Hòa Bình tại Việt Nam và đã được sự ủng hộ từ khắp nơi bằng nhiều cách.
Và người ta hy vọng không phải là việc Thái Hà lật đổ chế độ Cộng sản hay điều gì cao siêu. Người ta chỉ mong ở đó, tinh thần của Giáo dân, giáo sĩ được vững vàng như một sự kiên trinh, nói lên sức sống của Sự thật, hiềm hy vọng vào Công lý và tinh thần Hòa bình.
Thế nhưng, dần dần, người ta đã thấy những sự thay đổi tại đó.
Cách đây mới mấy tháng, người dân khắp nơi ngạc nhiên thấy một sĩ quan an ninh với đầy đủ quân phục, quân hàm vào tận nhà thờ Thái Hà để múa may quay cuồng như ở nhà mình, cùng với linh mục quản xứ chia quà Giáng sinh. Viên sĩ quan đó, chẳng ai lạ, là người có thâm niên theo dõi, là kẻ bày mưu tính kế cho nhà cầm quyền CSVN đối với âm mưu chiếm cướp đất đai, tài sản Thái Hà mấy chục năm qua.
Điều mà người ta khâm phục ở tay sĩ quan an ninh này, là sự lỳ lợm và tráo trở. Với chính bản thân người viết bài này, Cách đây 17 năm, tay sĩ quan này từng nói: “Em bây giờ là đảng viên, là công an, nhưng sau này khi về hưu em sẽ là tín hữu công giáo”. Và thực tế đã chứng minh anh ta là ai. Vì thế khi thấy anh ta ngang nhiên múa may bên cạnh Linh mục Bề trên Thái Hà, thì thiên hạ không khỏi ngạc nhiên.
Và người ta cứ tưởng với mối quan hệ “đề huề” vậy, thì đồng chí đảng sẽ tha cho “đồng chí nhà thờ”?
Nhưng không, hôm nay, đồng chí đảng lại định thịt “đồng chí nhà thờ” lần nữa để chứng minh câu nói của người xưa: “Chớ thấy đỏ mà tưởng là chín”.
Video: Thanh tra Hà Nội và Thái Hà:
Ngày 25/04/2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Thứ Tư, 04/17/2024 - 07:44 — Nguyễn Hữu Vinh
Những ngày qua, tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh - vốn được tách nhập từ cái nôi Nghệ Tĩnh - có nhiều chuyện làm cư dân mạng xôn xao bàn tán, nhưng chung quy, cũng là chuyện “thằng chết làm khổ đứa sống”.
Vụ thứ nhất, là Nghệ An bỗng nhiên nổi hứng làm cái việc “Chẳng giống ai” không chỉ là trong nước, mà đi ngược cả trào lưu thế giới. Đó là rước tượng Lenin về để “phơi giữa lối mòn” tại Ngã tư đường Thành phố Vinh.
Còn Hà Tĩnh, cũng “chẳng kém phần long trọng” khi bỗng nhiên “làm cho tình hình nổi bật lên” - như lời Hồ Chí Minh đã nói khi về Hà Tĩnh năm nào đó, mà giờ được kẻ thành khẩu hiệu ở nhiều nơi khắp Hà Tĩnh – bằng cách chi hẳn 230 tỷ đồng làm cổng chào, kẻ khẩu hiệu, mua cờ quạt, băng phướn… để kỷ niệm ngày sinh Trần Phú.
Chuyện người chết làm khổ người sống
Chuyện người chết làm khổ người sống thì vẫn diễn ra không chỉ một nơi, một lúc mà xưa nay vẫn thế. Có điều, cái quan niệm “làm khổ” ở mỗi trường hợp có những tính chất, đặc điểm khác nhau.
Chuyện người sống làm ma chay, cúng giỗ, làm những việc để tưởng niệm, để tri ân tiền nhân, ông bà tổ tiên, để nhắc nhở con cháu… thường xuyên là chuyện chẳng ai nói đến, chẳng ai dè bỉu hay dèm pha. Bởi những việc hiếu, việc nghĩa vốn là truyền thống, là nét đẹp văn hóa của Việt Nam xưa nay. Người ta làm những việc đó trong tâm thế tự nguyện, thành kính, hồ hởi khi tưởng niệm, khi nhớ về một ai đó, khi tri ân một người nào đó có công, có ảnh hưởng đến đời sống hiện tại bằng việc để lại cho đời những điều tốt đẹp, để lại đạo đức và luân lý cho đời noi theo.
Thế nhưng, việc bỗng dưng một đám người bốc tiền dân ra để làm những việc “chẳng đâu vào đâu” nghĩa là chẳng cần thiết, chẳng thiết thực mà thậm chí còn đi ngược lại lợi ích, tâm tư cũng như ý nguyện của người dân, là việc đáng bị lên án.
Bởi đó, chính là việc “thằng chết làm khổ đứa sống”.
Bởi cái mà dân gian gọi là “thằng chết” ấy, là kẻ không được tôn trọng, không được người dân đáng phải ghi nhớ. Thậm chí, đó là những nhân vật đã mang lại tai họa cho đời sống và mọi mặt của người dân.
Và người dân muốn tống họ đi khỏi trí nhớ, khỏi những dấu ấn không lấy gì làm vui vẻ về một quá khứ mà nhân vật ấy hiện diện hoặc tác quái ở đó.
Vậy nên, khi hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh làm những chuyện mà theo cơ quan tuyên truyền của nhà nước, thì là việc nhằm để “tri ân, giáo dục”… thế hệ sau, nhưng đã tạo nên làn sóng phản ứng dữ dội trong dư luận xã hội và nhất là trên cộng đồng mạng xã hội là chuyện đáng chú ý.
Dựng tượng Lenin
Lenin, một nhân vật cộng sản, người góp phần đẻ ra cái lý thuyết Mác – Lenin vô thần đã từng một thời làm thế giới chao đảo, kinh hoàng vì hậu quả của cái mớ lý thuyết này hoành hành.
Và thời gian hơn 1 thế kỷ qua đã chứng minh rằng: Bất cứ ở đâu, xuất hiện và dung dưỡng mớ lý thuyết này, thì ở đó nếm mùi bạo lực, mùi máu và sinh mạng con người được đem ra để thí nghiệm cho cái lý thuyết khát máu ấy không bao nhiêu cho đủ. Hàng trăm triệu người đã sang thế giới bên kia bằng phương tiện Chủ nghĩa Mác – Lenin này qua các cuộc chiến tranh, các cuộc thanh trừng nội bộ các đảng cộng sản, các quốc gia cộng sản, với các quốc gia không cùng cộng sản và giữa các quốc gia cộng sản với nhau.
Và mặc dù, cái miệng Lenin leo lẻo khi còn sống là “Tiêu diệt Chủ nghĩa Cá nhân” để xây dựng mô hình tập thể, mô hình công cộng… nhưng riêng các lãnh tụ Cộng sản mà đặc biệt là Lenin cùng với đám “Học trò xuất sắc” của Lenin, thì việc tôn sùng cá nhân lại là điều bắt buộc.
Và thế là khắp Liên bang Xô Viết và các quốc gia cộng sản, nơi nơi đặt tượng Lenin với đủ mọi thể loại, với đủ mọi kích thước và hình dáng bằng đủ thứ chất liệu. Theo số liệu của Kudinov - một chuyên gia chuyên nghiên cứu về “tượng Lenin” - thì vào năm 1991 trên thế giới có hơn 14.290 tượng đài Lenin. Tổng cộng có khoảng 33 loại hình tượng đài khác nhau. Một hình ảnh phổ biến khác là Lenin giơ tay về phía trước, hình mẫu này đã được nhân bản 200 lần.
Thế rồi, cả thế giới tỉnh ngộ và sau khi hệ thống cộng sản thế giới sụp đổ, thì Lenin cùng chung số phận với cái Chủ nghĩa Mác – Lenin đã mất giá. Thế là phong trào đào thải rác rưởi lịch sử đã bắt đầu. Khắp nơi nơi, người ta đua nhau đập phá các tượng đài Lenin như để đoạn tuyệt với một thời mà người dân phải ngậm miệng ấm ức trước những chính quyền Cộng sản vét tiền dân làm những điều trái ngược lòng dân.
Kết quả là đến tháng 1/2021, số lượng đã giảm một nửa - còn 7.194 cái và hiện tượng đập bỏ ngày càng tăng.
Có lẽ đất nước quyết tâm từ bỏ, đoạn tuyệt với một quá khứ đau thương gắn với Lenin, là Ukraine. Ở đó, đất nước, con người Ukraine là cũng nạn nhân của Chủ nghĩa Mác – Lenin như nhiều quốc gia khác, tuy nhiên, hậu quả trực tiếp và thảm khốc của hệ thống chủ nghĩa này lên đất nước, dân tộc này quả là ghê gớm và khủng khiếp.
Thế nên, sự thức tỉnh của dân chúng đã dẫn đến hành động. Cả đất nước Ukraine đã ráo riết phá dỡ tượng đài Lenin: từ 5.500 cái năm 1991, đến đầu năm 2020, số tượng đài còn lại là 20, và ngày 21/1/2021, tại làng Starye Troyany, quận Kilisky, vùng Odessa tượng đài cuối cùng trong số 5.500 tượng Lenin đã bị phá bỏ.
Không chỉ tại một quốc gia, mà phong trào trả Lenin về với sọt rác lịch sử đã nổi lên khắp nơi trên thế giới.
Ngay tại nước Nga hiện tại, là quê hương của Lenin, thì Lenin cũng đã mất giá nghiêm trọng và trở thành gánh nặng nợ nần cho người dân Nga.
Dù trên nước Nga hiện vẫn còn khoảng 600 bức tượng Lênin ở nơi công cộng, xác ướp của ông vẫn nằm trong lăng giữa thủ đô Matxcơva, nhưng hình ảnh của ông ta đang dần bị rơi vào quên lãng. Đa số người Nga, trong đó có cả các dân biểu, lại cho biết họ ủng hộ việc chôn vĩnh viễn xác Lenin.
Thậm chí, chính Putin đã nhắc lại Lênin trong bài diễn văn ngày 22/02/2022, ngay trước cuộc xâm lược, ông Putin đã mập mờ chê trách Lênin là đã trao quá nhiều đất cho Ukraina, một cách nói lên rằng Lenin chẳng là thần thánh như thế giới cộng sản đã tôn thờ.
Mới đây, Ngày 21/01/2024 này đánh dấu 100 năm Lênin, cha đẻ cuộc Cách mạng Bolsevich và Liên Bang Xô Vết, qua đời. Không có một hoạt động tưởng niệm của quần chúng cũng như chính quyền được tổ chức nhân dịp này năm nay.
Những thông tin trên cho thấy rằng, trên bình diện thế giới, và ngay cả tại quê hương Lenin, thì Lenin đã chỉ là một hiện tượng quái đản trong lịch sử nhân loại, một giai đoạn đầy đau buồn, nhuốm đỏ máu của quá khứ mà nhân loại muốn quên đi càng nhanh càng tốt như quên đi một cơn ác mộng.
Tại Việt Nam, ở Hà Nội là nơi duy nhất có tượng Lenin, và thật ra cũng tội nghiệp cho Lenin. Bỗng nhiên lôi ông ta về đứng đó để nhận bao lời chế diễu từ nhân dân, rằng:
Ông Lenin ở nước Nga.
Cớ sao lại đến vườn hoa nước này?
Ông nắm áo, ông chỉ tay.
Ấm no, hạnh phúc... chúng mày còn xa.
Xem gương tày liếp nước Nga
Hơn trăm năm lẻ, đã ra cái gì.
Tưởng rằng với Việt Nam, chỉ một tượng Lenin ấy đã là quá thừa và quá tội nghiệp.
Thế rồi bỗng nhiên, mới đây, Tỉnh ủy Nghệ An đã quyết định dành khu đất hơn 1.000 mét vuông để đặt tượng Lenin tại Thành phố Vinh đã làm dư luận phẫn nộ. Mặc dù vẫn biết được lòng dân không ưa, nên để trấn an dư luận, Nghệ An nói rằng cái tượng này được tặng từ tỉnh quê hương Lenin, kể cả công vận chuyển sang Việt Nam.
Nhưng, không vì vậy mà làm dư luận bớt phẫn nộ.
Đến Hà Tĩnh tổ chức ngày sinh Trần Phú
Hà Tĩnh, đến nay vẫn được xếp vào diện những tỉnh “nghèo bền vững” tại miền Trung Việt Nam. Không chỉ có nghèo bởi thiên tai, bởi thiên nhiên, mà còn bởi con người.
Người ta đặt câu hỏi rằng: Tại sao một tỉnh nhỏ, cũng có rừng, có biển, có đủ mọi thứ tài nguyên vậy mà chỉ lo cho một nhúm dân, Hà Tĩnh vẫn không giải quyết được. Mặc dù Hà Tĩnh được coi là nơi “Địa linh, nhân kiệt” vốn nổi tiếng việc học hành, đỗ đạt bao đời nay.
Người ta tổng kết rằng: Trong bộ máy chính quyền Việt Nam, thì Hà Tĩnh là tỉnh nhỏ, nhưng đã đóng góp số lượng lớn các Ủy viên Trung ương và nhất là Ủy viên Bộ Chính Trị, đầu não của hệ thống công quyền độc tài hiện tại. Và người ta cũng chỉ ra rằng: Có lẽ chính vì vậy, mà không chỉ Hà Tĩnh nghèo bền vững, mà đất nước này cũng vì thế mà tụt hậu muôn năm.
Hà Tĩnh cũng là nơi sản sinh ra nhiều quái kiệt Cộng sản. Nhiều Tổng bí thư Đảng có nguồn gốc là dân Hà Tĩnh như Hà Huy Tập, Trần Phú và sau này Lê Duẩn dù sinh ở Quảng Trị cũng về Hà Tĩnh nhận họ hàng. Có thể nói rằng Hà Tĩnh là cái nôi sinh ra đám đầu sỏ cộng sản.
Và họ đã làm được gì cho quê hương, đất nước?
Chẳng cần nói nhiều, cứ nhìn hiện trạng đất nước với bộ máy sâu mọt, tham nhũng khổng lồ không có loại thuốc trừ sâu nào có thể tiêu diệt nổi thì chúng ta biết “thành quả” của đám lãnh tụ cộng sản này để lại.
Chỉ riêng Trần Phú, người được kỷ niệm ngày sinh năm nay, cũng để lại nhiều giai thoại đến muôn đời vẫn được ghi dấu ấn. Điển hình là câu nói: “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” - nghĩa là các tầng lớp Trí thức, Phú nông, Địa chủ, Cường hào quan lại trong xã hội, cũng có nghĩa là những tầng lớp ưu tú nhất của xã hội thì phải tiêu diệt đến tận gốc rễ - để rồi cho đám “giai cấp Công nhân” lên làm lãnh đạo theo chủ thuyết Mác – Lenin. Để rồi đưa cả nước “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN” mà người dân dịch ra là “Xuống Hàng Chó Ngựa”.
Để rồi ngày nay, đất nước, dân tộc Việt Nam sau cả gần thế kỷ xông vào những cuộc đâm chém, nồi da xáo thịt, xóa bỏ đạo đức dân tộc từ ngàn đời, dung dưỡng mớ lý thuyết bạo lực… để rồi sau khi đã trả giá bằng sinh mạng hàng triệu con người, thì nay đem đến một xã hội suy đồi, hỗn loạn hôm nay. Tất cả có nguồn gốc và “công lao” của Trần Phú.
Vì sao dân phẫn nộ?
Người ta phẫn nộ bởi nhiều lẽ.
Ngoài điều rất mới, rất cụ thể là Tết vừa qua, Nghệ An là tỉnh gửi đơn ra Trung ương đề nghị cứu đói cho dân và đã nhận số gạo là 1.080,255 tấn từ nguồn dự trữ quốc gia.
Thế nên, việc dựng tượng một nhân vật, vừa là thủ phạm, vừa là nguyên nhân để đến tận bây giờ người dân Nghệ vẫn phải ngửa tay xin cứu đói, thì đó là một sự mai mỉa.
Bởi Tỉnh ủy Nghệ An đã đi ngược dòng thời đại, cố bơi ngụp trong vũng bùn đau khổ mà thế giới đã thoát ra từ đó bằng máu, bằng tính mạng của hàng trăm triệu con người.
Bởi cái mớ lý thuyết hoang tưởng mà Lenin đã góp phần đẻ ra đã không còn hấp dẫn, lừa bịp được ai.
Bởi bản chất nhân vật Lenin, đã bị bóc trần theo thời gian trước nhân loại. cái mảnh áo khoác “thiêng liêng” mà người cộng sản tạo ra cho Lenin đã không còn tác dụng.
Bởi việc dựng tượng là hành động vả vào mồm Lenin, khi chính Lenin đã từng hò hét “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Bởi người dân Việt Nam đã quá hiểu bản chất của các lãnh tụ cộng sản, đằng sau sự hào nhoáng, những lời ca ngợi là những xác người.
Và cái thâm thúy của người dân cứ Nghệ được dịp lên tiếng. Người ta mỉa mai rằng: “Vậy cũng hay. Để tầng lớp thanh niên Việt Nam nhớ rằng bệnh giang mai là một căn bệnh nguy hiểm cần tránh xa” – với ngầm ý nhắc đến căn bệnh mà vì nó Lenin đã đi theo Các Mác.
Còn việc nhà cầm quyền Hà Tĩnh chi con số 230 tỷ đồng để kỷ niệm ngày sinh Trần Phú là có ý đồ gì? Liệu có phải là sự “ghi ơn”, hay lại thêm một dịp để cho người dân “Bới lên mà ngửi” những “thành tựu của Trần Phú”?
230 tỷ đồng, bằng số tiền tỉnh này chi cho các mục Dân số, Y tế và Gia đình, cũng bằng số tiền chi cho Thể dục thể thao, phát triển sức khỏe cộng đồng cả tỉnh và nhiều hơn gấp gần 5 lần số tiền chi cho lĩnh vực khoa học Công nghệ của cả tỉnh Hà Tĩnh năm 2024.
Chưa cần biết số tiền thực chi cho việc cờ quạt, cổng chào, băng phướn là bao nhiêu và nếu làm rõ cụ thể, thì nhà tù lại phải mở rộng bao nhiêu chỗ sau vụ này. Nhưng Trần Phú là cái cớ để quan chức Hà Tĩnh chi số tiền hơn rất nhiều số tiền bảo vệ môi trường Hà Tĩnh trong cả năm 2024. Trong khi Formosa Hà Tĩnh vẫn ngày đêm sản xuất và xả thải. Còn hiện tượng nước biển bỗng dưng đổi màu đỏ vừa qua, chẳng mấy ai quan tâm.
Và người dân Hà Tĩnh vẫn cứ phải sống chung với thải Formosa, với biển độc với biển đổi màu và tượng đài lãnh tụ.
Để rồi người dân, giống nòi dần dần chắc sẽ… biến đổi Gen?
16/04/2024
J.B Nguyễn Hữu Vinh