logo-vuot
acrobat  📂  🏠   

RFA - 1

Lại rút kinh nghiệm với cái giá ngàn tỷ!

2024.04.18 - RFA

Lại rút kinh nghiệm với cái giá ngàn tỷ!
Tuyến buýt nhanh số 1 Kim Mã-Yên Nghĩa vận hành chính thức ngày 1/1/2017. Photo: baochinhphu.vn

Tuyến buýt nhanh - BRT (Bus Rapid Transit ) Kim Mã - Yên Nghĩa với tổng mức đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng, được đưa vào sử dụng vào cuối năm 2016, sắp bị thay thế bằng tuyến đường sắt đô thị số 11 với lý do được nêu là “còn nhiều hạn chế”. Đây là dự án được thực hiện bằng vốn vay của Ngân hàng Thế giới với mục tiêu phát triển hạ tầng giao thông công cộng.

Thông tin trên được đưa ra tại cuộc họp vào chiều 15 tháng 4 của đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm việc với Hà Nội về “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông từ năm 2009 đến năm 2023”.

Bà Hoàng Hà, một người dân Hà Nội nói với RFA qua ứng dụng Facebook Messenger:

Thực tế cho thấy với tình hình giao thông ở Hà Nội, phương tiện xe bus nhanh như BRT là bất cập: đầu tư đắt đỏ mà lại chuyên chở được ít hành khách, xe bus BRT chiếm hẳn một diện tích mặt đường như vậy rất lãng phí hạ tầng giao thông. Gọi là bus nhanh nhưng cũng không hơn bus thường được mấy tí. Trên mọi phương diện thì đánh giá chung là hiệu quả thấp và lãng phí”.

Cách đây hai năm, Sở Giao thông vận tải Hà Nội đã đề xuất Uỷ ban Nhân dân thành phố này cho phép xe khách, xe công vụ, xe cứu nạn, xe buýt thường được đi vào làn đường dành riêng cho tuyến buýt BRT này. Theo lý giải của Sở Giao thông vận tải Hà Nội, xe buýt BRT chạy trên trục xuyên tâm, tập trung các phương tiện ra, vào khu vực trung tâm, lưu lượng các phương tiện tăng cao, đặc biệt vào các giờ cao điểm gây ra tình trạng ùn ứ giao thông tại các nút giao làm giảm hiệu quả hoạt động của tuyến buýt BRT.

Cái quy hoạch thành phố cũng nhiều cái không có hiệu quả. Tuyến đường sắt trên cao cũng thế. Vừa mất mỹ quan vừa tăng mật độ người dân, giao thông trên đường vì phải có nhà ga. Làm chỉ vì tiền mà không tính toán cho nên nó phải kém hiệu quả thôi. - PGS.TS Ngô Trí Long

Một số chuyên gia cho rằng, với mức đầu tư cả ngàn tỷ đồng mà chỉ hoạt động được vài năm là một lãng phí lớn cho một dự án. Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) nêu những bất hợp lý:

“Đây là tuyến xe buýt nhanh BRT, mà tuyến này thì phải có làn đường riêng cho nó, trong khi mặt đường ở Việt Nam rất bé và ít. Như thế là quá lãng phí và gây khó khăn cho giao thông của Hà Nội. Do đó người ta phải bỏ. Ngay cả tuyến đường sắt nội đô cũng thế, bao nhiêu là lãng phí. Kéo dài bao nhiêu năm đội vốn rất lớn. Tuyến đường này đi ngang thành phố, mất an toàn, mất thẩm mỹ nhưng họ vẫn làm. Nó nhiều vấn đề lắm.

Cái quy hoạch thành phố cũng nhiều cái không có hiệu quả. Tuyến đường sắt trên cao cũng thế. Vừa mất mỹ quan vừa tăng mật độ người dân, giao thông trên đường vì phải có nhà ga. Làm chỉ vì tiền mà không tính toán cho nên nó phải kém hiệu quả thôi.”

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương nêu quan điểm của ông:

“Tôi rất muốn biết những dự án đấy đã được ai xét duyệt và xét duyệt như thế nào; có thảo luận với một hội đồng khoa học nào để họ cho ý kiến hay không, bởi ở Hà Nội vừa rồi có nhiều dự án quá đắt, tiến hành quá lâu và trình độ công nghệ không cao. Những điều đó dẫn đến câu hỏi, ai là người đã ký quyết định cho dự án này. Và việc ký đó dựa trên sự thẩm định khoa học khách quan như thế nào? Đó là những điều tôi thắc mắc.

Bây giờ nói rút kinh nghiệm thì rút kinh nghiệm như thế nào, và rút ra những kinh nghiệm gì thì tôi đề nghị là công bố lên để người dân được biết. Tôi nghĩ là nhiều chuyên gia của Liên hiệp khoa học công nghệ sẽ sẵn sàng lên tiếng và tham gia ý kiến. Nếu không thì không ai biết đã rút ra những kinh nghiệm gì. Kinh nghiệm về thẩm định, về giá, về hiệu quả, về người xét/phê duyệt và trách nhiệm như thế nào?”

Tuyến buýt nhanh Kim Mã - Yên Nghĩa chỉ là một trong những dự án thất bại với con số ngàn tỷ trong những năm qua. Riêng ngành công thương đã có 12 dự án thua lỗ nghìn tỷ gồm: Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 1-Hải Phòng; Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2-Lào Cai; Nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình; Dự án cải tạo, mở rộng nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc; Công ty TNHHMTV Công nghiệp tàu thủy Dung Quất; Dự án nhà máy thép Việt-Trung; Dự án nhà máy sản xuất xơ sợi polyester Đình Vũ; Dự án nhà máy sản xuất Nhiên liệu sinh học (NLSH) Quảng Ngãi; Dự án sản xuất NLSH Bình Phước; Dự án Nhà máy bột giấy Phương Nam; Dự án nhà máy sản xuất NLSH Phú Thọ; Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2-Công ty Gang thép Thái Nguyên.

Bây giờ nói rút kinh nghiệm thì rút kinh nghiệm như thế nào, và rút ra những kinh nghiệm gì thì tôi đề nghị là công bố lên để người dân được biết. Tôi nghĩ là nhiều chuyên gia của Liên hiệp khoa học công nghệ sẽ sẵn sàng lên tiếng và tham gia ý kiến. Nếu không thì không ai biết đã rút ra những kinh nghiệm gì.- TS. Lê Đăng Doanh

Trước tình trạng các dự án nghìn tỷ làm ăn thua lỗ liên tục cầu cứu lên Chính phủ để xin cơ chế ưu đãi, một số đại biểu Quốc hội cho rằng, cần phải quy được trách nhiệm tập thể, cá nhân một cách rõ ràng. Không thể đá quả bóng trách nhiệm lăn vòng vòng rồi lại rút kinh nghiệm. Điều quan trọng nữa là phải lắng nghe ý kiến của dân, của tổ tư vấn, của các nhà khoa học…

Với tuyến xe buýt BRT Kim Mã - Yên Nghĩa phải xóa sổ sau vài năm hoạt động, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nêu quan điểm của ông:

“Điều này thì tôi không thể nói chung cho các nhà lãnh đạo, nhưng tôi chỉ biết những nhà lãnh đạo mà tôi có dịp phục vụ như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải mà thôi. Những thủ tướng này rất coi trọng ý kiến của đội ngũ cố vấn và phản biện của Ban nghiên cứu. Thủ tướng Phan Văn Khải không đi đến một quyết định nào mà không hỏi ý kiến Ban nghiên cứu cả. Và Ban nghiên cứu đã làm việc một cách rất là khách quan, thẳng thắn dựa trên căn cứ khoa học.

Và chúng ta thấy cho đến nay, trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Phan Văn Khải không thấy những sai lầm nào. Trong khi đó, có các sai lầm và lãng phí rất lớn của một vị thủ tướng khác.”

Tuy Tiến sĩ Lê Đăng Doanh không nhắc đến danh tính một vị thủ tướng nào, nhưng công chúng không thể quên một vụ án kinh tế lớn thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, là vụ Vinashin.

Năm 2010, Thanh tra Chính phủ công bố kết luận thanh tra Vinashin và chỉ ra hàng loạt sai phạm, thiếu sót, thua lỗ. Vinashin không còn bảo toàn được vốn Nhà nước giao, để thâm hụt gần 5.000 tỷ đồng.

Sau khi đội ngũ lãnh đạo của Vinashin bị xử lý hình sự, tập đoàn này bắt tay vào quá trình tái cơ cấu và năm 2013 đổi tên thành Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ (SBIC). SBIC cũng hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Đến cuối năm 2023, Chính phủ yêu cầu hoàn thiện thủ tục phá sản đối với SBIC và bảy công ty con từ quý 1 năm 2024.

Hiện có năm dự án đường bộ đang được Sở Giao thông - Vận tải TP.HCM lựa chọn nhà đầu tư để thực hiện gồm: mở rộng Quốc lộ 13 (từ cầu Bình Triệu đến ranh tỉnh Bình Dương); mở rộng Quốc lộ 1 (từ đường Kinh Dương Vương đến ranh tỉnh Long An); cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 22 (từ nút giao An Sương đến đường Vành đai 3); nâng cấp đường trục Bắc - Nam, đoạn từ đường Nguyễn Văn Linh đến cao tốc Bến lức Long Thành; xây dựng cầu đường Bình Tiên (từ đường Phạm Văn Chí đến đường Nguyễn Văn Linh).

Người dân hy vọng những dự án này sẽ được lãnh đạo thành phố lắng nghe những ý kiến góp ý, phản biện từ nhiều phía để tránh tái diễn cảnh thua lỗ, phá sản và lại rút kinh nghiệm.

🔝

Bản án tử hình dành cho tỷ phú lừa đảo 12 tỷ USD ở Việt Nam mang tính kiểm soát thiệt hại hơn là răn đe

2024.04.18 - RFA

Kế hoạch lừa đảo khổng lồ của bà Trương Mỹ Lan lên đến đỉnh điểm trong thời gian diễn ra công cuộc “đốt lò” được ca tụng của Việt Nam

Bài bình luận của David Hutt*


Bà Trương Mỹ Lan, một doanh nhân bất động sản Việt Nam - Ảnh minh họa bởi Amanda Weisbrod/RFA. AFP/Adobe Stock

Sau khi bà Trương Mỹ Lan bị kết án tử hình vào tuần trước vì vai trò [chủ mưu] trong vụ gian lận tài chính trị giá 12,5 tỷ USD, nhiều người cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang hy sinh tính mạng một con người để chứng minh rằng chiến dịch “đốt lò” chống tham nhũng của mình là thực sự nghiêm túc.

Đó có thể là một chiến thuật. Chính quyền có thể đã công bố về hình phạt này trước khi phiên tòa kết thúc như một cách khiến bà Lan kinh hãi mà phải tiết lộ thêm các tài sản bị đánh cắp khác đang ở đâu cũng như khai thêm tên của những kẻ đồng phạm.

Nếu bà hợp tác, có lẽ bà sẽ thoát khỏi án tử hình. Nhiều phiên tòa đã từng làm điều này.

Mặc dù vậy, rất nhiều trong số 84 đồng phạm của bà đã bị tuyên án sớm, và không ai trong số họ phải nhận án tử hình. Chính quyền đã khiến bà Lan trở thành một nhân vật bị căm ghét như một phần của chiến dịch chống tham nhũng của mình, cho phép truyền thông nhà nước được mở miệng để họ phỉ báng và bôi nhọ bà.

Quyết định xử tử nữ chủ tịch của tập đoàn bất động sản Vạn Thịnh Phát là một "ví dụ điển hình về nỗ lực trấn áp tham nhũng không chỉ trong khu vực nhà nước mà còn trong khu vực tư nhân của Việt Nam" – ông Nguyễn Khắc Giang bình luận trong một bài báo trên tạp chí Time. Ông khẳng định: "Việc Việt Nam cố gắng biến trường hợp của bà Lan để làm gương là rõ ràng".

Nhưng logic này có vấn đề.

Đặt sang một bên vấn đề khía cạnh đạo đức rằng liệu một quốc gia có nên giết chết một trong số công dân của mình hay không, có thể thấy, Việt Nam là một trong những nước hành quyết tù nhân nhiều nhất thế giới và đưa ra các án phạt tử hình đối với những hành vi phạm tội mơ hồ đồng thời tập trung vào vấn đề hậu quả.

Chiến dịch chống tham nhũng của Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt đầu từ năm 2016. Năm sau đó, một ủy viên Bộ Chính trị đầu tiên bị hạ bệ và Trịnh Xuân Thanh, một quan chức doanh nghiệp nhà nước trốn chạy đã bị bắt cóc ở Berlin bởi mật vụ Việt Nam.

Năm 2018, Đảng Cộng sản đã thanh trừng hàng ngũ cấp thấp. Họ để mắt tới các nhân vật ở các tỉnh thành trong năm 2019. Ông Nguyễn Xuân Phúc “từ chức” Chủ tịch nước vào đầu năm 2023 liên quan đến tham nhũng.

Người kế nhiệm ông Phúc, ông Võ Văn Thưởng, đã rời nhiệm sở vào tháng trước (tháng 3/2024) vì cùng lý do. Hàng trăm quan chức và doanh nhân đã bị vào tù. Hàng chục ngàn người nhiều khả năng đã mất việc.

Chiến dịch “đốt lò”

Bất cứ ai có hiểu biết tối thiểu nhất về Việt Nam đều biết hiện ở nước này đang diễn ra một chiến dịch chống tham nhũng với quá nhiều ngợi ca. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những vụ việc miễn nhiệm, bỏ tù, bắt cóc và từ chức, bà Lan và đồng bọn vẫn nghĩ rằng họ có thể thoát được vụ việc đánh cắp 12,5 tỷ USD. Các vi phạm của bà trong nhiều năm, theo truyền thông nhà nước, đã khiến Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn thiệt hại khoảng 27 tỷ USD.

Hành vi lừa đảo của họ bắt đầu năm 2012 nhưng theo Viện kiểm sát, hầu hết các vụ hối lộ, biển thủ và vi phạm luật ngân hàng diễn ra từ đầu năm 2018 đến tháng 10/2022 – thời điểm bà Lan cuối cùng cũng bị bắt - và cũng là khi lò đã cháy liên tục được gần sáu năm.

Một số nhà quan sát có thể lập luận rằng nếu bà Lan không bị răn đe khi chứng kiến những người khác bị bỏ tù, bị bắt cóc hoặc bị bêu xấu trước dư luận, có lẽ bà đã bị răn đe nếu Đảng Cộng sản bắt đầu tử hình những kẻ tham nhũng từ năm 2016. Vì thế, cái chết của bà, sẽ là làm gương cho những người khác sắp tới.

Nhưng nhận định này khiến những người ủng hộ lập luận rằng Đảng Cộng sản cần bắt đầu giết nhiều người cùng lúc. Rốt cuộc, vì sao một người có thể bị răn đe bằng việc tử hình một người, bằng một lần hiến tế duy nhất?

P2.jpeg
Nữ doanh nhân Trương Mỹ Lan trong phiên tòa xét xử tại TPHCM ngày 11/4/2024. Nguồn ảnh:Thanh Tùng/VnExpress/AP

Vấn đề chính xác của bản án tử hình của Lan nằm ở tính chất duy nhất và đặc biệt của nó. Nó cho thấy thông điệp của Đảng Cộng sản là họ sẽ chỉ xử tử những người phạm tội lừa đảo, gian lận trên quy mô cực kỳ lớn, tương đương với 3% GDP của Việt Nam. Yếu tố răn đe nằm ở đâu khi nhiều khả năng, không có nhiều trường hợp liên quan quan tới ai đó đánh cắp tới 12,5 tỷ USD?

Đồng thời, nếu bà Lan bị kết án chung thân thay vì tử hình, vụ việc đã không lan truyền khắp toàn thế giới như hiện nay – nó đã được đăng tải trên hầu hết các tờ báo nổi tiếng.

Nếu vậy, Hà Nội đã không thể truyền tải thông điệp: “Hãy xem chúng tôi chống tham nhũng nghiêm túc tới mức độ nào. Chúng tôi xử tử người dân vì tội tham nhũng!”

Có lẽ người dân Việt Nam đã cảm thấy không công bằng. Có lẽ nỗi sợ hãi của các nhà đầu tư nước ngoài đã không được xoa dịu và điếm số về độ minh bạch của Việt Nam có thể lại được cải thiện nhờ sự hy sinh xương máu.

Kiểm soát thiệt hại

Tuy nhiên việc tử hình bà Lan sẽ không đạt được mục tiêu răn đe trừ khi Đảng Cộng sản sẽ bắt đầu xử tử nhiều người hơn cho những hành vi tham nhũng ít hơn nhiều. Trong bối cảnh tham nhũng quy mô cực kỳ lớn ở Việt Nam, bao gồm cả những vụ chưa được phanh phui, đó sẽ là cuộc xử tử đáng kể được Nhà nước cho phép.

Thay vào đó, bản án tử hình với bà Lan là một sự trừng trị thích đáng – một biện pháp kiểm soát thiệt hại về danh tiếng bởi một Đảng Công sản đã bị hổ thẹn bởi toàn bộ vụ việc này. Khi công bố bản án, tòa án đã lập luận rằng bà Lan đã có tội “làm xói mòn lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước”.

P3.jpeg
Bà Trương Mỹ Lan, hàng thứ ba từ trái sang, tại tòa án ở Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 11/4/2024. Nguồn ảnh: AFP

Các đại diện Viện kiểm soát có mặt tại phiên tòa hồi tháng trước lập luận rằng án tử hình là cần thiết để bà Lan có thể bị “loại bỏ vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội”.

Trong khi một số nhà quan sát có thể lập luận rằng quyết định tử hình bà Lan của Đảng Cộng sản cho thấy sức mạnh và năng lực của chiến dịch chống tham nhũng của Hà Nội, nó thực sự cho thấy điều ngược lại.

Trương Huệ Vân và các vi phạm của các cộng sự của bà đã nhạo báng chiến dịch “đốt lò”: Vụ gian lận lớn nhất từ trước đến nay ở Việt Nam đã diễn ra đồng thời với chiến dịch chống tham nhũng nghiêm túc nhất của Việt Nam.

Giờ đây, Đảng Cộng sản đang cố gắng biến một sự tiêu cực thành tích cực bằng cách nói rằng tội ác đã bị phát hiện và trừng phạt nghiêm khắc. Đảng này đang cố gắng che giấu sự thật hiển nhiên rằng một hệ thống Leninist thiếu trách nhiệm giải trình là nguyên nhân chính cho phép loại tội phạm này xảy ra.

Lò có thể tiếp tục cháy nhưng nó sẽ không thực sự đốt cháy tham nhũng chừng nào Đảng Cộng sản Việt Nam còn đồng thời là người phóng hỏa lẫn lính cứu hỏa.

*David Hutt là nghiên cứu viên tại Viện nghiên cứu Trung Âu về các vấn đề châu Á (CEIAS) đồng thời là một cây viết chuyên mục cho tờ The Diplomat. Ông viết bản tin Watching Europe In Southeast Asia. Ông là nhà báo theo dõi tình hình chính trị Đông Nam Á từ năm 2014. Các quan điểm trong bài viết là của riêng ông và không phản ánh quan điểm của RFA.

🔝

Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định tăng cường quan hệ với Mỹ, Nhật là lựa chọn chủ quyền

2024.04.18 - RFA


Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Nhật Minister Fumio Kishid (phải) và Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. (trái) tại họp báo trước cuộc gặp ba bên ở Nhà Trắng hôm 11/4/2024. AFP

Bộ Ngoại giao Philippines hôm 18/4 khẳng định việc Manila gia tăng quan hệ hợp tác với Mỹ và Nhật Bản là một lựa chọn chủ quyền. Thông điệp này được đưa ra để đáp trả những phản đối của Bắc Kinh về mối hợp tác tay ba này.

Hồi tuần trước, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã chủ trì một cuộc họp với Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. và Thủ tướng Nhật Fumio Kishida ở Washington DC. Ba nhà lãnh đạo đã bày tỏ mối quan ngại đối với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.

Bộ Ngoại giao Philippines cho biết hợp tác ba bên sẽ thúc đẩy hoà bình và phát triển kinh tế ở khu vực Châu Á -Thái Bình Dương và không nên bị coi là mối đe doạ.

“Những đòi hòi về chủ quyền quá đáng trên biển của Trung Quốc và các hành động gây hấn của nước này, mặt khác, đang phá hoại hoà bình và ổn định trong khu vực” - tuyên bố của Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định.

Philippines cũng khẳng định tất cả mọi người đều biết nguồn gốc của những căng thẳng trong khu vực và Trung Quốc nên tự nhìn nhận các hành động của bản thân ở khu vực Biển Đông.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mao Ning hồi tuần trước lên tiếng phản đối hợp tác ba nước, bất cứ hành động nào mà Bắc Kinh cho là khơi mào và làm gia tăng căng thẳng.

Người phát ngôn Mao Ning cũng cáo buộc Mỹ đang bám vào suy nghĩ Chiến tranh lạnh bằng cách liên kết với các đồng minh trong khu vực.

Manila đáp lại rằng việc gán ghép tư tưởng Chiến tranh lạnh không liên quan là kích động tình hình và diễn giải sai mục đích hoà bình của hợp tác ba bên.

Quan hệ Philippines và Trung Quốc đã trở nên căng thẳng trong năm qua liên quan đến các vụ đụng độ ở Biển Đông nơi Trung Quốc đòi chủ quyền phần lớn diện tích vùng nước này. Các nước Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng tuyên bố có chủ quyền tại khu vực này.

🔝

Hoa Kỳ đặt hệ thống MRC phóng hỏa tiễn tầm trung tại Philippines

2024.04.18 - RFA

Hoa Kỳ đặt hệ thống MRC phóng hỏa tiễn tầm trung tại Philippines
Lính Mỹ lắp hệ thống tên lửa đất đối không Avenger trong một cuộc tập trận chung Mỹ - Philippines có tên Balikatan ở Santonio thuộc Zambales, bắc Manila, hôm 25/4/2023

Hoa Kỳ vừa cho đặt một hệ thống phóng tên lửa tầm trung tại Philippines với tầm bắn bao phủ Trung Quốc và Đài Loan. Bắc Kinh lên tiếng cảnh báo.

Lục quân Hoa Kỳ đặc trách khu vực Thái Bình Dương vào ngày 15 tháng tư thông báo tin vừa nêu. Cụ thể, hệ thống MRC phóng hỏa tiễn tầm trung, cũng được gọi là Hệ thống Vũ khí Cuồng phong, đã được lắp đặt thành công tại đảo Luzon ở phía Bắc Philippines hôm 11 tháng tư.

Đây là lần đầu tiên hệ thống đó được đặt tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương kể từ năm 1987, khi mà một thỏa ước giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô Viết cấm việc lắp đặt, sở hữu loại hỏa tiễn trên bộ có tầm bắn từ 500 km đến 5.500 km.

Hệ thống được lắp đặt tại đảo Luzon của Philippines hôm 11 tháng tư được cho biết là một hệ thống trên bộ giúp tăng cường hoạt động đa năng của quân đội. Hệ thống có thể phóng Hỏa tiễn Tiêu chuẩn 6 (SM-6) và Hỏa tiễn Tấn công trên bộ Tomahawk (TLAM) với tầm bắn tương ứng là hơn 240 km và 2.500 km.

Hệ thống được lắp đặt tại Philippines thuộc khuôn khổ Hoạt động Tập trận Salaknib. Đây là đợt tập trận thường niên Hoa Kỳ-Philippines với mục tiêu tăng cường khả năng bộ chiến và hành quân phối hợp chung.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào ngày 18 tháng tư lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc lắp đặt hệ thống hỏa tiễn tầm trung MRC của Hoa Kỳ tại Philippines như vừa nêu. Bắc Kinh lặp lại kêu gọi Washington hãy tôn trọng quan ngại an ninh của những quốc gia khác; đồng thời cảnh báo Manila về những hậu quả nghiêm trọng vì phục vụ cho Hoa Kỳ.

Với động thái của Hoa Kỳ vừa nêu và phản ứng mạnh mẽ của Trung Quốc, giới chuyên gia đưa ra nhận định, Bắc Kinh có thể quân sự hóa thêm nữa tại khu vực Biển Đông.

Đây là nơi mà Bắc Kinh ngày càng quyết đoán và có thái độ hung hăng trong tranh chấp chủ quyền với các nước trong khu vực.

🔝

EVN vẫn độc quyền: sao có thể thúc đẩy thị trường điện cạnh tranh?

2024.04.17 - RFA


Công nhân điện làm việc trên lưới điện tại Hà Nội hôm 14/12/2023 (minh họa). AFP

Tại Phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hôm 16/4/2024, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho ý kiến, thông qua Dự án Luật Điện lực sửa đổi, để gấp rút sửa Luật này nhằm thúc đẩy thị trường điện cạnh tranh.

Liệu nếu chỉ Tập đoàn Điện lực Việt Nam – EVN độc quyền mua bán điện thì có thể có thị trường điện cạnh tranh? Chuyên gia kinh tế, PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh, thuộc Học viện Tài chính Việt Nam, khi trả lời RFA hôm 17/4/2024, cho rằng đây là một bài toán khó:

“Muốn có thị trường điện cạnh tranh là một bài toán lâu dài. Rõ ràng rất nhiều lĩnh vực cho dù tự do cũng chưa chắc tốt bằng độc quyền. Vì thế cho nên trong quá trình Việt Nam đang phát triển đã xem những phân khúc nào cần có cạnh tranh và có thể cạnh tranh thì thực hiện. Còn phân khúc nào không nên cạnh tranh thì Nhà nước có cơ hội đầu tư một cách toàn diện.

Muốn có thị trường điện cạnh tranh là một bài toán lâu dài. Rõ ràng rất nhiều lĩnh vực cho dù tự do cũng chưa chắc tốt bằng độc quyền.
-PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh

Theo PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh, Trong quá trình thay đổi vẫn còn có sự so sánh, xem xét… Ông Thịnh nêu ví dụ:

“Ví dụ như thị trường phát điện thì các nhà máy điện có thể áp dụng và có thể cạnh tranh nhau để đáp ứng nhu cầu và có điều kiện để từ đó bán điện cho nên kinh tế. Nhưng cũng có những bộ phận người ta nghĩ là chưa nên cho cạnh tranh. Ví dụ như trong hệ thống truyền tải điện chẳng hạn, đây là một vấn đề khó, đầu tư rất lớn nhưng hiệu quả lại tương đối khó khăn trong thu hồi vốn, nên chẳng có ai muốn đầu tư truyền tải điện. Vì vậy Nhà nước đang phân vân thực hiện quá trình thị trường hóa, làm sao để dễ dàng và hợp lý hiện là vấn đề khó đối với Việt Nam.”

Trong Nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ngoài khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển năng lượng, Bộ Chính trị nêu rõ cần loại bỏ bao cấp, độc quyền, thiếu minh bạch trong ngành năng lượng mà cụ thể là ngành điện.

Luật điện lực sửa đổi từ năm 2013 đã quy định, điện lực cùa Việt Nam sẽ chuyển sang ba giai đoạn: phát điện cạnh tranh, bán buôn điện và bán lẻ điện theo thị trường cạnh tranh hoàn hảo từ năm 2022 trở đi. Tuy nhiên cho đến nay, ngay cả giai đoạn chuyển đổi đầu tiên cũng bị cho là chưa hoàn toàn được thực hiện.

Tiến sĩ Ngô Đức Lâm, chuyên gia năng lượng độc lập thuộc Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam; nguyên Phó viện trưởng Viện Năng lượng, khi trao đổi với RFA liên quan vấn đề này nhận định:

“Luật điện lực mới sửa đổi đã quy định, điện lực cùa Việt Nam sẽ chuyển sang ba giai đoạn: phát điện cạnh tranh, bán buôn điện và bán lẻ điện theo thị trường cạnh tranh hoàn hảo từ năm 2022 trở đi. Tuy nhiên tiến độ đó cho đến hiện nay là chậm, nên trung ương muốn tiến độ nhanh lên, để người dân mua muốn mua điện ở đâu cũng được, mua theo giá cạnh tranh… Nhưng bây giờ thì chỉ gọi là phát điện cạnh tranh, nhưng cũng chưa hoàn hảo vì chưa phải các loại đem vào cạnh tranh. Ví dụ điện BOT vẫn nằm ngoài khu vực cạnh tranh.”

Theo Tiến sĩ Ngô Đức Lâm, khi việc bán buôn điện nếu thật sự cạnh tranh, thì sẽ có nhiều người tham gia mua đi bán lại điện. Nhưng hiện nay, theo ông, chỉ có một mình EVN làm chuyện đó, không có công ty tư nhân đi buôn điện bán lại, mà chỉ là những công ty con của EVN buôn điện từ Tổng công ty để bán lại với giá cao hơn.


Công nhân Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đang kiểm tra đồng hồ điện. AFP.

Một người dân ở Sài Gòn không nêu tên vì lý do an toàn, hôm 17/4/2024 cho RFA biết ý kiến:

“Thứ nhất Việt Nam hiện nay vẫn đang đề nghị Hoa Kỳ công nhận có nền kinh tế thị trường. Như vậy trước hết cần phải thay đổi kinh tế thị trường định hướng XHCN trở thành kinh tế thị trường. Thứ hai, chính việc phải thay đổi này phù hợp với mong muốn của chính quyền Việt Nam và nó cũng là nhu cầu có thật tại Việt Nam. Từ căn cứ quan trọng này mới có căn cứ để thay đổi mô hình quản trị năng lượng, cũng như quản trị điện năng nói riêng. Từ đó mới có căn cứ bỏ cơ chế độc quyền hàng chục năm qua.”

Nếu sửa đổi riêng với Luật Điện lực, mà vẫn giữ kinh tế thị trường định hướng XHCN và vẫn giữ độc quyền kinh doanh điện năng thì sửa luật không thay đổi được gì.
-Người dân Sài Gòn

Theo vị này, bây giờ nếu sửa đổi riêng với Luật Điện lực, mà vẫn giữ kinh tế thị trường định hướng XHCN và vẫn giữ độc quyền kinh doanh điện năng thì sửa luật không thay đổi được gì. Ông nói tiếp:

“Ý kiến thứ ba của tôi là dĩ nhiên điện là mặt hàng tối quan trọng của bất cứ quốc gia nào. Mặt hàng điện vừa đảm bảo sản xuất tiêu dùng, mà nó vẫn phải đảm bảo an ninh quốc gia. Muốn hòa hợp hai cơ chế này, tôi nghĩ phải phá bỏ cơ chế độc quyền, các công ty tư nhân có quyền đầu tư sản xuất và mua bán điện, chính cơ sở này sẽ cho người dân chúng tôi sự lựa chọn có quyền ký hợp đồng với công ty tư nhân hay công ty nhà nước để mua điện.”

Trong khi đó để đảm bảo an ninh quốc gia thì theo ông này, tất cả cơ quan công quyền của nhà nước buộc phải mua điện của công ty nhà nước mà thôi. Người này cho biết thêm:

“Trong trường hợp khẩn cấp về an ninh quốc gia, thì các công ty tư nhân mua bán điện vẫn phải tuân thủ theo quy định pháp luật về an ninh quốc gia. Như vậy vừa phá bỏ được cơ chế độc quyền, lại vừa đảm bảo an ninh quốc gia, vừa bảo đảm cho người dân có được tự do mua điện của bất cứ công ty nào thấy phù hợp bản thân hộ gia đình, cũng như các hãng xưởng, công ty kinh doanh…”

Liệu với tỷ lệ tư nhân đầu tư buôn bán sản xuất điện quá thấp như hiện nay, thì khi hoàn tất quy hoạch ngành điện theo Luật điện lực, có thể loại bỏ bao cấp, độc quyền?

🔝

Vụ Tập đoàn Thuận An: rà soát hồ sơ những gói thầu tại các tỉnh

2024.04.17 - RFA


Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch HĐQT CTCP Tập đoàn Thuận An - Hinh: Bộ Công An

Hồ sơ các gói thầu của Tập đoàn Thuận An tại tỉnh Đắk Lắk được yêu cầu cung cấp cho cơ quan điều tra. Yêu cầu này được đưa ra sau khi Chủ tịch Tập đoàn Thuận An, ông Nguyễn Duy Hưng, và một số người liên can bị bắt vào ngày 15 tháng tư.

Truyền thông Nhà nước loan tin ngày 16 tháng tư dẫn văn bản của Cục Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Tham nhũng, Kinh tế, Buôn lậu (C03) thuộc Bộ Công an yêu cầu Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan gói thầu của Tập đoàn Thuận An tại tỉnh này.

Đó là hồ sơ liên quan gói thầu số 3 thi công xây dựng đoạn Km0-Km20+50 dự án đầu tư xây dựng Đường Hồ Chí Minh đoạn tránh đông thành phố Buôn Ma Thuột.

Cũng vào ngày 16 tháng tư, hai Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Yên và Quảng Nam gửi công văn đến các sở, ngành, địa phương trong tỉnh yêu cầu rà soát các công trình, dự án liên quan Tập đoàn Thuận An để báo cáo lại cho Ủy Ban Nhân dân tỉnh.

Tại tỉnh Phú Yên, Tập đoàn Thuận An vào năm 2019 trúng gói thầu số 01EC khảo sát, lập thiết kế bản vẽ thi công-dự toán và thi công xây lắp. Gói thầu này thuộc Dự án Nút giao thông khác mức đường số 2 Khu Đô thị Nam Tuy Hòa-đường Nguyễn Văn Linh, TP Tuy Hòa với giá trị hơn 496 tỷ đồng.

Truyền thông Nhà nước Việt Nam cho biết Tập đoàn Thuận An trong những năm gần đây liên tục trúng hàng chục gói thầu xây lắp, trong đó có những gói thầu quy mô vài trăm tỷ đồng. Tập đoàn này cũng đang thi công hàng loạt gói thầu tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.

Phát ngôn nhân Bộ Công an Việt Nam, Trung tướng Tô Ân Xô, vào ngày 15 tháng tư cho biết Cơ quan Cảnh sát Điều tra thuộc Bộ này đang tập trụng mở rộng điều tra để làm rõ những sai phạm tại Tập đoàn Thuận An và các đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan để xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam, thu hồi tài sản cho Nhà nước.

🔝

Việt Nam quốc tế hóa Biển Đông: hợp tác với các cường quốc mà không chọn Trung Quốc

2024.04.03 - RFA


Giàn khoan Tam Đảo 01 của Việt Nam trên Biển Đông (ảnh minh họa) - Hội Dầu khí Việt Nam

Hôm 28 tháng 3, 2024, tập đoàn Mitsui của Nhật Bản ra thông báo họ đã thông qua quyết định cuối cùng đầu tư với Việt Nam vào một dự án khai thác một mỏ khí đốt ở Biển Đông. Khoản đầu tư của Mitsui cho dự án, chủ yếu bao gồm lắp đặt thiết bị ngoài khơi và xây dựng tuyến đường ống, sẽ là khoảng 740 triệu USD. Theo các chuyên gia, dự án hợp tác Việt Nhật này nằm trong bối cảnh sáng kiến Ấn Độ - Thái Bình Dương của Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng như chiến lược quốc tế hóa vấn đề biển Đông của Việt Nam.

Tại sao Việt Nam chọn Nhật Bản?

Trao đổi với RFA, nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Tp. HCM cho rằng dự án hợp tác này giữa Nhật Bản và Việt Nam chắc chắn nằm trong bối cảnh địa chính trị rộng lớn hơn của hai nước. Ông nói:

“Dự án này có liên hệ tới bối cảnh chung. Gần đây nhất, Việt và Nhật Bản đã nâng cấp tầm quan hệ lên mức cao nhất là Đối tác chiến lược toàn diện. Nhật cũng là nước đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực trên biển của Việt Nam. Nhật đã giúp một số tàu cho Cảnh sát biển và giúp đào tạo nhân lực cho Cảnh sát biển. Điều này cũng nằm trong chiến lược ngoại giao chung của hai nước. Thứ hai là mối quan hệ này cũng nằm trong sáng kiến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mà Mỹ và Nhật Bản đưa ra. Ít nhất là Việt Nam và Nhật tìm thấy những điểm chung là chống lại sự đe dọa từ Trung Quốc và hợp tác để bảo vệ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về luật biển.”


Một tàu vận tải của hãng Mitsui chạy bằng khí, không phát thải carbon (ảnh minh họa). Ảnh: Hãng Mitsui.

Tin cho hay, năm 2020, Việt Nam đã phải hủy bỏ dự án hợp tác với tập đoàn Repsol của Tây Ban Nha và Rosneft của Nga, phải đền bù một số tiền khá lớn, vì sức ép của Trung Quốc. Câu hỏi đặt ra là liệu có phải lần này Việt Nam chọn đối tác Nhật Bản cho một dự án khai thác khí đốt trên Biển Đông vì Nhật Bản mạnh hơn và đáng tin cậy hơn?

Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, câu chuyện hợp tác với Nhật Bản không phải từ bây giờ. Còn đối với Repsol thì không phải Việt Nam ngay từ đầu hợp tác với Repsol mà ký với đối tác khác. Các đối tác bán qua bán lại rồi cuối cùng đến tay Repsol.

Về việc chọn đối tác là Nhật Bản chứ không phải nước nào khác, nhà nghiên cứu Hoàng Việt cho rằng lý do thứ nhất là Việt Nam rất tin tưởng Nhật Bản, một quốc gia có tiềm lực lớn về kinh tế, kỹ thuật và quốc phòng. Lý do thứ hai là Nhật Bản là đồng minh thân thiết bậc nhất của Mỹ tại châu Á. Đó là lý do Việt Nam tin tưởng Nhật Bản và hi vọng có thể thúc đẩy trở lại hoạt động thăm dò khai thác trên Biển Đông. Đây cũng là hành động thăm dò phản ứng của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cho rằng đương nhiên Việt Nam sẽ phải khai thác vì không khai thác thì bỏ mất lợi ích quốc gia của mình trong vùng biển này.

Ông Hoàng Việt cho rằng một trong những chủ trương từ lâu của Việt Nam là quốc tế hóa khu vực này. Một trong những cách để quốc tế hóa là mời các cường quốc khác đến cùng khai thác. Ông chỉ ra một thực tế thú vị trong chiến lược quốc tế của Việt Nam ở Biển Đông:

“Việt Nam đã ký với tập đoàn của Mỹ là Exxol Mobil để khai thác mỏ Cá Voi Xanh, hay mỏ Lạc Đà Vàng với tập đoàn Murphy của Mỹ. Ngoài ra Việt Nam còn hợp tác với hàng loạt cường quốc khác như Nhật Bản, Ấn Độ, Nga mà không có Trung Quốc.

Nhật Bản cách đây mấy năm cũng đã tham gia một loạt lô dầu khí. Mitsubishi đã tham gia rồi. Nói chung, chính sách đó thì Việt Nam đã làm từ lâu rồi, bây giờ chỉ làm mạnh hơn.

Có rất nhiều vấn đề trên Biển Đông khiến cho Việt Nam muốn khai thác nhưng chưa làm được do một loạt sự kiện xảy ra. Như mỏ Cá Rồng Đỏ thì Việt Nam phải ngưng lại nhưng thực tế vẫn muốn tiếp tục làm.”

Việt Nam tránh hợp tác quân sự

Sắp tới, ngày 11 tháng 4, 2024, hải quân Philippines sẽ cùng Nhật Bản, Hoa Kỳ tiến hành tuần tra chung trên Biển Đông. Trong khi Philippines đẩy mạnh hơn về hợp tác với Nhật Bản về quân sự trên Biển Đông, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác với Nhật Bản về kinh tế. Câu hỏi đặt ra là tại sao Việt Nam lựa chọn hợp tác về kinh tế thay vì hợp tác về quân sự mạnh mẽ như Philippines với các đối tác khác?

Trao đổi với RFA, ông Hồ Như Ý, nhà nghiên cứu độc lập về Trung Quốc ở Ba Lan, cho rằng Việt Nam tránh để cho nguy cơ đối đầu quân sự lên cao, bởi vì về lực lượng hải quân, “vài ba chiếc tàu Việt Nam mua về chỉ để cho vui chứ không có ý nghĩa gì” trong việc đối phó với sức mạnh hải quân của Trung Quốc.

Chính sách quốc phòng của Việt Nam là “mất bò mới lo làm chuồng” mà chuồng bây giờ cũng chẳng có. Đầu tư nhỏ giọt, không hiệu quả. Mỗi năm Trung Quốc ra được mấy chục tàu có tải trọng hai ba nghìn tấn trở lên. Họ dùng chiến lược sử dụng những tàu hải quân tải trọng ba đến năm nghìn tấn khoảng mười năm rồi chuyển sang cho Hải cảnh sử dụng. Họ dùng những con tàu đó để chèn ép Việt Nam, Philippines, Malaysia.

Các con tàu cảnh sát biển này do đó có trang bị còn mạnh hơn tàu hải quân chính quy của Việt Nam, Philippines. Ngay cả so sánh với hải quân Việt Nam thì những tàu có tải trọng lớn nhất vẫn là hai tàu lớp Hamilton do Mỹ viện trợ. Còn tàu mua của Nga, Pháp có tải trọng hai ngàn tấn thì Việt Nam chỉ có vài chiếc. Trong khi đó, Trung Quốc mỗi năm đóng vài chục chiếc như vậy. Họ đã đóng tàu với công suất như vậy hơn chục năm nay rồi, nghĩa là bây giờ họ có cả trăm chiếc, thì Việt Nam không thể so sánh được. Sự so sánh ở đây chỉ là khập khiễng.

Trước một chiến lược phát triển bài bản như vậy, lại có ưu thế vượt trội về ngân sách của Trung Quốc thì Việt Nam hoàn toàn không đỡ được.”

🔝

Thế trận an ninh mới ở Á châu: Việt Nam có thể bình thản được bao lâu?

2024.04.15 - RFA


Lãnh đạo Hoa Kỳ, Nhật Bản và Philippines họp thượng đỉnh tại Washington DC hôm 11/3/2024 - Reuters

Cuộc gặp thượng đỉnh ba bên Mỹ - Nhật Philippines hôm 11/4/2024 được nhận định đã truyền đi nhiều tín hiệu về một thế trận mới ở Châu Á nói chung và Biển Đông nói riêng. Tổng thống Philippines Marcos nói “nó sẽ thay đổi cục diện trong khu vực, ở xung quanh Biển Đông, ở ASEAN, ở châu Á.” Bản tuyên bố chung ba bên nói Hoa Kỳ và Nhật Bản đã và sẽ tăng cường phát triển hành lang kinh tế Luzon của Philippines, kết nối các trung tâm kinh tế ở Vịnh Subic, Clark, Manila và Batangas của nước này. Bên cạnh những kế hoạch phát triển công nghệ bán dẫn tại đây, những kế hoạch về hợp tác an ninh cũng được nhắc đến. Ba nước tuyên bố bảo vệ các nguyên tắc của Luật biển Quốc tế đối với Biển Đông, lên án các hành động hung hăng của Trung Quốc đối với Philippines tại bãi Cỏ Mây hơn một năm qua.

Mỹ - Nhật nâng cấp tổng hành dinh quân sự tại Tokyo

Theo Reuters, Đại sứ Hoa Kỳ tại Nhật Bản cho biết Mỹ sẽ có một thế trận chỉ huy quân sự mới, thay đổi căn bản trung tâm chỉ huy quân sự của mình tại Nhật Bản để tăng cường khả năng răn đe trước áp lực của Trung Quốc.

Giải thích thêm cho RFA về động thái nói trên, Tiến sỹ Nagao Satoru tại Viện Hudson nói với RFA rằng Nhật Bản và Mỹ đang có kế hoạch cải thiện chuỗi chỉ huy của mình. Hiện tại, Nhật Bản đang lên kế hoạch thành lập các trung tâm chỉ huy liên hợp (integrated headquarters) tại Tokyo vào tháng 3 năm 2025. Trung tâm chi huy này có khả năng công nghệ để kết hợp Lực lượng Phòng vệ trên bộ, trên biển và trên không.

Cùng với đó, trong chuyến thăm Mỹ lần này của Thủ tướng Nhật Kishida (từ ngày 8 đến 14 tháng tư), Mỹ đã quyết định phát triển trung tâm chỉ huy tại Tokyo để có thể hợp tác thông suốt, liền mạch với phía Nhật Bản. Cấp bậc chỉ huy của tổng hành dinh sẽ từ tướng ba sao lên tướng bốn sao. Vị tướng bốn sao ngang hàng với Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hiện tại ở Hawaii, nhà nghiên cứu về an ninh quốc tế tại Viện Hudson cho biết.

Tiến sỹ Nagao Satoru chỉ ra rằng đối với Trung Quốc thì Biển Đông, Biển Hoa Đông, Đài Loan là một tập hợp chung. Ví dụ, nếu Trung Quốc muốn xâm lược Đài Loan, họ sẽ phải kiểm soát biển Hoa Đông và biển Đông để cô lập Đài Loan. Chính phủ Bắc Kinh muốn phát triển năng lực kiểm soát tất cả các lĩnh vực này theo một “chiến lược liên hợp” (integrated strategy).

So với Trung Quốc, các nước khác gặp bất lợi vì Nhật Bản, Đài Loan, Philippines là những chính phủ khác nhau. Còn Mỹ đang chỉ huy lực lượng của mình từ rất xa địa bàn, Hawaii hay Washington DC.

Vì vậy, để vô hiệu hóa lợi thế của Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ đang lên kế hoạch chia sẻ vai trò an ninh nhiều hơn bằng cách tăng cường tổng hành dinh ở Tokyo. Đây là cách nâng cao “chất lượng” của sức mạnh răn đe.

Việt Nam tiếp cận vấn đề Trung Quốc khác với Philippines?

Các chuyên gia có những câu trả lời khác nhau đối với câu hỏi của RFA về phản ứng mà Việt Nam nên thực hiện trước những chuyển động mới trong khu vực.

TS. Nagao Satoru cho rằng mặc dù Việt Nam cũng có tên lửa Klub cho tàu ngầm lớp Kilo nhưng số lượng có hạn. Việt Nam đã đàm phán mua tên lửa Brahmos của Ấn Độ giốn như Philippines.

Theo ông Nagao, Việt Nam nên thúc đẩy sự hiện diện của hải quân các nước khác, thông qua các cuộc tập trận chung và trao đổi hữu nghị.

Trao đổi với RFA, nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Tp. HCM nhắc lại một bài viết của nhà nghiên cứu Khang Vũ trên tờ Diplomat trả lời câu hỏi tại sao Việt Nam không thể làm như Philippines được. Theo ông Hoàng Việt, mỗi quốc gia có một cách tiếp cận khác nhau. Hiện nay mặc dù Philippines đang là tâm điểm chú ý và được nhiều học giả phương Tây ủng hộ, nhưng rõ ràng nước này đã không có những bước đi chặt chẽ trước đây do đó hiện nay gặp nhiều bất lợi. Ông nói:

“Tôi chưa dám nói Philippines thất bại hay thành công, nhưng rõ ràng trong thời gian dài có nhiều chính sách chưa phù hợp.

Cố học giả Philippines Jose Santiago “Chito” Sta. Romana, đồng thời là cựu Đại sứ Philippines tại Trung Quốc, từng nói với tôi trong một hội thảo là một điều mà phía Việt Nam đã làm được trong năm 2014 khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 là giữ được tất cả những gì của mình và khiến cho Trung Quốc phải rời khỏi khu vực. Trong khi đó, phía Philippines đã đánh mất Scaborough vào tay Trung Quốc.

Tạm thời chúng ta có thể nhìn nhận như vậy thôi còn tương lai thế nào thì chưa biết. Đương nhiên mỗi quốc gia có một chiến lược khác nhau. Philippines và Mỹ có hiệp ước phòng thủ, nhưng Trung Quốc đang tìm cách làm xói mòn hiệp định này bằng chiến thuật vùng xám, gây sức ép nhưng bằng biện pháp phi quân sự.

Chưa rõ tương lai hiệp định này thế này, cách giải thích hiệp định sẽ ra sao. Trung Quốc vẫn còn dùng các biện pháp vùng xám, còn Philippines vẫn còn lúng túng, chưa tìm ra cách nào hiệu quả để chống lại đe dọa của Trung Quốc. Đó là vấn đề chúng ta cần theo dõi thêm.”

Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, chính sách Việt Nam khác Philippines vì thể chế chính trị khác nhau. Philippines rất mạnh mẽ nhưng cũng hay thay đổi. Philippines là một quốc gia đa đảng nên họ hay thay đổi chính sách. Khi một đời tổng thống mới lên là sẽ thay đổi chính sách trước đó. Điều này thì rất rõ ràng, từ thời ông Aquino đến ông Duterte đến ông Marcos hiện nay thì đều thay đổi chính sách đối ngoại. Ngoài ra, theo ông Hoàng Việt, chính sách của Philippines có thể chịu tác động của các vấn đề kinh tế. Ông nói:

“Đặc biệt là ở Philippines, kinh tế nằm trong tay các tài phiệt rất nhiều, đặc biệt là các tài phiệt gốc Hoa. Một mỏ dầu khí rất lớn của Philippines hiện nằm trong tay một đại gia gốc Hoa ở Philippines nên gặp rất nhiều vấn đề.

Philippines có cả bối cảnh riêng trong truyền thống chính trị của họ. Ông Duterte tiền nhiệm thì gần như giao toàn bộ các dự án thăm dò khai thác dầu khí của Philippines cho các công ty Trung Quốc. Việt Nam chưa bao giờ chấp nhận hợp tác với Trung Quốc. Trong khi đó, Philippines lại từng có lúc hợp tác với Trung Quốc như vậy. Và không chỉ từ thời Duterte mà trước đó Philippines từng hợp tác thăm dò với Trung Quốc. Lúc đó, ban đầu Việt Nam phản đối nhưng rồi sau đó buộc phải cùng tham gia dự án thăm dò đó với họ.”

Thế giới đang cố gắng “sẵn sàng” đối phó với hải quân “nước xanh” của Trung Quốc

Hiện chưa rõ Việt Nam sẽ có động thái gì mới, còn hầu hết các học giả đều cho rằng khu vực xung quanh Biển Đông sẽ tất yếu chứng kiến nhiều sự tăng cường hợp tác trong tương lai. Ông Greg Poling, Giám đốc Chương trình Minh bạch Hàng hải Châu Á ở Trung tâm CSIS, nói với RFA về chiến lược dài hạn của Trung Quốc, đồng thời giải thích vì sao các quan hệ an ninh ngày càng tăng lên trong khu vực:

“Họ có chiến lược biển gần. Đó là biển Hoàng Hải và Biển Đông. Trong chiến lược của Trung Quốc, họ xác định phải kiểm soát những vùng biển đó, bất chấp luật pháp quốc tế có quy định thế nào. Đó là mối đe dọa cho toàn bộ trật tự toàn cầu.

Kế tiếp, Trung Quốc có một chiến lược riêng cho các vùng biển xa, ở Ấn Độ Dương, nằm ngoài cái gọi là "chuỗi đảo thứ nhất". Trung Quốc muốn có "Hải quân nước xanh", tức lực lượng hải quân hoạt động ở vùng biển xa, để có thể hoạt động trên phạm vi toàn cầu.

Ngày đó chắc chắn sẽ đến. Chúng ta không thể làm gì để ngăn cản Trung Quốc sở hữu lực lượng hải quân "nước xanh."

Chúng ta nên chuẩn bị cho ngày đó. Chúng ta nên theo dõi hành trình đó của Trung Quốc, tăng cường quan hệ đối tác và an ninh. Chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta có thể sẵn sàng đối phó một khi Hải quân "nước xanh" của Trung Quốc đi vào vận hành đầy đủ, trở thành một mối đe dọa quân sự.”

Theo TS. Nagao Satoru, tất cả những hợp tác mới về an ninh này là do sự hiện đại hóa quân sự nhanh chóng và khiêu khích của Trung Quốc. Ông Nagao cho biết cùng với quá trình hiện đại hóa quân sự nhanh chóng, Trung Quốc chỉ riêng trong mười năm qua đã đóng mới 148 tàu hải quân, gần bằng tổng số tàu hải quân mà Nhật Bản hiện sở hữu.

Để ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc, TS. Nagao khẳng định, Nhật Bản và Mỹ không thể chạy đua về số lượng vì ngân sách hạn chế. Vì vậy, Nhật Bản và Mỹ phải nâng cao chất lượng. Chuỗi chỉ huy liên hợp và kết nối với nhau liền mạch của hai nước có thể nâng cao hiệu quả quân sự.

🔝

Trại giam số 6 không cho TNLT Bùi Văn Thuận và người nhà giao tiếp bằng tiếng Mường

2024.04.16 - RFA


Nhà hoạt động Bùi Văn Thuận trước khi bị bắt- Fb Thuan Van Bui

Cán bộ quản giáo của Trại giam số 6 không đồng ý cho tù nhân lương tâm (TNLT) Bùi Văn Thuận nói tiếng Mường với gia đình mình khi thăm gặp dù thông tư của Bộ Công an cho phép.

Ông Thuận, 43 tuổi, người dân tộc Mường ở tỉnh Hoà Bình đang thi hành bản án tám năm tù giam tại trại giam ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An về tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự.

Vợ ông, bà Trịnh Thị Nhung, cho Đài Á Châu Tự Do (RFA) biết trong cuộc thăm gặp với bố mẹ hồi tháng 08/2023 và với em trai vào tháng 02/2024, cán bộ trại giam không cho sử dụng tiếng Mường để giao tiếp với nhau mà buộc họ phải sử dụng tiếng Việt.

Bà nói với RFA qua điện thoại ngày 16/4:

Bố mẹ anh ấy là người dân tộc sống ít tiếp xúc với người Kinh, gần cả cuộc đời chỉ ở trong xóm làng nên giao tiếp bằng tiếng Kinh rất khó khăn. Tuy nhiên, họ (trại giam- PV) vẫn bắt phải nói chuyện bằng tiếng Kinh (tiếng Việt-PV), không được nói bằng tiếng mẹ đẻ.”

Ông Thuận phản đối việc này nhưng cuối cùng người thân cũng phải giao tiếp tiếng Việt với ông dù rất khó khăn, thỉnh thoảng họ chêm tiếng Mường vào và bị cán bộ dọa lập biên bản.

Bà chất vấn:

Nhà nước mình luôn tuyên truyền rằng 54 dân tộc đều bình đẳng với nhau đều có mọi quyền như nhau nhưng mà tại sao tiếng Mường lại không được phép sử dụng trong giao tiếp?!”

Người Mường là dân tộc thiểu số trong 54 dân tộc được công nhận chính thức ở Việt Nam. Trong khi đó, Khoản 3, Điều 5 của Thông tư số 07/2018 của Bộ Công an có hiệu lực từ ngày 29/3/2018 quy định ngôn ngữ giao tiếp giữa tù nhân và người đến thăm là tiếng Việt.

Trường hợp là người dân tộc thiểu số và người nước ngoài không biết tiếng Việt thì được sử dụng ngôn ngữ khác.

Phóng viên không thể kết nối với số điện thoại được công bố trên Internet của Trại giam số 6 để kiểm chứng thông tin.

Bị phân biệt đối xử vì hoạt động trực tuyến của vợ

Trong cuộc thăm gặp với người thân ngày 13/4 vừa qua, ông Thuận cho biết bị chuyển từ Phân trại 2 sang Phân trại 1 và bị giam trong điều kiện hà khắc hơn. Bà Nhung nói:

Anh Thuận cùng một người nữa bị chuyển qua Phân trại 1 và hiện anh ấy đang ở cùng phòng với hai người và cái phòng anh Thuận ở rất chật chội, nóng bức và không có cửa sổ và anh ấy không có nơi để đi lại, anh ấy phải ở trong phòng cả ngày.”

Việc buộc phải ở trong buồng giam chật chội trong khi các phòng khác có điều kiện tốt hơn, có cửa sổ thông thoáng, có nơi để đi lại tập thể dục khiến ông cảm thấy bản thân bị phân biệt đối xử và giống như bị "biệt giam."

Ông Thuận không hiểu lý do vì sao lại bị chuyển đến một phòng giam “tệ hơn cả chuồng cọp và tệ hơn cả lúc bị tạm giam” dù không vi phạm nội quy. Tuy nhiên, ông thuật lại với vợ, trước khi bị chuyển phân trại, an ninh Thanh Hoá vào làm việc với ông về việc bà Nhung đăng tải bài viết trên mạng xã hội Facebook, với thái độ “không hài lòng.”

Như tin đã đưa, trong thời gian trước và sau tết Nguyên đán vừa qua, bà Nhung nhiều lần bị công an thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa mời lên đồn để tra khảo về việc bà ký tên trong thỉnh nguyện thư đòi tự do cho nhà hoạt động Nguyễn Thuý Hạnh, người đang phải điều trị cùng lúc hai căn bệnh trầm cảm và ung thư cổ tử cung khi đang bị tạm giam.

Công an địa phương cũng ép buộc bà Nhung phải thừa nhận sử dụng một số danh khoản Facebook có tên bà và có hình ảnh đại diện là ảnh của gia đình.

Ngoài ra, tình trạng người lạ mặt đến gần nhà để quấy rầy hai mẹ con hoặc bám sát khi bà đi ra ngoài vẫn tiếp diễn dù đã nhiều lần trình báo công an địa phương.

🔝

Mô hình Trung Quốc “thoái trào”, Việt Nam học hỏi thế nào? (phần hai)

2024.04.16 - Bình luận của Doãn An Nhiên - RFA

Mô hình Trung Quốc “thoái trào”, Việt Nam  học hỏi thế nào? (phần hai)
Một người bán hàng ở Hà Nội hôm 11/10/2023 (minh họa) - AFP

Trong phần một, gắn với chuyến công du dài ngày đến Trung Quốc của ông Chủ tịch Quốc hội nước Việt Nam sự chia sẻ quan điểm về “mô hình Trung Quốc” đang ở vào giai đoạn “thoái trào” của “chu kỳ lớn”, theo cách gọi của Raymond Dalio, được trình bày. Phần hai này sẽ nêu ý nghĩa của “vấn đề” mô hình Trung Quốc thế nào đối với Việt Nam, đặc biệt cần thiết phải thấu hiểu hơn về việc giới lãnh đạo hai nước, một “cộng đồng chung” mà Trung Quốc mong muốn, cùng chia sẻ tương lai thế nào trong trật tự thế giới mới?

Trong buổi gặp với ông Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, ông Tập Cận Bình khuyên ‘người anh em’ Việt Nam sử dụng ‘trí tuệ chính trị’[1] (tiếng Trung giản thể là “知识分子政治”, tiếng Anh là “political wisdom”) trong việc quản lý các mối quan hệ với Bắc Kinh, giữa lúc hai bên đang tìm cách hóa giải căng thẳng trên Biển Đông và, khi hai nước “núi liền núi, sông liền sông” với cam kết “chia sẻ tương lai chung.”

Đường lối Đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng CS) được khởi xướng năm 1986 chính thức tại Đại hội lần thứ 6 của Đảng. Đây là quyết định chính sách đột phá trước những thách thức lớn về kinh tế và chính trị đe dọa sự tồn vong của chế độ Đảng CS toàn trị theo mô hình Liên Xô với cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu. Về bản chất, ý thức hệ chủ nghĩa xã hội (CNXH) và những ảnh hưởng từ thực tế “cải cách và mở cửa” của Trung Quốc đã xác quyết đường lối Đổi mới. Giới lãnh đạo Việt Nam đã ‘gạt sang bên’ những xung đột căng thẳng, thậm chí là chiến tranh năm 1979, nói chung về chủ quyền biên giới phía Bắc và lãnh hải ở biển Đông để theo đuổi đường lối này. Mặc dù không ‘thần kỳ’ như Trung Quốc, nhưng những thành công kinh tế là rõ rệt, cụ thể tốc độ tăng trưởng tương đối cao và xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, với lợi thế của một nước đi sau, Việt Nam đã không sử dụng đủ những cơ hội để phát triển vì bị ý thức hệ giáo điều níu kéo và ‘tính thực dụng’ chỉ được phát huy hạn chế, muộn mằn kiểu như chính sách “ngoại giao cây tre”.

Giới lý luận “cung đình” nhận thức, đại thể, thế này[2] về chính sách “cải cách và mở cửa” nói riêng và về mô hình Trung Quốc nói chung, trong đó nhấn mạnh về quá trình phát triển lý luận “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” được hình thành và hoàn thiện theo tiến trình thay đổi của thực tiễn cuộc sống! Quá trình này được chia thành bốn giai đoạn: một là, Lý luận Đặng Tiểu Bình; hai là, Tư tưởng “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân; ba là, Quan điểm phát triển khoa học của Hồ Cẩm Đào; bốn là, Tư tưởng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới của Tập Cận Bình.

Ông Đặng Tiểu Bình được ca ngợi vì đã ‘mưu lược’ ứng dụng triết lý thực dụng trong duy trì sự cai trị của chế độ Đảng CS Trung Quốc đồng thời thúc đẩy cải cách phát triển đất nước. Nhấn mạnh chủ nghĩa xã hội (CNXH) đặc sắc Trung Quốc, lý luận thực dụng được thể hiện với tư cách là đường lối của Đảng dựa trên chủ nghĩa Mác; Với tư cách là chế độ chính trị; Và, với tư cách là sự nghiệp chính trị của hệ thống. Những thế hệ lãnh đạo tiếp theo thúc đẩy tư tưởng này. Chẳng hạn, Giang Trạch Dân nêu thuyết “Ba đại diện”: đó là đại diện cho yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện cho xu hướng tiến lên của nền văn hóa tiên tiến, đại diện cho lợi ích căn bản của toàn thể quần chúng nhân dân. Đến Hồ Cẩm Đào với quan điểm được ‘đúc kết’ hai thời kỳ trước và cho rằng cần thiết phải nắm được quy luật phát triển, lấy dân làm gốc, phát triển cần toàn diện, hài hòa và bền vững. Tập Cận Bình đã nâng tầm cá nhân lên thành “hạt nhân” dân tộc, viết lại lịch sử đảng ngoài việc biện minh cho chủ nghĩa Mác, giải thích theo nhãn quan lãnh tụ Đảng CS về nhân dân và các quy luật phát triển xã hội...

Không khó để quan sát “lý luận” Đảng đang ‘yếu dần’ bởi luận cứ, xa dần kinh điển chủ nghĩa Mác và thực tế ‘xã hội chủ nghĩa’… Đến thời Tập Cận Bình, như đã biết, diễn ra sự thay đổi bước ngoặt về chính sách và quyền lực. Sự trỗi dậy trở nên hung hăng, dần kết thúc chính sách thực dụng, với những thái độ hận thù “trăm năm quốc sỉ”, ý tưởng khủng về “một vành đai một con đường”, bất chấp luật pháp quốc tế như “đường lưỡi bò mười đoạn”… và, hơn thế, ảo tưởng sức mạnh quyền lực cá nhân tuyệt đối. Ông Tập Cận Bình thấy không đủ thời gian để hiện thực hoá các ý tưởng khi bị giới hạn trong hai nhiệm kỳ 10 năm và, đã nỗ lực ở lại, có thể là ‘suốt đời,’ để theo đuổi chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.

Theo bài viết[2] trên trang Tạp chí Cộng sản, thì những gì được hàm ý cho Việt Nam? Gồm: “Một là, phải khẳng định một điều chắc chắn rằng, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, sáng tạo lý luận là trọng trách nặng nề nhưng vô cùng vẻ vang của Đảng.” “Hai là, đổi mới tư duy, nghiên cứu phát triển lý luận mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.” “Ba là, phải luôn quán triệt tư tưởng, kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường phát triển của Việt Nam.” “Bốn là, cần tăng cường đi sâu nghiên cứu phát triển lý luận mới để làm sâu sắc hơn những luận điểm về: 1- Hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam; 2- Con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; 3- Chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.” Tác giả gọi đó là bốn “gợi mở” nhưng thực ra là những yêu cầu và nhiệm vụ đối với Đảng phải cụ thể hoá “mô hình Trung Quốc” trong điều kiện Việt Nam.

Viết đến đây, chợt nhớ đến nhà lý luận “cung đình” Trung Quốc, Vương Hỗ Ninh, như trong phần một cũng đã giới thiệu qua rằng ông ấy hiện là Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc (tương tự Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc), nhân vật quan trọng thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính trị Đảng CS TQ, người cũng đã tiếp ông Huệ trong chuyến đi vừa nêu ở trên. Ông Vương làm quân sư cho ba đời Tổng bí thư và thăng tiến trong sự nghiệp chính trị khởi đầu với những nghiên cứu như “Nước Mỹ chống lại nước Mỹ” (Huning Wang, America against America. 1990)[3]. Cuốn sách này là nỗ lực của ông ấy với tư cách học giả nhằm giải thích những lý do đằng sau sự thành công của Hoa Kỳ trong thế kỷ 20, đồng thời đưa ra quan điểm phê phán về các vấn đề cơ cấu khác nhau mà Hoa Kỳ đã phải đối mặt trong những năm 1990. Đó là một góc nhìn về lý do tại sao Hoa Kỳ có khả năng hướng tới sự suy thoái… Cùng với ông ấy, giới lý luận cung đình Trung quốc cũng đã góp phần không nhỏ trong việc biện minh cho lý luận về “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”. Ngoài ra, vượt ra khỏi không gian Trung Quốc, cái gọi là “làn sóng thứ ba của chủ nghĩa xã hội”[4] cũng có dấu ấn của họ.

“Mô hình Trung Quốc” thấm đẫm tinh thần ý thức hệ chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam không thể buông bỏ bởi sự tương đồng về chế độ chính trị. Đường lối Đổi mới sắp trải qua 40 năm nhưng sự sáng tạo trong vận dụng cụ thể vào thực tế là gì vẫn là câu hỏi đối với giới lý luận cung đình nước nhà. Giới lãnh đạo nhìn tương lai đất nước thế nào? Cách thức tiến tới xã hội chủ nghĩa thế nào và bao giờ? Hơn thế, điều gì sẽ soi sáng cho các chính sách cải cách trong bối cảnh quốc tế phức tạp và biến động khó lường. Và, quan trọng hơn, là trong bối cảnh “mô hình Trung Quốc” đang thoái trào.

______________

Tham khảo:

[1] https://www.bbc.com/vietnamese...

[2] https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/827538/qua-trinh-phat-trien-ly-luan-ve-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-dac-sac-trung-quoc-va-mot-so-goi-mo-doi-voi-viet-nam.aspx

[3] https://ia801806.us.archive.org/12/items/america-against-america/America%20Against%20America.pdf

[4] https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/blog/vcp-prepares-documents-for-14-th-party-congress-part-2-03052024100706.html

🔝

Mô hình Trung Quốc “thoái trào”, Việt Nam học hỏi thế nào? (phần một)

2024.04.16 - Bình luận của Doãn An Nhiên - RFA


Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Vương Đình Huệ tại Hà Nội hôm 13/12/2023 (minh họa)

Ông Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam), vừa kết thúc chuyến công du gần một tuần đến Trung Quốc. Đây là chuyến thăm chính thức để “xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược Việt Nam - Trung Quốc vào tháng 12/2023. Với hơn 40 hoạt động chính thức cấp cao và nhiều hoạt động bên lề phong phú…” [1], ông Huệ được tiếp đón bởi các nhà lãnh đạo nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (Trung Quốc) như ông Tập Cận Bình, Tổng bí thư - Chủ tịch nước, ông Triệu Lạc Tế, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Nhân đại toàn quốc (tương tự như Quốc hội) và ông Vương Hộ Ninh, Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc (Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc) và đi thăm một số địa phương và nhiều tập đoàn kinh tế lớn.

Bối cảnh xã hội dân sự thiếu vắng, kinh tế trầm lắng và chính trị căng thẳng khiến chuyến đi trên có nhiều suy đoán xung quanh. Truyền thông Nhà nước cho biết chuyến đi làm sâu sắc quan hệ giữa hai nước, để triển khai những văn bản ký kết giữa hai nước trong chuyến đi “chia sẻ tương lai chung” của ông Tập đến Việt Nam hồi cuối năm 2023; Mạng xã hội suy đoán: liên quan đến công tác nhân sự chuẩn bị kế nhiệm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tại đại hội 14 dự kiến đầu năm 2026? Một chuyến đi dài ngày hiếm thấy của các nguyên thủ quốc gia dưới chế độ dân chủ! Từ góc nhìn chi phí từ tiền thuế của dân và hiệu quả chuyến đi liệu đoàn ông Huệ có học hỏi được gì từ mô hình Trung Quốc đang “thoái trào”?

Mô hình phát triển là cách thức mà quốc gia vận hành và tiến hoá theo thời gian. Mô hình Trung Quốc được coi là bắt đầu từ năm 1978, do Đảng Cộng sản Trung Quốc khởi xướng từ Hội nghị Trung ương 3 nhiệm kỳ Đại hội khóa 11 và, trải qua năm thế hệ lãnh đạo những nhận thức và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc được đưa ra với triết lý thực dụng và được vận dụng trong thực tế quản trị đất nước rộng lớn với 1,4 tỷ dân. Trong khoảng 30 năm đầu vận hành mô hình được ca ngợi, được coi là lý tưởng cho các nước đang phát triển, và hơn thế với Việt Nam bởi tương đồng về chế độ chính trị. Nó mang lại thành tích tăng trưởng ‘thần kỳ’ với hai con số, từ đó tạo công ăn việc làm, xoá nghèo, đô thị hoá và phát triển cơ sở hạ tầng… Năm 1980 tổng sản phẩm quốc nội GDP của Trung Quốc bằng khoảng 2% của Mỹ thì nay đã gần đuổi kịp, 18 nghìn tỷ đô la so với 25 nghìn tỷ…

Từ sự ‘ngạc nhiên’ về sự kỳ diệu tăng trưởng, Mỹ, phương Tây bắt đầu lo lắng trước sự trỗi dậy của cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới. Vô số những nghiên cứu về mô hình và tranh luận sôi nổi, trái chiều, ủng hộ và phê phán, diễn ra. Trong khoảng hơn thập kỷ gần đây, đặc biệt từ khi ông Tập Cận Bình nắm quyền tối cao tại Đại hội 18 năm 2012 của Đảng CS và nhà nước Trung Quốc năm 2013 cho đến hiện tại sự trỗi dậy của Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn, hướng đến cạnh tranh ngôi bá chủ trong bối cảnh thế giới biến động nhanh và phức tạp khó lường.

Gần nửa thế kỷ vận hành thời kỳ “cải cách và mở cửa” của Trung Quốc và tương lai của nó được giới quan sát, nghiên cứu, giới chính trị đặc biệt chú ý. Ở các chế độ dân chủ phương Tây, tự do tư tưởng giúp đa dạng cách nhìn về mô hình Trung Quốc. Một trong những mối quan tâm hàng đầu là vai trò của quốc gia này trong việc làm thay đổi trật tự thế giới. Và, trong số các công trình nghiên cứu xuất bản gần đây, có cuốn bán chạy nhất (New York Times Bestseller): “Các nguyên tắc ứng phó với sự thay đổi trật tự thế giới” (2021) [2] của Raymond Dalio (1949 -). Ông là một nhà đầu tư, quản lý quỹ, và nhà từ thiện người Mỹ, người sáng lập công ty đầu tư Bridwater Associates, một trong số các quỹ đầu tư lớn, làm ăn thành công ở Trung Quốc từ 2011. Ray Dalio nghiên cứu các giai đoạn kinh tế và chính trị hỗn loạn nhất trong lịch sử khi nhận thấy sự hợp lưu của các điều kiện chính trị và kinh tế như: các khoản nợ khổng lồ dẫn đến việc in tiền lớn; xung đột chính trị và xã hội lớn trong mỗi quốc gia bởi sự chênh lệch về tài sản và chia rẽ chính trị trong hơn một thế kỷ qua; và sự “trỗi dậy” của một cường quốc kinh tế thứ hai thế giới (Trung Quốc) đang thách thức cường quốc số một thế giới hiện tại (Mỹ) đang “thoái trào” để thay đổi trật tự thế giới hiện tại. Ông đã khái quát "Chu kỳ lớn" gồm ba giai đoạn: trỗi dậy, đỉnh cao và thoái trào, đã thúc đẩy thành công và thất bại của tất cả các quốc gia lớn trên thế giới trong suốt lịch sử. Theo ông ấy, những thay đổi theo tính chu kỳ như vậy có thể giúp chúng ta nhìn về tương lai…

Trong cuốn sách của Ray Dalio việc phân tích sự thăng trầm của Hoa Kỳ không gây tranh cãi lắm rằng sau thế chiến 2 Mỹ thiết lập trật tự thế giới mới. Khởi đầu chu kỳ lớn với sự thống trị thương mại, đô-la là đồng tiền dự trữ của thế giới. Tiếp theo cho đến những năm 1970 đó là “thời đại hoàng kim của chủ nghĩa tư bản”, trong đó mọi người đánh cược vào hòa bình và thịnh vượng hơn, vay mượn ngày càng nhiều dẫn đến nợ tư nhân trên GDP bùng nổ. Đến năm 2008 tỷ lệ này đã vượt quá 170%. Hoa Kỳ đã phải in tiền, ‘nới lỏng định lượng’ để cứu lĩnh vực tài chính. Hậu quả là suy thoái kinh tế… khiến cuộc sống càng khó khăn hơn, gia tăng phân hoá giàu nghèo và bất ổn xã hội, chia rẽ đảng phái trong Quốc hội, cũng như các cuộc biểu tình và bất mãn... Ray Dalio tuyên bố rằng nước Mỹ hiện đang trong giai đoạn “thoái trào” – như một lời cảnh tỉnh trước sự “ngạo mạn” của phương Tây trong nhiều vấn đề toàn cầu!

Tuy nhiên, phân tích của Ray Dalio về sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày càng gây nhiều tranh cãi. Ông đã sử dụng những loại nguồn tư liệu, cách tiếp cận với những tiêu chí tương tự như với thực trạng của Mỹ áp dụng cho Trung Quốc nhưng thiếu định lượng cần thiết để so sánh với một quốc gia với chế độ chuyên chế, độc đảng CS cầm quyền khiến kết luận trở nên ‘không đáng tin cậy’ [3]. Những dữ liệu và bằng chứng chỉ ra rằng mô hình Trung Quốc cũng đang ở giai đoạn “thoái trào” của “chu kỳ lớn”. Trung Quốc rõ ràng đã trải qua những bước đầu tiên của chu kỳ. Nó đã trở thành công xưởng của thế giới, một siêu cường thương mại… Tuy nhiên, với tỷ lệ nợ rất cao, năm 2020 đã là 217%. Ngoài ra, các vấn đề chênh lệch lớn giàu nghèo, khủng hoảng địa ốc tồi tệ với chính sách hỗ trợ để giải cứu, tỷ lệ cao thất nghiệp thanh niên trong bối cảnh già hoá dân số, giảm phát, vốn đầu tư nước ngoài giảm hơn 70% trong năm 2023... Ngoài ra, xung đột nội bộ căng thẳng qua chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” kết hợp với thanh trừng phe phái, sự bất mãn, sự đàn áp bị che đậy bởi nỗi sợ hãi, sự phục tùng, quyền tự do phổ quát bị cấm…

Những đặc điểm nêu trên chứng tỏ thực tế rằng Trung Quốc đã bước vào giai đoạn “thoái trào” nhưng với biên độ ngắn hơn Mỹ mà thôi. Trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ - Trung giới nghiên cứu và hoạch định chính sách nỗ lực “giải ảo” sự tăng trưởng thần kỳ của mô hình Trung Quốc. Trường hợp điển hình là nhà nghiên cứu khoa học chính trị thuộc Đại học Michigan, tiến sĩ Yuen Yuen Ang đã chỉ ra “thời đại vàng son của Trung Quốc” [4] đang sụp đổ vì tham nhũng làm tha hóa quyền lực tuyệt đối, trong đó nghịch lý tăng trưởng nhanh và tham nhũng tràn lan. Hơn thế, mới đây trong chuyến công du Trung Quốc ngày 8-9 tháng 4 năm 2024 bà Janet Yellen, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ đã cảnh báo của tới Trung Quốc về 'sự dư thừa năng lực kinh tế' [5] rằng, "Khi thị trường toàn cầu tràn ngập các sản phẩm Trung Quốc rẻ tiền giả tạo, khả năng tồn tại của các công ty Mỹ bị đặt câu hỏi" – Bà ấy phát biểu tại Bắc Kinh. Và, theo các nhà phân tích, đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu không chỉ khiến nợ công trên GDP của Trung Quốc tăng cao mà còn phức tạp vấn đề khi nó che giấu trợ cấp của nhà nước cho sản xuất dư thừa (‘Economic Overcapacity’) ‘vượt nhu cầu’ của thế giới tạo ra hàng hoá rẻ dẫn đến cạnh tranh không công bằng…

Mô hình kinh tế đang sụp đổ [6] không chỉ bởi xu hướng kinh tế đang suy giảm nhanh chóng, mà còn do khủng hoảng cơ cấu, mất cân đối, phi thị trường… đòi hỏi sự thay đổi mạnh về chính sách và thể chế. Hơn thế, chính trị cũng đang khủng hoảng nghiêm trọng khi Tập Cận Bình quay lại chế độ độc đoán [7] hơn bất kỳ giai đoạn nào trong hơn 40 năm qua.

Đặt vấn đề “Mô hình Trung Quốc” có ý nghĩa thế nào đối với Việt Nam cần thiết phải hiểu thấu đáo hơn về giới lãnh đạo hai nước này, “cộng đồng chung” chia sẻ tương lai thế nào trong trật tự thế giới mới?

_____________

Tham khảo:

[1] https://quochoi.vn/...

[2] https://www.principles.com/

[3] https://www.youtube.com/watch?v=s1iv0q_SW3E

[4] https://spia.princeton.edu/events/chinas-gilded-age-paradox-economic-boom-and-vast-corruption-book-talk

[5] https://www.youtube.com/watch?v=fWfOHYo31nA

[6] https://www.youtube.com/watch?v=3pnrwxfQtIo&t=151s

[7] https://www.youtube.com/watch?v=5vWCzfX9MI4&t=433s

🔝

Chuyên gia: xuất khẩu lao động không có lợi cho Việt Nam về lâu dài

2024.04.15 - RFA

Xuất khẩu lao động (XKLĐ) không còn phù hợp và không có lợi về lâu dài đối với kinh tế - xã hội Việt Nam - Một chuyên gia về lao động nhận định như vậy về tình trạng XKLĐ ở Việt Nam hiện nay.

VN tiếp tục thúc đẩy XKLĐ

Trong thời buổi kinh tế khó khăn, hàng loạt các ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam như dệt may, da giày, chế biến gỗ, sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử… đều đối mặt với tình trạng thiếu đơn hàng.

Theo Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH), trong 6 tháng đầu năm 2023, đã có hơn 500.000 lao động bị ảnh hưởng việc làm. Trong đó, số lao động mất việc lên tới 279.409 người, chiếm 54,79% lao động bị ảnh hưởng.

Trong bối cảnh đó, xuất khẩu lao động được coi là một cái phao cứu nguy cho nền kinh tế cũng như mang lại cơ hội việc làm cho người lao động Việt Nam.

Năm 2023, lượng kiều hối đổ về Việt Nam cao kỷ lục với 16 tỷ USD, chiếm khoảng 4% GDP và tương dương 2/3 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được giải ngân của Việt Nam.

Trong một bài viết được đăng tải trên trang web Fulcrum hôm 4/3, có tựa đề “Vietnam’s Labour Export: Economic Boon or Developmental Bane?” (tạm dịch là “Xuất khẩu lao động của Việt Nam: Lợi ích kinh tế hay tai họa cho sự phát triển?”, tiến sỹ Nguyễn Khắc Giang nhận định Chính phủ Việt Nam coi xuất khẩu lao động là giải pháp then chốt để phát triển nguồn nhân lực, giải quyết vấn đề thất nghiệp, tạo kiều hối và nâng cao kỹ năng cho người lao động. Vì vậy, kể từ năm 2010, hơn 1,4 triệu người Việt Nam đã ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng ngắn hạn.

Do đó, Bộ LĐTB&XH tiếp tục đặt mục tiêu đưa 125.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài trong năm 2024, tập trung vào các thị trường có thu nhập cao như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Đức…

Thạc sỹ Luật học Trịnh Khánh Ly, người từng làm việc cho Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Hà Nội, đánh giá việc lao động từ một nước có nền kinh tế kém phát triển hơn sang làm việc tại một nước có nền kinh tế phát triển hơn là một thực trạng không mới. Nếu như lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật, lao động có trình độ cao sau một thời gian công tác tại những nước có nền kinh tế phát triển, tiếp thu thêm được những kiến thức, kỹ năng chuyên môn và trở về phục vụ đất nước thì đây là một lợi thế cho đất nước họ:

“Tuy nhiên, nếu người lao động sau đó không trở về thì những nước đó không chỉ chịu tổn thất về đầu tư giáo dục cho những lao động này mà còn mất đi một lực lượng lao động cho đất nước. Cho đến nay số lượng những lao động Việt Nam có trình độ sau một thời gian làm việc ở nước ngoài quay trở về Việt Nam là rất ít.”

Hệ luỵ khi phụ thuộc XKLĐ

Dù lượng kiều hối tăng cao mang lại lợi ích cho kinh tế, tuy nhiên, cũng theo tiến sỹ Khánh Ly, chính sách khuyến khích XKLĐ của Việt Nam là không còn phù hợp và không có lợi về lâu dài đối với kinh tế - xã hội Việt Nam.

Nguyên do, theo bà Khánh Ly là vì những lao động không có trình độ đi XKLĐ đều nằm trong độ tuổi rất trẻ, phần lớn không nói được tiếng sở tại, khó tiếp cận được các kiến thức, kỹ năng chuyên môn của các nước có nền kinh tế phát triển. Sau một thời gian ở nước ngoài, dù có trở về Việt Nam thì họ cũng trở thành lao động lớn tuổi, sức khỏe suy giảm và việc không có kiến thức, kỹ năng chuyên môn sẽ làm họ khó khăn hơn trong việc tái hòa nhập cuộc sống tại Việt Nam.

Bộ LĐTB&XH, vào tháng 8/2022, cho biết lao động Việt Nam có mặt tại 40 quốc gia trong hơn 30 lĩnh vực, ngành nghề. Tuy nhiên, có đến 90% số này là lao động tay nghề thấp, trình độ học vấn không cao.

Bà Khánh Ly nhận định, nhóm lao động không có trình độ chuyên môn, kỹ thuật ở nước ngoài đã và đang gặp rất nhiều rủi ro tại nước sở tại như phí môi giới quá cao mà tiền lương trong một số trường hợp không đủ để trang trải cuộc sống nước sở tại, khiến nhiều người lào động bỏ trốn làm việc bất hợp pháp.

Tại Châu Âu, nhiều lao động Việt Nam làm việc ở một số nước Đông Âu như Rumania, Séc, Ba Lan… mặc dù phải lao động vất vả nhưng tiền lương eo hẹp nên sau một thời gian bằng nhiều cách khác nhau họ lại tìm cách sang các nước Tây Âu như Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ… và nhiều người vượt biên sang Anh một cách bất hợp pháp. Và vụ 39 người Việt bỏ mạng trong một chiếc xe thùng trên đường nhập cư lậu vào nước Anh hồi năm 2019 là một hậu quả thảm khốc cho sự lựa chọn này.

Ngoài ra, Việt Nam vẫn chưa thiết lập được một hệ thống quản lý và hỗ trợ lao động Việt Nam tại các nước sở tại vì vậy khó có thể hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi một cách hiệu quả cho họ khi cần.

Theo ông Nguyễn Khắc Giang, xuất khẩu lao động cũng kèm theo nhiều thách thức, hệ luỵ cho xã hội. Ví dụ, các tỉnh thành có số người làm việc ở nước ngoài đông đang phải đối mặt với nguy cơ tan rã cấu trúc gia đình truyền thống.

Một số lãnh đạo ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh cho biết năm 2022, tỷ lệ ly hôn ở huyện này khá cao, nguyên nhân phần lớn có liên quan đến xuất khẩu lao động.

Chị T, hiện đang ở Bắc Giang, chia sẻ với RFA rằng do công việc kinh doanh của hai vợ chồng chị không ổn định, đi làm công nhân gần nhà thì lương không đủ nuôi hai con ăn học và trang trải cuộc sống. Do đó, chồng chị T phải sang Đài Loan làm việc từ bốn năm qua. Cũng từ đó, ngoài những cuộc nói chuyện qua điện thoại, các con của chị chưa được gặp lại bố. Chị nói:

“Nhiều nhà có một người đi, một người ở nhà thì dễ nảy sinh vấn đề lắm. Nhưng mà giờ ở quê mình kinh doanh thất bại thì phải đi thôi. Một mình vừa đi làm, vừa chăm con nhỏ cũng khó khăn nhưng mà phải chịu chứ biết làm sao.”

Từ những hệ luỵ vừa nêu, tiến sỹ Nguyễn Khắc Giang cho rằng XKLĐ nên được tiếp cận như một đòn bẩy tạm thời chứ không phải là động lực tăng trưởng vĩnh viễn. Việt Nam phải xây dựng một chiến lược dài hạn nhằm giảm dần sự phụ thuộc vào XKLĐ. Thay vào đó tập trung vào phát triển thị trường lao động trong nước cạnh tranh, nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động.

Theo bà Khánh Ly, Việt Nam nên tận dụng thời cơ khi hiện đang được coi là điểm đến đầu tư sáng giá của các doanh nghiệp FDI:

“Thay vì là một nền kinh tế dựa vào XKLĐ, Việt Nam nên chú trọng hơn vào việc đào tạo lao động để phục vụ cho các ngành sản xuất đang ngày càng đóng vai tròquan trọng cho nền kinh tế. Nếu không kịp thời thay đổi chính sách thì Việt Nam sẽ mất nhiều cơ hội khi mà chỉ hơn 10 năm nữa sẽ qua giai đoạn dân số vàng và bước vào giai đoạn dân số già.”

🔝