logo-vuot
acrobat  📂  🏠   

Vương Trí Nhàn - 1

Nỗi Sung Sướng Của Kẻ Được Đồng Nghiệp Nhớ Lại Một Cuốn Sách Cũ

14.5.2022 - Vương Trí Nhàn

VuongTriNhan-01-01

Ảnh kèm theo là do tôi trích từ Fb Trần Đình Sử ngày hôm nay. Tôi đã cảm ơn anh trong mấy câu còm - men bên dưới ảnh nay xin ghi lại để các bạn cùng đọc.

"Xin cám ơn anh Sử còn lưu giữ kỷ niệm cũ.

Dăm năm sau tập CBĐN này. khi tôi làm tập sưu tầm Người xưa cảnh tỉnh và mon men định viết thói hư tật xấu người Việt rồi bị đánh hội đồng, có lần găp nhau ở HNV, anh còn ân cần gọi riêng tôi ra, động viên tôi, khuyên tôi đừng mất tinh thần.

Cách đây gần ba năm sau khi tôi đã bị tai biến, cùng Lại Nguyên Ân đến thăm tôi, lúc sắp về, anh còn nói nhỏ đủ cho tôi nghe tiếng rằng cùng với việc viết phê bình, VTN còn là một người viết văn - ý anh muốn nói các tập phiếm luận của tôi.

Những kỷ niệm ấy làm sao tôi quên được."

---

và NỖI SUNG SƯỚNG CỦA KẺ ĐƯỢC TÁI BẢN SÁCH

Nhân dịp này, xin "báo cáo" thêm với anh Sử và các bạn một chi tiết nữa:

cuốn CBĐN tôi tặng anh 20 năm trước là bản in lần thứ nhất.

Sau đó sách đã được tái bản hai lần.

Anh là nhà giáo dạy dỗ hàng ngàn hàng vạn sinh viên, sách viết ra tái bản là chuyện thường, có cuốn của anh in tới 7-8 lần, tôi biết.

Còn bọn như tôi, mỗi lần sách cũ được tái bản còn sung sướng hơn cả ra sách mới.

Đặc biệt CBĐN của tôi lần này 2021 được in ở nhà xuất bản Kim Đông mà lại nằm trong bộ sách "Bạn văn bạn mình" bao gồm 10 cuốn chuyên về chân dung văn học

10 cuốn đó là (xếp theo năm tháng in lần thứ nhất)

  1. “Phê bình và cảo luận” (Thiếu Sơn),
  2. “Hình dung và tâm tưởng” (Lan Khai),
  3. “Văn thi sĩ tiền chiến” (Nguyễn Vĩ),
  4. “Văn thi sĩ hiện đại” (Bàng Bá Lân),
  5. “Đốt lò hương cũ” (Đinh Hùng),
  6. “Chân dung văn học” (Nguyễn Tuân),
  7. “Mười chín chân dung nhà văn cùng thời” (Vũ Bằng),
  8. “Những gương mặt” (Tô Hoài),
  9. “Cây bút đời người” (Vương Trí Nhàn),
  10. “Bạn văn" (Nguyễn Quang Lập).

Trong danh sách này chỉ có hai người cuối cùng còn sống và tuổi "mới" bảy tám chục. Còn lại đều đã trên trăm tuổi và đã quy tiên.

🔝

Bị Cầm Tù Bởi Quá Khứ

1.2.2024 - Vương Trí Nhàn

Đưa lần đầu trên blog cá nhân VTN   05-4- 2015

1/
Do nhu cầu làm báo, mấy chục năm liền trước khi về hưu, tôi thường phải đọc lại báo chí tiền chiến ngày Tết để làm hàng phục vụ người đón xuân thời nay.

Nay đã đến lúc đọc lại chính cái viết về Tết của thời mình – tức là các bài báo tết từ sau 1945 tới nay, nhất là từ sau 1975 --, ấn tượng chính còn lại trong đầu óc tôi là một sự khác biệt:

-- người viết văn viết báo tiền chiến thường đứng trên góc độ của con người hiện đại, trở về với dân tộc hết sức thiết tha, nhưng bao giờ cũng có sự phê phán. Hoặc nếu không thì cũng cảm thấy quá khứ là một cái gì tốt đẹp nhưng đã vĩnh viễn qua rồi không bao giờ còn trở lại nữa, người ngày nay phải sống khác.

Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ .. là những người nói đến cùng cái tầm thường dung tục của cách ăn tết ngày xưa.

Còn Thạch Lam mở ra một cách nhận thức mẫu mực, vừa thấy nét đẹp cổ điển của Tết, vừa khẳng định rằng thời đại của những cái Tết cổ truyền đã qua xã hội đang tìm tới cách đón tết thời cũ chưa từng biết.

-- Trong khi đó, nhiều bài báo Tết thời nay gần nhau ở cái điểm phục cổ: chỉ thuần một giọng ca ngợi những cái Tết xưa, ra cái điều rằng ở đó tất cả là tốt đẹp, chúng ta phải gắng làm theo, không cần cải tiến thay đổi chi hết.

Không những đối với Tết mà với nhiều phong tục tập quán thời xưa, chúng ta cũng có thái độ như vậy.

Lý tưởng hóa quá khứ đang là khuynh hướng bao trùm tâm lý con người, chi phối sự phát triển xã hội.

Đáng lẽ phải thấy quá khứ có nhiều khuôn mặt thì ta lại chỉ cho nó có một khuôn mặt duy nhất. Trong khi giải quyết các vấn đề xã hội ta chỉ nhăm nhăm dựa vào những kinh nghiệm trong quá khứ coi đó là thư thuốc bách bệnh.

2/
Tôi tự giải thích về tình hình ấy như sau:

CHIẾN TRANH KÉO CHÚNG TA LẠI

Sự kiện lớn nhất chi phối đời sống gần ba phần tư thế kỷ nay vẫn là chiến tranh ba mươi năm.

Trước chiến tranh, chúng ta có một xã hội đang hiện đại hóa mà do chỗ nó được tiến hành dưới sự bảo trợ của người Pháp nên chúng ta vẫn không chịu công nhận nó là văn minh tiến bộ, vẫn xem xã hội đó không phải là của mình.

Nếu được gọi sự vật bằng cái tên của nó, phải nói cuộc chiến tranh mà chúng ta tự nguyện tiến hành đã đập vỡ cái xã hội ấy ra. Chỗ này chỗ kia có thể khác, nhưng trên đại cục thì xã hội trước 1945 đã bị giải cấu trúc. Hệ thống quốc gia được tổ chức theo kiểu một đạo quân và hậu phương của đạo quân đó tuy còn gọi là xã hội song chỉ còn là cái vỏ ngoài, ngoài những bộ phận bảo đảm cho hàng ngũ người mặc áo lính chiến đấu, thì mọi thiết chế khác đều đã phá sản.

Cái xã hội đi dần sang hướng hiện đại thời Pháp thuộc bị chúng ta đơn giản hóa và đưa nó về tình trạng tiền hiện đại. Trong bộ phận chủ đạo, bộ phận sau này trở thành bên thắng cuộc, có người hiểu cái giá mình phải trả, nhưng vì nhu cầu trước mắt không thể làm khác. Mọi lý lẽ được huy động để chứng minh việc trước mắt là duy nhất đúng.

HIỂU BIẾT

Sau chiến tranh mặc dù tuyên bố là đặt mình vào công cuộc phát triển, nhưng thế nào là phát triển thì chúng ta không biết.

Cái khuôn mẫu mà sau chiến tranh chúng ta muốn xây dựng chỉ là khuôn mẫu mà chúng ta đã phá, thậm chí về nhiều mặt đưa tới tình trạng tiền hiện đại như trên vừa nói. Mọi sự gọi những là hội nhập là ra với thế giới chỉ là trong thế bức bách phải làm. Đội quân cũ được phân công đi làm kinh tế đi làm giáo dục. Mọi khái niệm về văn minh văn hóa chi phối con người sau chiến tranh chỉ là những cái thời tiền chiến ta còn nhớ được, cộng với những cái mới lõm bõm học được từ nước ngoài.

NIỀM TIN

Không chỉ có cách sống mà cả trong tư duy, ở những con người từng hết lòng vì chiến tranh cũng thấy có sự trở lại với những khuôn khổ của cái tư tưởng đã hướng dẫn người ta làm cuộc chiến tranh.

Khía cạnh thứ nhất, mà cũng là khía cạnh bao trùm trong suy nghĩ con người lúc này: quá khứ là muôn vàn tốt đẹp.

Chỉ có quá khứ có giá trị.

Tương lai sẽ giống như quá khứ, trên cái mạch của quá khứ.

Lẽ tự nhiên một tâm thế nhất quán là sự sùng bái quá khứ được hình thành. Từng con người tự nguyện sống lại quá khứ, mà cả xã hội cũng không mong mỏi gì khác.

Trong chiến tranh cả xã hội sống bằng một niềm tin trung cổ kiểu như “chân cứng đá mềm” “có công mài săt có ngày nên kim”, “Dù có bao nhiêu gian khổ, chính nghĩa sẽ thắng”.

Khi sự kiên trì giữ vững niềm tin đó được kết thúc bằng một sự kiện mà ta ao ước và gọi chung là chiến thắng thì cũng là lúc tâm trí chúng ta đã đông cứng lại trong một niềm tự tin cao độ, rất gần với sự tự lừa dối.

Ta tin tưởng rằng đã đánh nhau được thì làm gì cũng được. Vốn đã quá mệt mỏi vì chiến tranh chúng ta không muốn tìm tòi gì nhiều. Tương lai tìm trong quá khứ một hình bóng phát triển duy nhất. Mọi cảm tình được dành cho quá khứ, cái quá khứ bị lý tưởng hóa và chỉ có một nghĩa duy nhất. Một cách tự nhiên, những con người hậu chiến thực ra đã trở lại với cái nếp sống trung cổ lúc nào không biết. Mọi phương tiện được huy động để phủ lên sự nhốn nháo bên trong một vẻ ổn định bề ngoài.

ĐÃ TỪNG CÓ NHỮNG CÁCH NGHĨ KHÁC

Không chỉ riêng ta, nhiều cộng đồng khác, nhiều dân tộc khác, nhất là những dân tộc từng có một quá khứ anh hùng cũng đang trong một tình trạng dằng xé như vậy.

Chẳng hạn như ở nước Nga. Ở bên ấy, cả trong thời xô viết lẫn thời gian sau 1991, sức níu kéo của quá khứ đều khủng khiếp. Để biện hộ cho sự trì trệ trong tư duy, người ta lớn tiếng lên án những kẻ muốn thay đổi, cho đó là sự vong ân bội nghĩa.

Và sự bảo thủ đã được đúc kết thành những câu nói có cánh. Như cái câu mà người ta thường bảo là của Rasul Gamzatov "Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào bạn bằng đại bác" .

Trong khi đó, trong một bài bình luận chính trị gần đây, bài Những xiềng xích của lịch sử Đông Á tôi thấy tác giả Brahma Chellaney dẫn lại một câu ngạn ngữ : “Quên đi quá khứ thì mù một mắt, sống trong quá khứ thì mù cả hai”.

Mà đó lại là một câu ngạn ngữ của chính người Nga.

Ở ta cũng có tình trạng tương tự.

Chúng ta có một xã hội ta chỉ chấp nhận có một cách nghĩ của đa số, xem đó là cách nghĩ duy nhất, còn mọi ý tưởng xa lạ với cái chính thống đó, nếu không bị phê phán thì cũng bị bỏ qua. Cách làm lịch sử lại cũng theo kiểu đó mà tiến hành. Khi đọc lại sách báo cũ, những người làm sử hiện đại chỉ chọn ra những gì hợp với thời mình, minh họa cho “giai điệu chính” đang được mọi người công nhận. Còn như mọi ý nghĩ ngẫu nhiên bột phát có thể không đúng trong tình hình ấy song lại đúng về sau - thì chẳng ai buồn nhớ.

3/
Với một sự sáng suốt và phục thiện tối thiểu, mọi người chúng ta -- tôi tin là vậy - đều có thể tìm ra trong ký ức của mình những điểm sáng mà lâu nay bị gọi là lạc dòng nên đẩy vào trong quên lãng.

Phần tôi, dưới đây tôi dẫn lại một bài thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh làm trong khoảng thời gian tạm gọi là mười năm đen tối 1975-1985.

Vào một dịp khác tôi sẽ đặt bài thơ trong quá trình phát triển của xã hội hậu chiến và sự phát triển tư tưởng của tác giả; ở đây chỉ xin nêu lên một khía cạnh chủ yếu mà nhà thơ -- trong khi bám chắc vào cách dẫn dắt của một bài thơ tình — thật ra đã chạm tới cả một vấn đề lớn làm nên định hướng của xã hội:

CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ

Có một thời vừa mới bước ra
Mùa xuân đã gọi mời trước cửa
Chẳng ngoái lại vết chân trên cỏ
Vườn hoa nào cũng ở phía mình đi.

Đường chẳng xa, núi không mấy cách chia.
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
Trang nhật ký xé trăm lần lại viết
Tình yêu nào cũng tha thiết như nhau.

Có một thời ngay cả nỗi đau
Cũng mạnh mẽ ồn ào không giấu nổi
Mơ ước viển vông, niềm vui thơ dại
Tuổi xuân mình tưởng mãi vẫn tươi xanh

Và tình yêu không ai khác ngoài anh
Người trai mới vài lần thoáng gặp

Luôn hy vọng để rồi luôn thất vọng
Tôi đã cười đã khóc những không đâu
Một vầng trăng niên thiếu ở trên đầu
Một vạt đất cỏ xanh rờn trước mặt...

Mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc
Nỗi vui buồn cũng khác những ngày xưa
Chi chút thời gian từng phút từng giờ
Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt
Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết
Hôm nay non, mai cỏ sẽ già.

Tôi đã đi mấy chặng đường xa
Vượt mấy núi mấy rừng qua mấy biển
Niềm mơ ước gửi vào trang viết
Nỗi đau buồn dồn xuống đáy tâm tư

Em yêu anh hơn cả thời xưa
(Cái thời tưởng chết vì tình ái)
Em chẳng chết vì anh, em chẳng đổi
Em cộng anh vào với cuộc đời em
Em biết quên những chuyện đáng quên
Em biết nhớ những điều em phải nhớ

Hoa cúc tím trong bài hát cũ
Dẫu vẫn là cung bậc của ngày xưa
Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ
Nhưng đâu phải là điều em luyến tiếc.

Bài thơ làm 11-1984, in lần đầu trong số tết của báo Phụ nữ Việt Nam 1985 và có in lại trong các tuyển tập của tác giả, nhưng thường ít được chú ý. Ngày nay, người ta có xu hướng coi Xuân Quỳnh xa lạ với các vấn đề xã hội và chỉ là nhà thơ của tình yêu.

🔝

Tết Hòa Bình 1973

8.2.2024 - Vương Trí Nhàn

3/2 (30 tháng chạp Nhâm Tí)

Phố xá Hà Nội chiều tất niên, tôi sống những giờ phút thảng thốt. Tết mà lại nắng, mọi thứ nhếch nhác cứ trơ ra trong nắng. Bụi bẩn. Xe đạp phóng ẩu. Những người đàn bà lo sinh kế. Mấy cô gái mới lớn thích diện nhưng nghèo. Những đứa trẻ hau háu đợi người đến bơm xe đạp. Trong khi đó thì người ta vẫn vui vẻ ra mặt. Thỉnh thoảng lại một tiếng pháo nổ rất bực mình.

... Chính vì muốn giải phóng khỏi tất cả những cái đó, tôi lánh đi, tôi quằn quại tìm cách đi. Lấy danh nghĩa phóng viên, tôi xin theo một chuyến xe lửa Hà Nội vào Vinh.

Đêm 30. Tôi đi để sống với những người khác, hay là để trốn chạy khỏi nỗi chán chường cá nhân-- hai cái đó thật khó phân biệt.

Người từ ga Hà Nội đi, lúc đầu tưởng độ 100, sau 700-800, 1000. Toàn là cán bộ nhà nước, với quá nhiều xe đạp.

Sau những đớn đau tê dại, tưởng như cuộc sống đã mất những thiêng liêng. Nhưng trong những ngày giờ như lúc này vẫn là những náo nức hy vọng.

Đêm nay, tôi sống giữa những người không quen biết, bởi chỉ có một chỗ giống họ là xa nhà. Nhưng cái chính là một không khí khác. Tôi được sống trên một cái gì đang đi. Giữa đêm đen, tôi sống biệt lập trong một vùng ánh sáng xa lạ.

Đến Nam Định thì giao thừa. Lòng tôi mơ theo lửa đỏ -- pháo hoa Hà Nội. Trong khi đó thì ở đây chỉ có những quả pháo nổ lẹt đẹt.

Ở một làng nào, lửa đỏ như vệt B52 trong đêm. Hay ai đó vui quá cho bắn pháo? Người ta nói chuyện gì lúc giao thừa, lúc vui?

Trên cái toa xe phần lớn bộ đội này, người ta lại nói chuyện chiến thắng. Nói tới tình thế. Nó chịu ta rồi. Nó sẽ cho ta mấy tỉ mỹ kim... Nhưng khi tôi hỏi mỗi người sang năm anh định làm gì, sang năm anh có kế hoạch gì -- thì không ai trả lời cả. Cũng như bom Mỹ đánh hôm trước, hôm sau trên báo có thơ ngay, còn khi tuyên bố hoà bình rồi, chả thấy ai hé răng gì cả.

- Hôm địch đánh 18, anh ở đâu?

Tôi hỏi câu đó với nhiều người. Ít ai có cái ấn tượng kinh khủng như tôi tưởng.

Trong khi đó, ngay chiều ba mươi trên tàu điện ở Hà Nội, một người đàn bà nói với tôi:

- Làng tôi may quá, chỉ chết có 4 người. Chẳng phải nói chứ chính là nhờ làng tôi làm hầm Cồn Cỏ. Thành ra cũng đỡ được nhiều lắm. Những làng khác, hầm đào nổi quây quây mấy hòn gạch, chết vô khối. Gớm hôm nó đánh xong, tưởng tất cả chết, chỉ mình mình còn sống. Sau thấy cũng còn nhiều người còn sống như mình. 

Có một cái gì đấy, như là bất mãn, nảy sinh trong lòng tôi. Bất mãn trước một thực tế già cỗi, trì trệ của đất nước.

Thời đại vừa có gì rộng quá, đến nỗi chúng tôi không hiểu hết được. Lại vừa như là chật quá, vớ vẩn quá, có nhiều chuyện, tôi nghe mãi phát chán.

Tôi vốn không tin rằng mọi xã hội có thể xoay chuyển nhanh. Sống trong xã hội này, càng thấy trì trệ. Vậy mà vẫn thường xuyên bực bội. Gần như muốn phát khóc vì tốc độ chậm rề chậm rệt của chung quanh. Nhớ có lần ngồi trên gác Câu Lạc Bộ Ba Đình nghe nói chuyện, nhìn xuống phía quảng trường, thấy những bóng người đạp xe qua lại lơ thơ. Như từ thế kỷ nào xa lắm hồi vọng lại. Vậy mà chốc nữa, giá tôi đi xuống đó, thì cũng lại tự nhiên y như mọi người khác, cắm cổ đạp vội.

Một ý của Nguyễn Khải (nhân bàn về tình trạng sau chiến tranh mọi người ít nghe đài):

-- Người ta chóng quên ghê lắm. Càng chóng quên là những việc không dây dưa gì đến người ta. Như mình, mình cũng chỉ chú ý tới họ khi chiến tranh, còn bây giờ hoà bình, ai làm gì thì làm, mình biết đâu? Cho nên, mình mới phải nghĩ và nghĩ ngay về cái chuyện thế giới quan tâm đến Việt Nam. Mà quan tâm hơi lâu. Đúng là nó có dính gì đó đến họ, dính về mặt trí tuệ đấy.

Những năm chiến tranh, nhiều dân tộc chia sẻ với chúng ta chống Mỹ với ý nghĩa là dân tộc Việt Nam phải có quyền quyết định lấy vận mệnh của mình.

Nghe thế chúng ta thấy lòng ấm áp.

Nhưng sau đó rồi thì chúng tôi cảm thấy bơ vơ. Điều mà họ nghĩ, với điều mà chúng tôi nghĩ, là có khác. Họ chờ đợi thấy một Việt Nam khác nhưng chúng tôi lại không có cái điều mà họ đang mong.

Thường thì đôi lúc, tôi cứ kinh sợ vì những đứa trẻ. Nó là biểu hiện sức sống của nhân dân này một cách rõ rệt hơn. Biểu hiện rằng dân tộc này không chết.

Nhưng có chắc rồi có một sự sống thật sự, một sự sống ở trình độ cao? Hay đó chỉ là biểu hiện sự sống của một cái gì đang chết sẽ chết. Như một cá nhân, bao người đã chết để xã hội chết theo?

Những bậc thầy về công việc vá víu - người ta nói về Việt Nam là vậy.

Giá anh bảo một người Việt Nam rằng anh phải sống nghèo hơn, khổ hơn, anh không được đi đâu làm gì cả, anh sẽ rên xiết trong anh điều lạc hậu... thì người Việt Nam kia sẵn sàng gật đầu. Tôi không chết. Tôi vẫn sống. Và tôi còn sinh đẻ nữa. Thế là đủ.

Nhưng bảo rằng anh phải làm ăn cho khá hơn, anh phải bớt sinh đẻ đi, anh phải nâng cao cuộc sống anh hiện nay -- thì người Việt Nam kia cảm thấy rất mực khó khăn.

4/2/73

Vẫn trên chuyến tàu ấy nhưng nay đã là mồng một tết Quý Sửu. Ga Nam Định, Thanh Hoá 1500 khách. Ga Vinh - 2000 khách. Hành khách trung bình chờ 30-38 giờ.

Hành khách lịch sự nhất là khách Hà Nội Hải Phòng.

Hành khách khó tính xấu tính nhất là khách mấy tỉnh phía nam, Thanh Hóa, Vinh, những vùng chiến sự. Lên tầu, tìm ăn ăn xong, rải ni lông ra sàn ngủ.

Ninh Bình - thành phố của núi đá và những công trình của con người, ngay trên một miền đất phẳng.

Núi rất nhọn, sông rất xanh, và cỏ rất cằn, đất rất rộng, đó là Ninh Bình. Những đoạn đường bụi đỏ hai bờ cây lá. Nông trường Đồng Giao nhà chỉ còn tường, nhiều đoạn đường mòn đi qua nền nhà.

Ngày tết thành phố chen chúc khác thường. Còn như ở đây, buổi sáng mùng một im lìm. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe com măng ca hoặc một chiếc xe đạp.

Những người lớn đâu cả, chắc đang chè chén, bàn việc với nhau trong nhà. Chỉ có đám trẻ con chạy ra đường. Trẻ con từng đám, đứng chen chúc đầu ngã tư. Hàng chục đứa, cùng một màu áo xanh trứng sáo. Chúng nó không hết ngạc nhiên trước những đoàn tàu đi qua. Chúng nó băm bổ chạy dọc con đường sắt:

- Chúng mày được nghỉ học mấy ngày?

- Được nghỉ đến mùng 3 thôi. Giá kể đến mùng 4, mùng 5 thì thích.

...

- Lớn lên chúng mày đi bộ đội nhớ

- Vâng. Vâng... Thích lắm.

Hàm Rồng. Lại những khung cảnh chiến tranh. Một địa thế rộng. Lèn đá vệt bom đã cũ, lẽ ra, con đường bò ra, đường đầy bụi. Những chiếc xe tải vập vạp, lúc lẫn vào đoạn đường bụi đỏ, lúc lẫn vào đoạn đường bụi trắng.

Mờ sáng, đoàn xe tải chở phà bật đèn đi.

Càng sáng, càng nhiều xe.

Chỉ có những đoàn xe là gợi cảm giác đông vui. Khung cảnh khu vực nhà máy điện cũ nát như sống lại. Hố bom, cái thì cỏ lên xanh, cái thì còn đỏ miệng. Dáng người đi, lẫn vào trong đường xá trời đất. Mấy người đàn bà đi cắt cỏ. Cỏ dại. Người bây giờ cũng như là một giống cây dại. Ở thành phố, người nhiều, người lúc nhúc. Thành phố nghĩa là nơi đâu người ta cũng thấy dấu vết của con người, những vạt cỏ, những ánh đèn, bóng nhà cao. Vậy mà ở những quãng sông nước này, thiên nhiên khắc nghiệt và hoang vu quá. Hoang vu đến mức những mái nhà bị bỏ quên cũng trở nên ngất nghểu. Dấu vết con người sao quá nhạt nhòa.

Có lẽ vấn đề trung tâm mà tôi muốn để tâm nghĩ trong những ngày tới - bộ mặt của một đất nước sau chiến tranh. Những di luỵ của bom rơi máu đổ trong đời sống và trong tâm lý mỗi con người trong xã hội. 

Hoà bình có một nghĩa chung với tất cả mọi miền. Nhưng với mỗi vùng miền, hoà bình lại có một nghĩa khác. Đối với Khu 4, hoà bình có nghĩa là một cuộc sống trở lại trên mặt đất.

Những cụm ga những đoạn cầu, nó như là nơi đối mặt của hai phía chiến tranh và hòa bình. 

Ngổn ngang, không bao giờ mặt đất hết ngổn ngang. Những gì tàn phá chưa chịu lẩn đi mà còn chềnh ềnh đó. Nhưng một cái gì chủ yếu nhất -- sức hoạt động -- thì đang tự nó làm nên ấn tượng một sự thay đổi. Sự tình là cái sống phải lấn cái chết từng bước một. Phải gạt cái tàn phá sang một bên để mà gắng gượng đi lên.

🔝

Những Bài Học Từ Một Cây Bút Hải Ngoại

23.02.2024 - Vương Trí Nhàn

Khi được biết Nguyễn Thanh Việt (NTV) nổi lên do viết về chiến tranh dưới góc độ người tị nạn, tôi vẫn còn dửng dưng, đúng hơn là không dám nghĩ tới chuyện tìm hiểu. Phần vì không biết tiếng Anh và không có sách. Và phải nói là giữa biển sách báo ra đời hiện nay, những quyển sách tốt không có ai làm người dẫn truyền, mà sách của NTV cũng vậy. May quá hôm nay đọc trên BBC bài “Những câu chuyện không chỉ dành cho người Việt” của Nguyễn Phan Quế Mai (NPQM)

Bài báo cho biết một số chủ đề ở NTV được triển khai như sau:

1/ CHIẾN TRANH. Tại sao chiến tranh lại xảy ra? Tại sao con người lại tiếp tục chia rẽ con người? Sự chia rẽ đó không chỉ tồn tại trong hoặc ngay sau cuộc chiến, mà hậu quả của nó còn kéo dài trong rất nhiều thập kỷ.

Trong truyện ngắn “I'd Love You to Want Me” (tạm dịch Em muốn anh khao khát em) , quá khứ - với những đường viền ảo mờ là chiến tranh và loạn lạc - có nguy cơ chia rẽ vợ và chồng. Bà Khanh - người phụ nữ phải hy sinh công việc mà bà yêu thích để có thể chăm sóc chồng - dần nhận ra rằng chồng bà đang nhầm lẫn bà với một người phụ nữ khác. Người phụ nữ đó là ai và có vai trò thế nào trong thời gian chồng bà còn sống ở Việt Nam? Liệu việc bà và chồng đã cùng sống sót chuyến hành trình vượt đại dương, đã cùng vượt qua những ngày đầu ở California - nơi họ đã phải ăn đồ ăn mua bằng phiếu thực phẩm, mặc quần áo cũ do người khác bố thí - có đủ níu họ lại với nhau? [nghĩa là kinh nghiệm tị nạn liệu có lấn át kinh nghiệm chiến tranh - VTN]

2/ TỊ NẠN Di sản mà những người tị nạn chiến tranh thừa hưởng từ cha mẹ mình thường bao gồm sự nghèo đói, hoặc sự bơ vơ lạc lõng trên đất khách quê người. Theo NPQM, khi mô tả những di sản thường gặp đó, ngòi bút của NTV bám rễ vào thế giới nội tâm của những người tị nạn để cất lên tiếng nói về di chứng tâm lý hậu chiến tranh. Có một câu tuyệt vời được NPQM dẫn lại

'khi nằm trên giường và lắng nghe những đứa trẻ chơi nhắm mắt chạy trốn ở lối đi giữa những chiếc lều, anh cố gắng quên đi những người đã bám vào không khí khi rơi xuống sông, một số người bị đánh ngã trong sự hỗn loạn, một số bị những người lính đang tuyệt vọng tìm đường tháo chạy bắn vào lưng '.

3/ Các nhà văn VN hiện nay có phần lảng tránh chiến tranh. Số muốn tiếp tục khai thác các kinh nghiệm thời chiến thì lại bế tắc , không rõ nên viết cach nào. NPQM dẫn lại một câu của NTV : ‘'…Các tác phẩm của tôi, mặc dù chủ yếu nói về người Việt và cuộc chiến tranh Việt Nam, nói cho cùng là để hướng tới những chủ đề to lớn hơn - chiến tranh và ký ức, quyền lực và lạm dụng quyền lực, loại trừ và dung nạp, bất công và đấu tranh giành lại công lý. Lịch sử của bản thân tôi - với tư cách là người tị nạn mà cả hai đất nước đều không muốn đón nhận - đã khiến tôi trở thành một người viết luôn ngờ vực chủ nghĩa dân tộc, chiến tranh, và những tác phẩm viết ra không vì mục đích tạo nên sự thay đổi.'

Thú thực chính vì đoạn văn có tính tuyên ngôn này mà tôi quyết định phải viết bài báo nhỏ này. Tôi muốn nhiều người chia sẻ ý tưởng đó của NTV.

Các nhà văn VN hiện nay cầm bút thường chỉ nghĩ chỉ lo cho cộng đồng mình. NTV đã mở ra một hướng mới , bảo đảm cho sức khái quát của tác phẩm. Tôi cũng tìm thấy ở đây cái lý do chính khiến cho NPQM đặt tên bài viết của mình là “Những câu chuyện không chỉ dành cho người Việt”

Nhà báo Cam Ly là người đầu tiên viết phỏng vấn NTV trên báo Người đô thị số tết vừa rồi. Nhà nghiên cứu NPQM giới thiệu lại một lần. Tôi lại đồ lại lần nữa, xoàng quá. Nhưng tôi thấy vui vì biết đâu sau stt này, có thêm nhiều người đọc NTV, nhất là có thêm những nhà văn tìm cách viết lại về Việt Nam, chiến tranh và hậu chiến.

🔝