Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư - Số 30
Tháng 11 năm 2004

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Như đã minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt Nam. Mọi liên lạc xin gửi về : caulacbodanchuvietnam@yahoo.com

Tin Ghi Nhận:

      Hàng chục người dân làng Yên Xá, xã Tân Triều, Huyện Thanh Trì, Hà Nội đã thực hiện cuộc biểu tình ngồi trên đoạn đường từ Thị xã Hà Đông đi Văn Điển, khoảng 10km giao thông đã bị tắc nghẽn trong nhiều giờ. Cuộc biểu tình bắt đầu từ khoảng 3 giờ chiều ngày 1/10/2004 đến 10 giờ đêm, cùng ngày. Đã có cuộc ẩu đả giữa công an huyện Thanh Trì và những người biểu tình. Cuộc biểu tình chỉ kết thúc khi lực lượng 113 của Bộ công an về giải tán. Hầu hết những người biểu tình đã bị đẩy lên xe ô tô chở đi. Một cụ bà tham gia biểu tình cho biết “Công an đánh chúng tôi, trước khi chúng tôi được tha về, họ bắt chúng tôi phải ký nhận là chúng tôi không bị đánh”. Được biết, vụ biểu tình này là hoàn toàn tự phát,và có nguyên nhân từ việc quy hoạch đất đai của chính quyền. Xin nhắc lại rằng, trước đó khoảng một tháng, gần 300 người dân làng Nguyễn (Thái Bình) cũng đã kéo về trụ sở huyện Đông Hưng để phản ứng về sự nhũng nhiễu của chính quyền địa phương.

----- O -----

     Ban biên tập: Cuộc hành trình đến với tự do là một cuộc hành trình đầy khó khăn, gian khổ. Nhiều khi phải trả giá bằng máu và nước mắt. Có những con người, dường như, được sinh ra là để kiếm tìm tự do. Tự do cho mình, và tự do cho mọi người. Họ luôn đi tiên phong bất chấp mọi sự trừng phạt của giới cầm quyền. Không một thế lực nào có thể cản bước họ.
     Một trong những người như vậy là cố Trung tướng Trần Độ, một nhà dân chủ hàng đầu Việt Nam, đã quen thuộc với tất cả chúng ta.
     Cuộc đời ông giống như một bản giao hưởng lớn. Vừa đậm chất anh hùng ca, vừa phảng phất nét bi ai. Đó cũng là một cuộc "vật lộn" không ngừng, thoát ra ngoài sự trói buộc của ý thức hệ hạn hẹp, thoát ra ngoài sự sợ sệt và những lợi ích cá nhân, để chiến thắng, vươn tới chân-thiện-mỹ của cuộc đời.
     Là một Đảng viên cộng sản, nhưng mọi ý nghĩ của ông đã không xuất phát từ "lập trường giai cấp", "lập trường Đảng" mà xuất phát từ hiện thực xã hội, nơi có tiếng rên rỉ, kêu than của nhân dân đau khổ.
     Tập "Nhật ký rồng rắn" mà chúng tôi giới thiệu sau đây, gần như là sự đúc rút của ông sau nhiều năm quan sát, nghiền ngẫm từ thực trạng đất nước.
     Xuyên suốt tác phẩm là một tấc lòng vì nước, vì dân, và một niềm khát khao mong mỏi cho một Việt Nam dân chủ-phồn vinh.
     Dù tập "Nhật ký rồng rắn" không phải là tác phẩm cuối cùng của ông, nhưng nó thâu tóm hầu như toàn bộ những trăn trở của ông về các vấn đề của đất nước.
     Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả tác phẩm này.
     Để tiện cho độc giả trong việc theo dõi, chúng tôi sẽ chia tác phẩm này làm 3 phần, đăng tải trong 3 số liên tiếp. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả phần 2.

Nhật ký Rồng Rắn
Trần Độ

Để tặng các bậc lão thành và các cựu chiến binh hai cuộc kháng chiến, cùng các nhà trí thức và tất cả những ai quan tâm đến tiền đồ đất nước.

PHẦN HAI

III. Thư gửi anh Lữ Phương:

Tết Tân Tỵ ngày 5 tháng giêng, (ngày 28.1.2001)

Nhân dịp Tết, tôi lục các bài viết cũ, đọc lại chơi, tiện thể lục được bức thư anh viết cho tôi từ đầu năm 1999, sau khi anh đã đọc xong 2 bài bút ký "Một Cái Nhìn Trở Lại" của tôi, và biết tin tôi đã bị (hay được) khai trừ.

Ngay từ trang đầu của thư anh, tôi thấy anh đã hiểu rõ tâm can tôi. Anh viết rằng: "Nếu có một cái gì đó có ý nghĩa mà Đảng cho anh, thì đó là cái lý tưởng cực kỳ tươi đẹp để anh đi vào tù đày và chết chóc thôi. Anh có bảo vệ Đảng thì cũng chỉ bảo vệ cái lý tưởng đã trả bằng máu ấy. Chính là với lý tưởng ấy, thái độ của anh là nhất quán trước sau. Trước đây Đảng có một thời đẹp đẽ thì bây giờ anh muốn Đảng giữ gìn mãi mãi điều đẹp đẽ ấy”. Anh đã nói rất trúng tâm tư của tôi.

Tôi không có điều kiện để nghiên cứu sâu vào các vấn đề lý thuyết, tuy rằng tôi cũng đọc được và được nghe giảng khá nhiều nhưng tôi chỉ “vận dụng những ý tưởng có trong sách vào cuộc đời”, và nhìn vào thực tiễn của cuộc đời mà suy ngẫm. Tôi đọc lại bút ký của tôi, tôi lại càng thấy rõ té ra hơn chục năm nay, có thể cả mấy chục năm nay, tôi cứ trăn trở chỉ có một điều, và vẫn cứ tiếp tục trăn trở về cái điều đó, càng ngày càng sâu sắc, càng ngày càng day dứt đau đớn. Cái điều đó tôi đã khái quát vào bốn câu mà anh có nhắc đến:

Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xoá đi thay bằng Cực Thiện
Tháng ngày biến hoá, Ác luân hồi.

Với tâm trạng ấy tôi rất tâm đắc với mấy câu trong bài thơ "Cay đắng thay” của Bùi Minh Quốc.

Cái guồng máy nhục mạ con người
Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất
………….
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính bộ máy này.

Tôi cứ nghiền ngẫm mãi cái cay đắng và mỉa mai đó và ngày ngày, tháng ngày đau khổ về cái cay đắng ấy.

Không biết đã bao nhiêu lần, tôi muốn giải đáp mấy câu hỏi ... cay đắng ấy:

Cuộc cách mạng ở Việt Nam, rút cục đã xoá được cái gì, đập tan được cái gì ? và đã lập nên được cái gì, xây dựng được cái gì ? Rõ ràng ta đã xoá được cuộc đời nô lệ mất nước, nhục nhã. Đời sống nhân dân giảm được đói nghèo dốt nát. Mới giảm được thôi, chứ chưa thoát được hẳn đói nghèo và "dốt nát", nghĩa là ta còn quá lạc hậu.

Ta đã đập tan được bộ máy đàn áp, nô dịch, bóc lột, xoá được nỗi nhục mất nước và ta đã xây dựng được một bộ máy như thế nào? và một xã hội như thế nào? Những tiêu ngữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, Dân chủ Cộng hoà, và mục tiêu một nước độc lập, thống nhất, hoà bình, dân chủ giàu mạnh, đã thực hiện được đến đâu ???

Trong các mục tiêu lý tưởng của ta thì lý tưởng lớn nhất, tha thiết nhất, bao trùm nhất là tự do dân chủ.

Nhưng hiện nay, ta đã có một bộ máy nhà nước có mấy đặc điểm:

Trong khi ấy, bộ máy đã tạo nên một xã hội không có tự do dân chủ, đầy tệ nạn tham nhũng, đầy tệ nạn xã hội, làm tất cả mọi người trong xã hội không lúc nào được yên tâm và thường xuyên lo lắng, sợ hãi. Đó, ta đã xây dựng nên một bộ máy như vậy và một xã hội như vậy đó.

Bao nhiêu những điều tốt đẹp xuất hiện sau cách mạng tháng Tám, ta tưởng nó sẽ mở rộng và nâng cao thì nay tình hình lại phát triển ngược lại.

Từ một Đảng chịu gian khổ hy sinh để giải phóng nhân dân, nay trở thành một Đảng cầm quyền xa rời nhân dân, cai trị nhân dân, bắt nhân dân phải sống hết thảy theo ý của Đảng: nhân dân bị tước hết mọi quyền tự do dân chủ. Tất cả quyền và lợi trong xã hội, thâu tóm trong tay Đảng và cụ thể là trong tay một nhóm đảng viên có địa vị ở các cấp. Đảng tự do yêu cầu dân đóng góp và tự do sử dụng mọi sự đóng góp của dân, không có tổ chức và lực lượng nào giám sát và kiềm chế.

Đảng nói những lời hay, làm ra Hiến pháp và luật pháp có nhiều điều hợp lý, nhưng bộ máy của Đảng đều làm ngược lại Hiến pháp và luật pháp, bất chấp đạo lý.

Đảng còn làm ngược lại cả Điều lệ của chính mình như tự nhiên đẻ ra chế độ cố vấn; Bộ chính trị và Trung ương quyết định những điều cấm đoán đảng viên ngoài quy định của Điều lệ như là tước cả quyền công dân của đảng viên.

Đảng luôn tạo ra một không khí khủng bố đối với bất cứ ai có chính kiến độc lập, làm cho xã hội khô cằn, Đảng bưng bít và cấm tất cả những ý kiến dồi dào phong phú để đưa đất nước tiến lên.

Thế là Đảng đã tạo ra ở Việt Nam một xã hội đầy tham nhũng, phản dân chủ (vì độc tài độc đoán và toàn trị), đầy dối trá lừa bịp (vì nói một đàng làm một nẻo), đầy thủ đoạn (nịnh nhau, hất nhau và hại nhau). Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ở bất cứ người nào, ta cũng nghe thấy được những lời phàn nàn về sự không dân chủ, tàn bạo, lừa bịp, dối trá; về những hiện tượng lưu manh, hãnh tiến. Trong bút ký của tôi, tôi đã nói nhiều lần.

Trước 1945, xã hội ta có một bộ máy của thực dân phong kiến có đủ các đặc điểm của sự tàn bạo, dã man, của sự vơ vét, bóc lột và xa hoa hưởng thụ, của sự lừa bịp, dối trá, thủ đoạn đểu giả.

Tôi “trọn tuổi xuân hiến dâng cuồng nhiệt” để tham gia đập tan bộ máy đó và tích cực tham gia xây dựng bộ máy mới, mà ngày nay ta gọi là "của dân, do dân, vì dân", có những nét đẹp như trong những ngày đầu sau cách mạng tháng Tám 1945 và một xã hội, mọi người thương yêu nhau, tôn trọng nhau. Tôi đã mơ ước hững nét đẹp ấy sẽ được mở rộng và nâng cao tạo nên một xã hội lý tưởng.

Nhưng rồi …..

Cái không giống với mơ ước thì nhiều và những cái giống với cái đã được đánh đổ thì lại càng ngày càng nhiều.

Và những gì trước đây ta khinh bỉ, chửi rủa và chống phá thì ngày nay những cái đó lại xuất hiện nhiều và ngày càng nâng cao.

Như vậy là ta lại xây nên chính cái mà ta đã đập tan. Ta đã làm cho xã hội hiện nay lại có đủ các đặc điểm của bộ máy ta đã đập tan, của cái xã hội ta đã phá bỏ.

*

Bộ máy cai trị bây giờ ngày đêm chỉ lo xây dựng bộ máy tuyên truyền, lo cổ động rầm rộ, dùng những "lưỡi gỗ" xây dựng và truyền lan các thứ "lý luận" "nói lấy được", dùng mọi thủ đoạn lừa bịp, dối trá, nguỵ biện để nhằm một mục đích duy nhất là duy trì và giữ vững bộ máy cai trị mà họ gọi là "sự lãnh đạo của Đảng”. Suốt năm suốt tháng họ tổ chức đủ thứ đại hội, kỷ niệm, lễ hội…để làm cho mọi người đều thấy đang sống trên những thắng lợi, và mọi thắng lợi từ trước đến nay đều do bộ máy này tạo nên, dân phải biết ơn bộ máy này. Tất cả những ý nghĩ, tư tưởng chệch chút ít so với tư tưởng chính thống đều bị kết tội “chống đối” nặng nề.

Do đó, trong thực tế bộ máy này là bộ máy phá dân chủ, phá dân chủ một cách trắng trợn, tinh vi và tàn bạo.

*

5.2.2001

Như thế là tôi cũng như anh, ta đứng trước một sự biến động, một sự biến chuyển và biến dạng, là một Đảng từ một tổ chức gồm những con người chịu hy sinh gian khổ, phấn đấu để đập tan một bộ máy thống trị gian ác, giải phóng nhân dân, rồi sau khi đập tan được bộ máy ấy thì lại trở thành một bộ máy cai trị, thống trị nhân dân. Nói thật gọn, là từ người giải phóng biến thành kẻ thống trị. Khi là người giải phóng thì mọi nguyện vọng, mục tiêu, tâm lý và tình cảm là của người giải phóng, và khi là kẻ thống trị thì sẽ có đầy đủ nguyện vọng, mục tiêu, tình cảm và tâm lý của kẻ thống trị. Đó là "cố giữ vững địa vị thống trị của mình", tình hình ấy hình như không phải của riêng Việt Nam. Đó là một biến chuyển tất yếu. Xem ra không ai cố ý, không ai có ý kiến trong việc này, không ai (kể cả những người chủ chốt) tự giác được trong quá trình chuyển biến này, tất cả đều bị cuốn vào sự vận hành của một cỗ máy khổng lồ.

Vậy đâu là nguồn gốc của sự biến chuyển này. Có thể nói sự chuyển biến này có nhiều nguồn gốc:

Có nguồn gốc thứ nhất là từ ở những học thuyết.

Rõ nhất là học thuyết về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Học thuyết này được người vận dụng nó đưa tới những chủ nghĩa kinh khủng như “chủ nghĩa thành phần”, “chủ nghĩa công nông”, “chủ nghĩa lý lịch” … Các thứ chủ nghĩa ấy làm cho học thuyết giai cấp bị méo mó thành bất nhân bất nghĩa. Ta có thể tin một cách chắc chắn rằng nếu Mác và Lênin (là những trí thức lớn) còn sống đến bây giờ thì các ông tổ đó cũng không thể chấp nhận các thứ chủ nghĩa “vô học” đó.

Học thuyết ấy bị méo mó ngày càng lớn, càng cực đoan, nó thành ra kiểu Mao-ít, cao hơn nữa là kiểu Pôn Pốt. và trở thành những tội phạm ghê tởm của loài người.

May mà Việt Nam ta chưa đi tới chỗ đó.

Còn nhiều vấn đề học thuyết khác, nhiều cách lý giải những khái niệm không theo kịp sự biến đổi tiến bộ của nhân loại, vì không theo kịp mà thành ra sai lầm, thiếu sót. Những khái niệm cơ bản như “lao động”, “bóc lột”, “sở hữu” … cứ bị quan niệm như cũ, như thế tất phải đưa tới những cách xử lý cứng nhắc, không đúng và nhiều tai hại. Phải thấy rõ rằng những đầu óc giáo điều đáng ghê tởm biết là chừng nào!

Về nguyên lý tổ chức của Đảng.

Khi cần tổ chức Đảng thành một Đảng chiến đấu thì cần có những nguyên lý tổ chức thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh và cách mạng. Những nguyên lý ấy không thể thích hợp với thời hoà bình xây dựng. Nhưng khốn thay, vẫn không có sự phân tích lại để điều chỉnh cho hợp lý. Vì vậy Đảng cộng sản Việt Nam vẫn cứ như mắc trong mớ bòng bong những mâu thuẫn khi đề ra yêu cầu cho đảng viên của Đảng: lúc thì đảng viên phải làm giàu để làm gương cho mọi người, và cũng để bảo đảm cho cuộc sống gia đình, lúc thì lại cấm đảng viên làm kinh tế tư nhân. Cho nên có những đảng viên làm kinh tế đã phải thốt lên: "Tôi phải ra khỏi Đảng thôi". Cái kiểu gò bó bảo thủ, giáo điều tạo nên một lớp người khá đông đảo chỉ biết “ngu trung” (nghĩa là trung thành một cách ngu xuẩn), mất hết óc xét đoán để tìm hiểu thực tiễn đời sống mới đang tiến triển mạnh mẽ, làm cho cả Đảng bị rơi vào trạng thái tê liệt, tư duy ngày càng xa cuộc sống và do đó càng xa dân.

Xa dân mà lại cai trị dân thì ngày càng đối lập với dân.

Nguồn gốc thứ hai của tình hình biến đổi xã hội, đó là vai trò của những người có trách nhiệm chủ chốt.

Những người này càng về sau càng là những người ít học, lại ít được tôi luyện, thành ra những người thô sơ đơn giản. Những người đó có trách nhiệm lớn, nhưng lại vẫn mang đủ trong mình bản tính tiêu cực của người bình thường: hám lợi, hám danh, thích quyền, ích kỷ vv… Vì thế, những người đó trở thành thủ phạm của mọi tội lỗi: dốt nát, quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, bè phái. Đó là những tội không sao xoá bỏ được, chỉ có ngày càng nặng thêm, và kết cục là toàn bộ cơ chế quyền lực không có một sức mạnh nào làm phanh hãm và giám sát nó. Sức mạnh giám sát ấy chỉ có thể là sức mạnh của một chế độ dân chủ. Dân chủ phải là vấn đề của một chế độ, chứ không phải chỉ là mấy cái công tác lặt vặt như “dân chủ cơ sở”, “lấy ý kiến việc nọ việc kia”, “ghi điều nọ điều kia vào Hiến pháp, nghị quyết và luật pháp” v. v…

Ta không thể mơ tưởng có những ông Thánh để thực hiện những học thuyết và nguyên lý. Rút cục thì vẫn là những con người trần tục phải thực hiện các học thuyết ấy, mà con người trần tục thì có đầy đủ những “cái trần tục”, làm hỏng học thuyết. Phải có một chế độ, một cơ chế, một chiến lược dân chủ, có tác dụng hạn chế các tệ nạn quan liêu độc đoán và tuỳ tiện.

Sự vận dụng các nguyên lý của học thuyết và của tổ chức, tuỳ thuộc vào cá tính của những con người chủ chốt. Người lãnh đạo như Hồ Chí Minh vận dụng các nguyên lý của học thuyết và nguyên tắc tổ chức có lẽ sẽ mang lại những hệ quả kém xấu hơn. Ngược lại những người không đủ trình độ và nhiều ham muốn cá nhân sẽ đưa đến những hậu quả ngày càng tệ hại.

Nguồn gốc là ở “trình độ” cộng với lòng “ham muốn quyền và lợi” của cá nhân, hai cái đó có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất.

Những tình trạng yếu kém và khuyết điểm trong quản lý, cai trị và tình trạng xã hội không tốt đẹp. Không thể tìm nguyên nhân gần được, mà phải tìm từ nguồn gốc xa, ở chỗ Đảng đã xây dựng nên một thể chế phản dân chủ và trọng quyền lực. Những câu chữ tốt đẹp như “nhà nước của dân, vì dân, do dân” và “cán bộ nhà nước phải là đầy tớ trung thành của nhân dân” chỉ còn là những câu nói mỉa mai, những cái màn mỏng manh che giấu các thói hám quyền tham lợi, chia chác và giành giật nhau ghế ngồi và danh vị.

Thật ra, cuộc cách mạng với những lý tưởng cao đẹp của nó đã bị phản bội. Trốtsky là người đã nhận ra điều này ở Liên xô từ năm 1936. Tôi cũng dần dần thấy ra điều này từ vài chục năm nay.

Tôi không thể trung thành với sự biến dạng này.

Tôi vẫn cầu mong Đảng này tự phê bình mà nhận ra sự thật. Như thế tốt cho Đảng, và quan trọng hơn là tốt cho đất nước. Nhưng tôi lại cũng thấy rằng cái Đảng này, với thể chế và trình độ của nó hiện nay, không thể, không dám, và không muốn tự phê bình. Cuộc vận động chỉnh đốn Đảng có tự phê bình chỉ là một sự “gãi ghẻ” thôi.

Tôi không thể không trung thành với lý tưởng tốt đẹp của thời tuổi trẻ, thời Đảng là người giải phóng. Phải chăng quy luật của lịch sử các triều đại là cứ lúc bắt đầu thì nhiều tốt đẹp, tiến bộ thông minh, sáng suốt ? Thế rồi có những thắng lợi được ca ngợi nhưng dần dần cứ sa sút, kém cỏi, dốt nát, sa đoạ, xuống cấp dần, đi đến phản bội.

Cái triều đại Đảng cộng sản này cũng đang thế chăng ? Đảng cộng sản cứ để mình bị sa vào cái quy luật suy thoái ấy hay muốn cứu mình thoát khỏi sự suy thoái ?

Ngày nay Đảng này muốn bước ra khỏi con đường phản bội cách mạng thì phải:

  1. Xác định cho đúng vị trí khiêm tốn của mình là một bộ phận của dân tộc, thực hiện lãnh đạo đất nước bằng cách tôn trọng tất cả mọi người, nhất là những người trí thức, những người tài năng có chính kiến độc lập.
  2. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, thực thi đầy đủ các quyền dân chủ, đặc biệt là dân chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân được tự do làm ăn.
  3. Phải để cho mọi tổ chức, từ Chính phủ, Quốc hội, Toà án, cho đến các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức của nó có quyền độc lập quyết định những vấn đề và hoạt động của mình. Phải để cho công dân, nhất là thanh niên, được suy nghĩ độc lập, có tư cách độc lập. Muốn thế phải xoá bỏ quyền lực của cơ quan tư tưởng và văn hoá của Đảng, thu hẹp quy mô, ảnh hưởng và định chức năng rõ rệt của các lực lượng Công an.
    Nhà nước phải được chỉnh huấn về tư tưởng và tác phong “đầy tớ của nhân dân”
    Đảng phải tách khỏi nhà nước, không làm những việc thay cho nhà nước, thay Chính phủ, Quốc hội phải được thành lập bởi những người thực sự có đức, có tài và do dân thực sự lựa chọn vô tư, không có bất cứ sự “sắp xếp” và “hiệp thương” nào.
  4. Cụ thể là phải sửa ngay Luật báo chí, xuất bản, công nhận quyền có báo và xuất bản tư nhân. Các báo chí có quyền độc lập của mình, không chịu sự “chỉ đạo” và kiểm soát của bất cứ cơ quan nào.

21.2.2001

Đúng như anh nói, tôi có một quãng đời tươi đẹp, sống với những lý tưởng cao thượng, tốt đẹp và ở trong một Đảng cũng rất cao đẹp.

Và tôi mong muốn cho những cao đẹp đó cứ tiếp tục mãi mãi và ngày càng cao lên.

Nhưng thực tiễn cuộc sống lại diễn ra ngược lại.

Đảng cộng sản từ một Đảng người-giải-phóng đã trở thành một Đảng cai trị, thực hiện một nền thống trị không dân chủ và phản dân chủ. Đảng thực hiện độc tài và toàn trị. Đảng thực hiện đúng cái mà Đảng đã từng phê phán, đó là chế độ Đảng trị. Có người không thích chữ Đảng trị, nhưng chữ đó chỉ là phản ảnh và diễn tả đúng cái thực trạng mà Đảng đã tạo ra, không hơn không kém.

Đảng đang thực hiện một nền thống trị khe khắt, kiểm tra từng người trong toàn xã hội, kiểm soát và can thiệp mọi chi tiết trong cuộc sống của xã hội, và điều dã man và tàn bạo nhất là độc tài về ý thức hệ. Bất cứ một khác biệt nào đều bị quy vào là chống đối, là phản động, là tội phạm. Hệ quả của chế độ này là trong xã hội không ai dám nói khác, không ai dám có ý nghĩ khác, hoặc ít nhất thì dù có nghĩ một đàng cũng phải nói một nẻo. Như vậy, xã hội bao trùm một sự giả dối, lừa bịp, bao trùm một sự sợ hãi, bao trùm một sự tê liệt, về tư duy và cả về tình cảm. Đã có một xã hội và một chế độ, mà tôi biết có người đã khái quát (chưa thật đúng nhưng cũng không sai).

Lưu manh hoá xã hội
Bần cùng hoá nhân dân
Nô lệ hoá con người
Bình quân hoá cá tính.

Như vậy, văn hoá chỉ còn ngày càng tàn tạ và hư hỏng. Buồn thay! Điều đó không chỉ có tai hại trước mắt, mà còn có tác hại làm suy thoái đời sống tinh thần của cả một dân tộc, một giống nòi.

Thực ra, chắc chắn giống nòi sẽ không để cho có sự sa sút và suy thoái ấy. Nhưng cái chế độ thống trị của Đảng cộng sản đẻ ra hậu quả như thế. Đảng không nhận ra điều này mà tự đổi mới, tự cách mạng, tôn trọng chế độ dân chủ và sinh hoạt dân chủ thì Đảng sẽ bị giống nòi và dân tộc loại trừ, Đảng không thể cứ ngoan cố và đi sâu vào vũng lầy tội ác được. Đảng đã từng coi quyền lợi dân tộc và đất nước cao hơn sinh mệnh của mình, chính vì vậy mà Đảng làm cho dân tộc thắng lợi. Thế mà ngày nay, Đảng lại coi sinh mệnh và vai trò của mình quan trọng hơn cả sự phát triển của đất nước, hơn cả cuộc sống của nhân dân, hơn cả sự nghèo khổ và tụt hậu của đất nước. Chắc chắn là Đảng sẽ đi vào ngõ cụt của sự tàn lụi.

Tôi nhìn thấy rõ điều này, tôi lo và buồn cho Đảng nhiều. Đảng đã phản lại cả nguyên lý của Mác và của Lênin. Lênin chuẩn bị cho nhà nước đi đến chỗ tiêu vong, để nhân dân tự tổ chức quản lý. Còn Đảng cộng sản Việt Nam thì ngày càng tăng cường mở rộng quyền lực của nhà nước và bó khuôn tất cả nhân dân vào khuôn phép và ý nghĩ của mình, làm cái việc triệt tiêu mọi sức sống tinh thần của xã hội.

Anh có chia sẻ với tôi nỗi buồn và lo ấy không ???

13.3.2001

Có người nói: Đảng là một dòng nước chảy, cái dòng nước Cách mạng Tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã chảy ra biển Đông mất rồi. Giữa hai bờ của Đảng hiện nay là dòng nước khác, những người lớn tuổi chúng ta chỉ có thể trung thành với cái dòng nước “ngày xưa” ấy. Tôi thấy hình ảnh ấy khá đúng.

Tôi vẫn không ân hận gì về tuổi trẻ và lý tưởng của tuổi trẻ, tôi vẫn tự hào với lý tưởng đó và tôi thấy tôi vẫn trung thành với lý tưởng đó, cũng như tôi tự hào và trung thành với cái Đảng của thời xưa mà có người gọi là Đảng của Hồ Chí Minh. Tôi không phân vân chút nào với cái lòng trung thành và tự hào ấy. Tôi cho rằng bất kể sau này ai viết lịch sử Việt Nam thế nào cũng không thể không có những trang đẹp nói về quãng 30 năm và 70 năm ấy.

Còn ngày nay thì cứ phải trăn trở day dứt với hiện tình, không thể nào yên dược.

Cũng có người trách tôi là sao không đưa ra được một đường hướng gì, có những biện pháp gì để khắc phục tình hình ngày nay mà đưa đất nước phát triển mạnh mẽ lên. Còn nói về những mất dân chủ và những tệ nạn khác thì mọi người biết cả rồi, mọi người đều “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.

Ai đó mà cứ mong có người nào đó đưa ra được một đường hướng và những biện pháp nào có hiệu lực ngay để tác động vào tình hình đất nướcthì đó cũng là một điều ảo tưởng.

Tôi cũng đã được nghe và đọc nhiều những ý kiến đề nghị với Đại hội IX. Tôi thấy rất nhiều ý kiến hay, nhưng ngay như riêng tôi muốn chấp nhận một ý kiến nào cũng khó lắm. Mỗi ý kiến đều có những điều phải trao đổi lại.

Tôi vẫn mơ ước có một sinh hoạt dân chủ thực sự, gạt bỏ mọi cấm kỵ, mọi khuôn phép, bỏ qua những gì gọi là “vấn đề nguyên tắc” mà tổ chức nhiều cuộc hội thảo nghe hết những ý kiến ngược nhau rồi tổ chức tranh luận. Cuộc phát biểu và tranh luận phải được tổ chức trên các báo, phải cho xuất hiện những tờ báo độc lập có những cây bút độc lập đề xuất và tranh luận. Có những cuộc tranh luận công khai và độc lập trên truyền hình.

Làm như vậy để cả nước nghe, cả nước bộc lộ ý kiến của mình.

Tôi thấy rõ như bản thân tôi, tôi có nhiều nhận xét về tình hình, nhưng tôi thấy có những người có những nhận xét hay hơn tôi và tôi cũng thấy rõ có nhiều nhận xét khác nhau thì thế nào cũng tìm ra được một đường lối, một chiến lược cho đất nước đi lên, và chắc chắn nó sẽ hay hơn nhiều cái văn kiện Đại hội IX mà báo chí đang làm rùm beng.

Tôi tin là như thế, anh Lữ Phương ạ!

IV. Nhân Đại Hội Đảng Lần IX, Bàn Về Đường Lối

Phần Một

20.4.2001

I. Đại Hội Và Đổi Mới:

Nhiệm vụ của Đại hội là quyết định các vấn đề “đường lối”.

“Đường lối” của Đảng cầm quyền hiện tại và cũng là đường lối của đất nước. Vì vậy mỗi người dân đều có quyền và trách nhiệm góp phần về đường lối, vì đường lối có tác động đến số phận từng người dân, mà đa số không phải là đảng viên.

Thông thường, từ trước các Đại hội đều diễn ra như sau (tôi là người đã từng là đại biểu dự 5 Đại hội III, IV, V, VI, VII):

Tài liệu về đường lối đều là do một nhóm người chỉ đạo và một nhóm người biên tập. Khi đã hình thành rồi mới công bố lấy ý kiến mọi người, kể cả đảng viên và không đảng viên. Ý kiến góp có đến hàng triệu, được tập hợp lại, do một nhóm người biên tập tổng hợp và xử lý, mà sự tổng hợp này thường được gói gọn trong công thức “căn bản, nhất trí, đa số tán thành”. Đến ngày họp Đại hội thì việc quan trọng là bầu cử cơ quan lãnh đạo, còn việc quyết định đường lối thì chỉ là việc "biểu diễn" để tài liệu được long trọng và chính thức thông qua mà thôi.

Khi chuẩn bị Đại hội IX, sự góp ý kiến có hai phần, một phần (đúng là phần quan trọng nhất) là những ý kiến góp về đường lối, và một phần là những phân tích dẫn chứng rất dài và những ý kiến thêm bớt câu chữ trong các lĩnh vực khác nhau. Theo những thông tin công bố thì có bản ý kiến góp đến mấy nghìn trang. Những ý kiến góp về xây dựng và sửa đổi đường lối thì thường nhiều nhất là mấy chục trang. Riêng tôi được thấy có bản dài đến 50 trang, nhưng đó lại là những ý kiến góp nhiều nhất vào vấn đề đường lối. Đó là:

Tiếc rằng những người nêu lên các ý kiến lớn và quan trọng về đường lối thông thường là các bậc lão thành cách mạng và các nhà trí thức lớn. Các vị này đều là những người trăn trở về con đường phát triển của đất nước, đều mong muốn cho đất nước được phát triển nhanh hơn, tốt hơn và đều nhận thấy con đường hiện nay (định hướng, chủ đạo) làm cho sự phát triển đất nước chậm chạp, trục trặc, nhiều tệ nạn xã hội trầm trọng mà không giảm được, đạo đức xã hội sa sút nguy hiểm. Trong khi không ít nước quanh ta trong thời gian 20-30 năm thì có thể từ một nước lạc hậu trở thành nước giàu có tiên tiến. Thế mà ta đã hoà bình thống nhất hơn 25 năm rồi vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, mà lại còn tụt hậu ngày càng xa so với thế giới và cả so với khu vực.

Nhưng những vị nào có ý kiến muốn chia sẻ với mọi người thì đều không có phương tiện nào để phát biểu: gửi đăng báo thì báo không đăng, không có một tờ báo nào độc lập để có thể gửi đăng, gửi ý kiến cho các cơ quan thì các cơ quan giấu biệt, giữ bí mật. Có lúc cơ quan làm việc gọi là “trả lời” thì lại gọi “người có ý kiến” đến rồi nhơn nhơn thông báo rằng ý kiến đã bị bác bỏ, mà không cần biện ra bất cứ lý lẽ nào, cứ như thế rồi tuyên truyền rằng dân chủ đã được thực hiện tuyệt vời. Có hàng triệu ý kiến góp, nhưng bản Dự thảo khi được công bố thế nào thì khi chính thức thông qua ở Đại hội cũng vẫn gần như thế.

Ai muốn phát biểu gì thì phát biểu, nhưng có ý kiến nào khác đường lối đã định sẵn thì đều bị quy là chống đối, là phản động. Tất cả đều bắt buộc phải kiên trì và kiên định đường lối đã định sẵn. Như vậy là không hề có thảo luận về đường lối.

Hiện nay, thời đại và tình hình thế giới, tình hình xã hội đã thay đổi rất lớn, thay đổi về cơ bản. Mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, mọi người đều có nhu cầu phải đổi mới. Đó là vấn đề không có không được, các Đảng cộng sản đều phải tự đổi mới. Có Đảng phải đổi tên, đổi mục tiêu đấu tranh, có Đảng phải đổi mới học thuyết, đổi mới tư tưởng, có Đảng phải đổi mới mục tiêu nhiệm vụ và đổi mới phương thức đấu tranh, phương thức lãnh đạo.

Đảng cộng sản cũng tuyên bố phải đổi mới, nhưng trong thực tế thì vũ như cẫn (vẫn như cũ), không có một dấu hiệu nhỏ nào về đổi mới cả. Với những thông tin ít ỏi mà tôi có được, tôi suy nghĩ nhiều về sự đổi mới của Đảng cộng sản Pháp. Đảng đó công khai tuyên bố không độc tôn chủ nghĩa Mác nữa, từ bỏ học thuyết chuyên chính vô sản và nguyên tắc tập trung dân chủ. Đổi mới to lớn cả tổ chức Đảng và cách tiến hành Đại hội. Đảng không có ban chấp hành Trung ương, có quyền chỉ huy tối cao và duy nhất nữa, mà chỉ có Hội đồng toàn quốc, không có tổng bí thư mà chỉ có Thư ký toàn quốc. Đặc biệt là không tổ chức Đại hội có hệ thống từ cơ sở đến toàn quốc mà chỉ có một Đại hội được tiến hành như một loạt các hoạt động nghiên cứu khoa học về trí thức và phương hướng hoạt động (cũng tức là đường lối). Cụ thể là đến kỳ Đại hội lần thứ 30 họ phân ra 7 nhóm vấn đề. Tất cả các đảng viên đều được huy động vào 7 nhóm nghiên cứu và đều phải chuẩn bị ý kiến để phát biểu vào nhóm vấn đề mà mình tham gia. Mỗi nhóm vấn đề đều có nhiều đề án. Đến Đại hội các đề án được trình bày và Đại hội biểu quyết từng đề án, từng vấn đề. Toàn Đảng sẽ nhất trí vào những vấn đề mà Đại hội biểu quyết như vậy. Quá trình tiến hành Đại hội là quá trình hoạt động khoa học, hoạt động trí tuệ, mỗi đảng viên thực sự phát huy vai trò trí tuệ của mình và tham gia lãnh đạo đất nước bằng những ý kiến lý thuyết của mình. Tôi thấy đó mới thực xứng với câu “Đại hội trí tuệ” còn ở ta chữ trí tuệ chỉ là một lời nói suông rỗng cho sang trọng mà thôi, vì sự gạt bỏ những ý kiến trái ngược thì còn đâu là dân chủ, còn đâu là trí tuệ và còn đâu là đoàn kết. Đoàn kết là đoàn kết với những người khác nhau, thậm chí ngược nhau thì mới là đoàn kết, chứ chỉ đoàn kết những người giống nhau thì chẳng qua chỉ là sự “Đoàn kết của đàn cừu” (đàn cừu của Panurge) và chỉ đáng gọi là "ăn theo nói leo".

II. Đường Lối Và Đại Hội:

Đại hội là để quyết định đường lối. Vậy đường lối là đường lối của ai ? Và để làm gì ? Tôi vẫn cho rằng vấn đề hiển nhiên phải là “Đường lối để phát triển đất nước”.

Đã là đường lối để phát triển đất nước thì đường lối đó phải khai thác các thông tin và các học thuyết thuận lợi và phù hợp với việc phát triển đất nước, không lệ thuộc vào bất cứ một loại thông tin nào, loại học thuyết nào, dù cho học thuyết đó lâu đời đến đâu, có uy tín cao đến đâu.

Cần phải đặt vấn đề như vậy, chứ không phải tìm một đường lối chỉ để chứng minh cho một chủ nghĩa hay một học thuyết, thậm chí chỉ để chứng minh cho những nguyên lý lỗi thời. Trước đây, ta có một đường lối cứu nước, đường lối ấy có những điều cần khai thác ở học thuyết Mác-Lênin và ta cũng đã làm như vậy.

Ngày nay ta cần đường lối xây dựng đất nước, khi chủ nghĩa Mác-Lênin không còn đủ sức mạnh toàn năng của nó nữa, ta khai thác nhiều tri thức khác của loài người.

Vậy thì ở Việt Nam ta, đường lối xây dựng phát triển có những vấn đề gì phải xem xét, phải thảo luận và phải tranh luận cho sáng rõ.

Hiện nay, đường lối mà các Đại hội đảng VII, VIII, IX đều quyết định là phải kiên trì và kiên định có những nội dung gì? Rõ ràng đó là sự tuyên truyền, và Đảng yêu cầu cả gần 80 triệu người phải nghe theo, phải tuân phục và thực hành những yếu tố sau:

  1. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Mà tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin.
  2. Phải tuân phục sự lãnh đạo của một đảng, đó là Đảng cộng sản Việt Nam, và sự lãnh đạo đó là tuyệt đối và toàn diện.
    Đảng quyết định tổ chức nhà nước, chỉ định nhân sự của nhà nước, quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước, quyết định các kế hoạch và chủ trương của nhà nước. Ở các bộ phận và các ngành thì có những cấp uỷ Đảng bộ phận (Đảng bộ) địa phương, các Đảng đoàn và các Ban cán sự quyết định mọi công việc, tất cả mọi người đều phải tuyệt đối chấp hành. Đảng ra các nghị quyết, các nghị quyết này đều được phổ biến trong toàn thể nhân dân, và yêu cầu mọi người phải học tập, chấp hành, rồi tất cả mọi diễn biến của cuộc sống đều phải diễn ra dưới ánh sáng của các nghị quyết ấy. Và, những nghị quyết và nghị quyết nhiều khi vượt qua, thậm chí còn ngược lại những quy định của Hiến pháp, pháp luật của nhà nước do Quốc hội thông qua. Mà Quốc hội thông qua cái gì thì cũng phải được Đảng (tức là Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương) phê duyệt. Điều này cho phép các quan chức và các tổ chức nhà nước, mà ở đây chỉ toàn những người của Đảng, cứ tuỳ tiện quyết định, phán xử những việc quan hệ đến số phận và tính mệnh của mỗi người dân, miễn là những quyết định ấy đều được “có ý kiến” của Đảng (cấp uỷ).
  3. Đường lối về kinh tế thì phải tuân theo nguyên lý kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, tuy kinh tế có nhiều thành phần, nhưng kinh tế nhà nước (quốc doanh) phải giữ quyền chủ đạo.
    Thực ra Đại hội VI đã làm một đột phá ngoạn mục xoá bỏ rào cản của kinh tế kế hoạch tập trung, tạo nên sức sống mới cho kinh tế xã hội, do đó nước ta thoát được khủng hoảng “bên bờ vực thẳm”. Nhưng sau này lại thêm vào hai yếu tố “định hướng”, và “chủ đạo”, làm cho sự phát triển kinh tế trở nên hết sức chập chững, chậm chạp. Điều đó làm cho thời kỳ 15 năm đổi mới, ta tuy có những tiến bộ khá tốt đẹp nhưng chưa thoát được khỏi đói nghèo và lạc hậu.
  4. Đảng cộng sản kiên trì chế độ “một Đảng lãnh đạo” lại nhấn mạnh nguyên tắc “tập trung dân chủ”, yêu cầu mọi người đều phải phục tùng tuyệt đối, tuyên bố trong nội bộ (thực ra ai cũng biết cả) là thực hiện vô sản chuyên chính.
    Do đó đã xây dựng “hai công cụ” chuyên chính là:
         Một là: Bộ máy văn hoá thông tin rất hùng hậu với 600-700 tờ báo viết và hàng trăm đài phát thanh truyền hình, một hệ thống trường học hùng hậu để nhồi sọ chính trị, hàng nghìn báo cáo viên với những “lưỡi gỗ”, “nói lấy được”, để ngu hoá và mê hoặc nhân dân. Bộ máy này được trang bị hiện đại và đầy đủ, có quyền lực và tha hồ nói láo.
         Hai là: một hệ thống các cơ quan an ninh của Bộ công an, Tổng cục II Bộ quốc phòng, Cục an ninh bảo vệ của tổng cục chính trị. Hệ thống này tha hồ lộng quyền theo sát hành vi từng công dân, được trang bị rất hiện đại (và tốn tiền) để tổ chức nghe trộm điện thoại, phá hoại thông tin của công dân. Đảng cộng sản Việt Nam.
  5. Đảng cộng sản đã và đang thực hành đường lối độc đảng (và tất yếu là độc quyền) lãnh đạo toàn diện (tức toàn trị).
    Vì vậy thực chất chế độ xã hội không phải là có “dân chủ xã hội chủ nghĩa”, mà là một chế độ xã hội phản dân chủ.
    Đảng đã thực hành điều đó một cách ngày càng kiên quyết, ngày càng triệt để. Trong khi lại buộc phải nói những lời đẹp đẽ về dân chủ, về “quyền làm chủ của nhân dân”. Vì vậy, đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội hiện nay là lừa bịp, là “nói một đàng làm một nẻo” là “chỉ nói mà không làm” và vì vậy không thể là một xã hội tốt đẹp được, những thành tựu về kinh tế xã hội hiện có nguy cơ tan vỡ.
    Điều rõ nhất là Đảng phải đưa ra Hiến pháp 1992. Đưa ra Hiến pháp đó, Đảng bắt nhân dân phải chấp nhận điều 4 là điều nói rằng nhân dân phải chịu sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản. Trong Hiến pháp lại có rất nhiều điều về quyền dân chủ của dân, nhưng trong đó ba điều dân chủ cơ bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử và tự do lập hội, thì đều bị chôn vùi bởi những đạo luật phản động và những thủ đoạn bỉ ổi. Ví dụ như về bầu cử thì có những thủ đoạn “Đảng cử, dân bầu”, “hiệp thương”, thực chất là không ai được quyền tự ứng cử. Ví dụ như về báo chí, xuất bản, thì những đạo luật ngược với Hiến pháp lại bắt buộc mọi người phải tuân theo nghiêm ngặt. Ví dụ như về tự do lập hội thì trong thực tế không ai có quyền gì hết, vì các thủ tục xin phép đủ làm nản lòng tất cả những ai muốn lập hội, các thủ đoạn Đảng phải bố trí đảng viên để nắm các tổ chức xã hội cũng làm cho các hội trở nên vô nghĩa.
    Lại ví dụ như trong khi có sự tuyên truyền cho khẩu hiệu “sống theo Pháp luật” thì Đảng lại là người sống ngoài pháp luật và sống trên pháp luật trắng trợn nhất. Và Đảng cũng chỉ đạo các cơ quan nhà nước làm như vậy. Xã hội ta ở trong tình trạng vô pháp luật thì người đầu tiên gây ra tình trạng đó là Đảng. Chống tham nhũng không được, cũng chỉ vì Đảng không thật sự chống. Chế độ độc đảng, độc quyền và tuyệt đối toàn diện, tức toàn trị, là thủ phạm và là nguồn gốc của mọi sự lộn xộn tiêu cực trong xã hội và tình trạng phản dân chủ của đất nước.
  6. Đảng có một bộ máy công tác lý luận khá to nhưng công tác lý luận của Đảng thì Đại hội nào cũng nhận xét là kém cỏi, hoặc quá kém cỏi. Vì công tác lý luận của Đảng chỉ có một nhiệm vụ là nhắc lại và chứng minh những nguyên lý đã lỗi thời từ 50 năm đến 100 năm, chứ không có nhiệm vụ trả lời những vấn đề mà cuộc sống hiện thực ngày nay đặt ra. Đảng bịt tai, nhắm mắt trước tất cả hiện thực thế giới và trong nước. Như thế thì xã hội phát triển làm sao được ??

Vậy 6 vấn đề nêu trên có phải là những vấn đề của đường lối về chính trị, kinh tế và xã hội hay không ? Và Đại hội lần thứ IX được nhiều cờ hoa và kèn trống chào mừng nhất có muốn giải đáp những vấn đề ấy không ? Và có giải đáp được không ?

III. Vấn Đề Chống Chủ Nghĩa Xã Hội:

Hiện nay trong xã hội ta, mà đúng hơn là trong giới chuyên chính (văn hoá, tư tưởng, và công an) hay có phổ biến các “cụm từ tội danh”:

Lâu nay ta vẫn quan niệm:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là mang lại hạnh phúc cho nhân dân, vì vậy chống chủ nghĩa xã hội là chống lại hạnh phúc của nhân dân, và như thế là phản động.

Từ đây có những câu hỏi:

Đó là những câu hỏi không cao xa, không cần lý thuyết, những câu hỏi của cuộc sống hàng ngày, khiến từng người dân có thể thấy một sự thật hiển nhiên là con đường đi lên hạnh phúc có thể xã hội chủ nghĩa và cũng có thể không xã hội chủ nghĩa, và có khi “không xã hội chủ nghĩa” lại thoải mái, dễ chịu và tiến đến hạnh phúc nhanh hơn.

Không cần đến các nhà lý luận người ta cũng có thể nhận thấy như thế. Ngoài ra, lẽ đương nhiên trong cuộc sống mỗi người dân đều có quyền tán thành chủ nghĩa xã hội hay không tán thành chủ nghĩa xã hội. Mà ở đây người ta không tán thành chỉ là không tán thành cái cung cách bắt người ta phải theo để đi lên hạnh phúc!

Cũng đơn giản như chuyện người dân nào cũng mong muốn thành phố xanh, sạch đẹp và trật tự văn minh, nhưng còn miếng ăn hàng ngày của người ta? Không cho phép người ta thì chớ, lại còn tiến hành việc đuổi bắt, đánh đá, phạt văng mạng. Và tất nhiên người ta phải mong muốn có một cách nào khác.

Vì vậy, việc truy chụp những người phê bình trật tự xã hội hiện tại và tệ hại của chế độ xã hội hiện tại … là “chống chủ nghĩa xã hội” thì tức là thừa nhận rằng chính xã hội chủ nghĩa là những cái tệ hại đó. Người ta chống là phải.

Việc quy tội nói trên là việc quy tội rất tuỳ tiện, rất dốt nát, rất lưu manh, và thậm chí rất phản động, đối với nhân dân. Như bản thân tôi, tôi không có một chút lý do gì để chống chủ nghĩa xã hội và chống Mác- Lênin cả. Tôi vẫn mong muốn cho đất nước phát triển, nhân dân hạnh phúc và tôi rất sốt ruột về bước đi chậm chạp của đất nước ta. Cũng như tôi vẫn cảm ơn chủ nghĩa Mác-Lênin đã dạy tôi hiểu biết cuộc đời và bước đi của cách mạng. Cho đến nay, tôi vẫn kính trọng Mác-Lênin và chủ nghĩa Mác-Lênin. Tôi vẫn vận dụng tinh thần của chủ nghĩa Mác là phép biện chứng để nhận xét tình hình ngày nay, và từ đó tôi thấy rằng phải theo Mác mà phân tích tình hình cụ thể thế giới và trong nước ngày nay mà quyết định bước đi. Và cũng từ đó tôi thấy rằng sau hàng trăm năm mà vẫn nhại như vẹt những câu nói của Mác-Lênin để giải quyết các vấn đề ngày nay, thì đó chính là những người chống lại Mác-Lênin một cách trắng trợn nhất và ngu dốt nhất.

Càng ngày tôi càng thấy chủ nghĩa Mác-Lê nin có những dự báo sai và có những bất lực trong việc lý giải các hiện tượng mới của thế giới, mà các ông ấy không còn sống để tiếp tục suy nghĩ và dìu dắt nhân loại nữa. Tôi thấy những trí thức mà tôi gặp cũng đều nghĩ như tôi, chứ không ai chống Mác-Lênin cả. Vì vậy tôi càng hết sức bực bội và khinh ghét những lời lẽ quy chụp tôi là chống chủ nghĩa xã hội và chống Mác-Lênin.

Không nên nói định hướng xã hội chủ nghĩa, mà chỉ nói xây dựng chủ nghĩa xã hội thêm cái ngoặc vào là: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, với ngụ ý cái chủ nghĩa xã hội mà ta xây dựng chính là cái chủ nghĩa xã hội ấy đấy.

Hết sức quan trọng là ở mấy chữ xã hội công bằng, dân chủ. Vì đã dân chủ thì phải đả phá chuyên chính, đả phá toàn trị, đả phá độc quyền. Nếu đúng như vậy thì tôi vẫn hô: “Muôn năm chủ nghĩa xã hội” và tôi vẫn phê phán cái chủ nghĩa xã hội công hữu bao cấp và quan liêu, hoặc nói là tôi “chống” lại cái thứ chủ nghĩa xã hội đó thì cũng được. Tôi vẫn hoan hô Đại hội IX đã thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu mục tiêu chiến lược, là “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng - dân chủ - văn minh” và mong nó được thực hiện.

IV. Đại Hội IX

Đại hội thế là đã xong (tôi nói XONG, chứ tôi không nói THÀNH CÔNG RỰC RỠ được, ngượng mồm lắm). Đại hội làm được một số việc: Đại hội đã bầu được một Ban chấp hành mới. Việc thay đổi nhân sự kỳ này có cái được là:

Đó mới là những cái được ở chữ nghĩa, chứ còn nội dung của Dân Chủ và đường lối Dân Chủ thì chưa có gì rõ ràng. Nội dung Tụt hậu và Tham nhũng cũng như đường lối khắc phục cũng chưa rõ.

Dù sao cũng cần ghi nhận rằng Đại hội IX có mấy cái được đó. Còn vấn đề cơ bản lớn là đường lối thì chưa giải quyết, chỉ mới là một sự lặp lại vô duyên các khẩu hiệu và công thức quá lỗi thời, đầy mâu thuẫn. Mâu thuẫn rõ là: đã nói huy động sức mạnh của toàn thể dân tộc (tức là tất cả già trẻ, lớn bé, trai gái, các dân tộc và giai cấp khác nhau) thế mà lại nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, tức là khuyến khích các giai cấp đấu lẫn nhau. Lại còn nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân và Đảng giành quyền lãnh đạo độc tôn, tức là xoá bỏ sạch các Đảng khác. Đảng chỉ chấp nhận và đoàn kết với những người giống như Đảng và nói theo y nguyên ý Đảng, coi tất cả mọi người có ý kiến khác đều là chống đối, là phản động. Ngay cả những đảng viên lâu năm mà có ý kiến khác cũng khai trừ và đối xử như thù địch.

Như vậy là vấn đề đường lối chưa được giải quyết và thậm chí chưa được đặt ra. Đất nước đang bị tụt hậu nghiêm trọng.

Bây giờ phải có đường lối phát triển đất nước cho nhanh. Đảng cộng sản có muốn làm việc ấy không và có làm được không ?

Còn cứ kêu gọi kiên định, kiên trì ... thì thực chất vẫn cứ là trì kéo đất nước trong vòng lạc hậu, đất nước có tiến lên được chút nào thì cũng vẫn cứ tụt hậu ngày càng xa so với những đất nước không cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và họ cũng không cần “kiên định”, “kiên trì” cái gì hết.

Tôi nhắc lại: bây giờ điều quan trọng nhất là làm thế nào cho đất nước phát triển nhanh, để đất nước được nhanh chóng giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh thực sự.

Không cần “kiên định, kiên trì” cái gì cả!

Đại hội IX đã sắp xếp lại nhân lực, lựa chọn người vào bộ máy lãnh đạo mới có trình độ học vấn cao hơn và tuổi cũng trẻ hơn. Đó là hiện tượng đáng mừng.

Nhưng về đường lối thì vẫn ở trong tình trạng nửa vời. Một mặt thì phải thích nghi với những vận động mới của thế giới và trong nước, nhưng mặt khác lại ra sức kìm hãm các yêu cầu đổi mới và dân chủ hoá tích cực, tạo nên một cơ chế vừa thích nghi vừa kìm hãm. Trong tình thế ngày nay, không thích nghi thì sụp đổ nhưng lại sợ thích nghi. Hy vọng sắp tới yếu tố thích nghi có thể có sự nhúc nhắc nhỉnh hơn. Nhưng rõ ràng đường lối chưa thoát ra khỏi sự kìm hãm, chưa thoát khỏi tình trạng nửa vời.

----- O -----

SỨC NÉN CỦA NGÔN TỪ

Kính tặng hương hồn cố thi sĩ Phùng Cung
HÀ SĨ PHU

Để khen nhau mà nói “hơi bị đẹp đấy” thì đã lạ rồi, nhưng tấm tắc khen nhau “hơi bị đểu đấy” thì các cụ nhà ta sống lại chắc không tài nào hiểu nổi bọn con cháu định nói gì.

Bởi nó “ngược đời” !
Bởi đó là kiểu ngôn từ đã bị lộn ngược !

Thứ ngôn ngữ lộn ngược này, tuỳ theo tạng của mỗi người, ta có thể thích hoặc không thích, nhưng sự tồn tại một cách rất có sức sống của nó khiến tôi giật mình. Hegel chẳng nói : cái tồn tại là cái có lý đó sao ?

Mà có lý thật.

Hãy nói về chữ “Bị”. “Bị” vốn là một từ biểu hiện ý niệm thua kém, tiêu cực, như bị thua, bị xấu, bị lỗ vốn, bị khinh … Nhưng nay lại có “bị đẹp” , “bị ngon” , “bị tuyệt vời” … thì thật trái khoáy !. Lạ nữa là nếu thêm một từ chỉ sự hạn chế như “hơi” (nghĩa là chỉ một chút thôi) thì giá trị muốn khen lại còn tăng lên gấp bội. Hơi bị đẹp là rất đẹp. Hơi bị tuyệt vời là tuyệt vời vô cùng.

Đến một lúc ta lại khám phá ra rằng, trong các cụm từ gồm những yếu tố ngược nhau, chống nhau kia toát lên một ẩn ức : Dường như người nói phải khẳng định một giá trị mà biết chắc là sẽ rất nhiều người muốn phủ định. Hơn thế, người nói dường như biết mình là thiểu số, là không chính thống, nhưng lại tin chắc sự thật và cái đúng nằm ở phía mình. Ngôn ngữ được phát ra trong một tương quan tranh chấp.

Khen một người đẹp, một hành động đẹp đích thực mà phải nói là “bị đẹp” ? Khẳng định là rất đẹp nhưng cũng chỉ dám nói là “hơi bị đẹp” thôi !. Sự “khiêm tốn”, nhượng bộ ấy cho thấy người nói tự biết mình đúng, nhưng vẫn phải cố nói cho “phải đạo”, như thể đang đứng trước những người đã trực sẵn để chống lại ý kiến của mình vậy.

Nhưng sự khiêm tốn ở đây xem ra chỉ là khiêm tốn bất đắc dĩ, bên trong vẫn như ngầm chứa một sự đối chọi, lại còn đùa cợt, trêu ngươi. Tuy đã rất khiêm tốn, người nói vẫn khẳng định lập trường khen chê của mình. Thậm chí hiệu quả tương phản của ngôn ngữ khiến cho càng bị nén xuống thì sự khẳng định lại càng tăng lên.

Vả lại, nói ngược chắc gì đã ngược, chữ “bị” chắc gì đã là thua kém. Chẳng hạn ”Bị” làm đày tớ thì sướng hơn cái “được” làm chủ rành rành rồi. Trong một không gian đảo lộn thật giả thì có khi nói ngược mới chính là nói xuôi.

Vậy chính bối cảnh xã hội đã tạo ra tâm lý thích nói ngược, và nhu cầu phải nói ngược !

Nhưng dù gì đi nữa, sự xung đột giữa hai thành phần đối chọi nhau trong các cụm từ có chữ “bị” này cũng cho ta thông điệp về một sự dồn nén, tranh chấp, cọ xát giữa những giá trị đang bị đảo lộn (hoặc do chênh nhau về thế hệ, hoặc bởi danh một đường thực một nẻo; hoặc bởi thang giá trị đã bị lộn ngược, quay đầu xuống đất, cái tử tế bị coi là tồi tàn, cái tồi tàn thì lên ngôi chúa tể), và tất yếu phải đấu tranh để xác lập lại thang giá trị ấy.

Bây giờ nói về chữ “Đểu

Đểu” là một cái gì đó xấu xa, tồi tàn, lừa đảo, mất dạy … khỏi cần nói. Nhưng ĐỂU lại ghép với một danh từ, tính từ hay động từ mang nội hàm tử tế, tốt đẹp, đạo đức … thì xưa nay chưa có bao giờ. Ví dụ xưa nay vẫn nói “thằng đểu” chứ không thể ghép với chữ ông thành “ông đểu” được.

Nhưng đây, tôi ví dụ. Trước ngày 30-4-1975 thì đài (máy thu thanh) còn quý lắm. Mấy thằng ma-cô ăn mặc giả bộ đội, thấy một ông già ngồi nghỉ ở chỗ vắng, đang nghe chiếc đài Xiang-Mao. Chúng xán đến chào hỏi lễ phép, rồi nói với vẻ quan tâm:

- Bố có cái đài đẹp quá, (rồi chìa tay ra), bố cho con xin nhé, thôi tặng con đi, bố già rồi, giữ lấy sức khoẻ mà sống, nghe làm gì ?

Nếu hiểu “ngôn ngữ của thời đại” và tình huống bất khả kháng của mình thì ông già hãy ngoan ngoãn biếu chiếc đài đi để được yên thân. Nếu ngoan cố chống lại thì chẳng những mất cái đài mà còn xơi thêm mấy cái tát hay gì nữa cũng chưa biết chừng. Động tác “xin” của chúng như thế là một bài giảng về khái niệm “xin đểu” !. Một động tác cướp nhưng không phải cướp giật, mà là “xin” !. Xin và tặng vốn là những động tác của sự lịch sự, thân ái !

Tôi nhớ trong một tuyện ngắn, nhà văn Bùi Minh Quốc đã gọi mẹo ấy là “biến cuộc trấn lột thành một cuộc hiến dâng tự nguyện”. Thật chí lý. Đầy tính “thời đại” (!). Những chuyện xin đểu, giúp đểu, quan tâm đểu, phục vụ đểu, đổi mới đểu, thân ái đểu, nhân ái đểu … (mà thực chất là ăn cướp, là trấn lột) bây giờ đã nhan nhản ra rồi. Trong những quán “cơm tù” chúng cũng phục vụ nhân dân đấy nhưng là “phục vụ đểu” !

Đấy là “đểu” ghép với động từ hoặc tĩnh từ.

Đểu” cũng có thể ghép với một danh từ hàm ý tử tế.

Một lần ra chợ giời, tôi mua về một chiếc radio-cassette hiệu Sony, còn khá mới, giá lại khá rẻ, nhưng lắp băng vào nghe được một lúc thì băng rối, cố mở ra thì núm văng một đằng, bánh xe một nẻo. Anh bạn tôi liền ái ngại và riễu tôi : “Thôi thôi bố ơi, bố mua phải “Sony đểu “ rồi!”. Sony là một thương hiệu có uy tín, ghép với chữ đểu tạo thành một từ đầy ấn tượng. Nếu gọi là Sony giả, Sony rởm thì mất hết giá trị trong ngôn ngữ. Phải là “Sony đểu” mới lột được cái thần của thực trạng. Hàng giả, hàng rởm … là những từ chết. “Hàng đểu” là ngôn ngữ sống động không thể thay thế, nó không chỉ thông báo về chất lượng món hàng, mà nó thông báo toàn cục, cả tâm địa, cung cách, trào lưu, khung cảnh, nền tảng, nguy cơ … và cả cảm xúc của người nói nữa, nghĩa là toàn bộ bối cảnh, toàn bộ “sinh thái học” của vấn đề.

Nhưng, ở một xứ sở toàn những mẹo Trạng Quỳnh thì sẽ có mẹo để chống lại mẹo, sẽ có “đểu” trị lại “đểu”, sẽ có “đểu” lương thiện chống lại “lương thiện đểu” ..v…v.., (rồi phải có “đểu” cương trực, “đểu” khôn ngoan, “đểu” tử tế nữa). Thế là một lần nữa, ngôn ngữ lại phải lộn ngược, và khi ấy những người tử tế lại phải khen nhau “hơi bị đểu đấy !” (trong tổ hợp này thì chữ “đểu” lại đóng vai nhân tố tốt đẹp, “đểu” tương tự như “đẹp”, nên vẫn ngược chiều với chữ “bị”, theo đúng nguyên tắc tương phản của cách diễn đạt này). Viết một câu đối ra mà được bạn bè gật gù, tủm tỉm phán rằng: “Hơi bị đểu đấy !” thì có thể yên tâm mở rượu ăn mừng. Ngôn ngữ quỷ quái thật.

Nói đến chữ ĐỂU tôi rất phục sự phát hiện của một cây bút tên là Bắc Hà mà tôi chưa có hân hạnh biết là ai. Bắc Hà viết về một nghề cổ truyền của đất Cổ Nhuế rất dễ thương với lời ca “ba sẵn sàng” : Thanh niên Cổ Nhuế xin thề, chưa đầy hai sọt chưa về quê hương. Bắc Hà viết rằng Cứt rất có giá nên người ta trộn cả đất vào để tăng trọng lượng. Cứt không đúng là cứt thì gọi là cứt đểu. (Trong tổ từ này Cứt là một giá trị đẹp, hữu dụng, tương phản với chữ đểu là từ có nghĩa xấu). (Mới đây trong vụ án siêu nghiêm trọng mà đại tướng Võ Nguyên Giáp, thượng tướng Nguyễn Nam Khánh và nhiều tướng lĩnh anh hùng của ta yêu cầu Bộ Chính Trị phải đem ra xét xử và nghiêm trị, ông Bắc Hà này còn phát hiện ra khái niệm “Chủ tịch nước đểu”, “đại tướng đểu” nữa !)

Kinh tế hàng hoá thật lắm chuyện. Nhưng ham lợi trước mắt mà tàng trữ “hàng đểu” thì tội to, lợi bất cập hại đấy !.

Đến đây, tôi phải mở ngoặc, xin bạn đọc một phút thôi, kẻo vô tình ta xúc phạm đến phẩm chất của Cứt. Cố thi sĩ Phùng Cung có bài ca ngợi phẩm chất ấy như sau: “Cứt không thèm với tay vịn gió đổi mùi, và nguyện hôi thối hết mình để người đời khỏi ngộ nhận ...”. Cứt tự biết mình là thối, lại nguyện hôi thối hết mình để người đời khỏi ngộ nhận. Cái đức “chân thật” đó của Cứt thật đáng ngợi ca thay ! Lương thiện thay ! Cố bốc thơm mà làm gì ?

Trở lại câu chuyện ngôn ngữ.

Ngôn ngữ là một kho tàng văn hoá. Nó là phương tiện giao lưu, phương tiện truyền bá toàn diện nền văn minh, làm cho thế hệ sau tiếp nhận được hết các thành quả của thế hệ trước, đứng lên vai thế hệ trước mà tiến xa hơn. Nhưng chính ngôn ngữ cũng là một thể sống, nó hút sinh khí của môi trường giao tiếp mà tu chỉnh, mà nâng cao, mà sinh sản nữa.

Thời đại nào đẻ ra ngôn ngữ ấy. Thời đại của Tin học, của máy vi tính cho ta khái niệm “nén thông tin”. Vẫn nội hàm ấy, nhưng tuỳ độ nén mà tạo ra các dạng thông tin khác nhau. Thử đem khái niệm ấy vào văn học : Thông tin từ cõi nhân sinh thì mênh mông vô tận, nhà văn nén nó vào tiểu thuyết, nén nữa thành các truyện ngắn, nén nữa thành thơ, nén nữa thành câu đối, nén nữa thành các khái niệm, ngôn từ. Sức đúc kết của ngôn từ thì thật kinh khủng.

Những danh từ như Cách mạng, Dân chủ … thật tối thiêng liêng, nhưng nếu không thực tâm vì Nhân dân, vì Đất nước mà để cho Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ ỷ thế làm càn, hại dân hại nước thì miệng người đời ngọng gì mà không kèm một chữ “đểu” theo sau ?. Bao nhiêu năm trời dân mới sáng tác được, mới nén được một chữ “đểu” của mình, hẳn dân biết dùng cho đích đáng.

Nhân nhắc đến câu đối, tôi nhớ hai câu thách đối mà tôi cho là cô đọng và khó đối nhất trong các câu đối hiện đại. Một câu là chữ nghĩa văn chương, của Phan Hiền, đăng báo Quân đội Nhân dân đã lâu lắm. Thách đối như sau : “Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy !”. Chữ nghĩa tối giản, lộn ngược lộn xuôi, luẩn quẩn, tráo đi tráo lại, mà ý tứ thì hàm xúc vĩ mô, bình luận cả ngày không hết !. Còn câu kia là một câu thách đối thuộc ngôn ngữ “tếu táo” lưu truyền trong dân gian, nhưng gói ghém toàn bộ tính chất và hiệu quả của nền kinh tế chỉ huy và phân phối bao cấp XHCN : “Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt !”. Ôi, lại Phân với Cứt, những từ ngữ sao mà vĩ đại !

Những Câu đối tài như thế, lắt léo như thế, bao trùm như thế thì kể cũng “hơi bị đểu” và “hơi bị tuyệt vời” thật ! Biết khen thế nào khác được ?

Câu đối là thể loại đã nén thông tin rất cô đọng, nhưng đến đơn vị cơ bản là những ngôn từ thì sức nén còn cô đọng hơn. Chỉ một chữ “BỊ”, một chữ “ĐỂU” thôi, được sử dụng một cách “tai quái” và bi hài như vừa phân tích trên đây đã nén vào trong nó thông điệp của cả một thời, một thời có một không hai trong lịch sử dân tộc ta vậy.

Hà Sĩ Phu - 10 / 2004

Truyện TAM QUỐC … CHOÉ
Hồi thứ ...

- xứ chột làm vua, giở mẹo, anh khùng đâm giáp thủng !
- cờ tàn đấm tốt, dùng mưu, tướng trị cùn

(Cuộc giao tranh thắng bại thế nào, xem hồi sau sẽ rõ)
HSP

----- O -----

THAM NHŨNG – ĐÂU LÀ LỜI GIẢI ?

Ngay trong những buổi họp đầu tiên của kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI, đang diễn ra tại Hà nội, thì vấn đề chống tham nhũng đã được đặt lên hàng đầu. Ông Phan Văn Khải đã đưa ra ‎ý kiến là thành lập một cơ quan chống tham nhũng và sau đó có vẻ như đã được các Đại biểu Quốc hội và các cơ quan hữu quan tán thành.

Thật ra, còn rất nhiều câu hỏi mà không bao giờ người Dân có được câu trả lời đầy đủ và trọn vẹn từ phía chính quyền, đó là: Tham nhũng xuất phát từ đâu? tham nhũng là ai ? Tại sao tham nhũng ngày càng nhiều? Bây giờ thành lập cơ quan chống tham nhũng, rồi do ai lãnh đạo cơ quan này? Và sẽ hoạt động ra sao? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu, rất mong sau bài này có thêm nhiều bài khác bổ sung, để cho bạn đọc có được một bức tranh toàn cảnh về tham nhũng, để rồi từ đó nghĩ ra cách tiêu diệt tham nhũng.

Hiện thực

Tham nhũng tại Việt nam hiện nay ra sao? Có lẽ, ngay cả đứa bé học lớp 1 cũng biết và được báo chí nói đến hàng ngày, hàng giờ, thậm chí còn công khai gọi nó là “quốc nạn”. Tham nhũng có mặt khắp nơi, trong tất cả các cơ quan nhà nước. Quan bé tham nhũng bé. Quan càng to tham nhũng càng to. Có một sự thật rất hiển nhiên mà ai cũng dễ dàng đặt câu hỏi được, đó là cán bộ công chức nhà nước lương rất thấp, vậy thì tiền đâu mà họ xây được những biệt thự to thế, nhiều thế…?( ví dụ như Phó chủ nhiệm uỷ ban thể dục thể thao quốc gia, Lương Quốc Dũng được các cơ quan điều tra ước tính tài sản là 150 tỉ đồng, gần 10 triệu đô! Tiền này lấy đâu ra? Thử hỏi những quan to hơn thì tài sản biết bao nhiêu mà kể?) Tiền đó từ đâu ra? Rõ ràng là tiền tham nhũng ( nói cho chính xác là tiền ăn cắp, chính xác hơn nữa thì đó là tiền ăn cướp! Bởi vì ăn cắp thì phải lén lén, lút lút, chứ đằng này thì thản nhiên như giữa ban ngày, không ai là không biết!). Nhà nghiên cứu Trần Khuê nhận xét: “Việt Nam là một trong những nước quan càng to càng ăn cắp, ăn cướp của dân, lũ khốn nạn đến như thế. Dân người ta chửi một cách công khai” (RFA-29/10/2004). Còn Bí thư Thành ủy TP.HCM, đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Triết thì nói rằng “Tiêu cực, tham nhũng còn dài dài, chặt đầu này thì đầu khác mọc ra”. Bà Nghị sỹ Nguyễn Thị Hồng Minh( An Giang) thì “Vấn đề tham nhũng đã được nêu khá gay gắt ở nhiều khóa QH, nhiều nhiệm kỳ của Chính phủ nhưng đến nay không giảm mà còn có xu hướng phát triển rộng, sâu hơn. Tham nhũng không chỉ dừng lại ở lĩnh vực đầu tư, cấp quota mà đã lan sang các cơ quan bảo vệ pháp luật, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế... và ở nhiều cấp quản lý…tệ nạn này như một “khối u ác tính” đã chuyển sang di căn và vượt ra ngoài vòng kiểm soát của pháp luật!”. Ông Phan Diễn, thường trực ban bí thư, thì thừa nhận “… Hiện nay, phải nói thật tình trạng tiêu cực, tham nhũng còn rất nhức nhối. Có quá nhiều vụ việc diễn ra trước mắt chúng ta, trước mắt quần chúng. Tôi tin là trong quần chúng nhân dân không người này thì người khác cũng biết. Đáng tiếc những vụ việc tiêu cực như vậy vẫn có thể tồn tại trong một thời gian rất dài, gây thiệt hại rất lớn cho cái chung của chúng ta.”( theo báo chí trong nước)

Như vậy tham nhũng thực sự đã ăn vào máu của cán bộ trong bộ máy công quyền Việt nam. Và nhà nước Việt nam có chống tham nhũng không? Có đấy! nhưng mà chống trên l‎í thuyết chứ thực tế thì chống sao được? Đã hơn 20 năm nay rồi, nhà nước kêu gọi chống tham nhũng nhưng đâu vẫn vào đấy, chẳng có gì cải thiện cả. Tham nhũng ngày càng gia tăng, cả về số lượng lẫn “chất lượng”, điển hình mới đây là các vụ tham nhũng ở Tổng công ty dầu khí, Bộ thương mại, Bộ bưu chính Viễn thông, ngành Thủy sản, Ủy ban thể dục thể thao Quốc gia,… Tóm lại tham nhũng là có thật, nó đang hoành hành mỗi lúc một mạnh hơn và phô bày ngay trước mắt của chúng ta. Chống tham nhũng là nhiệm vụ của toàn Dân. Đảng cộng sản cũng không được trốn tránh trách nhiệm của mình và phải chấm dứt ngay tình trạng trì trệ như thời gian qua. Vì, đúng như ông Nguyễn Thanh Giang nhận xét: “Nếu không chống được tham nhũng thì không những có tội với nhân dân, với đất nước mà còn là nguy cơ sụp đổ của đảng.”

Ai tham nhũng?

Chúng ta nghe quá nhiều về tham nhũng rồi, nhưng ít ai đặt ra câu hỏi: Ai tham nhũng? Phải đặt câu hỏi này, vì biết được đối tượng mới có cách khắc phục. Câu trả lời đương nhiên ai cũng biết rồi, đó là : Các Quan lớn, nhỏ từ Trung ương đến địa phương, các cán bộ có chức có quyền, trong tất cả các cơ quan nhà nước… Tất nhiên là phải như vậy rồi, có chức có quyền mới tham nhũng được, chứ còn người Dân thì lấy gì mà tham nhũng? Tham nhũng cái gì? Chỉ có các vị quan chức nhà nước( mà thường được nghe nhắc tới với những từ ngữ hết sức hài hước đó là “đầy tớ của nhân dân”) mới có cái đặc quyền đó. Từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc xin giấy chứng nhận gì đó của Ủy ban xã cho đến những hợp đồng đấu thầu.v.v... đều phải chi tiền, nếu muốn mọi việc suôn sẻ. Đặc biệt là những tên “đầy tớ của nhân dân” làm trong các ngành “nhạy cảm” như Thuế, Hải Quan, Ngân Hàng, Công an, Tòa án, … Tóm lại, bất cứ ông quan nào của nhà nước có tí chức quyền đều tranh thủ để tham nhũng. Ít chức thì tham nhũng ít, nhiều chức thì tham nhũng nhiều!

Nguồn gốc của tham nhũng.

Tiền ai mà không tham? Tiền càng nhiều càng ít, biết bao nhiêu cho đủ? Tham nhũng chẳng có nơi nào mà không có?

Đúng là như vậy thật! Vì đó là bản chất của Con người !

Thế nhưng có một sự khác biệt rất lớn: đó là mức độ tham nhũng. Về khoản này thì Việt nam luôn thuộc nhóm đứng đầu thế giới về tệ nạn tham nhũng. Theo báo cáo thường niên của Tổ chức minh bạch quốc tế thì Việt nam được xếp hạng 102/146 , tụt hai hạng so với năm ngoái. Các vụ tham nhũng được phanh phui ở Việt nam thời gian qua chỉ là phần nổi của tảng băng, theo Bà Hồng Minh phân tích: những vụ tham nhũng được phanh phui có phải chỉ mới là phần nổi của tảng băng, vậy phần chìm còn đến đâu?Và chính cái phần chìm này mới đáng kinh khủng, nhưng chắc một điều là nó không bao giờ được phát giác hay phanh phui, bởi vì ở Việt nam có câu nói quen thuộc trong dân chúng là: “ Nếu ai tham nhũng cũng bị trừng trị, bị đi tù hết thì lấy ai lãnh đạo đất nước?” Tại sao có tham nhũng? Nguyên nhân từ đâu? Thật ra câu này không khó để trả lời! Tham nhũng bắt nguồn từ quyền lực, nhất là khi quyền lực đó không bị giám sát. Chúng ta ai mà chẳng thấy điều đó? Phải có quyền lực thì mới “hành” Dân, mới tham nhũng được. Hay nói một cách đầy đủ hơn, điều kiện cần và đủ để có thể tham nhũng là Quyền lực không được giám sát ! Quyền càng lớn thì tham nhũng càng nhiều, càng dễ! Những người không có quyền hành gì, thì kể cả các đảng viên cộng sản cũng không thể làm gì được, thậm chí họ còn là nạn nhân của sự tham nhũng. Là “con tin” của chính bộ máy mà họ đã dựng nên. Trên thế giới, ở các nước Dân chủ vẫn có tham nhũng, nhưng mức độ rất thấp, bởi vì mọi thứ Quyền lực đều có cơ chế giám sát. Nền tảng của các quốc gia Dân chủ dựa trên nguyên tắc Tam Quyền phân lập, nghĩa là 3 cơ quan tối cao của nhà nước Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp luôn tồn tại và hoạt động độc lập. Mục đích chính là giám sát lẫn nhau để không có cơ quan nào có điều kiện lộng hành ( chính vì hoạt động độc lập mà một Thẩm phán có thể đưa cả Tổng Thống ta Tòa nếu có bằng chứng là Tổng Thống vi phạm pháp luật mà Quốc Hội đã ban hành ), cộng thêm với những nguyên tắc khác như: Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thành lập các hội đoàn,… mà ở các nước có Dân chủ, tham nhũng không có đất để dung thân.

Như vậy tham nhũng tại Việt nam bắt nguồn từ chính cơ chế độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Chính vì sự độc quyền lãnh đạo, mà quyền tối thượng là Bộ Chính Trị, nó cao hơn cả Hiến pháp, cao hơn bất cứ luật lệ nào. Và đảng cộng sản có quyền lực tuyệt đối! Vì vậy Việt nam không có tam quyền phân lập, Quốc hội, các cơ quan bảo vệ pháp luật đều thuộc quyền quản lí của Đảng, tức là đảng đứng ngoài vòng Pháp luật, hay nói cách khác chính phủ Việt nam không bị bất cứ một cơ chế nào giám sát hay chế tài cả. Đảng bảo đúng là đúng, bảo sai là sai, mà sai rồi để đảng sửa, năm này không được thì năm sau, thế hệ này chưa xong thì thế hệ sau sẽ cố gắng … Và như đã phân tích ở trên : Khi mà quyền lực không bị giám sát và chế tài thì tham nhũng sẽ phát triển nhanh chóng và ngày càng trầm trọng. Bà Hồng Minh rất có lí khi đặt câu hỏi : “ Có phải đang tồn tại một điều gì đó chưa phù hợp, chưa đúng qui luật trong cách tổ chức hệ thống quản lý khiến cho không kiểm soát được tham nhũng? ” . Thật ra, nói như vậy là Bà đã hiểu được nguyên nhân xuất phát tham nhũng từ đâu? Tất nhiên, Bà không thể nói thêm được nữa, là một Nghị sỹ của một Quốc Hội bù nhìn mà nói được như thế là quá dũng cảm. Vì thế, tôi xin được phân tích tiếp ý của Bà như trên. Mong rằng không vì bài viết này mà Bà bị mất ghế của mình trong Hội trường Ba Đình. Thật lòng tôi rất ngưỡng mộ những người như Bà.

Làm cách nào để loại trừ được tham nhũng?

Theo Nghị sỹ Hoàng Văn Lợi (Bắc Giang) thì có ba “kế sách”: Thứ nhất, Nhà nước phải có ngay cơ chế kiểm soát thu nhập của cán bộ công chức, nhất là nhóm có “nguy cơ cao” ở các lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, ngân hàng, những người lãnh đạo… Thứ hai, cần khẩn trương triệt tận gốc cơ chế “xin - cho”, bởi đây là “mảnh đất màu mỡ” của tham nhũng. Thứ ba, chống tham nhũng cần gắn chặt với chống lãng phí, thất thoát, trước mắt là giảm bớt lễ hội, họp hành, mừng công, xe công...

Còn theo nhà nghiên cứu Trần Khuê thì: Chống tham nhũng là phải chống thật sự, chống một cách toàn diện. Theo tôi, phải thay chữ đẩy lùi đi, không thể nói là đẩy lùi tham nhũng, 20 năm rồi mà cứ nói đẩy lùi, có lùi được gì đâu ? mà chính họ, lại đẩy lùi những người tiến bộ, đẩy lùi đất nước ... Cho nên tôi thấy trong việc này phải hết sức kiên quyết, phải trừ bỏ, phải loại trừ, chứ không phải chí là đẩy lùi nữa.”

Ông nói tiếp” muốn chống tham nhũng thì phải đi đôi với việc dân chủ hóa đất nước thì mới chống tham nhũng được, tức là nhân dân phải được tố cáo những người tham nhũng, những kẻ tham nhũng. Thế nhưng mà tìm cách bịt mồm bịt miệng nhân dân thì làm sao có thể tố cáo được”

và cuối cùng Ông nói rằng “nếu mà dân chủ hóa đất nước một cách đầy đủ thì chống được tham nhũng và loại trừ được tham nhũng, đất nước phát triển. Tại vì dân chủ hóa đất nước là một nhu cầu của đất nước, của nhân dân, có dân chủ thì mới phát triển được. Nhưng có một điều chúng tôi yêu cầu là phải làm thật, chứ không phải là cứ nói mà không làm..."

Theo Ông Nguyễn Thang Giang thì: muốn chống tham nhũng thì phải chống cái cơ chế đẻ ra tham nhũng, tức là phải sửa đổi chính trị thì mới mong chống được tham nhũng.

Ông nói tiếp “Ngoài việc cải tổ cơ cấu chính trị, những thành phần nào tham gia vào cơ cấu chống tham nhũng, đặc biệt là người đứng đầu Ủy ban chống tham nhũng, một điều kiện tối cần thiết là tự do ngôn luận. Phải có tự do ngôn luận thì mới chống được tham nhũng, còn chừng nào tất cả các cơ quan ngôn luận, báo chí chỉ là tai sai cho những người lãnh đạo thì không đời nào chống được tham nhũng”.

Sau cuối Ông kết luận” Nếu thực sự muốn chống, thành lập ban chống tham nhũng, người cầm đầu và các thành viên tuy không phải là người của đảng, nhưng đảng phải để cho họ hoạt động có tính độc lập hoàn toàn, chứ còn nếu mà thành lập có tính chất như phi chính phủ, hội đoàn này nọ ..... thì không làm được”

Ý kiến của những người uyên bác và có tấm lòng như vậy thật là đầy đủ, thiết nghĩ không còn gì để nói thêm. Khi tìm đúng bệnh rồi thì cứ thế mà chữa. Tham nhũng bắt nguồn từ những Quyền lực không được giám sát! Thế thì muốn loại bỏ được tham nhũng thì phải có các cơ chế để giám sát quyền lực. Đó là điều bắt buộc không thể nào làm khác đi được. Chính ông Phan Diễn cũng thừa nhận rằng “Tiêu cực, tham nhũng sẽ bị đẩy lùi nếu dân chủ được phát huy”.

Tôi xin nói lại một lần nữa như sau: muốn chống tham nhũng thì phải có Dân chủ. Khi có Dân chủ rồi thì mới giải quyết được vấn nạn tham nhũng. Mà dân chủ tức là phải có cơ chế để giám sát chính phủ, mà việc đó chỉ có thể thực hiện được khi Việt Nam có đa đảng. Mục đích của đảng đối lập là giám sát các hoạt động của đảng đang cầm quyền. Để đảng cầm quyền không thể tự tung tự tác như bây giờ được. Dân chủ cũng là tự do báo chí , tự do ngôn luận, tự do thành lập hội, nghiệp đoàn .v.v. Người Dân có quyền tố cáo tham nhũng mà không sợ hãi bị trừng phạt. Luật pháp hoạt động độc lập và không bị điều khiển bởi các vị chức sắc của đảng, chỉ có thế mới bảo đảm rằng trước pháp luật mọi người đều bình đẳng.

Nhà nước Việt nam hiện nay có chống được tham nhũng không?

Sau khi đọc xong các ý kiến để loại trừ tham nhũng thì chúng ta có thể khẳng định ngay rằng: Với bộ máy (hay cơ chế) vận hành như hiện nay của đảng cộng sản thì không thể chống được tham nhũng. Tôi không phải là người bi quan hay trù ẻo đảng cộng sản làm gì, nhưng cứ đối chiếu với những phân tích như trên thì điều kiện căn bản nhất là Dân chủ, tức phải có đa đảng để giám sát lẫn nhau. Thử hỏi Đảng cộng sản có làm được việc đó hay không? Không bao giờ có chuyện đó! Đa đảng thì làm sao mà tập trung quyền lực về một mối được? như vậy làm sao mà tham nhũng được? Nếu họ có ý định chống tham nhũng thì không bao giờ họ bắt giam Ông Phạm Quế Dương và Ông Trần Khuê làm gì? Hai Ông đã làm theo lời kêu gọi của đảng là chống tham nhũng, hai Ông xin thành lập Hội chống tham nhũng và lập tức bị bắt và bị bỏ tù vì tội “lợi dụng quyền tự do, dân chủ làm phương hại đến lợi ích nhà nước”. Đúng là hai Ông chống lại đảng rồi, vì đảng với tham nhũng là một, chống tham nhũng cũng có nghĩa là chống đảng! Hai Ông ngồi tù cũng đúng thôi. Ông Phạm Quế Dương kể với Đài RFA “Nguyên nhân bắt tôi tại thành phố Hồ Chí Minh và giam giữ tôi 19 tháng là bởi vì trong tay tôi có danh sách 16 người mà ông Trần Khuê đưa cho tôi là để ủng hộ việc thành lập Hội Nhân Dân Việt Nam ủng hộ đảng và nhà nước chống tham nhũng. Chúng tôi làm theo lời kêu gọi của những người lãnh đạo, những người lãnh đạo tối cao của Việt Nam thì chính chúng tôi lại bị trừng trị”

Qua lời Ông thì chúng ta thấy rõ một điều là Đảng với Tham nhũng như đôi bạn “đồng sàng, dị mộng” tuy hai là một, tuy một mà hai. Chửi nhau cật lực đấy, nhưng không thể sống thiếu nhau được.

Cho nên dù Phan Văn Khải có hô hào thành lập cơ quan chống tham nhũng này nọ thì cũng chỉ là cho vui… miệng. Vì, đúng như Ông Nguyễn Thanh Giang nhận định: “Bây giờ bày ra chỉ để ngu ngơ với nhau, viết một vài cái tổng kết ... rồi tiến thêm vài bước .... Vấn đề bây giờ, vấy bùn hết cả rồi cho nên thành phần nhân sự của Ủy ban lại hết sức quan trọng, không thể giao cho mấy ủy viên(Bộ Chính Trị) như trước nữa, bởi vì nhân dân họ bảo rằng, giao ủy ban chống tham nhũng cho mấy ông quan chức đó thì khác gì giao trứng cho ác”

Ông nhấn mạnh “Tôi thấy cơ quan chống tham nhũng là do Quốc Hội đề cử ra toàn là những người của đảng viên cộng sản thì như vậy không thể chống được tham nhũng. Tại sao như vậy, bởi vì trong nhân dân người ta nói chống tham nhũng tức là chống đảng. Tại sao lại cho là chống đảng, vì muốn chống tham nhũng phải có dân chủ, những người như đại tá Phạm Quế Dương và ông Trần Khuê thành lập hội giúp đảng và nhà nước chống tham nhũng thì lại bắt bỏ người ta thì làm sao chống”

Bởi tất cả những lí do trên chúng ta có thể đau buồn nhận thấy rằng Tham nhũng đã, đang, và sẽ tiếp tục hoành hành trên quê hương Việt nam yêu dấu. Để loại bỏ nó thì có một cách là cùng nhau xây dựng một chế độ Dân chủ thật sự, nơi mà không còn là mảnh đất màu mỡ cho bất công, nghèo đói, tham nhũng… Và để làm được điều đó cần có sự ủng hộ và quyết tâm của Toàn Dân.

Số phận của Dân tộc Việt nam phải do chính người Việt nam quyết định.

Nếu chúng ta cứ ngoảnh mặt thờ ơ, quay lưng lại với bất công, tham nhũng thì không những đời chúng ta khốn khổ mà rồi đến đời con cháu chúng ta cũng vậy.

Nếu có trách thì hãy trách chính Lương tâm trong con người của mỗi chúng ta, tại sao nước Việt nam ta lại Tham nhũng và bất công nhiều như vậy ? Câu trả lời nằm trong chính bản thân mỗi chúng ta.

Việt Hoàng

----- O -----

Ban biên tập: Trong hội nghị Đảng uỷ quân sự Trung Ương mở rộng, ngày 24/8/2004. Có một báo cáo nhận định về “ÂM MƯU, Ý ĐỒ CỦA MỸ VÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ”. Chúng tôi đăng tải tài liệu này để độc giả có dịp tham khảo thêm. Mọi ý kiến bình luận xin được dành cho độc giả.

ÂM MƯU, Ý ĐỒ CỦA MỸ VÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ
Việt Nam - Đông Dương Từ Nay Đến Đại Hội X
(Tài liệu Báo cáo tại Hội nghị ĐUQSTW mở rộng, ngày 24/8/2004)

Với ưu thế vượt trội về kinh tế và quân sự, Mỹ đẩy mạnh triển khai chiến lược toàn cầu với mức độ cực đoan hơn, hiểu nhiều hơn nhằm nhanh chóng áp đặt sự lãnh đạo độc tôn, khẳng định vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ trên thế giới.

Cách mạng Việt Nam tiếp tục đối mặt với 4 nguy cơ đã được các Đại hội Đảng xác định. Với mục tiêu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam chuyển hoá chế độ XHCN ở Việt Nam, Mỹ gia tăng các hoạt động “diễn biến hoà bình” bằng những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là âm mưu chia rẽ nội bộ, sử dụng lực lượng cấp tiến, phản động trong và ngoài nước, đẩy mạnh hoạt động thúc đẩy các diễn biến trong nội bộ ta.

Dưới đây là một số tình hình thế giới, khu vực và trong nước thời gian qua, có tác động trực tiếp tới An ninh – Quốc phòng của Việt Nam. Dự báo một số âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch từ nay cho đến Đại hội 10.

I.- Âm Mưu, Ý Đồ Của Mỹ Đối Với Thế Giới Và Khu Vực

1- Bàn giao quyền lực cho chính phủ lâm thời Iraq (06/2004), Mỹ “rảnh tay” vừa tiếp tục bình định Trung Đông, vừa điều chỉnh chiến lược toàn cầu theo xu hướng hiếu chiến hơn, thể hiện rõ hơn mưu đồ “sen đầm” quốc tế:

Ngay sau khi tiến hành bàn giao Chính phủ lâm thời cho Iraq, với ưu thế là siêu cường, Mỹ tiếp tục đưa ra nhiều đối sách chiến lược mới có tính toàn cầu hơn, nhằm kiềm chế các đối thủ “cạnh tranh chiến lược” và áp đặt “ giá trị Mỹ” trên toàn thế giới thông qua chiêu bài chống khủng bố. Điều này được thể hiện qua các ý đồ chiến lược của Mỹ:

1.1- Xây dựng một khu vực “Đại Trung Á” nằm dưới sự “lãnh đạo” của nước Mỹ:

Về địa lý, Mỹ xác định “Đại Trung Á” “là khu vực bao gồm các quốc gia có chủ quyền được trải dài từ Maroc thuộc Bắc Phi đến Afganistan, trong một không gian hợp nhất cho chiến lược kinh tế chính trị và an ninh khu vực”. Phát triển chiến lược “Đại Trung Á” nhằm thống nhất sức mạnh quân sự và sự điều hành chiến lược an ninh chung cho toàn bộ khu vực, trước mắt là thống nhất sự lãnh đạo tại khu vực Trung Á, sau đó Mỹ sẽ đẩy mạnh khai thác tài nguyên năng lượng phục vụ cho nhu cầu sử dụng của Mỹ ở khu vực này.

1.2- Phát triển khối NATO sang Đông Âu, áp sát Nga, qua đó buộc NATO phải sát cánh với Mỹ trong cuộc thập tự chinh thế giới:

Mỹ chủ trương “bằng mọi cách, các nước Trung Á thuộc Nga cũ phải gia nhập NATO trước 2010”. Theo đó, NATO sẽ được mở từ 19 nước lên 26 nước, với phạm vi hoạt động không bị bó hẹp ở Châu Âu mà mở rộng sang các khu vực khác.

1.3- Xúc tiến việc hình thành khối quân sự “NATO phương Đông”, trước khi hình thành vòng cung quân sự bao vây Trung Quốc:

Mỹ đã lên kế hoạch thành lập “khối NATO phương Đông” -dưới hình thức Liên minh quân sự chống khủng bố- trọng điểm là các nước tại khu vực Đông Nam Á, thông qua các biện pháp:

Mỹ toan tính lợi dụng lực lượng Jemaah Islamiah tạo ra các vụ “khủng bố” tại khu vực Đông Nam Á, chủ yếu từ Indonesia đến Thái Lan nhằm tạo sức ép, buộc các nước thuộc bán đảo Ấn Trung (trong đó có Việt Nam) phải gia nhập vào khối quân sự “NATO phương Đông” để chống khủng bố.

Về lâu dài, sự liên kết giữa khối NATO Đông Âu và khối “NATO phương Đông” sẽ khép kín vòng cung bao vây Trung Quốc bằng sức mạnh quân sự trên tất cả các hướng.

1.4- Đẩy mạnh chuyển trọng tâm chiến lược sang Châu Á-Thái Bình Dương:

Tại Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ xác định việc tiếp tục duy trì sức mạnh quân sự và chi phối chính trị nhằm: Không cho Nga có cơ hội khôi phục vai trò siêu cường, ngăn chặn mối quan hệ Nga –Trung liên kết chống lại chiến lược toàn cầu của Mỹ; hạn chế và tiến tới triệt tiêu ý đồ lôi kéo Đông Á và Đông Nam Á vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Mỹ đề ra 02 đối sách: 1/ Phải làm cho các nước ASEAN thấy được nguy cơ phát triển của khủng bố Hồi giáo trong khu vực, và thấy được vai trò quyết định của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, cũng như thấy được các quyền lợi cơ bản khi hợp tác với Mỹ. 2/ Ngoài Singapore, Thái Lan và Philippines, các nước còn lại đều phải có biện pháp trừng phạt nếu tiếp tục bất hợp tác với Mỹ. Ý đồ của Mỹ là sẽ sử dụng biện pháp liên kết khu vực để cô lập các nước không có chính kiến rõ rệt như Việt Nam, Malaysia, Myanmar.

2- Dưới áp lực của Mỹ, một số nước Đông Nam Á đã có sự “chuyển động” về đối sách, làm gia tăng nguy cơ bất ổn định tại khu vực Đông Nam Á:

3- Tiếp tục đẩy mạnh chống phá, biến Lào và Campuchia thành cửa ngõ, là bàn đạp để chuyển hoá Việt Nam, từ đó thâu tóm toàn bộ Đông Dương nằm trong ảnh hưởng của Mỹ, biến Đông Dương thành điểm chốt chặn chiến lược: Kế hoạch “hướng Nam” của Trung Quốc:

3.1- Với mục tiêu xoá bỏ chế độ hiện nay ở Lào:

Chuyển hoá Lào theo quỹ đạo do Mỹ chi phối, thiết lập chế độ thân Mỹ, phương Tây; hạn chế và loại dần ảnh hưởng của Việt Nam, ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của Trung Quốc …, Mỹ thường xuyên thay đổi thủ đoạn, biện pháp chống phá cách mạng Lào cho phù hợp với tình hình - Từ biện pháp đấu tranh vũ trang, và dựa vào lực lượng phản động lưu vong ở nước ngoài là chủ yếu, sang thúc đẩy các biện pháp phi vũ trang thông qua chiến lược “diễn biến hoà bình” trên tất cả các lĩnh vực, nhất là thông qua kinh tế để lôi kéo, mua chuộc, gây chia rẽ nội bộ. Đồng thời, gây áp lực từ bên ngoài, gắn viện trợ với dân chủ và nhân quyền.

Phương thức tiến hành chống phá của Mỹ đối với Lào là “trong ngoài kết hợp”; Xây dựng, phát triển lực lượng ngầm bên trong; Kích động, xúi giục những phần tử chống đối trong các lực lượng như sinh viên, dân tộc, tôn giáo,… nổi dậy gây bạo loạn kết hợp với lực lượng phản động Lào ở bên ngoài.

Ngoài ra, để thúc đẩy chuyển hoá Lào từ bên trong, Mỹ thông qua các hoạt động nhân đạo từ thiện, tìm kiếm MIA, hợp tác chống ma tuý, các hoạt động tôn giáo, văn hoá xã hội, viện trợ kinh tế, đầu tư, các dự án ODA … Gần đây, lợi dụng chiến lược chống khủng bố, Mỹ đã xúi giục, tiếp tay cho các phần tử chống đối trong nước và đưa lực lượng từ nước ngoài về gây gổ, bắt cóc con tin, ám sát, trả thù cá nhân … Từ đó gán cho Lào có “khủng bố” để ép Lào phải hợp tác chặt chẽ với Mỹ chống khủng bố.

Bên cạnh đó, Mỹ tiếp tục sử dụng Thái Lan với tư cách “đồng minh ngoài NATO” vừa làm bàn đạp, vừa là công cụ trực tiếp để tích cực móc nối, mua chuộc, sử dụng vấn đề kinh tế, tha hoá cán bộ … nhằm chuyển hoá nội bộ Đảng NDCM Lào từ bên trong, với “điểm rơi” là Đại hội 8 của Đảng NDCM Lào trong năm 2005 tới.

3.2- Tình hình Campuchia:

Ngày 15.07.2004, Quốc hội và chính phủ Campuchia nhiệm kỳ III chính thức được thành lập, chấm dứt bế tắc chính trị kéo dài gần một năm kể từ sau khi Uỷ ban Bầu cử Quốc gia (NEC) công bố kết quả bầu cử. Đây là kết quả của một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp (từ 1998-2003) giữa các lực lượng, phe phái bên trong và các thế lực bên ngoài Campuchia- giữa một bên là Đảng Nhân dân (CPP) và lực lượng tiến bộ ở Campuchia giữ vững thành quả cách mạng của Campuchia, với một bên do thế lực bên ngoài, nhất là Mỹ chi phối muốn xoá Đảng Nhân dân, hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở Campuchia, nhằm tạo thế và lực cho Mỹ triển khai chiến lược “ dân chủ hoá” tại Đông Dương nói riêng và khu vực nói chung.

* Ý đồ của Mỹ: Sau khi chính phủ mới CPP-FUNCINPEC được thành lập tại Campuchia. Mỹ vẫn tiếp tục sử dụng Campuchia làm điểm đột phá vào Đông Dương và gây áp lực với Việt Nam.

- Lộ trình Mỹ thực hiện tại Campuchia là: Đẩy CPP thành đảng đối lập, chuyển hoá CPP dẫn đến xoá bỏ CPP. Mục tiêu số một là loại bỏ HunSen (Mỹ hiểu rằng trong CPP, Hun Sen là người có thực quyền vì nắm được Quân đội, Công an, là người có uy tín được đông đảo quần chúng ủng hộ, là đối thủ chính trị tầm cỡ, có tư duy sắc sảo, thông minh, quyền biến, quyết đoán và kiên định). Khi đã loại được Hun Sen thì CPP sẽ rối loạn, tạo điều kiện cho đảng đối lập thân Mỹ (Sam Rainsy) lên nắm quyền ở Campuchia. Điều quan trọng hơn là Mỹ xác định loại được đảng CPP là loại được ảnh hưởng của Việt Nam tại Campuchia.

- Về chủ trương: Mỹ chủ trương “Đảng CPP sẽ tiếp tục tồn tại nhưng quyền lực của CPP phải được chuyển hoá theo cách khác. Phải đạt được sự cân bằng giữa Thủ tướng và đảng, trong đó vai trò của Quốc trưởng kiểm soát được Thủ tướng.. Quốc trưởng sẽ là người do hai đảng chỉ định và bầu cử kín (nghĩa là Thủ tướng được bầu thông qua Quốc hội, nhưng Quốc trưởng thì bầu kín)”. Đây là ý đồ của Mỹ nhằm cân bằng quyền lực của FUNCINPEC với CPP.

- Về biện pháp: Chuyển sang ủng hộ, tác động FUNCINPEC theo 3 hướng:1/ Tác động FUNCINPEC hình thành cơ chế chính trị mới, trong đó việc lựa chọn người thay thế Quốc trưởng không theo nguyên tắc “cha truyền con nối” (được chỉ định trước) mà phải là bầu cử kín (Quốc hội sẽ bầu ra quốc trưởng); 2/ Tác động Hoàng gia bà hoàng Monique) đứng ra thành lập “Hiệp hội cứu trợ những người sắc tộc tị nạn” (Người Thượng Tây Nguyên vượt biên trái phép sang Campuchia); 3/ CIA/Mỹ lên kế hoạch đảo chính, lật đổ Hun Sen khi có thời cơ. Kế hoạch này dù có tính khả thi thấp, nhưng CIA/Mỹ xác định là “vẫn hoàn thiện và để ngỏ việc thực hiện kế hoạch phục vụ cho nhu cầu khi có thời cơ”.

Đây thực chất chính là quá trình khôi phục, vực dậy các đảng đối lập, bằng cách tích cực sử dụng đặc thù của chế độ chính trị, xã hội CPC vừa là một nước dân chủ đa nguyên, quân chủ … nhằm lấy lại uy tín của các đảng đối lập này, chuẩn bị cho chiến dịch bầu cử xã, phường (dự kiến vào năm 2006), tạo thế và lực cho việc lật đổ vai trò lãnh đạo của CPP và cá nhân Thủ tướng HunSen vào dịp bầu cử năm 2008.

* Ý đồ của Trung Quốc: Trung Quốc tiếp tục phát triển ảnh hưởng vào Campuchia nhằm triệt thoái nguy cơ, cũng như gây áp lực với Việt Nam, lôi kéo Việt Nam về phía Trung Quốc.

Hiện nay, thông qua con bài Hoàng gia và FUNCINPEC, chiến lược của Trung Quốc là “đi ngầm, đi sâu”, tập trung vào thiết lập ảnh hưởng kinh tế để chuyển hoá, chi phối thượng tầng kiến trúc ở Campuchia. Mục tiêu của Trung Quốc nhằm : 1/ Đặt vững chân vào Đông Dương; 2/ Đẩy Việt Nam vào thế cô lập, buộc phải hợp tác với Trung Quốc. Từ đó, Trung Quốc sẽ có đủ tiềm lực, thế đứng chính trị, bàn đạp về hậu cần để triển khai “Tân kế hoạch phòng thủ”.

Như vậy, trong thời gian tới (ít nhất là từ nay đến bầu cử năm 2008), Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng ảnh hưởng tại Campuchia, từng bước hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam bằng cách hạn chế sức mạnh của CPP hoặc lôi kéo Hun Sen và CPP vào vòng ảnh hưởng của mình bằng mọi thủ đoạn, biện pháp, kể cả thoả hiệp với Mỹ.

Tóm lại: Xu thế diễn biến tình hình Campuchia không thể tách rời tác động của trục quan hệ Mỹ-Trung-Việt. Sự ổn định của Campuchia chỉ là tạm thời. Về cơ bản và lâu dài, xu thế ở Campuchia đi theo chiều hướng diễn biến có lợi hay bất lợi cho Việt Nam phụ thuộc vào đối sách của Việt Nam đối với Mỹ và đối với Trung Quốc, nhưng dù Việt Nam chọn đối sách nào chăng nữa thì Campuchia vẫn là con bài để Mỹ hoặc Trung Quốc hay cả hai dùng đến để gây áp lực với Việt Nam khi cần. Như vậy, các vấn đề ở Campuchia liên quan đến Việt Nam như: biên giới/lãnh thổ, Việt kiều, Khmer Nam Bộ, phản động Đông Dương ở Campuchia không thể sớm được giải quyết toàn bộ và triệt để mà sẽ được “nuôi dưỡng” lâu dài.

II- Chiến Lược Diễn Biến Hoà Bình Của Mỹ Và Các Thế Lực Thù Địch Đối Với Việt Nam Hiện Nay Và Dự Báo Trong Thời Gian Tới:

1- Những quan điểm chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam- Đông Dương:

1.1- Mỹ xem Việt Nam-Đông Dương là khu vực có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược ngăn chặn sự phát triển của Trung Quốc xuống phía Nam:

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Raymond Burghard nói: “Mỹ luôn quan tâm đến Việt Nam vì xét trên cả 02 lĩnh vực địa chính trị và kinh tế, Việt Nam là một nước quan trọng nhất đối với Mỹ trong khu vực Đông Nam Á”.

Mỹ đánh giá cao vai trò của Việt Nam tại bán đảo Đông Dương, xác định Việt Nam là trọng điểm của Đông Dương, xem nắm được Việt Nam là nắm được Đông Dương, và nắm được Đông Dương là ngăn chặn được sự phát triển của Trung Quốc về phía Nam. Đây là lý do tại sao Mỹ vẫn rất “quan tâm” đến các động thái chính trị tại khu vực Đông Dương trong thời gian vừa qua, dù vấn đề Trung Á vẫn chưa hoàn toàn đi đúng theo lộ trình của Mỹ hoạch định.

1.2- Mỹ đặt Việt Nam-Đông Dương vào vị trí “thường xuyên thoả hiệp” với Trung Quốc, một khi quyền lợi ảnh hưởng của Mỹ trên một số khu vực bị thiệt so với Trung Quốc:

Xuất phát từ vị trí chiến lược của Đông Dương trong khu vực Đông Nam Á, Mỹ thường xuyên đặt Đông Dương trong sự tranh chấp ảnh hưởng với Trung Quốc.

Kissinger từng nói: “Một Đông Dương thống nhất dưới sự lãnh đạo của Cộng sản Bắc Việt - đó là một sự khủng khiếp về chiến lược đối với cả Mỹ và Trung Quốc”.

Cựu đại sứ Mỹ tại Việt Nam Peterson nói: “Đông Dương là điểm tựa vô cùng quý báu mà Mỹ không thể bỏ qua được. Nếu khoá chặt được cửa ngõ Đông Dương, Mỹ có thể tuyên bố nội địa hoá toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc”.

CIA/Mỹ khẳng định: “Đông Dương có thể không quan trọng đối với Mỹ nếu quan hệ Mỹ-Trung có khả năng phát triển dài lâu, và Trung Quốc không có mưu toan chống lại chính sách toàn cầu của Mỹ. Ngược lại, Đông Dương không thể thiếu nếu cuộc chiến thực sự cả về kinh tế lẫn quân sự giữa Mỹ-Trung Quốc sẽ xảy ra do mâu thuẫn quyền lợi phát sinh từ chiến lược Châu Á- Thái Bình Dương”.

1.3- Mỹ đặt Đông Dương trong ý đồ “dân chủ hoá chính trị”:

Tiến trình “Dân chủ hoá chính trị ở bán đảo Đông Dương” được Mỹ gói gọn bằng mục tiêu chuyển hoá, lật đổ cho được chế độ hiện nay ở 03 nước Đông Dương:

  1. Tại Việt Nam, chuyển hoá, lật đổ Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ XHCN.
  2. Tại Campuchia, đẩy CPP thành đảng đối lập, thay Hun Sen bằng một nhân vật khác thân Mỹ.
  3. Tại Lào, chuyển hoá, lật đổ Đảng NDCM Lào và chế độ Lào hiện nay.

1.4- Mỹ xác định “mọi con đường vào Đông Dương đều phải qua Hà Nội”:

Mục tiêu của Mỹ là bằng mọi giá phải lôi kéo Việt Nam về phía Mỹ, từng bước tạo ra một thể chế chính trị tại Việt Nam thân Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Mỹ, phá vỡ thế quan hệ chiến lược Trung- Việt.

Đánh giá của CIA/Mỹ:

“Một sách lược đối ngoại chung cho Đông Dương và riêng cho Việt Nam, đó phải là một cuộc triển khai chính sách qua từng giai đoạn mà người Phương Đông gọi là tằm ăn dâu. Gây ảnh hưởng trở lại Đông Dương phải bắt đầu từ Việt Nam. Loại bỏ sự đối đầu của Việt Nam phải bằng liệu pháp kinh tế và văn hoá … sự áp đảo tuyệt đối về mặt kinh tế của Mỹ cũng như sự phát triển tăng tốc của kinh tế Việt Nam sẽ là điểm ưu thắng duy nhất có thể loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc, cũng như thuần hoá Đảng cộng sản Việt Nam. Ta không tranh cãi bằng lý luận với họ, nhưng nhờ vào khả năng kinh tế của Mỹ sẽ đẩy tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam tự đi theo hướng vạch sẵn mà không cần gây bất kỳ biện pháp trừng phạt nào”.

“Khuất phục Việt Nam không phải bằng con đường như Mỹ đã triển khai tại Indonesia hay Philippin, mà phải dùng chính trị để phát triển ảnh hưởng kinh tế, dùng kinh tế để chi phối sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, dùng quần chúng để làm suy yếu chính quyền, và dùng chính quyền để nâng cao sự đối lập của quần chúng. Đó là con đường ngắn nhất mà ta (Mỹ) có thể làm được trong thời điểm này, nếu chúng ta không muốn mất hoàn toàn ảnh hưởng tại khu vực.”.

“Sự triển khai chinh sách phát triển đa phương hội nhập quốc tế sẽ buộc Việt Nam phải nới lỏng tiến trình dân chủ hoá trong nước. Cấp quy chế thương mại bình thường với Việt Nam là một chiến lược tiến công chủ động gây lại uy tín chính trị cho Mỹ, đồng thời đẩy nhanh được tiến trình hội nhập của Mỹ vào Đông Dương. Với ưu thế kinh tế-tài chính, ta (Mỹ) có thể đẩy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc xuống phía Nam, đồng thời co hẹp vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như làm giảm sút uy tín chính trị của họ trong khu vực …”

2- Các thủ đoạn, biện pháp của Mỹ chống phá Việt Nam thời gian gần đây:

2.1- Tiếp tục sử dụng đòn đánh kinh tế làm mũi nhọn, đồng thời dùng kinh tế làm “mồi nhử”:

Tên Do Jim, nhân viên Tình báo Mỹ núp dưới danh nghĩa tư vấn cho Tập đoàn SP.COLA tiết lộ: “Ngay từ thời Reagan, người Mỹ đã thấy rằng đối đầu quân sự không có lợi bằng đối đầu kinh tế … Mỹ trở lại Việt Nam với chiến lược kinh tế đa quốc gia, với những tập đoàn kinh tế lớn … Khi người Mỹ áp đặt được hệ thống kinh tế vào Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản tại đây cũng phải xoay quanh lề lối kinh tế Mỹ …

Tiết lộ của một số tổ chức tình báo các nước tại Đông Nam Á: “Mỹ đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc thâm nhập Việt Nam về kinh tế và chính trị. Mục tiêu của Mỹ không phải là biến Việt Nam thành một thị trường để góp phần điều tiết nền kinh tế Mỹ, mà là xây dựng Việt Nam thành một khu vực nhập siêu Trung-Mỹ, một hàng rào kinh tế ngăn ngừa sự phát triển của Trung Quốc xuống Đông Nam Á. Sở dĩ Mỹ chọn Việt Nam, thay vì chọn Thái Lan hay một nước nào khác, là do từ xưa đến nay, Việt Nam luôn đối đầu với Trung Quốc, và Việt Nam có tiềm năng phát triển hơn, ổn định về chính trị hơn …

Trong mũi nhọn chống phá về kinh tế, Mỹ tập trung vào một số lĩnh vực:

Một phóng viên Mỹ viết bài xuyên tạc chủ trương của Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư: “Chính phủ Việt Nam vừa qua đã giành rất nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo ở đồng bằng Nam bộ nhưng hiệu quả không cao. Trong khi đó, lại giành rất ít các chương trình xoá đói gảm nghèo ở đồng bằng Bắc bộ. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng giữa hai miền Nam, Bắc … Người dân Bắc bộ phải được hưởng những chương trình xoá đói giảm nghèo tương xứng với những gì họ đã đóng góp trong kháng chiến. Song, từ hoà bình đến nay, chưa thấy có những chương trình hỗ trợ nào tương xứng với công lao của người dân đồng bằng Bắc bộ …

2.2- Chuyển hoá cơ chế, luật pháp của Việt Nam là mục tiêu quan trọng:

Mỹ đặc biệt coi trọng việc chuyển hoá cơ chế, luật pháp Việt Nam, tập trung chủ yếu trên lĩnh vực tư pháp và lập pháp thông qua 02 con bài chủ yếu là Hiệp định thương mại và việc gia nhập WTO của Việt Nam.

Một cơ quan tình báo nước ngoài nhận định : “Điều mà Việt Nam cần quan tâm là những gì Mỹ sẽ làm trên cơ sở bản HĐTM đã ký kết. Trước mắt, Mỹ sẽ ép Việt Nam về các hiệp định tương trợ tư pháp, coi đây là điều kiện để thông qua quy chế Tối huệ quốc cho Việt Nam. Các Hiệp định này đang được Mỹ ráo riết soạn thảo, bao hàm rất nhiều lĩnh vực kinh tế, tài chính, an ninh, xã hội, quốc tế … Với sự tương trợ của Mỹ, hệ thống văn bản pháp luật và hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt Nam sẽ dần bị Mỹ hoá …”.

Cơ quan tình báo Hoa hải ngoại nhận định: “… Việt Nam không nên sốt sắng trong việc gia nhập WTO. Vì nếu xem việc gia nhập WTO là một mục tiêu ưu tiên, đồng nghĩa với sự ‘đổi màu’ của xu hướng chính trị ngày một gia tăng, do những điều kiện gia nhập WTO đưa ra về mặt cải cách …”.

2.3- Tiếp tục sử dụng vấn đề Tây Nguyên để chống phá Việt Nam:

Sau sự kiện 10.4.2004 tại Tây Nguyên, CIA/Mỹ cho rằng đã đạt được một số ưu thế “đấu tranh” với Chính phủ Việt Nam, gồm:

Đến nay, tuy Nhà Trắng vẫn đang cân nhắc việc phê chuẩn kế hoạch phát triển vấn đề “Đêga tự trị” do nhiều nguyên nhân, nhưng cả Nhà Trắng và CIA/Mỹ cơ bản đều thống nhất quan điểm: “Vấn đề ‘Nhà nước cao nguyên tự trị’ không chỉ có ảnh hưởng quyết định đến chính sách của Mỹ đối với Việt Nam và Đông Dương, mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ chiến lược của Mỹ với Đông Nam Á”. Như vậy, Nhà Trắng đã gián tiếp ủng hộ CIA/Mỹ theo đuổi vấn đề “Đêga tự trị”, né tránh trách nhiệm về mặt quan hệ đối ngoại Mỹ- Việt nhằm tiếp tục thực hiện phương châm “Thân thiện ngoại giao, bí mật chống phá” trong đối sách của Mỹ đối với Việt Nam.

Đánh giá về âm mưu và biện pháp mà Mỹ áp dụng trong thời gian qua trong vấn đề Tây Nguyên, Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc cho rằng: “Cái mà Mỹ cần làm trước mắt là gây được ảnh hưởng vào các kẽ hở dân chủ do cải cách chính trị mở rộng của Đảng Cộng sản Việt Nam.Tại Mỹ, Nhật hoặc Thái Lan, một cuộc biểu tình là bình thường, nhưng ở Việt Nam không được để tình trạng đó xảy ra. Kẽ hở dân chủ nằm ngay chỗ đó. Trung Quốc xem rằng vấn đề Thiên An Môn là một bài học về vấn đề cải cách dân chủ mà Việt Nam phải coi chừng. Tại Trung Quốc và Việt Nam, một cuộc biểu tình sẽ sinh ra đổ máu rất có hại cho chính trị cũng như an ninh …

2.4- Tiếp tục đẩy mạnh chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền:

- Mỹ xác định có 03 lý do để cần thường xuyên “nhấn mạnh” vấn đề tự do tôn giáo, nhân quyền ở Việt Nam là:

“+ Mỹ đã phát hiện sự xuất hiện của những tôn giáo mới tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ xã hội Việt Nam đang ngày càng đa nguyên hơn, tức là người dân ngày càng mất lòng tin vào Đảng, chế độ cộng sản ở Việt Nam.

+ Trong lịch sử nước Mỹ, chưa bao giờ có một chính quyền ưa dùng con bài tôn giáo, nhân quyền như chính quyền Bush. Vì, trong thành phần chính quyền Bush hiện nay có rất nhiều quan chức cao cấp có quan hệ với các tôn giáo.

+ Một trong những biện pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển hoá Việt Nam là phải đẩy được Việt Nam đứng trước “ngã ba đường”, vì khi đó quỹ đạo phát triển của Việt Nam sẽ phụ thuộc rất nhiều vào một ban lãnh đạo. Từ sau vụ Tây Nguyên năm 2001, Việt Nam rất lúng túng trong giải quyết vấn đề tôn giáo, dân tộc, và đây là điểm yếu chí tử của Ban lãnh đạo Việt Nam …”

Do vậy, mục tiêu của Mỹ sử dụng con bài dân chủ, nhân quyền là gây sức ép, đẩy Việt Nam đến “ngã ba đường”, buộc phải “ngồi lại với Mỹ”. Điển hình là ngày 12.5.04, Quốc hội Mỹ đã chính thức thông qua 02 Dự luật chống phá Việt Nam, gồm: Dự luật 424-1 (kêu gọi “Việt Nam ngay lập tức thả tự do cho Nguyễn Văn Lý” và tuyên bố “sự thất bại trong việc yêu cầu chính quyền Việt Nam thả tự do cho Nguyễn Văn Lý sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ song phương giữa hai nước”); Dự luật công nhận “Lễ kỷ niệm 10 năm ngày nhân quyền cho Việt Nam”.

- Ý đồ chống phá Việt Nam của Mỹ về vấn đề dân chủ, nhân quyền được thể hiện rõ nét qua các nhận định trong phiên điều trần của Hạ viện Mỹ ngày 12.2.2004:

+ “Sự khác biệt lớn nhất hiện nay trong quan hệ hai nước là vấn đề nhân quyền và tựdo tôn giáo. Sự khác biệt này đang cản trở quan hệ hai nước. Để giải quyết vấn đề này, người Mỹ nhận thấy rằng không thể cứng nhắc ép Việt Nam hoặc cô lập, trừng phạt Việt Nam, vì những biện pháp này đều phản tác dụng và có thể đẩy Việt Nam đi chệch ‘quỹ đạo’ của Mỹ”.

+ “Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam vào WTO nếu Việt Nam ‘nhượng bộ’ Mỹ trong vấn đề nhân quyền, Mỹ sẽ chính thức yêu cầu Việt Nam thực hiện một số điều kiện nhân quyền, coi đây là điểm mấu chốt gắn với điều kiện vào WTO của Việt Nam. Nếu Việt Nam thực sự muốn vào WTO năm 2005 thì Việt Nam cũng phải thực sự quan tâm đến vấn đề cải thiện tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo đối với mọi người dân: Ưu tiên trước mắt là thả Nguyễn Văn Lý, tiếp theo phải cam kết thực hiện xem xét lại luật pháp hiện hành để có thể tạo ra sự tự do cho mọi người dân …”.

2.5- Đẩy Vatican vào cuộc:

- Qua tiếp xúc trực tiếp tại Vatican được biết, thời gian tới Giáo hoàng Joan Paul II: “Quyết tâm thực hiện mục tiêu làm cho Thiên Chúa giáo ở Việt Nam phải phát triển mạnh hơn nữa, mọi người được thực sự tự do; giữa hai miền Nam Bắc Công giáo phải phát triển như trước năm 1954 ở miền Bắc và trước năm 1975 ở miền Nam”. Từ vấn đề này, Joan Paul II “sẵn sàng đầu tư tài trợ bằng mọi giá để đưa giáo hội Việt Nam phát triển mạnh, trở thành một ngọn cờ tiêu biểu trong hoạt động phát triển Giáo hội tại khu vực Đông Nam Á”. Vatican sẽ thông qua một số chương trình đào tạo, dần từng bước xây dựng và mở rộng các cơ sở hạ tầng vật chất cho Giáo hội Việt Nam, sau khi Phạm Minh Mẫn được phong Hồng y, Công giáo Việt Nam sẽ có một số chương trình đẩy mạnh hoạt động ở khu vực miền Nam thêm một bước.

- Không chỉ chú ý đến Công giáo trong nước, Vatincan còn sử dụng vai trò của một số linh mục tại Ý (như Đức ông Đinh Đức Đạo, Bộ trưởng truyền giáo Toà Thánh) mở rộng sang các cộng đồng công giáo Việt Nam hải ngoại. Theo Joan Paul II: “Để uý lạo tinh thần Công giáo ở hải ngoại, tăng cường tinh thần đoàn kết cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở trong nước, thì ngoài Mỹ và Châu Âu-Giáo hoàng vẫn phong thánh tượng cho cộng đoàn Công giáo châu Á, mặc dù thánh tượng được làm tại Việt Nam nhưng được Đức Giáo hoàng làm phép để cho các linh mục việt Nam sang Mỹ giảng giáo lý kết hợp phong thánh tượng, uý lạo tinh thần Công giáo và tăng cường sự đoàn kết với cộng đoàn Công giáo Việt Nam trong nước”.

- Hiện nay, Vatican đang gây sức ép với Việt Nam để tổ chức cho Giáo hoàng Joan Paul II đi thăm Việt Nam, nếu không được chấp nhận, Vatincan sẽ sử dụng biện pháp “đi vòng”, bố trí cho Joan Paul II đi thăm Trung Quốc trước, sau đó sử dụng áp lực của Trung Quốc để Việt Nam phải chấp nhận cho Joan Paul II vào Việt Nam.

- Theo Joan Paul II (qua lời Đức ông Đinh Đức Đạo): “Đối với vấn đề Tây Nguyên, tuy nổi cộm vẫn là đạo Tin Lành, nhưng Vatican và Mỹ đã có sự thoả thuận với nhau và đi đến thống nhất là Thiên Chúa Giáo (gồm Công giáo và Tin Lành tại Việt Nam) sẽ có sự xích lại gần nhau, bắt tay nhau dưới sự chỉ đạo thống nhất của Vatican. Khi đó, vai trò của Tin Lành sẽ được nâng cao hơn nhiều lần - và nếu Tây Nguyên để xảy ra bạo động lần nữa, thì vấn đề này không chỉ gắn đến yếu tố Tin Lành, mà sẽ mang màu sắc chung của Thiên Chúa Giáo; Nếu vấn đề này thành hiện thực, Việt Nam không chỉ đối đầu với sức ép của Mỹ, mà còn phải giải quyết với cả EU và Vatican”.

----- O -----

Tiếng sấm rền vang bên hồ Trúc Bạch

Trời Hà Nội đã sang tiết mùa thu gần một tháng rồi mà vẫn còn rầm rì tiếng sấm- Đó là tiếng sấm "no", báo hiệu một mùa bội thu. Sáng chủ nhật ngày 05/9/2004 (21/7 năm Giáp Thân) ấy, bầu trời Hà Nội trong xanh, nhưng ở số 1 phố Trấn Vũ bên góc hồ Trúc Bạch lại bỗng vang lên tiếng "sấm tay" rầm rầm từng đợt, từng đợt... Đó là niềm reo vui của các tướng lĩnh, các sĩ quan, các cựu chiến binh dự lễ kỉ niệm 59 năm ngày thành lập bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Những ai qua đấy lúc đó cũng đều ngỡ ngàng và đứng lại lắng nghe. Đây là sử kiện đáng ghi vào sử sách của người dân Hà Nội khi cả nước đang hướng tới kỉ niệm 50 năm ngày giải phóng Thủ đô.

Hội trường đông nghịt, ghế không còn chỗ trống, nhiều người phải đứng. Tôi nhìn thấy bốn chiến hữu thân thiết, vội bước đến bắt tay và ôm nhau mừng rỡ. Đó là đại tá Hùng Cường (Cường sứt), người đã tố cáo 5 uỷ viên Bộ chính trị phái cực đoan là tay chân của Lê Đức Anh; đó là đại tá Như Thiết - nguyên Cục phó Cục tác chiến, người đã kiến nghị với Đảng và Nhà nước yêu cầu mở ngay Toà án đại hình, bắt những tên phản động Lê Đức Anh, Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh ... phải đứng trước vành móng ngựa để xét xử về tội phản quốc, phá hoại Đảng, phá hoại đất nước trước khi mở đại hội Đảng X; Đó là tác giả bài viết "Vương triều Vũ Chính" và tác giả bài viết "Lê Đa là ai ?" nổi tiếng.

8 giờ 30, Lê Đức Anh mặc quân phục đại lễ đeo quân hàm đại tướng với nhiều huân chương lấp lánh trên ngực lò dò bước vào. Mọi người đều nhìn thấy nhưng đã lờ đi và ngồi thản nhiên nói chuyện vui với nhau. Rồi Lê Đức Anh tự tìm chỗ và ngồi im lìm như một xác chết chờ cho thời gian trôi đi mà không có ai đến bắt tay, hỏi chuyện. Tôi cảm thấy lúc này Lê Đức Anh bị cô lập hơn bao giờ hết !

Đúng 9 giờ, Ban tổ chức nhận được tin : "Anh Văn mệt, chưa chắc đã đến dự" (!?). Thế là lễ kỉ niệm bắt đầu. Mọi người đều cảm thấy buồn vì vắng người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, do đó chương trình của ban tổ chức thay đổi như sau :

- Đầu tiên là đồng chí Tổng Tham mưu trưởng, Thượng tướng Phùng Quang Thanh lên phát biểu - Ông nói rất ngắn, nội dung không có gì đặc biệt nên tiếng vỗ tay không được hào hứng.

- Tiếp đến là đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đại tướng Phạm Văn Trà lên phát biểu. Ông nói dài hơn một chút, nhưng nội dung cũng không có gì đặc biệt, nên tiếng vỗ tay cũng không được sôi nổi.

- Khi ông Phạm Văn Trà phát biểu gần hết, Lê Đức Anh nhấp nhỏm muốn đứng dậy, tay móc túi áo lấy ra mấy trang giấy. Và khi ông Phạm Văn Trà vừa dứt lời, thì Lê Đức Anh vội đứng dậy và vỗ tay trước tiên, khấp khởi chờ đợi ban tổ chức giới thiệu đến lượt lên chiễm lĩnh diễn đàn. Tiếng vỗ tay vừa dứt, cũng là lúc ông Phạm Văn Trà từ bục bước xuống bậc đầu tiên, thì bỗng cả hội trường rào rào đứng dậy, tất cả quay hướng ra cửa và vỗ tay rầm rầm như sấm và giông tố làm hội trường như vỡ tung ra, mặt nước hồ Trúc Bạch như nổi sóng. Vâng! Đại tướng Võ Nguyên Giáp bất ngờ xuất hiện trước cửa! Thượng tướng Phùng Quang Thanh vội lao ra đón đại tướng Võ Nguyên Giáp vào, trong tiếng vỗ tay từng đợt, từng đợt không ngớt. Không khí hội trường sôi động hẳn lên. Anh Văn giơ hai tay lên vẫy, cười đôn hậu, trìu mến nhìn mọi người và ra hiệu cho mọi người ngừng vỗ tay và ngồi xuống, nhưng không ai chịu chấp hành "lệnh" của vị Tổng tư lệnh năm xưa, kể cả Lê Đức Anh cứ đứng ngây ra sững sờ ! (Những năm trước Lê Đức Anh không đứng lên như vậy) Anh Văn phải ra hiệu đến lần thứ ba thì "mệnh lệnh" mới có hiệu lực ! Tôi và nhiều người đã ứa nước mắt trong tiếng cười vui sướng.

Thượng tướng Phùng Quang Thanh bước lên bục, giọng vang hội trường: "Kính mời Anh Văn lên nói chuyện ! ".

Thế là cả hội trường lại đứng lên vỗ tay rầm rầm như sấm và giông tố trong suốt thời gian Thượng tướng Phùng Quang Thanh tháp tùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước lên bục. Cũng trong thời gian ấy, một chuyện bất ngờ ngoài dự kiến xảy ra : Lê Đức Anh lặng lẽ, lủi thủi bước ra khỏi hội trường chẳng nói chẳng rằng và cũng chẳng có ai tiễn biệt ! Mọi người xì xào, ném theo ánh mắt khinh bỉ và căm giận ! Tôi nghe rõ tiếng ai nói : "Đồ vô văn hoá ! Đã như thế còn vác mặt đến đây làm gì ?!"

Rồi không gian lặng đi như thể mọi người đều nín thở chờ lệnh nổ súng. Xốn xang và hồi hộp ! Mọi con mắt đều hướng lên Anh Văn - vị Đại tướng Tổng tư lệnh, người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Anh Văn sẽ nói những gì ? Mà sao Anh Văn không cầm giấy ? Phong thái Anh Văn vẫn đĩnh đạc, giọng nói của Anh Văn vẫn ôn tồn như bản chất vốn có mà chúng ta đều biết. (Xin tóm tắt ý chính) : Sau những lời mở đầu, Anh Văn hỏi : "Đồng chí nào trước đây là lãnh đạo của Cục tác chiến ?" có 2 vị tướng đứng dậy. Anh Văn hỏi tiếp : "Đồng chí nào trước đây là lãnh đạo của Cục quân báo ?" chẳng có ai đứng dậy. Mọi người xì xào : "Không mời Vũ Chính à ? Mời làm gì cái thằng phản động ấy ! Nếu có mời nó cũng không đến, vì nó sợ và nó cho rằng nó không phải là người của Bộ tổng tham mưu; hay là Vũ Chính chạy trốn rồi ?..." (Sự thật Ban tổ chức không mời Vũ Chính). Anh Văn tiếp : "Như hồi tôi lãnh đạo trong Bộ tổng tham mưu gồm có Cục Tác chiến gọi là cục 1, Cục Quân báo gọi là cục 2, Cục Quân lực gọi là cục 3 v.v... có như thế đồng chí Tổng tham mưu trưởng mới nắm được toàn bộ tình hình để giúp Bộ trường Quốc phòng chỉ huy, lãnh đạo. Nhưng bây giờ, Tổng cục 2 không nằm trong Bộ tổng tham mưu nên Tổng tham mưu trưởng không nắm được tình hình địch, vì thế không có kế hoạch tác chiến đúng đắn và chính xác. Việc Lý Tống lái máy bay vào rải truyền đơn ở Thành phố Hồ Chí Minh, cũng như các vụ bạo loạn ở Tây Nguyên quân đội không biết việc xảy ra nên không có kế hoạch đối phó, do đó bị bất ngờ. Đó là hệ quả của việc Tổng cục 2 nằm ngoài Bộ tổng tham mưu. Dứt khoát rồi đây chức năng và nhiệm vụ của Tổng cục 2 phải như chức năng và nhiệm vụ của Cục Quân báo trước đây và nằm trong Bộ tổng tham mưu dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Tổng tham mưu trưởng ..." Cả hội trường đã vỗ tay hoan hô vang dậy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói ngắn gọn vậy thôi, nhưng rất súc tích. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không hề nhắc tới "Vụ án chính trị siêu nghiêm trọng". Mọi người đều hiểu tấm lòng đồng chí Võ đại tướng và thầm hứa luôn luôn xứng đáng là người lính trung thành của người anh cả Quân đội nhân dân Việt Nam và sẵn sàng chiến đấu vì đồng chí Võ đại tướng.

Trong bữa cơm thân mật, tiếng cười nói sao mà vui thế. Mọi người bàn tán công khai về hai bức thư của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, cho rằng Trung Ương và Bộ chính trị phải giải quyết dứt điểm thì uy tín của Đảng mới nâng lên được. Ai cũng muốn đến chúc Anh Văn mạnh khoẻ để tiếp tục cuộc đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của Đảng mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy : "Một Đảng mà bao che khuyết điểm thì cái Đảng đó sẽ hỏng ?" Tư tưởng Hồ Chí Minh là như thế.

Ngày nay các vị lãnh đạo Đảng thường hay nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tại sao các vị lại bao che, không giám giải quyết dứt điểm "Vụ án chính trị siêu nghiêm trọng" ? Các vị lãnh đạo Đảng suy nghĩ gì về sự kiện này ? Hay là chỉ nghĩ đến xôi thịt thôi ?

Sau này qua tìm hiểu mới rõ một số chuyện :

Hằng năm Bộ Quốc phòng đều tổ chức kỷ niệm ngày Bác Hồ giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp thành lập Bộ tổng tham mưu . Năm nào Anh Văn cũng đến dự và có mặt cả Lê Đức Anh nữa. Trong những buổi lễ kỉ niệm ấy, Anh Văn bao giờ cũng mặc quân phục, còn Lê Đức Anh thì mặc complet không đeo huân chương. Năm ngoái thôi, ta còn thấy Lê Đức Anh vẫn ngồi cạnh Anh Văn và Anh Văn còn nói chuyện "vui vẻ" với Lê Đức Anh (Thật ra chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng).

Lễ kỉ niệm năm nay, Lê Đức Anh thường xuyên cho người dò la và hỏi xem Anh Văn có đến dự không, thì đều được trả lời : "Anh Văn mệt, chưa chắc đã đến dự" (!?). Ngay buổi sáng hôm 05/9/2004 còn có nhiều cú điện thoại gọi đến hỏi thăm tình hình Anh Văn và đều được trả lời như thế. Lê Đức Anh đinh ninh, lòng bảo dạ và mừng thầm : "Buổi kỉ niệm này sẽ là của ta", nên Thái thượng hoàng mới đóng bộ quân phục đại lễ vào và đeo nhiều huân chương như thế, có cả huân chương trong trânh đánh làm Lê Đức Anh bị chột một mắt (thực ra Lê Đức Anh bị chột mắt là do bị bệnh đậu mùa) để huênh hoang với thiên hạ. Không biết nội dung bài viết sẵn mà Lê Đức Anh móc từ trong túi ra ấy nói những gì ? Nhưng chắc chắn là bài phản kích lại bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 03/01/2004 và bức thư của thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, cũng như dư luận xã hội trong và ngoài nước đang kết tội Lê Đức Anh, Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh ... là những tên phản động, phá hoại Đảng, phá hoại đất nước. Những sự việc xảy ra quá bất ngờ đối với "Thày Sú chột".

Các tướng lĩnh và anh em Cựu chiến binh rất khâm phục về tài thao lược của vị Tổng tư lệnh và cho rằng Lê Đức Anh đã đại bại, bị hạ "nốc ao" trong trận phục kích này. Thực ra mấy hôm ấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp có mệt thật, nhưng vì nhớ anh em quá nên Anh Văn đã cố gắng đến dự để gặp gỡ và động viên các chiến sĩ đã một thời cùng Võ đại tướng xông pha trong lửa đạn để có được ngày hôm nay.

Đau như hoạn, Lê Đức Anh về nổi khùng và mắng Nguyễn Chí Vịnh : "Đồ ăn hại !" Con mắt còn lại của Lê Đức Anh đỏ ngầu như lửa, con mắt chột tràn ra một bãi nhầy nhầy !

Chuyện còn dài và còn nhiều chuyện hấp dẫn sẽ xảy ra từ nay cho đến trước và sau Đại hội Đảng X. Xin mời các bạn chú ý theo dõi.

CCB của thời Võ đại tướng

----- O -----

Đôi điều suy nghĩ của một cựu chiến binh

Trời đã cuối thu. Thời tiết thành phố Huế trở nên mát mẻ.

Cầm trên tay lá thư của thượng tướng Nguyễn Nam Khánh gửi bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam kiến nghị về vụ án chính trị "siêu nghiêm trọng" tố cáo kẻ chủ mưu không ai khác là ông Lê Đức Anh và những kẻ tòng phạm là ông Đặng Vũ Chính, thiếu tướng Nguyễn Chí Vịnh tổng cục trưởng tổng cục II Bộ Quốc Phòng.

Và đây nữa, ông bạn cựu chiến binh quân khu Trị Thiên lại đưa cho tôi xem Bản kiến nghị của tiến sĩ khoa học Nguyễn Thanh Giang gửi tới Bộ chính trị – Quốc hội – Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một số cơ quan hữu quan yêu cầu lập phiên toà đại hình để xét xử không thể dung tha trong vụ án chính trị "siêu nghiêm trọng" này. (hay nói ngắn gọn là vụ án T4).

Dư luận xôn xao. Cựu chiến binh quan tâm đặc biệt. Ở thành phố Huế chúng tôi cựu chiến binh phô tô lá thư của đại tướng Võ Nguyên Giáp đề ngày 3/1/ 2004, lá thư tố cáo Tổng cục II của thượng tướng Nguyễn Nam Khánh ngày 17/6/2004 và Bản kiến nghị của tiến sĩ khoa học Nguyễn Thanh Giang ngày 19/8/2004. Đây là sự kiện đặc biệt quan tâm tới vận mệnh quốc gia nên được anh em sôi nổi bàn tán công khai.

Ba mươi năm chiến tranh, ba mươi năm đau khổ. Dân tộc Việt Nam ta chịu nhiều đắng cay, mất mát trong cuộc chiến tranh thống nhất đất nước.

Cuộc chiến tranh "huynh đệ tương tàn" ấy diễn ra trong bối cảnh miền Bắc được Liên Xô, Trung Quốc đổ tiền của. Vũ khí đạn dược ủng hộ. Miền Nam đựơc Mỹ và các nước đồng minh viện trợ tối đa quân đội và các phương tiện chiến tranh hiện đại.

Chỉ tính cuộc chiến tranh Nam - Bắc (1960 – 1975) đất nước chúng ta đã có ba triệu người chết trong đó có 1,1 triệu liệt sĩ (Ba trăm ngàn quân nhân mất tích) kèm theo là cả một nền kinh tế kiệt quệ. Còn có cái giá nào đắt hơn ?

Nếu chúng ta có cách nào tránh được cuộc chiến tranh ấy mà vẫn đi đến thống nhất đất nước ?

Tổn thất sinh mạng thật lớn lao. Mà cuộc sống mỗi con người thật là vô giá.

Mới cách đây vài hôm thôi tôi lại được bạn bè cho xem lá thư khẩn cấp đề ngày 1/11/2004 của tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang gửi các cấp có thẩm quyền tố cáo một số kẻ mạo danh "thương binh" đã gửi thư và gọi điện thoại tới gia đình ông với lời lẽ thô tục đe doạ ông chỉ vì một lý do duy nhất là ông đã dũng cảm và đầy trách nhiệm gửi tới các cơ quan tối cao Đảng và Nhà nước kiến nghị về việc xử lý những kẻ trọng tội trong vụ án T4 "siêu nghiêm trọng" mà Đaị tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nêu ra và thượng tướng Nguyễn Nam Khánh đã từng tố cáo.

Cựu chiến binh Trị Thiên Huế chúng tôi rất cảm phục tinh thần vì nghĩa của ông Nguyễn Thanh Giang.

Những cựu chiến binh – thương binh chân chính không ai làm cái việc viết thư nặc danh và gọi điện thoại đe doạ những công dân lương thiện, những trí thức chân chính.

Bọn chúng chỉ là những tên lưu manh vô gia cư được những kẻ tòng phạm với tên tội đồ Lê Đức Anh thuê mướn mà thôi. Lịch sử đã sang trang, trào lưu đòi hỏi dân chủ đã tới và không thể đảo ngược. Những thế lực bảo thủ đen tối trong chính quyền đang hấp hối. Chính nghĩa sẽ thắng.

Dòng sông Hương vẫn chảy về xuôi, cuộc sống vẫn sôi động theo quy luật.

Thành phố Huế ngày 8/11/2004.

Thay mặt các chiến sĩ cựu chiến binh thành phố Huế.
Ngự Bình

----- O -----

Nhịp
                                        Việt Phương

Rơi mộng mị dọc đường hành quân
Vầng trăng này toàn phần, hay một nửa ?
Lá thay mùa xào xạc ngoài sân.
Đêm Hà Nội lại thơm mùi hoa sữa
Nắng lung linh và mây nhởn nhơ.
Cứ bình thản thế ư, ngọn cỏ ?
Cứ bâng khuâng thế ư, ngọn gió ?
Cứ gian hùng thế ư, ngọn lưỡi giết người bằng vu vạ ?
Cứ sâu độc thế ư, ngọn bút giết người bằng câu chữ ?
Cứ trắng trợn thế ư, ngọn đòn giết người bằng quyền thế ?
Hay con thú chỉ là con người xấu hổ ?
Hay con người chỉ là con thú tha hoá ?

Mùa thu về dịu toả trong sương sớm Hồ Tây.
Chuyện hàng ngày: Đổi mới và cải tổ,
Cái gì hình thành, cái gì tan vỡ ?
Thông tin ba bề bốn bên bùng nổ
Ta mò tìm trong một mớ nhập nhằng
Cổ hủ nghiến răng, căm phẫn lên đành đạch
Ngu dốt hung hăng, cơ hội lăng xăng.
Coi chừng nhân dân thành chuột bạch.
Thời giao mùa, nắng hanh màu hổ phách.
Ta gửi người hiền tài thanh bạch niềm cậy trông.
Những cô gái nối nhau đi lấy chồng
Người ta sắm cúp và ti vi đời mới.
Ai túi bụi chống chèo ?
Ai ăn theo kiếm chác ?
Ai ngơ ngác chờ mong ?
Cuộc đời này khốn nạn hay diệu kỳ ?
Trắng trong hay rữa thối ?
Siêu lạm phát dải thảm bom B52 trên toàn cõi.
Sông dài cá lội biệt tăm
Anh hùng kẻ gian như đánh tráo lộn sòng
Biển nắng quê hương cứ mênh mông sức gió
Bẩn thỉu xấu xa chan vào cơm thiếu đói hàng ngày
Hy vọng phập phồng trong bề dày câu hỏi
Ta chọn màu pha hừng lên ngày mới
Chếnh choáng chiều
          gió thổi
                    như say …

(viết khoảng năm 1994)

Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam