Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư - Số 52
Tháng 11 năm 2005

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận, Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Điện thư gửi thẳng đến bạn đọc. Nếu bạn cần nhận điện thư hoặc góy ý, yễm trợ xin liên lạc: caulacbodanchuvietnam@yahoo.com

ĐẢNG DÂN CHỦ NHÂN DÂN
The People's Democracy Party
http://www.freewebs.com/dangdanchunhandan
http://dangdanchunhandan.blogspot.com
dangdanchunhandan@yahoo.com

Thông Cáo
Về Quan Hệ Trung Quốc - Việt Nam

Sau chuyến thăm Việt Nam của ông Hồ Cẩm Ðào, Tổng bí thư Ðảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa từ ngày 31 tháng 10 đến ngày 2 tháng 11 năm 2005 vừa qua; Ðảng Dân chủ Nhân dân xin trân trọng tuyên bố quan điểm Đảng DCND như sau:

1- Tán thành chủ trương hòa dịu trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc trên tinh thần láng giềng ổn định, tôn trọng chủ quyền và độc lập dân tộc; kêu gọi giải quyết mọi tranh chấp thông qua thương lượng, bình đẳng, hợp tác và hữu nghị.

2- Kêu gọi chính quyền Trung Quốc và Việt Nam tiếp tục đàm phán về lãnh hải vịnh Bắc bộ một cách công bằng, công khai và thiện chí, tuân theo những điều khỏan của Công ước quốc tế về luật biển năm 1982. Tuân thủ tuần tra chung của hải quân hai nước tại vùng biển này.

3- Kiên trì đấu tranh để chính phủ Trung Quốc trả lại quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam, vì đây là lãnh thổ của nước Việt Nam đã bị quân đội Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974.

4- Về việc cho Trung Quốc thuê cảng Cam Ranh, quan điểm của đảng Dân chủ Nhân dân là không để cho bất cứ quốc gia nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam cùng với các nước trong khối ASEAN cần thảo luận một phương án liên minh quân sự, hợp tác an ninh, phòng thủ tập thể giữa các quốc gia láng giềng nhằm bảo đảm an ninh và lợi ích của mỗi nước cũng như cho cả ASEAN.

Hà Nội ngày 2 tháng 11 năm 2005

Thay Mặt TW Ðảng Dân chủ Nhân dân.
Nguyễn Hoàng Long

----- O -----

TUYÊN BỐ VÀ ĐÒI HỎI DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM

Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước,
Kính thưa mọi Người Thiện chí trên Thế giới đang thao thức về Dân chủ cho Việt Nam,

Là những Linh mục Công giáo, chúng tôi không được phép cũng chẳng muốn làm chính trị, nghĩa là không thành lập hoặc tham gia một quân đội để đấu tranh vũ trang hay thành lập hoặc tham gia một đảng phái để đấu tranh nghị trường với bất cứ một tổ chức chính trị nào, nhằm điều hành hoặc cộng tác với bộ máy công quyền. Nhưng chúng tôi thấy cần phải có và phải nói lên một thái độ chính trị rõ ràng dứt khoát, do đòi hỏi của Phẩm giá Con người, Trách nhiệm Công dân và Thiên chức Linh mục, trước các đại quốc nạn đặc biệt nghiêm trọng đến mức hầu như vô phương cứu chữa tại Việt Nam hôm nay: giáo dục gian trá, đạo đức suy đồi, xã hội bất công, chính trị độc tài, kinh tế tụt hậu, lãnh thổ bị xâm hại.

Chúng tôi quan niệm rằng Quyền Công dân và Quyền Tín hữu, Tự do Chính trị và Tự do Tôn giáo là hai mặt của một thực thể, thực thể Nhân Quyền duy nhất; việc đấu tranh cho Tôn giáo Độc lập luôn gắn liền với việc đấu tranh cho Con người Tự do.

Chúng tôi nhận thấy rằng việc giải quyết những vấn đề cấp bách nghiêm trọng của Đất nước hiện nay đòi hỏi một Liên minh Dân tộc rộng rãi, chung sức chung lòng, nhất tâm nhất trí giữa mọi phong trào, mọi thành phần đang thao thức Dân chủ cho Quê hương.

Vì thế, chúng tôi tuyên bố :

  1. Ủng hộ hoàn toàn Lời Kêu Gọi 8 điểm cho Dân chủ Việt Nam của Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, công bố ngày 21-2-2001 tại Sài Gòn.
  2. Ủng hộ hoàn toàn Lộ Trình 9 điểm cho Dân chủ Việt Nam của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Sáng lập viên Cao trào Nhân bản, công bố đầu năm 2005 tại Sài Gòn.

Chúng tôi nhận định rằng nội dung Lời Kêu Gọi 8 điểm và Lộ Trình 9 điểm của Nhị Vị đáp ứng lòng mong mỏi của toàn Dân, thích hợp với hiện tình Đất nước và có khả năng mở ra một tương lai tươi sáng cho Tổ quốc Dân tộc.

Trong tinh thần đó, chúng tôi đòi hỏi Đảng và Nhà nước Cộng sản VN :

  1. Lập tức trả tự do vô điều kiện cho ba nhà Đấu tranh Dân chủ: ký giả Nguyễn Vũ Bình, bác sĩ Phạm Hồng Sơn và cựu chiến binh Nguyễn Khắc Toàn.
  2. Lập tức trả tự do vô điều kiện cho mọi Tù nhân Lương tâm khác đang bị giam giữ cách bất công trong các nhà tù tàn bạo và khắc nghiệt trên toàn cõi Việt Nam.
  3. Lập tức hủy bỏ mọi hình thức quản thúc, khống chế, sách nhiễu, khủng bố, gây rối cuộc sống của mọi nhà Đấu tranh Dân chủ và Tôn giáo cũng như của thân nhân và bằng hữu họ.

Chúng tôi nguyện xin Thiên Chúa là Cha muôn loài muôn vật, là Nguồn mọi Nhân phẩm Nhân quyền, ban phúc lành cho tất cả những ai đang ước mong nhìn thấy hay góp phần xây dựng một Nước Việt Nam trong Chân lý, Công bình, Tình thương và Tự do.

Xin cảm ơn toàn thể Đồng bào và tất cả mọi Người Thiện chí.

Công bố tại Việt Nam, ngày 24 tháng 10 năm 2005.

Lm Têphanô Chân Tín
Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý
Lm Phêrô Phan Văn Lợi

Tài liệu Tham chiếu:

1- LỜI KÊU GỌI CHO DÂN CHỦ VIỆT NAM CỦA GIÁO HỘI PGVN THỐNG NHẤT

nhân chuẩn bị kỷ niệm Quốc tổ Hùng Vương lần thứ 4880
và năm Thế giới đón chào thiên niên kỷ thứ III

Đạo Phật ra đời để cứu khổ cho muôn loài. Đây là bước tiến vĩ đại trong tư tưởng cũng như trong hành động tại xã hội Ần độ nói riêng, và cho loài người nói chung, cách đây 2544 năm. Giải phóng con người khỏi vô minh, khỏi sự sợ hãi và nô lệ thần linh hay các luồng ý thức hệ cuồng tín, giải phóng con người khỏi sự hà khắc và bất công của mọi hệ thống xã hội. Vào thời đức Phật tại thế, giáo lý đạo Phật đánh đổ mọi học phái thần quyền, mọi chủ nghĩa hư vô, duy vật, hoài nghi, định mệnh, đưa Con Người vào vị thế trung tâm giữa trời đất để giải thoát tự thân và giải phóng tha nhân. Không hề có những yếu tố phi xã hội trong giáo lý đạo Phật, vì thế người Phật tử luôn tôn trọng và đương đầu bảo vệ con người, chống lại những bất công hay bất bình đẳng xã hội, vốn là nguyên nhân chà đạp quyền sống của lương dân, ngăn cản hạnh nguyện tu học để tiến thủ, ngăn cản sự thực hành Từ, Bi, Trí, Lực, theo chí nguyện Bồ tát cứu đời, ngăn cản sự hiện thực Giác ngộ.

Từ nguyên tắc chỉ đạo cứu khổ ấy, Đạo Phật Việt Nam phát triển thêm nhiều nhân tố tích cực trong cuộc dấn thân bảo vệ nhân dân và đất nước. Lịch sử Phật giáo Việt, lồng trong lịch sử dân tộc trên hai nghìn năm qua, đã bao lần minh chứng rằng Hộ Dân, Hộ Quốc và Hộ Pháp hòa quyện trong nhau làm kim chỉ nam cho nếp sống và hành động của người Phật tử Việt Nam. Một trong những bộ kinh của Phật giáo do vị Cao tăng Việt Nam Khương Tăng Hội phiên dịch rất sớm, là Lục độ tập kinh, xuất hiện vào thế kỷ II Tây lịch, có những câu viết thể hiện tinh thần này : "Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ xông vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than". Đối với những chính quyền hà khắc, áp bức dân, thì Lục độ tập kinh cảnh báo : "Loài lang sói không thể nuôi, người ác không thể làm vua". Mâu Tử, tác giả sách Lý hoặc luận, hoàn thành tại Giao châu cuối thế kỷ II Tây lịch, đề cao đạo Phật Việt, chống lại các luồng văn hóa nô dịch của phương Bắc, đã khẳng định : "Bản chất đạo Phật là ở nhà có thể đem mà thờ cha mẹ, giúp nước có thể đem mà giáo hóa dân, sống một mình có thể đem mà trị thân".

Nhận thức trên đây vốn là tư tưởng chỉ đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, chống các luồng ý thức hệ ngoại lai, để bảo vệ chủ quyền và văn hóa dân tộc, bảo vệ tự do, no ấm và hạnh phúc cho nhân dân, mà sử sách còn ghi danh Hai Bà Trưng (năm 40 TL.) ; 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (suốt thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), v.v... tạo tiền đề cho sự kiến lập huy hoàng của quốc gia Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê.

Thế mà ngày nay, trong khi các nước trong thế giới ra công phát triển ngày càng cường thịnh, tự do, dân chủ, thì nước ta ngày càng bại liệt, nghèo khốn, nhân dân bị bức bách, chà đạp. Thông điệp Xuân Di Lặc năm nay của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống, đã tổng kết ngắn gọn hiện trạng này trong một câu : "Trải qua 35 năm chiến tranh, rồi 25 năm không có nhân quyền và tự do tôn giáo"! Thế là đã 60 năm tang thương, u ám, bế tắc không lối ra.

Thảm họa ấy cứ kéo dài, nuôi dưỡng bởi ba sự trạng :

  1. Một chính quyền tự thị, bất chấp ý kiến của người khác, đưa tới xu thế độc đảng chuyên quyền ;
  2. Một chính quyền ly khai dân, bất chấp những đòi hỏi thiết tha cho nhân quyền và dân quyền, đưa tới chế độ độc tài ác liệt ;
  3. Một chính quyền lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt, mà hậu quả đẩy dân vào tròng ách nô lệ tinh thần và vật chất, làm suy thoái đạo đức và suy liệt quốc gia.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kế thừa truyền thống giáo lý và phương pháp hành động của đạo Phật Việt Nam, một truyền thống trải dài qua hơn hai mươi thế kỷ dựng nước và giữ nước, không thể tự thủ bàng quan trước thời cuộc nhiễu nhương, khủng hoảng trầm trọng, nhân dân lầm than, mất tự do, mất quyền làm người. Nên tâm thành cất lời kêu gọi chư vị thức giả, đồng bào các giới, không phân biệt chính kiến hay tôn giáo, các cấp Giáo hội và nam nữ Cư sĩ Phật tử vận dụng mọi khả năng hiện có của mình - kết đoàn lại - để thay đổi hiện trạng tối tăm và nguy kịch của đất nước.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nhận định rằng :

Để đối trị xu thế độc đảng và chuyên quyền, cần hình thành một liên minh dân tộc bao gồm mọi khuynh hướng chính trị, và tôn giáo làm nền tảng cho một chính quyền dân chủ đa nguyên. Cụ thể là bỏ điều 4 trên Hiến pháp hầu xác định vị trí tối thượng của văn hóa và tư tưởng Việt khởi phát từ thời đại các Vua Hùng, đồng lúc tạo cơ sở cho sự hình thành và ra đời của liên minh dân tộc này ;

Để đối trị chế độ độc tài toàn trị, cần thực thi toàn vẹn những công ước quốc tế liên hệ đến nhân quyền, đến các quyền dân sự và chính trị, mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Cụ thể là ban hành tự do lập hội không thông qua Mặt trận Tổ quốc, một công cụ tay sai của đảng Cộng sản ; tự do ngôn luận không thông qua lý luận hay tư duy toàn thống Mác - Lê ; tự do báo chí do tư nhân điều hành và độc lập với đảng Cộng sản ; tự do nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi người lao động. Các tự do căn bản này là nền tảng bảo đảm cho sự phát biểu các ngưỡng vọng và quyền sống của nhân dân ;

Để đối trị xu hướng vọng ngoại, từ ý thức hệ đến các cơ cấu tổ chức xã hội, cần phát huy nền văn minh truyền thống Việt Nam, một nền văn minh biết tiếp thu và dung hòa tinh hoa của các luồng văn hóa nhân loại.

Từ ba nhận định và ba phương pháp đối trị trên đây, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mong cầu, vận động, và hậu thuẫn cho bất cứ cá nhân, đoàn thể nào thực hiện được sách lược 8 điểm cứu nguy đất nước sau đây :

1. Xây dựng một xã hội khoan dung, an lạc, đa nguyên, bình đẳng, không chủ chiến gây thù, điều hành bằng thể chế dân chủ đa đảng ;

2. Xóa bỏ mọi cơ chế phản dân chủ như lý lịch, hộ khẩu, công an khu vực. Bầu lại một Quốc hội thực sự đại diện quốc dân, dưới quyền giám sát của Liên Hiệp Quốc, với sự tự do bầu cử của toàn dân, và tham gia ứng cử của mọi cá nhân, đảng phái thuộc mọi khuynh hướng ngoài đảng Cộng sản. Thiết lập một Nhà nước tam quyền phân lập, một Nhà nước pháp quyền theo tinh thần bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị;

3. Đóng cửa vĩnh viễn các Trại tập trung cải tạo. Trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị và tù nhân vì lương thức, bị giam giữ tại miền Bắc sau Hiệp định Genève năm 1954, tại miền Nam sau năm 1975. Thỉnh mời các nhân tài, chuyên viên trong số tù nhân này tham gia kiến quốc. Đồng lúc thỉnh mời giới chuyên gia kỹ thuật, trí thức, học giả, mọi cá nhân, đoàn thể ở hải ngoại, vượt biển ra đi sau năm 1975, đem các kinh nghiệm và học thuật thu thái ở các nước tiên tiến về xây dựng quê hương. Hủy bỏ các đạo luật hay nghị định có tính khủng bố trên lĩnh vực tôn giáo và quản chế hành chính;

4. Bảo đảm quyền tư hữu; bảo đảm quyền tự do kinh doanh ; bảo đảm quyền tự do nghiệp đoàn. Ban hành chính sách khẩn trương giúp đỡ công nghiệp hóa canh tác và nâng cao đời sống nông dân, là tiềm lực của đại khối dân tộc. Chấm dứt nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Vì "nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" đã lỗi thời và bất lực hình thành một giải pháp cho nhân sinh sau 74 năm thí nghiệm của Nhà nước Liên bang Xô Viết, một nhà nước thù địch với quảng đại nhân dân nên đã bị xóa bỏ đầu thập niên 90. Xây dựng nền kinh tế thị trường phù hợp với xã hội Việt Nam và phát huy theo đường hướng của nền kinh tế tri thức và kinh tế sinh thái Liên hệ với công cuộc toàn-cầu-hóa theo xu thế văn minh của nhân loại để phát triển kỹ thuật, bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới, chống lại các thách thức nghiêm trọng của khuynh hướng toàn-cầu-hóa nô lệ do giới tài phiệt liên lục địa chủ súy. Tận lực xóa bỏ hố ngăn cách giàu nghèo đang tha hóa con người và phân liệt xã hội nước ta ;

5. Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tách lìa chính trị khỏi quân đội và các cơ quan công an, mật vụ. Giải giới binh sĩ xuống mức quốc phòng bình thường theo tiêu chuẩn các quốc gia ở thời bình, để chia sớt ngân quỹ quốc phòng thái quá cho ngân quỹ giáo dục và ngân quỹ y tế quốc dân. Về giáo dục, cấp tốc đào tạo nhân tài và chuyên gia phục hưng xứ sở, đào luyện một thế hệ trẻ chuyển tiếp đang bị mai một, vì thế hệ lãnh đạo già thì miệt mài chủ chiến, gây thù theo chủ trương vọng ngoại đấu-tranh- giai-cấp làm phân hóa và tê liệt cộng đồng dân tộc, thế hệ đang lên thì bị cuốn hút theo chủ nghĩa kim tiền vì sinh kế bức bách. Về y tế, giải quyết ưu tiên nạn thiếu nhi suy dinh dưỡng và biện pháp phòng bệnh ở nông thôn ;

6. Bài trừ văn hóa ngoại lai đồi trụy hoặc các ý thức hệ phi dân tộc làm xáo trộn tình nghĩa và đạo lý Việt Nam. Phát huy nền văn hóa truyền thống Việt trong tinh thần khai phóng, sáng tạo và dung hóa với mọi nền văn minh nhân loại. Đề cao ba giá trị tinh thần Nhân, Trí, Dũng của tổ tiên. Thực hiện công bằng xã hội, nam nữ bình quyền, bình đẳng tôn giáo, tôn trọng quyền tự trị và đặc thù văn hóa của các dân tộc ít người cư ngụ trên lãnh thổ nước ta. Bảo vệ quyền lợi ngoại kiều sinh sống làm ăn ở Việt Nam theo luật định và tinh thần hỗ tương quốc tế. Bảo đảm quyền lợi và nhân phẩm của người Việt sống ở hải ngoại ;

7. Tôn trọng lãnh thổ các nước láng giềng. Chủ trương hòa thân, đối thoại và cộng tác bình đẳng với các nước lân bang trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tôn giáo, xã hội. Chung sức bảo vệ hòa bình, an ninh và thịnh vượng tại các quốc gia Đông Nam Á. Chung sức với các quốc gia trong vùng phát huy tính nhân văn Đông phương, như một Đạo tràng, hầu ngăn chận các Thị trường biến người lao động thành nô công, hàng hóa ;

8. Thể hiện tinh thần hòa hiếu truyền thống và sách lược tâm công trong chính sách ngoại giao với mọi quốc gia trên thế giới, để tạo thế đối thoại, cộng tác, tương trợ, đôi bên cùng có lợi nhưng không đánh mất quốc thể và chủ quyền quốc gia. Bằng phương lược này, tạo cơ hội và điều kiện đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp song song với thăng tiến xã hội, hầu kịp bước theo xu thế văn minh, tiên tiến, cường thịnh tại các quốc gia dân chủ, giàu mạnh trong thế giới vào đầu thế kỷ XX !

Để tạo điều kiện và cơ sở cho ba nhận định, ba phương pháp đối trị, và sách lược tám điểm cứu nguy dân tộc trên đây biến thành thực tại, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất xin kêu gọi chư vị thức giả, đồng bào các giới, không phân biệt chính kiến hay tôn giáo, đặc biệt chư Tôn giáo phẩm, các cấp Giáo hội trong và ngoài nước, quý nam nữ Cư sĩ Phật tử, hãy kết liên với Giáo hội trong nỗ lực hội thoại và biến tâm tư thành hành động để cho đêm dài khổ ách Việt Nam chấm dứt, rạng đông của kỷ nguyên mới chiếu sáng trên dải đất hình chữ  S này.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng thiết tha kêu gọi nhân dân yêu chuộng công lý, dân chủ trên địa cầu, các Chính phủ, các Trung tâm quyền lực quốc tế, các tổ chức Nhân quyền, Dân chủ, các tổ chức Công đoàn khắp năm châu hỗ trợ và hậu thuẫn cho kế hoạch Dân chủ hóa trên đây sớm hiện thực tại Việt Nam.

Thừa lệnh Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, nay tuyên cáo.

Phật lịch 2544 Thanh Minh Thiền viện
Sài Gòn ngày 21 tháng 2 năm 2001
Viện trưởng Viện Hóa Đạo
(ký tên và đóng dấu)
Sa môn THÍCH QUẢNG ĐỘ

2- LỘ TRÌNH 9 ĐIỂM CHO DÂN CHỦ VIỆT NAM

VOA: Kính thưa Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, trong nhiều năm qua ông đưa ra chủ trương cho rằng Dân chủ là nền tảng để hỗ trợ cho Nhân quyền Việt Nam, và theo tôi được biết, ông có phổ biến một Tuyên cáo để trình bày về phương cách xây dựng Dân chủ cho Việt Nam. Xin ông cho biết những bước đi cụ thể mà ông kêu gọi thực hiện để có được Dân chủ cho Việt Nam?

Bs Nguyễn Đan Quế : Chúng tôi đưa ra một Lộ Trình 9 điểm nhằm Dân chủ hóa Việt Nam.

Thứ nhất, đòi Chính quyền Việt Nam chấm dứt nhiễu sóng các đài phát thanh VOA, RFA… tiếng Việt, nghĩa là phải để cho làn sóng thông tin được tự do loan truyền vào Việt Nam.

Thứ hai, phải có Tự do Báo chí. Các đài truyền thanh truyền hình cũng phải được các nhà hoạt động sử dụng để nói lên quan điểm của mình.

Thứ ba, phải thả hết Tù Chính trị và Tôn giáo, phải để Hội Hồng thập tự Quốc tế giám sát toàn bộ các nhà tù ở Việt Nam.

Thứ tư, Chính quyền Việt Nam phải tuân thủ hoàn toàn những tôn chỉ và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc về Tự do Tôn giáo, phải đối xử công bằng đối với tất cả mọi Tôn giáo.

Thứ năm, phải hủy bỏ điều 4 Hiến pháp nhằm tự cho phép Đảng CSVN độc quyền lãnh đạo Đất nước, phải hủy bỏ ngay Chỉ thị 31/CP nhằm cho phép công an giam giữ người bất đồng chính kiến 6 tháng đến 2 năm mà không xét xử. Sau khi đạt được những kết quả cụ thể về những điểm nêu trên thì đối với Dân tộc chúng ta, chúng tôi sẽ đòi hỏi phải tiến hành Dân chủ hóa bằng những bước tiếp theo.

Thứ sáu, Bộ Chính trị Đảng CSVN phải tôn trọng Nhân quyền, Dân quyền và Tài quyền của Dân tộc Việt Nam.

Thứ bảy, tách Đảng ra khỏi Chính quyền ở tất cả các cấp.

Thứ tám, giao cho Quốc hội hiện nay soạn thảo Luật Bầu cử đa nguyên, công bằng, tự do.

Thứ chín, bộ máy hành chánh, đã tách khỏi Đảng và chiếu theo Luật Bầu cử mới, tổ chức Bầu cử tự do, công bằng, có giám sát Quốc tế để bầu ra Quốc hội Lập hiến.

----- O -----

Hiểm Hoạ Diệt Chủng

Nguyễn Sơn – Đảng DCND
Mèo trắng hay mèo đen cũng tốt miễn bắt được chuột, nhưng mèo điên thì hiểm họa cho nhân loại

Nhân loại đã kinh qua hai cuộc chiến đẫm máu. Thế chiến thứ Nhất và thứ Hai chưa phai mờ thì hiểm hoạ thế chiến thứ Ba có khả năng bùng nổ. Lần này, kẻ khơi nguồn chiến tranh có thể xuất phát từ phiá Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Hơn 20 năm nay, Trung Quốc chưa bao giờ đưa quân đội ra thử lửa. Cuộc chiến tranh gần nhất ở biên giới Trung-Việt hồi 1979 đã để lại cho xứ xở này một bài học thấm thiá. Đó là dù đông quân nhưng với vũ khí nghèo, chiến thuật lạc hậu thì sẽ trở thành những bị thịt. Cuộc chiến đẫm máu ở Lạng sơn, biên giới Trung - Việt đã chứng minh điều đó.

Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, 80 ngàn quân chính qui Quân đội giải phóng Trung Quốc đã tràn qua biên giới Trung-Việt. Áp dụng chiến thuật biển người, chiến thuật cổ điển Trung Quốc đã từng sử dụng trong cuộc chiến tranh ở Hàn Quốc. Trung Quốc học ngay bài học đầu tiên, súng hoả lực hạng nặng cùng với mìn bẩy và nhờ vào cộng sự kiên cố, bộ đội cộng sản Việt Nam đã tiêu diệt một số lượng đáng kể quân Trung Quốc.

Hoảng sợ trước thiệt hại khủng khiếp, Trung Quốc lập tức thay thế ngay viên đại tướng chỉ huy chiến dịch tấn công Việt Nam. Chiến thuật tấn công biển người được thay đổi bằng chiến thuật xe tăng và trọng pháo, từ đó Trung quốc bắt đầu làm chủ tình hình. Mất đến gần 20 ngày sau họ mới hoàn toàn chiếm được Lạng Sơn. Cuộc chiến đã để lại cho các nhà lãnh đạo cộng sản Trung quốc bài học nhớ đời là vũ khí quân sự của họ quá đỗi thô sơ, còn chiến thuật thì hoàn toàn lạc hậu. (1)

Sau bài học đẫm máu này, con cháu "Thiên triều" đã hạ quyết tâm hiện đại hoá quân đội với bất kể giá nào. Hơn 20 năm qua, biết bao nhiêu tiền của đã đổ vào để trang bị tận răng cho quân đội, đến hôm nay khi cảm thấy đã đủ lông, đủ cánh, Trung quốc bắt đầu nghĩ đến chuyện tìm đối tượng khác để dạy cho một bài học.

Nhiều người nghĩ đối tượng đó không ai xa lạ ngoài Đài Loan, một hải đảo Trung Quốc từ lâu vẫn tự nhận thuộc quyền sở hữu của họ. Tuy nhiên, có nhiều chỉ dấu cho thấy không phải như vậy. Đài loan chỉ là điểm, diện chính là Hoa kỳ, nước mà Mao Trạch Đông đã từng cho là “con cọp giấy”. Bởi vì theo Trung quốc nếu chiếm được Hoa Kỳ, Trung Quốc tự nhiên trở thành bá chủ đồ vương.

Ông Chi Haotian, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Phó chủ tịch Ủy Ban Hội Đồng Quân Sự Trung ương Trung Quốc không dấu diếm ý đồ bá quyền đó. Ông phát biểu công khai trong bài nói chuyện được tờ báo Đại Thế Kỷ đăng lại như sau “để đối đầu với Mỹ chúng ta phải tiến hành cuộc chiến bất qui ước. Trong quá khứ, khi chiếm bất cứ nước thuộc địa nào, việc tàn sát dân chiếm đóng đã bị giới hạn một phần vì khả năng hạn chế cũa vũ khí, vì vậy cho dù chiếm được đất những vẫn phải sống chung với dân thuộc địa. Đối với chúng ta, nếu Trung Quốc chiếm Mỹ, chúng ta không để sót mạng nào hết. Chúng ta phải tận diệt “không chừa một mạng”, chỉ có vậy thì mới lãnh đạo được nhân dân Trung Quốc ở Mỹ.” (2)

Ông Chi Haotian còn đi xa hơn nữa khi dẫn giải rằng “ Vậy thì vũ khí gì có thể diệt chủng một cách gọn nhẹ như vậy? các thứ vũ khí cổ điển như súng máy, cà nông, hoả tiễn và kể cả nguyên tử cũng không thể diệt sạch một lần được, ……chỉ có vũ khí hoá học hiện đại mới có thể giết hết giống dân này, dành lại nước Mỹ cho Trung Quốc….từ lâu chúng ta đã nhanh chóng chế tạo ra những loại vũ khí này rồi và hiện đang nghiên cứu để chế biến thêm các loại vũ khí mới nữa…..chúng ta có khả năng tấn công và giết sạch dân Mỹ một cách bất ngờ. Thời đồng chí Đặng Tiểu Bình còn sống, Bộ chính trị đã nhìn ra rằng không cần nghiên cứu các loại máy bay làm gì, nên dành thời gian để chế ra loại vũ khí không tàn phá nhưng có khả năng giết người hàng loạt”.

Ông Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc dẫn giải như một kẻ hoang tưởng về dự phóng chiếm đoạt nước Mỹ “ở bình diện nhân đạo, chúng ta nên cảnh cáo người Mỹ và thuyết phục họ rời khỏi nước Mỹ, hoặc ít nhất nhượng lại một nửa nước cho Trung quốc bởi vì chính tổ tiên của ta đã khám phá ra nước Mỹ. Nếu điều này không thành công, thì chỉ còn cách tận diệt họ và dành lại nước Mỹ. Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh, nếu thắng Mỹ, các quốc gia khác cũng sẽ đầu hàng chúng ta thôi.”

Theo giới quan sát tình báo và chiến lược quốc tế nhận định, con cháu đại Hán vẫn âm mưu thôn tính toàn cầu. Âm mưu hiện đại hoá quân đội những năm gần đây của giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã làm các nước phương Tây lo ngại. Các chi tiêu khổng lồ cho quân đội Trung Quốc đã đặt Hoa Kỳ phải xét lại toàn bộ chiến lược quân sự trên thế giới, nhất là trong bối cảnh Liên Bang Sô Viết không còn là một cường quốc đáng lo ngại.

Để chuẩn bị kế hoạch đối đầu với Hoa Kỳ, Trung Quốc đã kiên nhẫn tiến hành từng bước. Đầu tiên chi nhiều khoản tiền khổng lồ nhằm hiện đại hoá quân đội đến mức họ nghĩ có thể đương cự lại Hoa Kỳ. Kế đến là giai đoạn tâm lý chiến, giáo dục và thử thách tinh thần cho cả tỷ dân Trung Quốc về khả năng một cuộc chiến tranh qui mô. Họ đang tự hỏi nếu xảy ra một cuộc chiến đẫm máu, liệu dân Trung Quốc đủ can đảm và cuồng tín để hy sinh theo Đảng hay không? Vì vậy họ cần câu trả lời từ chính nhân dân Trung Quốc.

Tháng 2 năm ngoái, Bộ Quốc Phòng Trung Quốc làm một cuộc thăm dò trên mạng. Lý do cần thực hiện trên mạng mà không phải trên báo Đảng là để biết rõ ý kiến trung thực của đa số nhân dân Trung Quốc. Cuộc thăm dò xoay quanh câu hỏi: “Nếu bạn là lính và bạn được lệnh phải bắn. Liệu bạn có dám bắn vào đàn bà, trẻ con và tù binh chiến tranh không ?” Gần như hơn 70% trả lời sẽ bắn vào tất cả những người này. Những người trả lời sẵn sàng bắn vào bất cứ thứ gì, kể cả đàn bà, con nít đều ở lứa tuổi dưới 25, lứa tuổi chiếm nhiều nhất trong số hơn 1 tỷ dân Trung Quốc.

Vui mừng trước kết quả này, ông Chi Haotian phát biểu “ Tôi thực sự hài lòng về kết quả cuộc thăm dò vừa qua. Điều này cho thấy thế hệ tương lai của Trung Quốc sẵn sàng chiến đấu theo mục tiêu của Đảng”. Nói trắng ra là chạy theo tham vọng “bá quyền” của Đảng CSTQ để tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lăng có tầm vóc bất qui ước, sẵn sàng giết người bất kể đối tượng là ai? mù quáng sử dụng mọi thủ đoạn tàn độc và ở mức độ qui mô chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

Tinh thần Đại Hán thể hiện rõ qua bài nói chuyện của ông Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Theo ông, “người Trung Quốc còn văn minh hơn cả dân Đức, giống dân mà Hitler đã từng một thời hãnh diện. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân Trung Quốc đã trôi giạt tứ phương đến các quốc gia Châu Mỹ và Thái Bình Dương. Những tổ tiên này đã trở thành người Mỹ da đỏ, người Mỹ hiện nay và luôn cả các sắc dân ở Đông Nam Á và phiá Nam Thái Bình Dương”. Nói một cách khác, các nước Á Châu như Việt Nam, Nhật, Đài Hàn, Thái v.v… là của Trung Quốc và thậm chí cả nước Mỹ ở xa xôi cũng không vượt ra khỏi phạm vi suy luận này.

Trung quốc sau khi thủ đắc một số vũ khí tối tân, đang hoang tưởng và tự hãnh diện đặt họ vô vị trí giống Đức Quốc Xã hồi thế chiến thứ hai. Những ông trời con này đang cổ võ cho tư tưởng chiến tranh như Hitler. Theo Chi Hoatian thì “ cả Trung Quốc và Đức thời Hitler có những điểm tương đồng. Cả hai đều tự thấy là dân tộc mình hơn tất cả các sắc dân khác trên thế giới. Cả hai quốc gia đều đã từng bị ngoại bang xâu xé, lợi dụng. Đều có khuynh hướng thuần phục quyền lực một cách tuyệt đối, có tinh thần chủ nghĩa xã hội-quốc xã, bị đặt trong hoàn cảnh thiếu thốn, chật chội vì mức độ dân số tăng trưởng, và đều trong tình huống thuần một quốc gia, một đảng phái, một lãnh đạo và một chủ thuyết”

So sánh về tư tưởng chiến lược quân sự tương lai. Chi Hoatian nhận xét “ lý do mà nước Mỹ còn tồn tại đến hôm nay vì chưa bao giờ có chiến tranh xảy ra ngay tại trên đất nước của họ. Nếu tình huống chiến tranh xảy ra hôm nay, tôi có thể tiên đoán là khi địch quân đã tràn vô tới thủ phủ Hoa Thịnh Đốn rồi thì Quốc hội Mỹ vẫn còn bận họp để tranh cãi có nên cho phép Tổng thống của họ tuyên chiến hay không? Đó là sự khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc. Chúng ta không phí thời giờ cho những bàn cãi vô bổ này. Đồng chí Đặng Tiểu Bình đã từng dạy “Cái cốt lõi của vấn đề nằm ở sự nhạy bén của Đảng. Một khi Đảng đã quyết định, thì lập tức mệnh lệnh được thi hành, không mất thời giờ vô bổ như các quốc gia tư bản”.

Điều trọng yếu vẫn là, Chi Hoatian nhận định “Chế độ độc tài Hitler có lẽ chỉ tồn tại trong một khoảng khắc vì sự nhầm lẫn của lịch sử. Không phải Đức Quốc Xã mà Trung Quốc chính là lực lượng đáng tin cậy để có thể chống lại hệ thống chính trị dân chủ nghị viện của các nước phương Tây”.

Cần phải đặt dấu hỏi là dựa vào đâu mà giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc đột nhiên cao ngạo, coi trời bằng vung vậy? Điều gì làm họ không ngần ngại tuyên bố hết sức “hiếu chiến” làm cho giới nghiên cứu quân sự phải giật mình kinh sợ. Không phải ngẫu nhiên mấy năm gần đây, Mỹ và Nhật là hai quốc gia liên tục bày tỏ lo ngại về khả năng bành trướng mộng “bá quyền-quân phiệt” của những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc.

Câu trả lời có lẽ nằm ở số tiền khổng lồ Trung Quốc đã chi tiêu từ hơn 10 năm nay cho việc hiện đại hoá quân đội. Theo tin UPI, hôm tháng 3 vừa rồi, Hoa Tấn Xã cho biết Bộ Quốc phòng đã chi ra 30.2 tỷ Mỹ kim trong năm 2005. Con số này không chính xác, Trung Quốc đã che đậy số tiền thực sự. Theo ước lượng của giới nghiên cứu quân sự, số tiền này có thể lên từ 90 tỷ đến 110 tỷ Mỹ kim.

Sách trắng về Trung Quốc đệ trình Thủ tướng Nhật Junichiro Koizumi nhận định “ Trung quốc đã nhanh chóng trỗi dậy như một cường quốc về kinh tế trong vùng, liên tục cải tiến tiềm năng quân sự của họ. Sức mạnh đáng kể này đã làm cho các quốc gia lân cận lo ngại….Chúng ta cần phải chú ý nhiều hơn về khuynh hướng hiện đại hóa của họ và cẩn trọng lượng định về khả năng quân sự vì sự chi tiêu quốc phòng đã vượt quá giới hạn mức độ cần thiết trong khả năng phòng thủ của họ”.

Về khả năng quốc phòng của Trung Quốc? tờ Herald Sun hôm 25 tháng 10 năm 2005 lấy tin từ UPI cảnh báo “hỏa tiễn mới chế biến của Trung Cộng có thể bắn thẳng tới thủ phủ của Úc Đại Lợi”. Bài báo cho biết, theo lượng định của giới tình báo Hoa Kỳ, hoả tiễn di động với đầu đạn nguyên tử DF-31 mới chế tạo trong năm 2005 có thể bắn theo đường vòng cung từ Bắc Kinhtới Birsbane hoặc Perth.

Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa kỳ, ông Rumsfeld đã phát biểu “Hoa kỳ cũng như nhiều quốc gia khác muốn biết tại sao Trung Quốc lại dấu diếm về ngân sách quốc phòng?” Tin chính thức từ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ cho biết, ước lượng số tiền dành cho chi tiêu quốc phòng có thể lên đến $90 tỷ Mỹ kim trong năm nay, gấp 3 lần con số phiá Trung Quốc công bố. Lượng định của tình báo Hoa kỳ là với tốc độ phát triển kinh tế hiện tại, Trung Quốc có thể chi từ $98.8 đến $149.1 tỷ Mỹ kim trong những năm 2002-2006. Trong đó, 1/3 dành cho nhân sự, phần còn lại dành cho việc chế tạo và tân trang vũ khí tối tân. Với đà chi tiêu kiểu này, quân đội giải phóng nhân dân Trung quốc có thể sỡ hữu nhiều loại vũ khí hạng nặng như sau: (3)

Thực ra, nhân loại mới thấy vũ khí chiến tranh tàn phá hạng nặng của Trung Quốc. Đây chỉ là loại vũ khí mang tính tự vệ. So với kỹ thuật quân sự của Mỹ và Anh. Vũ khí hạng nặng của Trung Quốc vẫn không phải là đối thủ. Đối với Hoa kỳ, Trung Quốc hiểu mở một cuộc tấn công biển người theo kiểu dàn quân như hồi chiến tranh biên giới Viêt-Trung chỉ là một cuộc tự sát. Họ không chủ trương làm như vậy. Thứ vũ khí tấn công đáng sợ của Trung Quốc để khơi mào cho thế chiến thứ ba không nằm trong danh mục những lọai vũ khí hạng nặng trên. Cái họ thủ đắc Hoa Kỳ không có: Thứ nhất là hàng triệu đạo quân thứ năm nằm ngay tại Hoa kỳ để chờ mật lệnh. Và thứ hai, chính là vũ khí hoá học hiện đại, vũ khí có khả năng tận diệt hàng loạt trong chớp mắt, triệt tiêu hết khả năng tự vệ của đối thủ, không cho có thời giờ để kịp phản công. Con bài tẩy của Trung Quốc nằm ở vũ khí chiến lược này, thứ vũ khí mà trong khi các quốc gia phương Tây ngần ngại thử nghiệm thì Trung Quốc khoe khoang họ đã thủ đắc từ lâu. Vì đối với Cộng sản, họ không bị ràng buộc bởi bất cứ qui ước chiến tranh nào.

Não trạng Trung Quốc từ sau trận chiến biên giới Việt-Trung cũng không thay đổi. Họ sẵn sàng thí mạng dân Trung Quốc nếu phải xảy ra cuốc đối đầu chiến tranh nguyên tử cũng như không ngần ngại sử dụng vũ khí hủy diệt nhân loại để chiến thắng nếu cần. Nếu thế chiến thứ hai hơn 57 triệu người đã bị chết, thì thế chiến thứ ba sẽ khủng khiếp hơn. Đối với lãnh đạo Trung Quốc, mạng người chỉ là rơm rạ. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung quốc tuyên bố câu nói lịch sử “nếu phải hy sinh một nửa dân Trung Quốc, tức là hơn nửa tỷ dân chết đi để giữ cho đảng CSTQ được tồn tại thì họ vẫn làm”. Vì nếu bị mất Đảng, tức là mất đầu tàu, mất lãnh đạo, mất phương hướng thì Trung Quốc coi như sụp đổ.

Nhân loại đang đứng trước hiểm hoạ diệt chủng. Nó báo hiệu chỉ dấu không an toàn khi những kẻ mang bệnh cuồng sát lại thủ đắc khả năng có thể gây ra thảm hoạ. Những Hitler, Mussoline, Ponpot, Sadam Hussein vẫn không làm tỉnh mộng bọn mắc bệnh hoang tưởng. Liệu Liên Hiệp Quốc có phải khắc câu nói để đời của ông Chi Haotian ở bia đá để sớm cảnh báo nhân loại về tội ác giệt chủng của giới lãnh đạo đảng CSTQ trước khi quá trễ.


(1) INGXIANG: Border War, 1979 - A Nervous China Invades Vietnam By Terry Mccarthy
(2) http://epochtimes.com/gb/5/8/1/n1003911.htm
(3) Analyzing Chinese Military Expenditures - Richard A. Bitzinger

----- O -----

Thế và Lực Tổng Cục 2 Trước Bối Cảnh Đại Hội X

Thuận An - Đảng DCND

Gần tới Đại hội X ( ĐHX), hiện tương tranh giành quyền lực để chuẩn bị đưa người của phe phái, vây cánh vô Trung ương, vô Thường Vụ Trung ương, vô Bộ Chính trị càng lúc càng quyết liêt. Tổng Cục 2 (TC2) mở màn bằng đòn đánh vỗ mặt Tướng công an Nguyễn Khánh Toàn (1). Nguyễn Khánh Toàn là người nắm rất rõ về những tội ác của TC2, vừa giỏi chuyên môn lại vừa nằm trong ban thanh tra vụ T4. Nếu để Toàn điều tra thì việc này sẽ nguy hại, vì vậy TC2 phải tìm cách đánh đổ Toàn trước, ngăn không cho Toàn lọt vô Trung ương, thậm chí có thể cho về vườn để đàn em TC2 nắm Bộ Nội vụ, ém luôn vụ T4. Dư luận đang chờ đòn phản công của bên Công An, nhưng có lẽ còn lâu hoặc chẳng bao giờ có vì TC2 đã vô hiệu hoá các địch thủ của họ rồi.

Vụ án TC2 rành rành cả nước biết, trong Hội Nghị Trung Ương vừa rồi bà Võ Thị Thắng đã yêu cầu phải làm sáng tỏ nhân vật T4, vụ TC2 tạo ra tình báo ảo T4 để lũng đoạn Đảng mà cá nhân bà là nạn nhân.

Báo cáo của T4 về bà Thắng như sau: “Nhằm áp đảo những người tố cáo mình, bà Võ Thị Thắng đã tìm cách kết thân với nhiều cán bộ chủ chốt ngành Công An, Nội Chính, Kiểm tra Đảng, Bảo vệ Chính trị Nội bộ. Bà Thắng là người tình của Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ Công An. (Bản tin số 218 ngày 21/1/1999)

“T4 tiết lộ Võ Thị Thắng trước đây đã được Phủ Đặc uỷ tháo răng hàm trên (răng cửa) để thay vào đó răng giả đặc biệt được sử dụng khi cảm thấy hiểm nguy, có thể cắn vỡ răng này sau khi dùng lưỡi đẩy rơi ra, là một liều thuốc độc cực mạnh có thể giúp các điệp viên tự sát. ” (Bản tin ngày 21/3/1999)

Nhưng cả Đảng vẫn bình chân như vại, không ai dám nhúc nhích đặt vấn đề trừ mấy ông Tướng về hưu. Thậm chí mới đây cựu TT Võ Văn Kiệt viết nhiều bài đóng góp cho Đảng trước ngày Đại Hội X, nhưng không đá động gì đến TC2 cả.

Toàn bức tranh Đảng CSVN cho thấy Đảng nằm dưới quyền thống trị của TC2, gồm vây cánh gia đình Nguyễn Chí Vịnh (con trai Nguyễn Chí Thanh, con nuôi Lê Đức Anh), Vũ Chính (bố vợ Nguyễn Chí Vịnh), Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Những Ủy viên Trung ương Đảng giữ vị trí then chốt đều đứng về phiá TC2 vì đã bị mua chuộc hoặc bị khống chế. Nếu có ít UV còn đứng ngoài vòng khuynh đảo của TC2 thì vẫn lo sợ, không những cho chức vụ, bổng lộc mà ngay cả tánh mạng của họ nữa.

Người của TC2 đã được cấy trải dài để nắm tin tình báo trong hết các cơ quan Đảng và nhà nước cấp Xã, Huyện, Quận, Tỉnh…., ngay cả Bộ Nội Vụ, văn phòng Thủ tướng, các Bộ và Chính phủ TC2 cũng không chừa.

Vụ Nguyễn Thái Nguyên là thí dụ điển hình. Ông Nguyên từng làm phụ tá đắc lực cuả Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Tuy nhiên Lê Đức Anh không ưa ông Kiệt và người bên phiá văn phòng Thủ tướng nên đã dùng TC2 để ra tay. Buớc đầu họ dàn dựng hồ sơ giả của Võ Thị Thắng để kích bác vợ của Nguyễn Thái Nguyên đánh bà Thắng. Bà Nguyên bi thua, TC2 nhảy vào cuộc tìm cách giúp bà Nguyên để kéo Nguyễn Thái Nguyên trở thành tình báo cho TC2.

Sau khi bán mình cho TC2, Nguyễn Thái Nguyên đã đánh cắp nhiều tài liệu từ phiá văn phòng ông Kiệt cho TC2. Dưới chỉ đạo của Lê Đức Anh và TC2, Nguyên đã sử dụng các tài liệu mật để TC2 khống chế Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu qua vụ việc ông liên hệ với bà Đặng Hà (con gái ông Đặng Kính), mà theo dư luận cho là bà Hà dùng mỹ nhân kế theo chỉ đạo của Lê Đức Anh và TC2 nhằm dứt điểm ông Phiêu. Nguyễn Thái Nguyên đã cung cấp tài liệu để Lê Đức Anh và TC2 phanh phui vụ án Ngô Xuân Lộc, người của ông Kiệt. Mục tiêu chính vẫn là chặt hết vây cánh để ông Kiệt mất uy tín, đưa người thân của TC2 nắm ghế thủ tướng. Mặc dù sau đó bên ông Kiệt đã phản công, Bộ Nội Vụ vào trận và đã bắt Nguyễn Thái Nguyên với tội trạng rất vu vơ. Hiện nay Nguyên đang ngồi tù… nhưng vụ án này chưa bao giờ đưa ra công luận.

Đối với TC2, ngay cả Thủ tướng, Tổng Bí thư còn bị TC2 đưa vào xiếc thì những UV Trung ương thường trong Đảng CSVN hiện nay phải biết sợ, biết thân biết phận, im lặng để giữ ghế và tánh mạng. Vì chính bản thân tất cả những UV này vị nào tay cũng dính chàm, hồ sơ tham nhũng của họ bị TC2 nắm hết, chỉ cần tỏ thái độ phản đối thì hồ sơ sẽ được bạch hoá.

Sở trường của TC2, do Nguyễn Chí Vịnh chỉ đạo là mỹ nhân kế và mượn dao giết người.Từ một tên lưu manh đi làm chính trị, Nguyễn Chí Vịnh chuyền dùng gái, tiền lôi kéo cán bộ để hủ hoá, ăn nhậu, chơi bời. Vịnh âm thầm cho đàn em quay phim, chụp ảnh những cảnh ăn chơi xa đoạ để giữ làm hồ sơ, buộc nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp phải "há miệng mắc quai", cúi đầu chịu trận cho Vịnh và TC2 điều khiển.

Trong các cuộc giao ban, Vũ Chính thường xuyên báo cáo nội bộ là tài liệu UV này, lãnh đaọ nọ đã được đài báo phản động nước ngoài đánh phá. Thực chất, người trong cuộc đều biết chính TC2 cung cấp tài liệu này để đánh ngược về, nhằm hạ uy tín bất cứ ai không cùng phe của TC2.

Dĩ nhiên đòn này, không chỉ có TC2 biết khai thác mà ngay cả bên Bộ Nội Vụ cũng đưa hồ sơ ra ngoài. Hồ sơ của Nguyễn Chí Vịnh, Vũ Chính đã từng được những bàn tay bí mật gửi ra để phản công lại TC2. Tuy nhiên trong trận chiến tranh giành quyền lực này, bên nào vây cánh dày, lực mạnh đã lộ rất rõ.

Nói về TC2 thì không thể không nhắc tới khả năng tài chánh của họ. Chỉ riêng ngân sách dành cho TC2 đã bằng gần nửa ngân sách của Bộ Quốc Phòng. Đó là chưa kể các tài khoản thu nhập khác từ kinh doanh bất hợp pháp và hợp pháp, từ đầu tư trong lẫn ngoài nước. Chỉ việc TC2 dám chi ra gần 10 triệu dollars để thiết lập một hệ thống tổng đài rà quét sóng máy điện thoại, dùng cho mục đích theo dõi các điện đàm từ máy di động đã cho thấy khả năng của họ. Máy quét sóng này không chỉ dùng để nghe lén những chiến sĩ dân chủ mà luôn cả đối tượng của TC2 bao gồm đảng viên lãnh đạo cao cấp không thuộc vây cánh TC2, người của phiá Bộ Nội Vụ, Chính phủ và Quân đội v.v…

Quyền lực của TC2 vô cùng, thậm chí được công nhận có thể giả danh bất cứ cơ quan nhà nước nào khi thi hành công vụ. Pháp lệnh Tình báo và Nghị định 96/CP do Võ Văn Kiệt ký, ghi rõ:

Điều 21, chương 2: “Tổng cục tình báo (TC2) thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu hoặc các giấy tờ giao dịch của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, …

TC2 cũng không từ nan bất cứ hành vi tàn độc nào kể cả thủ tiêu. Từ thời ông Hồ Chí Minh còn sống, các cơ phân an ninh đã giết bà Nông Thị Xuân, người đầu ấp tay gối của ông Hồ với sự chấp thuận của Bác. Vụ ông Đinh Bá Thi, đại sứ Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc bị triệu về và cho xe giả dạng tai nạn lưu thông cán chết trên quốc lộ 1 gần khu vực Bình Tuy, tỉnh Thuận Hải. Về phía quân đội đã thường xảy ra hàng loạt vụ thủ tiêu: vụ độc tử ông Đại tướng Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Lê Trọng Tấn, cái chết của tập thể tướng lãnh bị giết trong chuyến bay sang “Lào”, cái chết của tập thể Đoàn cán bộ cao cấp quân đội khi bay ra bán đảo Sơn Trà, cái chết của Đinh Đức Thiện, em Lê Đức Thọ…. đã làm lạnh gáy những tướng lãnh quân đội nào dám làm phản. Hình như đối với giới chức trong quân đội, cách gọn nhất vẫn là thủ tiêu thay vì bắt giam, vu cáo bằng các tội hình sự hoặc cho phục viên, vì TC2 không yên tâm, sợ về lâu dài có thể sinh hoạ. Chính vậy mà từ xưa đến giờ, giới quân đội nếu có dấu hiệu bất mãn thì thường hay bị độc tử.

Sau cái chết của hai đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Đầu năm 1987, Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị rồi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cũng trong năm này, Trung tướng Phan Bình, người từng nắm giữ Cục 2, (tức Cục Quân báo - tiền thân TC2) khi Anh cho về hưu cũng đã bị ám sát chết đầy bí ẩn tại nhà nghỉ Cục 2 ở Sài Gòn.

Việc thủ tiêu, ám sát hoặc đầu độc trong Đảng CSVN phổ thông đến nỗi khi Lê Duẩn vừa mới qua đời thì gia đình con cháu họ Lê đã khóc lóc, lo sợ bị cánh Lê Đức Thọ ám hại. Lê Đức Anh khi lên cơn đau tim, đưa vô nhà thương đã không dám uống thuốc vì sợ có kẻ bỏ thuốc độc. Lê Đức Anh đã từng giết không biết bao nhiêu người rồi nên như Tào Tháo, nhất cử nhất động nhìn đâu cũng thấy kẻ thù.

Đối với những UV như Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Văn An, Phạm Văn Trà, Nguyễn Khoa Điềm, Trương Tấn Sang v.v…. những con bài này đều nằm trong vòng kiểm soát của TC2 và Lê Đức Anh. Chính Anh tạo ra thì Anh cũng có thể lệnh cho TC2 đạp xuống dễ dàng.

Vụ án con ông Phan Văn Khải bắn chết con ông Phạm Thế Duyệt (2) vẫn chưa đưa ra ánh sáng công luận. Hai ông trời con này giành độc quyền buôn lậu nên đã ra tay sát thủ. Chẳng hạn trường hợp bà Trương Mỹ Hoa (3) có con rể can tội cướp của giết người nhưng vẫn được che chở, đang sống ở nước ngoài thay vì làm áp lực dẫn độ về nước. Pháp luật chỉ nghiêm minh đối với dân nghèo, đối với con ông trời thì pháp luật chưa lên tiếng. Tuy vậy, nếu ông Khải, bà Hoa mà ngấm nghé theo vây cánh làm phản thì vụ án được đưa ra ánh sang ngay lập tức.

Trương Tấn Sang thời làm bí thư Thành ủy Sài Gòn đã can tội mua dâm và ép dâm một nữ đảng viên ở Quận 3. Phạm Thế Duyệt thì lúc làm Bí thư Thành Ủy Hà nội đã chiếm đất ở đê Yên Phụ xây biệt thự trái phép. Riêng ông Nguyễn Văn An, chủ tịch Quốc hội đã từng tham nhũng hàng tỷ đồng thời nắm chức Trưởng ban tổ chức Trung ương, đê tiện nhất là vừa làm chủ tịch ban bầu cử, lại vừa ra ứng cử.

Tóm lại, mỗi người một hoàn cảnh riêng nhưng cái chung đều nằm trong lòng bàn tay của TC2 hết. Khi vui trái ấu cũng tròn, khi TC2 nổi giận thì ông Khải, bà Hoa, ông Sang hay bất cứ UV Trung ương Đảng CSVN nào cũng có thể bị TC2 cho ngậm bồ hòn ngay lập tức.

Tình hình đấm đá nội bộ Đảng CSVN sẽ kéo dài cho đến khi phiá TC2 bị suy yếu vì nhiều lý do bất ngờ, hoặc vì chính nội bộ tự xâu xé nhau, hoặc phiá Lê Đức Anh không còn khả năng bảo kê cho TC2 nữa. Cả hai tình huống, nếu Công An và Chính phủ thoát ra vòng kiểm soát của TC2, hai bên sẽ phối hợp nhau tiêu diệt TC2. Trong bối cảnh đó, kẻ gieo gió sẽ bị gặt bão, mạng của bố con Nguyễn Chí Vịnh, Vũ Chính và đồng bọn chạy lên trời cũng không thoát khỏi lưới thù. Vì ý thức được tình trạng tối nguy hiểm của mình nên cha con Vũ Chính, Chí Vịnh và TC2 đã bằng mọi giá, “tiên hạ thủ vi cường”, ra tay trước với mọi thủ đoạn để triệt hạ hết vây cánh của Bộ Nội Vụ và Chính phủ.

Từ đây đến ĐHX sẽ còn lắm chuyện động trời, sẽ có UV tự nhiên đột tử, sẽ có lãnh đạo bị tố cáo tham nhũng, hủ hoá, quan hệ phản động, tình báo CIA..v.v…Dù thế nào thì cái ghế TBT rất khó lòng thoát ra khỏi ảnh hưởng của TC2, các UV có được lọt vô trong Bộ Chính Trị và Ban Thường vụ cũng sẽ không có những khuôn mặt mới nào sáng giá….nếu có thì không loại trừ khả năng những khuôn mặt này đã bị TC2 cấy sinh tử phù để làm phái khiển, để TC2 tiếp tục đứng trên đầu trên cổ Đảng CSVN.


(1) Nguyễn Khánh Toàn - Điện Thư 50, 51 - CLBDCVN
(2) Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch uỷ ban TƯ mặt trận tổ quốc VN.
(3) Trương Mỹ Hoa, Phó chủ tịch nước.

----- O -----

Trưng Cầu Dân Ý: Ý Đảng Hay Ý Dân ?

Nguyễn Quang Duy

Ngày 06/10/2005 vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa lên website bài “Trưng cầu ý dân là việc Đảng, Nhà nước biểu thị ý thức cầu thị chứ không phải là hình thức”. Bài viết này do hai nhà báo Mai Phương và Hoàng Vân phỏng vấn ông Phạm thế Duyệt, chủ tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam về Dự án luật Trưng Cầu Dân Ý (TCDY) và Dự án Luật Phòng Chống Tham Nhũng.

Trước đó ít lâu người viết cũng đã phổ biến trên điện báo Đối Thoại (http://www.doi-thoai.com) bài "Vận Động một Hiến Pháp cho Việt Nam", một phần bài viết được bàn đến việc TCDY. Do sự trùng hợp nêu trên, người viết xin góp một số ý về việc TCDY và quốc nạn tham nhũng.

Trưng cầu dân ý - chẳng gì là mới lạ

Trong kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội khóa I cuả nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chí Minh đã thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến, do HCM làm chủ tịch. Ngay sau đó, HCM lại bắt liên lạc với Pháp. Ngày 6/3/1946, tại Đà Lạt, HCM đã ký thỏa ước với Pháp, chấp nhận Việt Nam đứng trong Liên Hiệp Pháp. Theo thoả ước này, bằng cách thức TCDY, người miền Nam sẽ được quyền quyết định có muốn thống nhất với Trung và Bắc phần hay không.

Đến cuối tháng 5/1946 HCM cùng một phái đòan đã sang Pháp tham dự Hội nghị Fountainebleau thu xếp vai trò Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp. Chương trình nghị sự cuả Hội Nghị gồm 4 điểm. Mà điểm thứ nhất là việc thống nhất đất nước. Hội Nghị cũng đã đồng ý sẽ có một cuộc TCDY tại Nam phần về vấn đề này. Vào ngày 19/12/1946, trước khi tuyên bố rút vào chiến khu, kháng Pháp, HCM đã nhắc lại việc này trong lời kêu gọi gởi Liên Hiệp Quốc, nhằm tố cáo Pháp vi phạm các thoả ước đã ký kết với Việt Nam.

Toàn dân phúc quyết hay trưng cầu dân ý cũng đã được nêu rõ trong Hiến Pháp 1946 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã được Quốc Hội khóa I thông qua vào ngày 9/11/1946.

Điều thứ 21 "Nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo điều thứ 32 và 70."
Điều thứ 32 "Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý."
Điều thứ 70 "Sửa đổi hiến pháp phải theo những cách thức sau đây: a/ Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu. b/ Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những thay đổi. c/ Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra tòan dân phúc quyết."

Ngày 23/10/1955, tại miền Nam dưới thời thủ tướng Ngô Đình Diệm một cuộc TCDY đã được tổ chức. Người dân miền Nam đã được quyết định chọn nền Cộng Hòa thay vì tiếp tục thể chế Quân chủ. Và Quốc trưởng Bảo Đại đã tôn trọng ý dân để nền Đệ Nhất Cộng Hoà ra đời. Cũng như trong cách mạng tháng Tám vua Bảo Đại đã chỉ: " muốn làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ". Một chí khí khác hẳn các người cầm quyền Việt Nam sau này.

Vài sự kiện kể trên chứng tỏ lời ông Phạm thế Duyệt : "Trưng cầu ý dân ở các nước khác đã được nói đến nhiều, nhưng ở nước ta thì cụm từ này vẫn còn khá xa lạ." là thiếu trung thực. Chỉ khi đã nắm được quyền hành ĐCS đã soạn và ban hành một Hiến Pháp mới đề cao vai trò của nó và cưỡng đoạt quyền làm chủ đất nước cuả người dân.

Phương Nam với đề nghị tái Trưng cầu dân ý

Trưng cầu dân ý đã được Phương Nam -Đỗ Nam Hải đề cập đến trong bài "Việt Nam Đất Nước Tôi" như một phương pháp để đo lường lòng dân về vai trò cuả ĐCS và nhu cầu làm chủ đất nước cuả mình.

Câu hỏi cần được trả lời là : Việt Nam nên hay không nên theo chế độ đa đảng? Nếu ai cho rằng nên có đa đảng thì ghi CÓ - còn nếu ai cho rằng không nên có đa đảng thì ghi KHÔNG.

Để tiến hành cuộc trưng cầu dân ý này, Phương Nam đã đề nghị:
1- giữ nguyên bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp hiện tại.
2- thành lập một Ủy Ban Quốc Gia Trưng Cầu Dân Ý. Ủy ban bao gồm mọi tầng lớp, giai cấp, sắc tộc, vùng, miền trong và ngoài nước.
3- nhiệm vụ cuả ủy ban này là xây dựng điều lệ, phương hướng hoạt động, nội dung và ý nghiã công việc. Thành lập các uỷ ban ở điạ phương và cơ sở.
4- từ đó vận động toàn dân tham gia và tiến hành trưng cầu dân ý.

Nếu kết quả đa số trả lời KHÔNG thì ĐCS sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước. Điều này minh chứng cho toàn dân và toàn thế giới, ý nguyện cuả đa số dân Việt là " Việt Nam theo thể chế Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý". Một thể chế được ghi rõ trong Hiến Pháp 1992. ĐCS sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước cho đến khi nào người dân thấy cần thiết là nên có một cuộc trưng cầu dân ý mới.

Nếu kết quả đa số trả lời CÓ thì ĐCS phải chấp nhận nguyện vọng cuả toàn dân. Theo Phương Nam khi đó hiến pháp hiện hành phải được Quốc Hội sửa đổi, bổ sung và thông qua những điểm liên quan, sao cho phù hợp với tình hình của đất nước để có nhiều đảng chính trị hoạt động trong tương lai. Người viết lại đề nghị đất nước chúng ta cần có một Hiến Pháp mới. Xin xem bài "Việt Nam Đất Nước Tôi" và bài "Vận Động một Hiến Pháp cho Việt Nam" để hiểu rõ hơn về các đề nghị nêu trên.

Phương Nam cũng đã nêu rõ :" Trong suốt 55 năm qua kể từ ngày 2/9/1945 đến nay, trước dân tộc, ĐCSVN vẫn luôn luôn là tự xướng danh chứ không chính danh! Nếu muốn chính danh thì ĐCS cần phải thắng trong một cuộc bầu cử tự do."

Phương Nam viết thêm: "Trong trường hợp xấu nhất nếu cuộc trưng cầu dân ý bị khước từ thì trước dân tộc ĐCSVN vẫn là không chính danh. Lúc ấy toàn bộ sự thật đã được bọc trần: những người nắm thực quyền trong ĐCSVN, do lo sợ thất bại trước một cuộc chơi công bằng nên đã khước từ nó, vì quyền lợi của bản thân và gia đình họ. Họ chỉ là số ít chứ không phải số nhiều. Họ vừa tự cô lập mình, vừa bị nhân dân Việt Nam cùng các lực lượng dân chủ trên thế giới ngày càng khép chặt vòng vây, để danh sách của họ ngắn lại và lộ dần ra. Họ là những người đã và đang ra sức tìm mọi cách, dù là tuyệt vọng để ngáng đường dân tộc muốn đi. Họ không có cơ sở để tồn tại cả về lý luận và thực tiễn, trừ súng đạn. Họ là phi nghĩa. Họ không nên nhắc lại câu nói cuả CT Hồ Chí Minh 40 năm về trước: 'Đảng ta là đạo đức là văn minh' nữa. Họ giống như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ở chỗ là cùng bán nước. Chỉ khác là những kẻ kia thì bán trọn gói một lần, còn họ thì tìm cách câu giờ, xé dần đất nước ra để bán lẻ mà thôi."

Phương Nam viết tiếp :"Dĩ nhiên họ không phải là tất cả hơn 2 triệu đảng viên cộng sản, cũng không phải là toàn bộ 170 UVTW đảng hiện nay; mà chỉ là một thiểu số bảo thủ nắm thực quyền cùng những kẻ bấu xấu, lươn lẹo, ăn theo, nói lẹo. Họ cần phải được vạch mặt chỉ tên, những người có lương tri hoặc công khai tố cáo, hoặc âm thầm sao chụp, lưu giữ những hồ sơ tội ác mà họ đã, đang và sẽ làm; để tương lai sẽ đưa ra xét xử công khai, đúng luật pháp... Và cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam mới của tòan dân, trong đó có rất nhiều những đảng viên cộng sản chân chính sẽ vẫn còn tiếp diễn cho đến khi nào đạt được thắng lợi cuối cùng mới thôi..."

Sáu mươi năm nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám.

Cách Mạng tháng Tám đã để lại cho hậu sinh hai tài sản tinh thần là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Hiến Pháp 1946.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã nói lên sự khao khát về tự do, về dân chủ, về quyền con người và mưu cầu hạnh phúc của tòan dân. Và xác định rõ ràng, độc lập chính là nhờ công lao của tòan dân.

Tòan Bản Tuyên Ngôn hoàn toàn không có một chữ nói đến vai trò hay quyền lãnh đạo đất nước của ĐCSVN. Vậy mà liên tục sáu mươi năm qua ĐCS càng ngày càng lộ rõ là một đảng cuả một thiểu số "thực dân nội địa". Đảng đã cướp đi mọi tự do, dân chủ, quyền con người và hạnh phúc của tòan dân. Ngược lại guồng máy đảng vẫn tiếp tục bẻ cong sự thật, tước đoạt công lao của toàn dân, lừa bịp các thế hệ hậu sinh,... về vai trò lãnh đạo của đảng.

Tài sản tinh thần thứ hai là Bản Hiến Pháp 1946. Trong bài "Vận Động Một Hiến Pháp Cho Việt Nam" người viết nêu rõ lịch sử hình thành, nội dung, vài ưu và khuyết, thủ tục thành lập Bản Hiến Pháp này. Đặc biệt là việc ĐCS đã cưỡng đọat quyền làm chủ đất nước và hủy bỏ Bản Hiến Pháp này một cách bất hợp hiến, bất hợp pháp. Ở đây chỉ xin nêu lại vài ý chính.

Hiến Pháp 1946 đã được xây dựng trên 3 nguyên tắc: đòan kết dân tộc, bảo đảm các quyền tự do dân chủ và xây dựng một nhà nước pháp trị. Về nội dung các quyền tự do dân chủ và quyền mưu cầu hạnh phúc của công dân được ghi thật rõ ràng minh bạch. Hiến Pháp này cũng không đề cập gì đến công trạng hay vai trò của ĐCS. Thêm vào đó Hiến Pháp này đã được một Quốc Hội hợp pháp, đa nguyên, đa đảng soạn thảo và thông qua. Sau tám mươi năm Pháp thuộc và ở vào thập niên 1940, phải nhìn nhận đây là một bản hiến pháp dân chủ.

Tuy nhiên, Hiến Pháp 1946 đã không đề ra một cơ quan có thẩm quyền giải thích hiến pháp, phán quyết về tính cách hợp hiến hay bất hợp hiến cuả các đaọ luật, sắc luật, sắc lệnh, nghị quyết và quyết định hành chánh. Để dẫn đến tình trạng ĐCS sử dụng và hủy bỏ Hiến Pháp này một cách tùy tiện chỉ nhằm mục đích phục vụ mưu đồ chính trị cuả họ.

Khuyết điểm nặng nề nhất của Bản Hiến Pháp này là một mặt điều thứ 49 đã cho phép chủ tịch nước những quyền hạn tối cao, quyền lực tối thượng. Mặt khác Hiến Pháp 1946 lại có thêm điều thứ 50 hết sức phi lý "Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc." Điều khoản này đã mâu thuẫn với các điều khoản khác như điều thứ 7 "Tất cả mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, ..." Điều khoản này quả đúng đặt chủ tịch lên trên cả hiến pháp hay luật pháp quốc gia.

Ngày 18/12/1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc Hội khoá I, Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1946. Ngày 31/12/1959, quốc hội đã đồng ý thông qua hiến pháp sửa đổi. Và ngày 1/1/1960, HCM đã ký sắc lệnh công bố Hiến Pháp 1959. Đây là một việc làm vi phạm hiến pháp 1946. Vì đã không làm đúng cách thức sửa đổi Hiến Pháp như điều thứ 70 đã nêu rõ "Sửa đổi hiến pháp phải theo những cách thức sau đây: ... c/ Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra tòan dân phúc quyết." Như vậy các Hiến Pháp 1959, 1980 và 1992, chẳng qua chỉ là những cương lĩnh của ĐCS vì đã không được "tòan dân phúc quyết".

Qua Đài Á Châu Tự do, Luật sư Trần Thanh Hiệp đã nhấn mạnh Hiến Pháp 1946 là một đạo luật không được ban hành. Ban hành hiến pháp là một thủ tục luật pháp để xác nhận rằng hiến pháp này đã được biểu quyết một cách hợp lệ. Hiến pháp này sẽ có hiệu lực từ lúc được ban hành và mọi người phải tuân theo. Theo ông quyền lập hiến hay quyền soạn thảo Hiến Pháp cuả người dân đã bị ĐCS sang đoạt qua Hiến Pháp 1946 và bị chiếm đoạt trong các hiến pháp sau này.

Qua việc nghiên cứu Hiến Pháp 1946, người viết đã phát hiện thêm mặt trái về con người của Hồ Chí Minh. Một mặt khi chưa cầm quyền HCM đã hết sức tuyên truyền cho việc ban hành một bản hiến pháp dân chủ cho Việt Nam. Khi nắm được chính quyền, HCM vận động để vừa làm chủ tịch nước lại vừa chủ trì Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp. Với kết qủa là Hiến pháp 1946 đã cho HCM một quyền uy tối thượng "không phải chịu một trách nhiệm nào". Quyền uy này đã vượt trên cả hiến pháp, luật pháp quốc gia.

HCM làm việc này không ngoài mục đích sửa soạn cho cả một guồng máy chuyên chính thần thánh hoá lãnh tụ đảng và sưả soạn cho lãnh tụ đảng trở thành nhà độc tài trong một thể chế chuyên chính toàn trị. Thế mà HCM chưa thoả mãn để ban hành Hiến Pháp 1946. HCM chỉ ký sắc lệnh ban hành cương lĩnh 1959 cuả ĐCS lấy "chuyên chính bạo lực" làm "công lý" đưa cả dân tộc vào con đường mòn đầy chông gai chưa rõ lối ra.

Tham nhũng là nền tảng cuả chế độ cộng sản

Tham nhũng là sử dụng quyền lực, quyền uy, bạo lực để chiếm đoạt vật chất, thể xác hay tinh thần cuả người khác, cuả tập thể hay cuả xã hội.

Đến đây ta có thể thấy rõ rằng những vụ tham nhũng lớn nhất trong lịch sử dân tộc đã được đảng cộng sản thực hiện qua việc cướp công dành độc lập của toàn dân, sang đoạt quyền soạn thảo và ban hành Hiến Pháp 1946, rồi chiếm đọat luôn quyền bổ sung và sửa đổi. Khi đã nắm được quyền hành, ĐCS đã dùng bạo lực để cưỡng đoạt hòan tòan quyền làm chủ đất nước cuả người dân.

Khi mà ĐCS đã trở thành một đảng độc nhất cầm quyền. Tất cả những đặc quyền và đặc lợi, về kinh tế, tài nguyên, đất đai, y tế, giáo dục ..., đều được đặt dưới sự kiểm soát và quản lý cuả ĐCS. Lẽ dĩ nhiên ĐCS sẽ bổ nhiệm những người trung thành với đảng với lãnh tụ đảng vào những chức vụ có quyền, có lợi . Hậu qủa là các hoạt động chính trị bao che, bè phái, lên cao thì ràng buộc gia đình, dòng họ, bạn bè, ... Dẫn đến tình trạng sứ quân như hiện nay tại Việt Nam. Như vậy, tham nhũng chẳng qua chỉ là một sự phân phối các phúc lợi tập thể, các tài sản quốc gia,... giữa một số các đảng viên với nhau. Và cũng không ngoài mục đích bảo vệ lẫn nhau hay bảo vệ đảng.

Sau sáu mươi năm dưới sự lãnh đạo cuả ĐCS, tham nhũng đã trở thành một quốc nạn. Tham nhũng đã tràn lan khắp các hạ tầng cơ sở. Tham nhũng đã dẫn đến khủng hoảng giáo dục, khủng hoảng xã hội, suy đồi đạo đức, hủy hoại nhân tâm,... và phá hủy cả nền văn hóa dân tộc. Lấy văn hóa "bao bì" làm một thí dụ cụ thể. Khi mà những người có bằng cấp và điạ vị trong xã hội, tổ chức hay tham gia các hội nghị 'khoa học" không ngoài mục đích phân phối các bao bì.

Ông Phạm thế Duyệt, hay vừa rồi ông Võ văn Kiệt, chỉ quy trách nhiệm đến người quản lý (bộ trưởng, thứ trưởng, ..., nhân viên nhà nước), chẳng qua là chỉ nhằm che đậy bản chất và đường lối sai trái cuả người lãnh đạo (ĐCS). Nguy hại hơn đảng và nhà nước lại là một.

Luật pháp và tham nhũng

Dưới chế độ cộng sản, hiến pháp và luật pháp được soạn ra và ban hành không ngoài nhu cầu phục vụ và bảo vệ quyền lợi cuả ĐCS. Một chế độ mà người soạn luật, người ra lệnh bắt giam, khởi tố cũng chính là người nắm quyền kết án và thi hành án. Hành pháp, lập pháp và tư pháp là một. Các cơ quan điều tra, xét xử và trừng phạt cũng là một. Và tất cả đều dưới sự lãnh đạo cuả ĐCS.

Đó mới đúng lý do cho vấn đề "Chúng ta đã đề ra nhiều biện pháp chống tham nhũng, nhưng những biện pháp này mới chỉ được thực hiện một cách hình thức, nửa vời." mà Mai Phương – Hoàng Vân (hai nhà báo) đã đặt ra cho ông Phạm thế Duyệt.

Tham nhũng "tư duy"

Theo ông Phạm thế Duyệt: "Khi trưng cầu ý dân trước hết phải dựa vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận." Một sự thực là MTTQVN là một tổ chức ngoại vi cuả ĐCS và chức vụ chủ tịch cuả ông cũng chỉ là một chức vụ đảng trao. Ông Võ văn Kiệt khá hơn ông Duyệt một điểm. Ông đã sử dụng thông tin hải ngoại để chuyển vào trong nước tình trạng phi dân chủ trong sinh hoạt cuả ĐCSVN. Để kêu gọi đảng cần dân chủ hoá nội bộ hay sẽ bị cáo chung.

Ông còn tuyên bố : "Đảng chịu trách nhiệm về vận mệnh đất nước. Cho nên, bước đi, cách làm của Đảng còn phải phù hợp với tình hình, chứ không phải mọi cái nhân dân góp ý, là bắt buộc Đảng và Nhà nước phải thực hiện như thế." hay ông đã nói "Trưng cầu ý dân là Đảng và Nhà nước biểu thị một ý thức cầu thị, chứ không phải là hình thức. Khi dân nói đúng, thì phải tiếp thu. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận vấn đề một cách thấu đáo, khi dân góp ý đúng, nhưng chưa bước vận dụng, vấn đề này đừng nên nghĩ một cách đơn giản." Những câu trả lời cuả ông đã bộc lộ tình trạng phi dân chủ nghiêm trọng tại Việt Nam. Người viết xin được dịch ý như sau :"Dân nói thì đúng. Nhưng đảng là trí tuệ. Đảng là lãnh đạo. Dân phải nghe đảng. Đảng nói dân phải làm. Sao đảng phải nghe dân?"

Ông còn nói thêm :"Dân chủ của ta là dân chủ thực sự, nhưng làm tốt được đến đâu, đó là đích chúng ta phải phấn đấu. Nhưng ý thức của Đảng, của Quốc hội, của Nhà nước, của những người lãnh đạo đều muốn đi đúng và trúng vào nguyện vọng của dân, phục vụ cho dân." Có thể rằng ông Duyệt chưa hiểu được lời tuyên bố cuả ông biểu hiện tham nhũng "tư duy ".

Tham nhũng tư duy là dùng quyền hạn cưỡng bức người khác, tập thể hay xã hội phải tin theo "chân lý" đã được đảng đề ra. Sáu chục năm qua ĐCS đã luôn luôn sử dụng quyền hành đã cướp được cuả dân để bắt dân phải chấp nhận, phải ca tụng các đường lối đúng đắn, phục vụ nhân dân cuả đảng.

Vận động Trưng Cầu Dân Ý và một Hiến Pháp mới cho Việt Nam

Ông Duyệt cũng đã nhận xét "... việc trưng cầu ý dân sẽ là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bất cứ việc gì quan trọng đều phải đưa ra để lấy ý kiến của nhân dân. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền làm chủ của dân, phát huy dân chủ trong dân. Tôi thấy làm được điều này là rất tốt!". Nếu chỉ nghe nhận xét này cuả ông thì người viết tin rằng chỉ có ĐCS mới không đồng ý với ông.

Nhận xét trên cũng đồng nghiã với việc ĐCS cần trao trả quyền làm chủ đất nước lại cho người dân. Rồi chính người dân sẽ tìm phương cách để giải quyết quốc nạn tham nhũng, khủng hoảng giáo dục, khủng hoảng xã hội... do ĐCS đã và đang gây ra.

Những ngày vừa qua một sự kiện được đại chúng chú ý là việc các luật sư trong Luật Sư Đoàn Hà Nội đã thành công trong việc chọn lưạ các đaị biểu không qua việc thu xếp của ĐCS. Luật sư chủ nhiệm Phạm hồng Hải lại tuyên bố sẽ đẩy mạnh đâú tranh bảo vệ công lý và quyền con người.

Tại Hà Nội, ông Nguyễn chính Trực đã gởi một lá thơ chúc mừng đến luật sư chủ nhiệm Phạm hồng Hải. Trong thơ ông đã viết :"Những luật sư trong mắt người dân luôn luôn là một tầng lớp trí thức được qúy trọng; Trong giới trí thức có người nói luật sư chân chính là những "Trí thức của các trí thức."; Đối với giới trẻ Việt Nam không phải ít người mơ mình sẽ trở thành một luật sư. Vì thế, người luật sư trước hết phải nhiệt khuyết với nghề, có trí tuệ, có bản lãnh độc lập nghề nghiệp cần thiết, tôn trọng lẽ phải và cuối cùng là phải tự đứng trên đôi chân của mình chứ không phải bằng "bệ đỡ". Bệ đỡ và cơ cấu ... chỉ là mảnh đất dung thân cho những người bất tài nhưng tham vọng. Thử hỏi, người luật sư hoặc Đoàn luật sư mà không có bản lĩnh để tự khẳng định và quyết định được chính bản thân mình thì bảo vệ được ai? Đó chính là cái đáng được kính trọng đối với tập thể Đoàn luật sư Hà Nội và đối với qúy vị đã được tín nhiệm!" Người viết trích lời cuả ông Trực với một sự đồng cảm. Và đặc biệt người viết trân quý kiến thức chuyên môn cuả các luật gia trong hoàn cảnh Việt Nam cần hội nhập lại với Cộng đồng thế giới.

Bài phỏng vấn ông Phạm thế Duyệt kể trên đã được thực hiên nhân dịp Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa ra Nghị quyết giao cho Hội Luật gia Việt Nam chủ trì nghiên cứu, xây dựng Luật Trưng cầu dân ý. Và Hội luật gia đang tiến hành các bước chuẩn bị cho việc soạn thảo Dự án Luật này. Khi biết được việc trên người viết xin gởi đến Hội Luật Gia Việt Nam bài viết này và bài "Vận Động một Hiến Pháp cho Việt Nam" như những góp ý cho công trình mà Hội đang tiến hành.

Trước khi chấp dứt bài viết, người viết rất mong mọi người ủng hộ đề nghị về một cuộc TCDY với câu hỏi cần được trả lời là : Việt Nam nên hay không nên theo chế độ đa đảng?.

Đề nghị của Phương Nam nhắc chúng ta trưng cầu dân ý đã được chấp nhận trong Hiến Pháp 1946. Hiến Pháp lại là một bộ luật tối cao ghi rõ các quyền và nghĩa vụ cuả người công dân cũng như của nhà nước. Điều thứ 4 của Hiến Pháp 1946 đã ghi rõ: "Mỗi công dân Việt Nam phải - bảo vệ tổ quốc -tôn trọng Hiến Pháp -tuân theo luật pháp."

Theo người viết đề nghị này là một đề nghị rất nhân bản, tràn đầy tình tự dân tộc. Nếu đa số chấp nhận sự toàn trị của ĐCS thì đảng sẽ chính danh với toàn thế giới. Nếu đa số không chấp nhận sự toàn trị cuả ĐCS, và nếu ĐCS chấp nhận, thì điều này cũng đồng nghiã với việc toàn dân sẽ đại ân xá các tội ác mà ĐCS và nhiều đảng viên ĐCS đã liên tục gây ra trong sáu chục năm qua. Và cũng để tránh một cuộc cách mạng sẽ xảy ra trong một tương lai gần dẫn đến sự cáo chung của ĐCS./.


Tài Liệu Tham Khảo
- Mai Phương – Hoàng Vân, “Trưng cầu ý dân là việc Đảng, Nhà nước biểu thị ý thức cầu thị chứ không phải là hình thức”
- Nguyễn An thực hiện "RFA Phỏng Vấn LS Trần Thanh Hiệp: Hiến Pháp Việt Nam"
- Nguyễn Chính Trực, "Thơ Chúc Mừng Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội"
- Nguyễn Trần Bạt, "Tham nhũng và tham nhũng tinh thần", Thời báo Kinh tế Sài Gòn
- Phương Nam, "Việt Nam Đất Nước Tôi"

----- O -----

Quần Chúng Lãnh đạo Đảng

TH

Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó, quanh năm đi làm thuê cho địa chủ, thế rồi trở thành tá điền lĩnh canh nộp tô cho địa chủ, sống một phần đời của kiếp người làm thuê, cày sâu cuốc bẫm, một nắng hai sơng. Cách mạng tháng 8 thành công, mừng vui khôn xiết, ngỡ tưởng cuộc đời sẽ lên tiên, không có áp bức, không có bóc lột, mình sẽ được làm chủ cuộc đời mình, làm chủ đất nớc mình. Xây dựng một đất nước XHCN tốt đẹp như thiên đờng nơi hạ giới. Tin tưởng bao nhiêu, hy vọng bao nhiêu, bây giờ lại hẫng hụt bấy nhiêu.

Vốn là một tá điền, làm gì mà được học hành, đi bình dân học vụ - bổ túc văn hoá bất quá cũng chỉ để biết đọc biết viết, biết chữ ký mà thôi! Trình độ văn hoá thấp kém nên đành cam phận chỉ biết nghe, biết nhìn còn viết lách thì khó quá! Nhưng trời lại cho có đôi tai, đôi mắt, biết nhìn cái xấu cái đẹp, biết phân biệt màu sắc đâu là bôi đen, đâu là tô hồng, đâu là của thật, đâu là của giả. Biết nghe lời nói thật và phân biệt đâu là bịp bợm dối trá, đâu là lời mỵ dân.

Chính vì thế tôi thiết nghĩ: từ ngày có Đảng cộng sản cánh chúng tôi được xếp vào loại quần chúng. Từ đó xã hội Việt Nam có hai lớp người: một lớp Đảng viên, Đảng cộng sản khoảng 2 triệu người. Còn lớp quần chúng khoảng 75 triệu. Theo lý thuyết “Đảng lãnh đạo tuyệt đối” thì 2 triệu người Đảng viên lãnh đạo 75 triệu quần chúng.

Điều đó cũng chẳng sao, chúng tôi xin chấp nhận và phục tùng. Nhưng nếu gọi tầng lớp chúng tôi là quần chúng có lẽ oan uổng quá.

Theo tôi từ quần chúng có lẽ có hàm ý miệt thị. Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học, nhưng từ quần chúng để chỉ một lũ người kém cỏi, hèn mọn, dốt nát, ngu đần như những tên nô lệ thời trung cổ. Tại sao không gọi là nhân dân. Dù sao từ nhân dân cũng có vẻ được tôn trọng hơn đúng với vị thế của chúng tôi hơn (quân vi khinh - dân vi quý). Có lẽ chỉ từ khi có Đảng cộng sản - Đảng quá coi trọng mình, đề cao mình nên mới có ý khinh các tầng lớp khác!

Nhưng thực tế hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ là do công sức của toàn dân, chứ đâu chỉ có 2 triệu Đảng viên mà làm được việc ấy, thế mà nỡ lòng nào gọi 75 triệu người chúng tôi là quần chúng! Vả lại trong quần chúng cũng có nhiều người giỏi dang như ông Tôn Thất Tùng, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Đình Dụ và hàng triệu nhà khoa học, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà điện ảnh, nhà thơ, nhạc sĩ, thầy thuốc, họa sỹ, trong số quần chúng ấy có cả ông Lê Đức Anh.

Ông Lê Đức Anh không phải là Đảng viên mà là Bộ trưởng quốc phòng lãnh đạo cả quận uỷ Trung ương, lãnh đạo hàng trăm ông tướng - lãnh đạo hàng trăm nghìn ông tá, lãnh đạo hàng triệu binh lính nam chinh bắc chiến tung hoành ở Campuchia, dân Khơme sợ hết hồn.

Hậu quả từ nay mãi mãi về sau người Campuchia nhìn người Việt Nam với con mắt hận thù sâu sắc.

Chưa hết, ông Lê Đức Anh còn làm Chủ tịch nước, lãnh đạo một nước cộng sản có gần 80 triệu dân, là một nước tương đối lớn ở thế giới đâu có phải chuyện đùa. Vẫn chưa hết, ông còn là uỷ viên Bộ Chính trị, ở các nước cộng sản thì UV Bộ Chính trị là to nhất, thời phong kiến chỉ có một ông vua, gọi cho oai hơn là một ông hoàng đế (Hoàng đế Napoléon - Hoàng đế nhà Thanh v.v) nhưng ở nước ta thời cộng sản - XHCN thì có hẳn một tập thể hoàng đế. Ông Lê Đức Anh là một trong tập thể đó.

Như thế rõ ràng quần chúng cũng có nhiều người giỏi ra phết. Tổng cục 2 dưới quyền ông còn theo dõi tất cả các quan chức chóp bu của Nhà nước. Bao nhiêu tướng lãnh quân đội, công an, kể cả Thủ tướng Bộ trởng cũng nằm trong tầm ngắm của ông, thử hỏi quần chúng như vậy ai dám coi thường.

Tôi lấy tên bài là quần chúng lãnh đạo Đảng chắc không sai, ngẫm về quá khứ trong 12 nước XHCN cũ chỉ có Việt Nam là có đặc thù riêng như vậy! 11 nước kia đố làm được như vậy. Có lẽ Ban TT VHTƯ nên yêu cầu hội đồng lý luận Trung ương thai nghén một thứ lý luận “mua lợn rồi mới đan dọ” đặc thù của Việt Nam, chỉ có Đảng ta mới có sáng tạo như vậy.

Nếu hội đồng lý luận để được cái gọi là “cơ chế thị trường theo định hướng XHCN” thì nhất định cũng sẽ thai nghén được cái cơ chế “quần chúng lãnh đạo Đảng - quần chúng lãnh đạo quân đội, quần chúng lãnh đạo đất nước”. Dù muốn hay không thì nó cũng xảy ra rồi, hội đồng lý luận Trung ương và Ban TT VHTƯ chỉ cần gọt nặn, nhào lộn, uốn éo, rào đón như cụ Đào Duy Quát vẫn thao diễn trên ti vi nhất định “dọ sẽ vừa lợn”.

Nhân đây cũng xin thưa ngài tổng bí thư ĐCSVN. Liệu có nên để Ban TT VHTƯ tồn tại ?

Thứ nhất: Nếu để Ban TT VHTƯ tồn tại sẽ mâu thuẫn với luật là tự do báo chí, tự do tư tưởng.v.v. Mà đã tự do báo chí, tự do tư tưởng thì để tồn tại Ban TT VHTƯ làm gì vừa mâu thuẫn, vừa lãng phí.
Thứ hai: Tư tưởng là sản phẩm của nơron thần kinh, của não bộ, não bộ chỉ đạo cái mắt nhìn, cái tai nghe, cái mồm nói thế thì Ban TT VHTƯ quản lý sao nổi.
Thứ ba: Ban TT VHTƯ thực chất là cai tù của tư duy, cai tù của trí tuệ, cai tù của tư tưởng.v.v

Nhưng tư duy, trí tuệ, tư tưởng lại là tài sản vô hình mà tạo hoá đã ban cho con người làm sao mà các ông quản lý được! Chả thế mà ông Vũ Ngọc Nhạ là một ông cộng sản lớn mà vào dinh độc lập làm việc với mấy đời tổng thống nguỵ suốt hàng chục năm trời! Mỹ dù có văn minh, có bao nhiêu máy móc hiện đại đến mấy cũng không phát hiện được. Chả thế mà ban TT VHTƯ đâu có phát hiện ra ông Lê Đức Anh là quần chúng lãnh đạo Đảng. Có phải thế không ?

Nếu tôi không nhầm thì chỉ có các nước cộng sản mới có Ban TT VHTƯ còn bọn đế quốc làm gì có cái cơ quan này! Tuy nhiên theo tôi muốn uốn nắn tư tưởng cũng không khó! Cụ Hồ đã dạy người cán bộ phải thực chất là công bộc của dân, nghĩa là làm việc cho dân, phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho dân hướng dẫn uốn nắn dân làm đúng pháp luật. Dân sẽ tin cán bộ, quý trọng cán bộ, nể phục cán bộ, dân sẽ đóng góp nuôi cán bộ. Ông Putin nói “Tôi chỉ là người làm thuê cho dân” thật đẹp biết bao!.

Nếu cán bộ ức hiếp quần chúng, vơ vét tham lam, tham nhũng tràn lan, cướp nhà cướp đất, cướp vợ quần chúng, hiếp dâm trẻ em mà Đảng lại dung túng, pháp luật lại bao che, cấm đoán báo chí đưa tin, đe doạ thông tin đại chúng thì dân phải tức phải nói, phải viết thử hỏi Ban TT VHTƯ cấm sao hết được!

Cổ nhân có câu “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Trước hết phải xem lại mình đã. Nếu đạo đức tha hoá truỵ lạc, suy đồi mà cứ bắt người ta phải ca tụng, phải kính phục, phải xưng tụng thì e rằng khó đấy. Nhân đây cho phép tôi được đề nghị:

Sau nửa năm, sau một năm kể từ khi kết thúc phong trào “Tìm hiểu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh” Ban TT VHTƯ nên tổng kết xem đã kìm chế được bao nhiêu vụ tham nhũng, đạt bao nhiêu phần trăm ? bao nhiêu cán bộ công chức làm theo tư tưởng của bác đạt bao nhiêu phần trăm ? các cơ quan hành pháp đã giải quyết bao nhiêu vụ tham nhũng, tham ô đạt bao nhiêu phần năm ? cơ quan hành chính sự nghiệp nhất là ngành địa chính số mẫn cán, trong sạch đạt bao nhiêu phần trăm ? So với khi chưa có phong trào học tập làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì tiến bộ được bao nhiêu ? Hiệu quả thế nào ? Có thế, Bác mới có thể ngậm cười nơi tiên cảnh. Nếu không thì Bác sẽ ân hận vô cùng, lũ con cháu đem Bác ra làm bình phong để hại dân hại nước!

Thưa độc giả tôi đã nói trước, tôi không được học hành, đọc còn chưa hiểu nói gì đến viết. Nhưng tôi chợt nghĩ ra đề tài “Quần chúng lãnh đạo Đảng” tôi cho là hay quá nên cũng liều viết, câu cú văn phong, kết cấu bố cục lủng củng xin rộng lòng tha thứ. Tôi thành thực cảm ơn!

Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam

Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam