VuotQuaViet_Kp_DarkGreen_Logo_212x80
acrobat  📂  🏠   
Lãnh đạo
Độc tôn !

Hồ Chinh Minh và các bạn tình

Vượt qua Việt: ông Hồ Chinh Minh có rất nhiều bạn tình, người vợ chính thức duy nhất của ông này là bà Tăng Tuyết Minh; còn những người khác, có thể gọi là nàng hầu, đào nhí ... gì đó. Một số đã được kiểm chứng (Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Thị Minh Khai, Nông Thị Xuân), một số khác không rõ thế nào. Chính sách sùng bái lãnh tụ và bưng bít thông tin tạo nên tình trạng này; do đó chúng tôi thấy cần phải ghi chép lại những sự kiện có tính khả tín cao; để mọi người có thể tự kiểm nghiệm. Chúng tôi làm việc của người chép sử. Cần lưu ý về vụ án bà Nông Thị Xuân; đây là một sự kiện có hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, ảnh hưởng tới vận mệnh của dân tộc ta. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong 1 bài viết khác.

📂 🏠 

BBC 08 Tháng 8 2005 - Cập nhật 10h44 GMT - bbc.com

Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh

Một trong những nhà sử học nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông Trần Quốc Vượng, đã qua đời, thọ 71 tuổi.


Hình chụp một trang của cuốn Ngục Trung Nhật Ky

Tin từ Việt Nam cho biết giáo sư Trần Quốc Vượng đã nằm viện một tháng nay vì căn bệnh ung thư thực quản.

Ông qua đời vào lúc 2h55 sáng nay.

Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng 12-8 ở Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, Hà Nội.

Là tác giả của hàng chục đầu sách và nhiều bài viết, từ nhiều thập niên qua, ông được xem là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu.

Nghe phỏng vấn với giáo sư Trần Quốc Vượng năm 2003

Một trong những bài viết gần đây của ông, ''Hà Nam quê tôi'', có thể đọc bằng cách bấm vào link bên phải.

Một bài viết khác liên quan chủ đề lịch sử khi ra đời năm 1993 đã gây ý kiến trái chiều.

Đó là "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", in trong quyển Trong Cõi (NXB Trăm Hoa, California, 1993). Đây là tập hợp một số tiểu luận của giáo sư Trần Quốc Vượng sau chuyến đi công tác ở Hoa Kỳ.

Chủ đề chính của bài là thông qua những kinh nghiệm hỏi chuyện dân gian, người ta có thể biết những điều mà sách vở không nhắc đến.

Theo tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử."

"Nói theo kiểu Pháp, những điều tôi cố gắng ghi lại một cách trung thực qua công tác điền dã dưới đây là Thật mà không chắc là Thực."

Dưới đây là trích đoạn phần cuối của tiểu luận của Trần Quốc Vượng:

Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.

Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là "lan truyền" (de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cu. Hồ. Một cái sợ vô nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai, đã được phiên dịch ra tiếng Việt, ở xã hội "xã hội chủ nghĩa", cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".

Nhưng đây không phải là chuyện cu. Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cu. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cu. Hồ, cu. Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.

Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.

Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".

Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...

Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".

Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.

Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).

Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".

Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.

May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.

Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.

Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.

Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.

Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.

Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.

Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.

Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.

Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa.

Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.

Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.

Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?

Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...

Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.

Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.

Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.

Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).

Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.

Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.

Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.

Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".

Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?

Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê.

Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý".

Trần Quốc Vượng

🔝

This entry was posted on Tháng Chín 6, 2017, in nghiencuulichsu.com - permalink.

Tăng Tuyết Minh- Người vợ Trung Hoa của Hồ Chí Minh

Nguyên tác của Từ Song Minh

Nguyễn Duy Chính dịch và giới thiệu

Lời nói đầu: Theo điện thư của một bằng hữu, chúng tôi đọc được một bài báo trong Võ Hán Văn Sử Tư Liệu (武漢文史資料) [số 99 ra tháng 1 năm 2001], nguyên tác của Từ Song Minh (徐雙明) do Khổng Khả Lập (孔可立) trích lại trên http://viet.com.cn/zeng_xueming.htm viết về cuộc đời bà Tăng Tuyết Minh (曾雪明), người vợ Trung Hoa của Hồ Chí Minh.

Tác giả của bài báo này có liên hệ gia tộc, vợ ông ta gọi bà Tăng Tuyết Minh là bà cô. Tăng Tuyết Minh là em út (cùng cha khác mẹ) của Tăng Cẩm Tương, ông nội của vợ Từ Song Minh. Để có thêm một số chi tiết về cuộc đời bí mật của người lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam, chúng tôi lược dịch những điểm chính. Bài viết nguyên thủy có chỗ không được minh bạch lắm, chúng tôi cố gắng sắp xếp lại cho rõ ràng hơn. Nguyên tác vốn từ Võ Hán nên quan điểm chính trị rập theo đường lối Hoa lục. Phần viết về tiểu sử và văn thơ của Hồ Chí Minh chúng tôi cắt bỏ vì thấy không cần thiết. Những chữ trong ngoặc vuông là của người dịch phụ thêm.

… Nhạc phụ tôi [Từ Song Minh] là Tăng Trụ Vân (曾柱雲) sinh năm 1906 tại Quảng Châu, mất năm 1994 tại Vũ Hán, lúc sinh tiền làm kỹ sư trưởng tại phòng thanh tra số 4, cục đường sắt. Thân phụ của ông tên là Tăng Cẩm Tương (曾錦湘), sinh năm Canh Dần đời Thanh Quang Tự thứ 6 (1880). Cụ Tăng Cẩm Tương có 10 anh chị em, người em gái út lấy Lý Thụy (李瑞) là thông dịch viên người Việt Nam của Bào La Đình (鮑羅廷) [tức Mikhail Markovich Borodin], cố vấn chính trị của Tôn Trung Sơn [tức Tôn Dật Tiên]. Lý Thụy chính là chủ tịch Hồ Chí Minh, người khai sáng ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau này.

Cha của Tăng Tuyết Minh (曾雪明) là Tăng Khai Hoa (曾開華) từng nhiều phen sang buôn bán tại Đàn Hương Sơn [tức Honolulu, Hawaii], Mỹ Quốc và đã cải đạo trở thành một gia đình Cơ Đốc giáo thuần thành, đời sống chân chỉ, lương thiện. Tăng Khai Hoa bình sinh có hai đời vợ, người vợ trước họ Phan sinh được hai trai, một gái, sau bị bệnh qua đời. Tăng Cẩm Tương là con trai thứ [của bà vợ cả]. Người vợ thứ hai họ Lương, sinh được 7 người con gái, người con út là Tăng Tuyết Minh.

Tăng Tuyết Minh (曾雪明) sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán người trấn Tông Khẩu (鬆口), Mai Huyện (梅縣), tỉnh Quảng Đông.

Từ năm 1912 đến năm 1917 [tức 7 đến 12 tuổi] bà theo học một trường tư tại Quảng Châu bao gồm trường tiểu học Chân Quang và trường Quốc Dân 14. Năm 1915, khi Tăng Tuyết Minh 10 tuổi thì phụ thân Tăng Khai Hoa qua đời tại Hương Cảng [Hongkong], thọ 76 tuổi [như vậy ông Tăng Khai Hoa sinh năm 1829].

Từ năm 1918 đến năm 1921 [13 đến 16 tuổi], Tăng Tuyết Minh theo học làm cô mụ [đỡ đẻ, nguyên văn trợ sản sĩ 助產士] tại một y viện của người chị là Tăng Tuyết Thanh (曾雪清) mở ra ở đường Mễ Thị, Quảng Châu.

Từ năm 1921 đến năm 1923 [16 đến 18 tuổi], cô làm y tá cho viện dục anh Đông Sơn của bà Tăng Tuyết Thanh. Năm 1923, bà Tuyết Thanh giúp đỡ cho Tuyết Minh đến học trung học tại Phiên Ngung nhưng tháng 6 năm sau, bà chị chẳng may qua đời nên Tuyết Minh phải chuyển qua học nghề tại bảo sanh viện Quảng Châu.

Năm 1925, cô tốt nghiệp được viên hiệu trưởng bảo sanh học hiệu là Hoàng Ngọc Anh (黃玉英) cho làm cô mụ tại y viện La Tú Vân (羅秀雲) tại Quảng Châu, khi đó Tăng Tuyết Minh vừa đúng 20 tuổi.

Vào thời kỳ đó, Quảng Châu đang là trung tâm của làn sóng cách mạng. Hà Hương Ngưng (何香凝), Đặng Dĩnh Siêu (鄧穎超), Sái Sướng (蔡暢) đều ở Quảng Châu tiến hành vận động phụ nữ. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, Tăng Tuyết Minh thường đến nghe diễn thuyết về vận động phụ nữ và tham gia hoạt động, làm quen và kết thân với Đặng Dĩnh Siêu [vợ Chu Ân Lai], Sái Sướng.

Về phần Hồ Chí Minh, sau khi tốt nghiệp Đông Phương đại học Mạc Tư Khoa, ông được Cộng Sản quốc tế gửi theo làm phiên dịch cho phái bộ Liên Xô [do Borodin cầm đầu] được Mạc Tư Khoa gửi sang Trung Quốc làm cố vấn. Ông Hồ đến Quảng Châu tháng 11 năm 1924, dưới bí danh là Lý Thụy.

Một ngày năm 1925, Tăng Tuyết Minh đến thăm Sái Sướng để thực tập huấn luyện về vận động phụ nữ, khi từ trên lầu đi xuống thì gặp Lý Thụy từ dưới nhà đi lên. Hai người chào và nhìn nhau, ngay lần đầu Lý Thụy đã bị dáng dấp cao nhã và nhan sắc thanh xuân của Tăng Tuyết Minh cuốn hút. Khi lên gặp Sái Sướng, ông liền hỏi ngay cô gái vừa đi khỏi tên là gì, có liên hệ ra sao. Sái Sướng thấy Lý Thụy cũng còn độc thân nên hiểu ý cùng với Đặng Dĩnh Siêu giới thiệu cho Tăng Tuyết Minh.

Lúc đó Tăng Tuyết Minh mới biết Lý Thụy, người thông dịch của phái bộ Bào La Đình kia là đảng viên cách mạng Việt Nam. Trong xã hội phong kiến cổ thời, việc luyến ái tự do là điều khó chấp nhận, huống chi Lý Thụy lại là người ngoại quốc, đã 35 tuổi [hơn cô ta 15 tuổi] mà chưa có vợ, liệu gia đình có đồng ý chăng? Cũng may họ Tăng tương đối tiến bộ. Sau khi hay biết, Tăng Cẩm Tương[1] liền cho mời Lý Thụy đến nói chuyện một hồi lâu. Sau khi gặp gỡ, Tăng Cẩm Tương nhận thấy Lý Thụy có tài, thông hiểu tình hình quốc tế, biết nhiều ngoại ngữ nên đã thay mặt gia đình chấp nhận lời cầu hôn.

Năm 1926, Lý Thụy làm đám cưới với Tăng Tuyết Minh tại Quảng Châu. Đặng Dĩnh Siêu, Sái Sướng hai người làm chứng và mai dong chủ trì hôn sự. Trong ngày cưới, cố vấn Liên Xô Bào La Đình và phụ tá là Trương Thái Điện có đến chúc mừng, nghi lễ cực kỳ long trọng.

Hai vợ chồng sống rất hạnh phúc và thời gian này là khoảng trống trong tiểu sử của Hồ Chí Minh. Trong suốt thời gian từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1926, Tăng Tuyết Minh được tiếp tục huấn luyện tại văn phòng Vận Động Phụ Nữ do Hà Hương Ngưng sáng lập và được giảng viên Trịnh Phúc Như (鄭福如) giới thiệu gia nhập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Quốc. Cuối năm đó, Tăng Tuyết Minh cấn thai, Lý Thụy mừng rỡ khôn xiết, mong ngóng ngày được làm cha.

Thế nhưng mẹ của Tăng Tuyết Minh [Lương thị] khi hay tin lại sợ con mình sinh nở rồi sẽ cùng chồng đi mất nên hết sức ép con gái phải phá thai. Vào lúc đó, các anh chị của Tăng Tuyết Minh – ngoại trừ anh hai Tăng Cẩm Tương – cũng hùa theo [phần lớn trong số 7 người con ruột của Lương thị đã chết yểu, chỉ còn một mình Tăng Tuyết Minh]. Cha chết sớm, mẹ sống cô độc trong tuổi già, Tăng Tuyết Minh đành phải nghe lời cho tròn chữ hiếu. Mặc dầu Lý Thụy hết sức khuyên lơn, Tăng Tuyết Minh nuốt lệ trục thai mang theo nỗi hận suốt đời. Hai người sống với nhau chưa tròn một năm.

Tình hình biến chuyển, ngày 12 tháng 4 năm 1927 xảy ra biến động Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch tiến hành chiến dịch bài trừ và tiêu diệt đảng viên Cộng Sản. Theo chỉ thị của Cộng Sản Quốc Tế, Lý Thụy phải cùng đoàn cố vấn Liên Xô đi qua Vũ Hán, lên Thượng Hải rồi từ Hải Sâm Uy [Vladivostok] trở về Mạc Tư Khoa nhưng không được phép mang gia đình. Từ lúc này, vợ chồng mỗi người một nơi và theo đúng nguyên tắc [của đảng Cộng Sản] thì sẽ họ không bao giờ được quyền liên lạc với nhau nữa.

Trong hoàn cảnh bi thương, tuyệt vọng, Tăng Tuyết Minh chỉ còn cách quay về sống với mẹ và làm cô đỡ tại huyện Thuận Đức. Không bao lâu, mẹ cô bị bệnh nặng nên Tăng Tuyết Minh phải nghĩ việc về lo cho mẫu thân, đến khi khỏi bệnh rồi thì trở về làm cô đỡ tại xã Quần An.

Có một lần khi cô nghỉ phép về thăm mẹ, gặp một cô giáo ở đê Lặc Lưu tên là Hoàng Nhã Hùng (黃雅雄) cho hay Lý Thụy từ Thượng Hải gửi về Dư Gia Viên cho Tăng Tuyết Minh một lá thư, có người tên là Dư Bác Văn (余博文) nhận giùm. Y đã không chuyển giùm lá thư lại còn tự ý mở ra đưa cho cô giáo Hoàng Nhã Hùng coi chung rồi xé bỏ. Vào thời loạn ly, việc giao thông cực kỳ khó khăn, thư từ lại càng khó khăn hơn nữa. Cô giáo Hoàng cũng nói thêm, theo như cô ta nhớ được thì trong thư Lý Thuỵ cho hay ông ta đang ở Thượng Hải bình an. Lý Thụy cũng hẹn với vợ một hạn kỳ để Tăng Tuyết Minh cố gắng lên Thượng Hải rồi cùng xuất ngoại. Nếu như đến ngày ấy Tăng Tuyết Minh không lên được thì ông đành phải đi một mình … Khi biết được tin này, nhật kỳ ước định đã xa, Tăng Tuyết Minh chỉ đành thở dài nuốt nước mắt.

Năm 1931, khi Lý Thụy (bấy giờ có tên là Tống Văn Sơ) bị nhà đương cục Anh bắt giam ở Hongkong, Tăng Tuyết Minh nghe tin có đến thăm chồng nhưng không được gặp, đành trở về.

Tăng Tuyết Minh làm cô đỡ ở Quần An đến năm 1932 thì mẹ cô qua đời. Đến năm 1934, cô về Quảng Châu, bất ngờ gặp lại người thầy cũ là nữ bác sĩ Trương Tố Hoa (張素華) và được bà này nhận vào làm cô đỡ tại nơi bà ta đang làm việc. Từ đó bà Tăng Tuyết Minh– cho tới khi qua đời năm 1991 [thọ 86 tuổi] – làm việc và sinh sống tại Quảng Châu trong ngành hộ sản và nhi khoa.

Đoạn kết

Cứ theo lời tường thuật của tác giả bài viết này [Từ Song Minh] thì những người đồng hàng với vợ ông gọi bà là bà cô mười [thập cô bà 十姑婆]. Bà là một tín đồ Cơ Đốc rất ngoan đạo vẫn thường ngày đêm cầu nguyện cho trượng phu được bình an. Năm 1988, khi hai vợ chồng Từ Song Minh đến thăm bà ở Quảng Châu, Tăng Tuyết Minh vẫn thường thường nhắc đến người chồng nay đã quá cố. Bà kể lại rất rành rọt từ lúc hai người quen biết nhau, yêu thương nhau và từng chi tiết của ngày cưới như thế nào. Bà cũng cho họ coi những bức ảnh quí hiếm và đưa những lá thư bà viết cho ông Hồ Chí Minh để nhờ họ cất giữ. Hiện nay trong tay vợ chồng Từ Song Minh còn giữ được chiếc nhẫn đính hôn bằng hồng bảo thạch mà năm xưa Lý Thụy tặng cho Tăng Tuyết Minh và tấm rèm cửa do cố vấn Liên Xô Bào La Đình mừng hai người ngày cưới. Hai món kỷ niệm này sẽ mãi mãi là gia bảo để lại cho con cháu họ.

Mãi tới năm 1950, khi tiểu sử và hình ảnh của lãnh tụ Cộng Sản nước Việt Nam – nhân ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của Hồ Chí Minh – đăng trên Văn Hối Báo (文匯), Tăng Tuyết Minh mới biết rằng chồng mình nay đã có tên khác. Bà đã nhiều lần tìm cách liên lạc với ông nhưng không được toại nguyện. Đến khi chiến dịch chỉnh đốn tác phong được phát động, bà Tăng Tuyết Minh cũng bị đem ra “đấu tố” vì có hôn nhân bất minh, “nhận vơ” chồng mình là lãnh tụ của một nước bạn. Sự việc sau nổ lớn và đưa lên đến tận bà Sái Sướng, khi đó đang là chủ tịch Liên Hiệp Phụ Nữ toàn quốc và được xác nhận chính thức rằng Hồ Chí Minh chính là Lý Thụy năm xưa. Việc này vì thế không còn ai dị nghị nữa.

Câu hỏi của người dịch:

Tại sao ông Hồ Chí Minh sau này lấy tên trùng với bà? Nghe đâu ông còn giữ một đôi hài cũ, chuyện đó thực hay hư? Vì sao đảng Cộng Sản Trung Hoa và đảng Cộng Sản Việt Nam không đi xa hơn để cho hai người đươc trùng phùng ? Nếu có một thế giới bên kia, sau khi đã thoát khỏi mọi nhân sinh hệ lụy, liệu ông Hồ và bà Tăng có tái hợp hay chăng?

Tất cả đều vẫn là những bí mật không có câu trả lời.

Nguồn bài đăng

🔝

Nguyễn Minh Cần (Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội) - ykien.net 26-2-2003

Sự thật lịch sử: Vài mẩu chuyện về cuộc đời Hồ Chí Minh

Người viết bài này hy vọng góp thêm vài "mẩu chuyện" vào cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên mà như lời giải thích miệng "từ Trên", khi cuốn sách được xuất bản lần đầu ở miền Bắc -- "tác giả của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được biết rõ về thân thế của Người". Thực ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân dân, chưa hề nghe tên và không ai biết cái ông "nhà báo nổi tiếng" Trần Dân Tiên, tác giả cuốn sách "bất hủ" đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai nhau về điều bí mật quốc gia: "... Chứ còn ai nữa!"

Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều người mới ngã ngửa ra là ông tác giả "Chứ còn ai nữa!" đó, ông Trần Dân Tiên huyền thoại kia, chính là ông Nguyễn Tất Thành, cũng chính là ông Nguyễn Ái Quốc, và cuối cùng, cũng chính là ... ông Hồ Chí Minh. Thế nhưng báo chí chính thức ở Việt Nam cho đến nay vẫn tiếp tục "giấu như mèo giấu c..." Theo tôi biết, hình như trong "thế giới" cộng sản, chỉ có hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc "xây dựng" tiểu sử của mình để lưu danh hậu thế là Stalin và Hồ Chí Minh. Tôi nói "hình như" vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã làm phù phép như thế nào với tiểu sử của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã không trắng trợn tự tay viết tiểu sử của mình, mà giao cho một ban của Trung ương đảng, viết theo sự hướng dẫn của chính ông và cuối cùng ông "chỉ" hiệu đính tiểu sử của mình trước khi cho xuất bản. Còn "một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy ..." (trích sách "Những mẩu chuyện ...", tr. 7) thì ... tự tay mình viết tiểu sử của mình để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi "lập lờ đánh lận con đen" đặt tên tác giả là Trần Dân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương tri con người!

Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn, ai đã có cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà phí, trái lới, thỉnh thoảng nên đọc lại để thấy rõ hơn bức chân dung thật của người viết ra nó. đó là tấm gương để đời!

Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lới thân thế của mình". Hay một đoạn khác: "Tôi (lời Trần Dân Tiên huyền thoại) nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi nghe xong, Người cười và đáp: "Tiểu sử đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp kia đã! Còn tiểu sử của tôi ... thong thả sẽ nói đến!" Thế rồi Trần Dân Tiên (!) kết luận: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lới cho tôi nghe bình sinh của Người được ?" Hay là đoạn nói về thời gian "khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi", thế mà cậu bé 15 tuổi ấy đã đủ hiểu biết, đủ láo xược để phê phán cả các bậc tiền bối là những anh hùng lịch sử vào hàng cha chú mình, như các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa: "Và nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu."

Còn nhiều, rất nhiều "hạt ngọc châu" như thế nữa! Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích người viết bài này không phải để nói về cuốn sách "Những mẩu chuyện ...", mà để bổ sung thêm vài nét vào bức chân dung của ông Hồ Chí Minh nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh "của Người," dù biết tỏng tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh "của Người" đều là "phịa" (xin cho phép tôi dùng khẩu ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí trong một thời gian nhiều năm, cả ngày chết "của Người" cũng là "phịa" nốt. Cố nhiên, trong trường hợp sau, "Người" không có lỗi. Nhưng, một con người mà ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là "phịa" cả, thì có gì bảo đảm là "những mẩu chuyện" tự kể về mình lới là không "phịa" ? Nhưng dẫu sao chăng nữa, tháng 5 cũng là có dịp để "tưởng nhớ tới Người"! Vài "mẩu chuyện" mà tôi sắp kể đây là những chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến "vấn đề phụ nữ" (dĩ nhiên, không phải vấn đề giải phóng phụ nữ đâu!), và không phải là thời kỳ ông ở Pháp, Nga, Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về những thời kỳ đó rồi). "Những mẩu chuyện" này thuộc thời kỳ ông ở Việt Nam, và cũng chỉ vẻn vẹn trong vài năm thôi, sau khi chính quyền cộng sản tiếp thu những "vùng tạm chiếm" của Pháp ở miền Bắc.

Một Án Mạng Xe Cán

Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Hùng, ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: "Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm ..." Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ý nghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Hùng nói tiếp: "Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán người ..." Dừng lại một lúc, anh nói thêm: "Mà ... theo báo cáo thì chiếc xe ấy lới chạy từ Chủ tịch phủ ra ..." Mấy tiếng cuối cùng "từ Chủ tịch phủ ra" đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ý nghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe ? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: "Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn."

Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân (Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ công an). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: "Thôi, việc đó xong rồi". Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im ... Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.

Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ", tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng", đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân ..." Tôi đáp lới: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế !" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà". Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây ! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật ..."

Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh niên người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến "phục vụ" Bác Hồ, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh ... Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để "bịt đầu mối", và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.

Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ý muốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạ cùng chiến đấu với anh ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày ?), gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm Văn Đồng, Chủ tịch HĐBT và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HĐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất "kẹt" cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần "đừng công bố bản tài liệu," cho nên tôi không thể làm trái ý "người chủ" tài liệu.

Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, "máu hòa nước mắt viết thư này" (lời trong thư). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi: "Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lý cho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lý mà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin phép Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết để họ đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI. Và hơn nữa, chúng tôi sẽ tuyên bố vụ bê bối giết vợ Cụ HỒ CHÍ MINH này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại tin tưởng vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi." (đúng nguyên văn, kể cả những chữ hoa).

Phương Mai

Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện, đã liều mình, bất chấp mọi nguy hiểm, xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ của anh ra nước ngoài. Không có những con người gan dạnhư thế, làm sao bảo vệ Chân Lý và chống lại điều ác được ? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không công bố toàn văn tài liệu đó. Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ sự giúp đỡ của anh chị em trong nước và được tài liệu kia xác nhận, tôi tự thấy mình có bổn phận chia sẻ với mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị che giấu 40 năm rồi và phần nào đáp ứng, dù là một cách quá muộn màng đi nữa, lòng mong mỏi cuối cùng của những oan hồn đang ngậm hờn ở thế giới bên kia. Hơn nữa, ngay ở trong nước, tờ báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, "tiếng nói của nhân dân thèm tự do ngôn luận", năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồi trong bài "Viết cho Đào Duy Tùng". Và tôi tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện này trong tập hồi ký "Đêm Giữa Ban Ngày" của anh. Có điều tôi muốn nói rõ là tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một loạt người này, tuy rùng rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính của bài này, vì ý định của tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân dung của vị Chủ tịch đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trước khi kể lới chuyện trên, tôi xin phép nói đến một chuyện khác, mới nghe thì thật tào lao, nhưng lới có thể giúp cho ta hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong nước, cán bộ ở miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư, không hề dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái, tán tụng, ngoài những khuôn sáo đã định sẵn, như "ơn Bác, ơn đảng", v.v... Sự sùng bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và dân chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà thiếu sự ca tụng, sự sùng kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều "phạm húy" khủng khiếp, mà điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì ... rất nguy hiểm cho bản thân. Chỉ có một số cán bộ cao cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho phép "đả động" nhẹ nhàng đến các lãnh tụ trong chừng mực ... "không bị đứt đầu". Cố nhiên, những việc như thế không phải là không nguy hiểm. Có một lần, tình cờ tôi được "dự" vào một cuộc "loạn đàm" như vậy. Hôm đó, sau một cuộc họp ở Thành ủy, mọi người ra về, chỉ còn lới ba chúng tôi: Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy Hà Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi. Đang nói chuyện linh tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ: "Thế nào, việc Phương Mai đã xong chưa ?" Trần Danh Tuyên đáp: "Không xong". Trần Vỹ nói tiếp: "Cô ấy cũng sạch nước cản đấy chứ, sao lại không xong ?" Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu: "Sạch nước cản ... thế mà tướng Nguyễn Sơn lới chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì !" Cả ba cùng cười, rồi Trần Danh Tuyên hạ giọng nói rất khẽ: "Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng hoàng, nhưng mà ... Bác và các anh (ý nói Bộ chính trị) cho rằng Bác không lấy vợ thì lợi cho uy tín chính trị hơn".

Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để việc "giải quyết sinh lý" được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người "kháu" nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc "loạn đàm," chị đặt vấn đề phải có hôn nhân đàng hoàng. Thế là ... việc không thành. Rồi chị được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.

Cô Xuân Bị Giết Như Thế Nào ?

Bây giờ xin quay trở lới câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau: cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặng Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, "nói là để phục vụ Bác Hồ". Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn ựệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.

"Em có nhiệm vụ bế cháu", đấy là lời Vàng kể lới cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây. Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò ... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết". Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước". Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi" Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái".

Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho hai em phải biết câm cái miệng, nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Mấy chị em lúc bấy giờ rất sợ bị giết, bàn nhau. Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác: bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai. Bác nói: cô xin như vậy là hợp tình hợp lý. Nhưng phải được Bộ chính trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa ... Mấy tuần trước, Bác lới hỏi chị: các cô ở đây có nhiều người lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâu. Bác nói không nhẽ ông bộ trưởng công an nói dối ? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó, để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị."

Đến ngày 11 tháng 2 năm 1957, vào bảy giờ tối, một chiếc xe com măng ca thường đón cô Xuân lên gặp ông Hồ đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt danh là Ninh Xồm, bảo vệ viên của ông Hồ, vào gặp cô Xuân nói "lên gặp Bác." Cô Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra xe. Xe do Tạ Quang Chiến (tên này trong đội bảo vệ ông Hồ, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao) lái đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên công an Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì tai nạn ô tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho Nguyệt bế, lên xe công an vào bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một tiếng sau thì có người bác sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có thương tích gì, cũng không phải bị đánh chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì, dạ dày không có thuốc độc, tử cung không có tinh trùng, chứng tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt, nước nhờn chảy ra. Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa đánh vào giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em cùng khóc ...

Ít lâu sau, một cán bộ công an đến bế cháu Trung đi, hai chị em không biết đem đi đâu. Sau đó, Vàng được đưa đi học lớp y tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên, còn Nguyệt thì Vàng không biết người ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được mấy tháng thì Vàng được chuyển về bệnh viện Cao Bằng và may mắn được gặp người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Cô nói với người yêu: "Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết, vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng, có hôm em còn thấy thằng Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít lâu họ tuyên bố em bị thần kinh, được chuyển về điều trị tới bệnh viện Hòa An."

Đây là lời người yêu, chồng chưa cưới của cô Vàng: "Tôi chỉ được gặp Vàng có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn Đệ, hung thủ đi theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở Hoàng Bồ. Được tin, tôi chạy về cầu Hoàng Bồ, thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận bàn tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân vợ Cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên, nghe chuyện Vàng đi nói chuyện lại cũng bị giết lây. Mấy chục năm nay, tôi tím gan thắt ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô, đành ngậm hờn chờ chết ..."

Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn ở Moskva, "người ta" dò biết là anh đang viết hồi ký, và hình như cũng đoán biết là anh có trong tay "những mẩu chuyện" nào đó. Thế là một hôm, "bọn trấn lột" người Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà. Chúng không đụng đến tiền bạc gì hết, mà chỉ tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa mềm máy tính, trong đó có phần hồi ký anh đang viết dở dang. Khi chúng đi rồi, Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin rằng một tên gọi điện cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy "đến đấy, đến đấy" ở Moskva, mà theo lời anh, chỗ ấy là ... ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân viên sứ quán Việt Nam tại Nga. Hiên nói để trấn an tôi: "Cũng may là tôi đã dự phòng trường hợp này rồi. Anh yên tâm". Sau đó không lâu, Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc 74 trang hồi ky của anh. Và một thời gian sau nữa, anh lặng lẽ rời khỏi nước Nga, tìm nơi khác an toàn hơn để "đậu" ... Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao độ của những-người-nào-đó đối với "những mẩu chuyện" không chảy theo luồng lạch của "lãnh đạo" và "người ta" sẵn sàng lao vào những hành động tội ác, điên cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt để ... bưng bít sự thật.

Nhưng, vì chân lý, lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công Lý đòi hỏi như thế!

Những Câu Hỏi Về Hồ Chí Minh

Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông Nguyễn Lương Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư ký riêng của ông Hồ, làm con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung. Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ để có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề tài cần nói:

1) Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên "xoi mói" vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể có cuộc sống tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lới lấy vợ khác... Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào đó có vợ rồi, lại đi ngoại tình, "cặp bồ" với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ sờ sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường hợp Mao Trạch Đông, hay đi hoang, rồi có con với người khác, như trường hợp Karl Marx, (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo đứng đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì cũng đáng phê phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được! Chỉ có cái đầu óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo cộng sản kênh kiệu, tự coi mình là "trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại" hay là "đỉnh cao trí tuệ loài người," mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ thành một ông thánh sống, là một con người siêu phàm, không vợ không con ... thì càng thêm uy tín chính trị.

Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia số một, hễ ai động khẽ đến là trừng trị tàn nhẫn. ựấy, cái vụ vừa qua đảng "xử trí kỷ luật" một cách thô bạo đối với Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện ông Hồ có vợ hồi ở Trung Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám ấy. Lẽ cố nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ, đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất, đạo đức của con người, và điều đáng nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ở đó.

2) Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh bạn chiến đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng cô Xuân là vợ của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có vợ đàng hoàng, ông chỉ muốn giữ cái "uy tín chính trị" hão của "bậc siêu nhân", ông chỉ muốn được "tiếng" vì dân vì nước đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến chuyện vợ con. Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông mà thôi. Cô Xuân được đưa về Hà Nội là để "phục vụ" ông Hồ, cũng như bao nhiêu cô gái Trung Quốc đã được đưa đến Trung Nam Hải để "phục vụ" ông Mao (Xem hồi ký "Tôi là bác sĩ riêng của Mao" của Lý Chí Tuy). Mồm ông Hồ nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ, v.v... thế nhưng ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng khác gì món đồ chơi. Nhận xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ đoán, vì thử hỏi:

a. Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tới sao ông lại không để cô ở chung tới ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô phải ở riêng mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, (ai biết rõ Hà Nội thì dễ dàng hình dung được khoảng cách) là nhà của công an, lại phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần "được phục vụ" thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi? Trong những n ăm đó, ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức phải để cho Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống chế ông như vậy. Ông đường đường là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng, cơ mà!

b. Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì khi cô đẻ con trai rồi, tới sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm và khi mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì "người ta" (cũng khó biết được là ai, Bộ chính trị hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé?) lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi? Và xin các bạn chú ý, Vũ Ky đã (chắc chắn là anh ta không bao giờ dám tự ý) đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi dấu vết tội lỗi của một ông họ Nguyễn Tất! Ở đây, khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình thương yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể thương yêu trẻ con người khác được ?

3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ý kiến cho rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ ở miền núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con với ông rồi, cô xin cho hai mẹ con "được ra công khai" (chắc ý nói hợp thức hóa) thì một mặt ông làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lý, nhưng mặt khác ông lại chỉ vào các ông trong Bộ chính trị mà nói là các ông kia có quyền quyết định chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của các ông kia, làm như ông không phải là "lãnh tụ tối cao", không phải là Chủ tịch đảng, làm như ông ở dưới quyền mấy ông kia trong Bộ chính trị. Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng: "Cô đành phải chờ một thời gian nữa!" Và thật tội nghiệp cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ ... đến khi bị giết!

4) Còn có nhiều điều khác mà trong tình hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có thể có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối với cô Xuân ? Dù cô không phải là vợ chính thức thì cũng là "bồ" (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở Việt Nam) của lãnh tụ, cơ mà! Sao y lại có thể to gan phạm thượng đến như thế ? Hay là y đã thấy rõ tình thế bị "thất sủng" của cô Xuân, tức là cái thái độ không mặn nồng nào đó của ông Hồ đối với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế ? Hay là y đã biết một quyết định nào đó … về cô Xuân, nên y nghĩ rằng "không xài thì phí của trời", trước sau rồi cô cũng chết ?

Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho cô Xuân về những người lạ mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ý nghĩa gì ? Có đúng là do bộ trưởng công an mớm cho ông hay không ? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt ... là mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay là chủ trương của một tập thể, nếu là của một tập thể thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay không ? Trách nhiệm của ông Hồ, của Bộ chính trị Trung ương đảng, của Bộ công an, của Trần Quốc Hoàn trong việc này như thế nào ? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra (cuối năm 1956) đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957), cũng như từ ngày đó tới ngày mẹ nó bị giết (11 tháng 2 năm 1957) vì sao lại gần nhau đến thế ? Điều đó có ý nghĩa gì ? Vân vân và vân vân ... Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử Maigrets tài giỏi nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ý, góp sức, giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề.

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất nước và nhân dân Việt Nam trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Dù muốn hay không, không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại? Công trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không có tội, hay là chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa tội? Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên giả dối, bịp bợm? Ông là biểu tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân, vô đạo với lòng dạ bất lương?.. Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan, cẩn trọng, sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng... phải chờ Lịch Sử cân lượng, phán xét, Lịch Sử được đúc kết từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá cuộc đời của vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ý muốn nhỏ nhoi đã được nói ngay từ đầu, chỉ là để góp thêm vài "mẩu chuyện", qua đó người đọc có thể thấy thêm được vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới cầm quyền cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đã dày công tô vẽ.

Nhưng, vì chân lý, lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật ? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công Lý đòi hỏi như thế!

Ngày 10 Tháng Ba 1997
Nguyễn Minh Cần

ykien.net 26-2-2003

Thư gửi ông Nguyễn Hữu Thọ

Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhụ. Ðược mấy tháng sau ông Trần Ðăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Ðầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Ðược mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Ðệ cậu ruột cô Xuân.

Ðã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:

Ðầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn,

Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con traị Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị.

Chị xô nó ra nói:
“Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”.
Nó cười một cách nhạo báng:
“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”.

Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị.
Chị ngồi xụp xuống ghế nói:
“Anh cứ bắn đi”.
Nó cười khì khì :
"Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác".
Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.

Nó nói “Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết“. Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Phẩm tiên đã đến tay phàm,
thì vin cành quýt cho cam sự đời.

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt.

Nó kéo tay chị nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái “.

Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ:
"Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có.
Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.
Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô" .

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mâỵ Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm.

Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi”.
Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”.

Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.

Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”.
Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”.
Bác nói: Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối.

Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.

Chị Xuân lại nói: “chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”.
Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đị Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên.

Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.

Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều trạ Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Ðộ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêụ Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thaọ Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng

🔝

Thông Luận 2010 Ngày: 30/12/2010

Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái

(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)

Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc

Căn cứ vào“Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “Lĩnh Nam Di Dân”, thì Hồ Chí Minh có bốn người phụ nữ trong các thời kỳ khác nhau. Người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh, tiếp theo là Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ Thị Lạc và cuối cùng là Nông Thị Xuân. Mối tình với Đỗ Thị Lạc, tác giả viết: “Sau khi ra tù, HCM được tướng Trương Phát Khuê, tướng Tiêu Văn tín nhiệm. Ông được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH), hoạt động rất có uy tín. Không lâu sau, được sự đồng ý của các tướng lĩnh Quốc Dân Đảng, HCM mang theo 18 người trở về Bắc Việt Nam sau khi kết thúc khóa huấn luyện cán bộ. Một trong 18 người theo HCM trở về là Đỗ Thị Lạc, người phụ nữ duy nhất trong Đoàn thường được mọi người goi là “chị Thuận”. Nhân thân Đỗ Thị Lạc không rõ, người ta chỉ biết cô này từ năm 1942 tại Liễu Châu, Quảng Tây, với tư cách học viên Ban Huấn Luyện quân sự. Trở về Cao Bằng, Việt Bắc, Đỗ Thị Lạc và Hồ Chí Minh sống chung với nhau một thời gian tại vùng Khuê Nam (?!), phụ trách công tác dân vận và thiếu nhi. Sử gia Trần Trọng Kim, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, viết: “Đỗ Thị Lạc có với Hồ Chí Minh một người con gái. Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung với nhau ở Khuê Nam, HCM dấn thân vào cao trào cách mạng, không bao giờ còn trở lại với ĐTL nữa”.

Căn cứ vào các tư liệu đã tra cứu được, vào thời kỳ HCM đem theo 18 cán bộ về Việt Bắc thì người phụ nữ có tên Đỗ Thị Lạc là có thật. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, trong cuốn “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang 194 đến 206 viết: “Ngày 10 tháng 9 năm 1943, HCM được phóng thích tại Liễu Châu, được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê tín nhiệm, giao nhiệm vụ cải tổ VNCMĐMH. HCM đề nghị với Trương Phát Khuê ý định về Việt Nam hoạt động, đồng thời chuyển giao cho ông bản đề cương kế hoạch “Nhập Việt công tác” được khởi thảo với bốn mục tiêu lớn. Căn cứ vào kế hoạch đại cương, HCM tự tuyển chọn 18 thanh niên cốt cán trở về Việt Nam làm công việc huấn luyện nhiệm vụ cách mạng. Danh tính của 18 người như sau: Dương Văn Lộc, Lê Nguyên, Vi Văn Tôn, Hoàng Nhân, Hoàng Quảng Triều, Nông Kim Thành, Hoàng Kim Vận, Hoàng Thanh Thủy, Phạm Văn Minh, Hà Hiến Minh, Hoàng Sỹ Vinh, Lê Văn Tiền, Nông Văn Mưu, Dương Văn Lễ, Hoàng Gia Tiên, Đỗ Trọng Viện, Trương Hữu Chí (đều thuộc Tổng đội Công tác Chiến địa) và Đỗ Thị Lạc (thuộc Đội Công tác Chính trị Biên giới)”. Lại căn cứ vào “Hồ Chí Minh tại Liễu Châu” do Quảng Tây Nhân Dân xuất bản xã phát hành năm 2005, trang 103, có đoạn viết: “Từ 1943 đến 1944, dưới chân núi Cao Lượng, Liễu Châu, nơi Ban Huấn Luyện cán bộ mở lớp học, HCM thường đến giảng bài. Trong số học viên có một phụ nữ là Đỗ Thị Loan, quê tại thị trấn Bắc Môn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, bị bệnh, chữa không khỏi, chết tại Liễu Châu, mai táng dưới chân núi Cao Lượng, bia mộ ghi ngày sinh, ngày mất và quê quán bằng Trung văn”. Có thể phỏng đoán, Đỗ Thị Lạc, Đỗ Lạc, Đỗ Thị Loan, danh tính ba lần chuyển dịch không giống nhau nhưng có lẽ vẫn cùng là một người.

Trần Trọng Kim viết: “Nghe tin Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với HCM nên có thể xem chuyện này là có thật”. Căn cứ vào “Hồ Chí Minh và Trung Quốc” trang 164 của giáo sư Hoàng Tranh, có đoạn ghi chép về “Hồ Chí Minh và Đỗ Lệ Hoa”, tôi phỏng đoán, Đỗ Lệ Hoa chính là Đỗ Thị Lạc. Chuyện như sau: “Tháng 8 năm 1962, HCM đến Trung Quốc, ở lại một thời gian, đã từng đến thăm phong cảnh nổi tiếng ‘Thạch Lâm’ ở Vân Nam. Đoàn Văn công Vân Nam có nữ ca sĩ hát giọng nữ cao Đỗ Lệ Hoa tháp tùng Chủ tịch HCM tham quan. Bên cạnh HCM, Đỗ tiểu thư đã có những giây phút vô cùng hạnh phúc. Trước đó một năm, HCM đã từng quen biết Đỗ Lệ Hoa. Đó là năm 1961, HCM cùng đoàn đại biểu Đảng Lao Động Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Một ngày, tại Hoài Nhân Đường, Bắc Kinh, đoàn nghệ thuật chuẩn bị thăm Miến Điện, biểu diễn một buổi dành riêng cho các vị khách Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, HCM đặc biệt đề nghị Đỗ Lệ Hoa cùng ông và Chủ tịch Mao Trạch Đông chụp chung một kiểu ảnh. HCM cười hiền từ nhìn Đỗ Lệ Hoa rất lâu như muốn lưu giữ mãi hình ảnh của cô. Lần này, khi đến nhà khách, Đỗ Lệ Hoa được thông báo, HCM mời vợ chồng cô đến Thạch Lâm tham quan thắng cảnh. Đỗ Lệ Hoa vô cùng phấn chấn, lòng thầm nghĩ, đã một năm qua rồi, không biết HCM giờ đây thế nào, cô hận là không thể lập tức chạy ngay đến bên Hồ Chủ tịch. Khi Đỗ Lệ Hoa vừa đến nhà khách Thạch Lâm, HCM đã chờ sẵn ở cửa trước, vừa nhìn thấy cô văn công, ông vội bước ra, thân mật gọi: ‘Tiểu thư Lệ Hoa, hoan nghênh cô đến, có nhớ năm trước chúng ta gặp nhau ở Bắc Kinh không?’. Đỗ Lệ Hoa phấn khởi nói: ‘Nhớ, nhớ ạ’, rồi trân trọng trao tấm ảnh kỷ niệm đã được phóng to cho HCM”.

Từ việc Đỗ Thị Lạc chết, độ tuổi của Đỗ Lệ Hoa; Đỗ Lệ Hoa đứng giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm, đến cuộc gặp gỡ và tình cảm đặc biệt giữa Đỗ Lệ Hoa và Hồ Chí Minh ở khu nghỉ mát Thạc Lâm, làm cho người ta khó nói Đỗ Lệ Hoa không phải là người tình của Hồ Chí Minh.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân

Trần Quốc Hoàn vì có công trong việc trấn áp các phần tử phản cách mạng mà thành danh, năm 1953 được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công An. Năm 1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân (NTX) từ vùng biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, NTX sinh với HCM một bé trai. Đứa bé được bí mật gửi nuôi vài nơi, nhưng cuối cùng, thư ký riêng của HCM là Vũ Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào một ngày năm 1957, người ta phát hiện NTX bị tai nạn ô tô chết bên đường chân dốc Chèm. Không lâu sau, hai người em họ của cô Nông Thị Xuân cũng bị đột tử. Khi mới xảy ra sự kiện này rất ít người biết chuyện, nhưng nhiều năm sau, người chồng chưa cưới của một trong hai thiếu nữ, đã viết thư gửi lên Quốc Hội, tố cáo Trần Quốc Hoàn cưỡng dâm Nông Thị Xuân rồi sát hại cô bằng một vụ tai nạn được công an dàn dựng. Anh ta nói rõ, Trần Quốc Hoàn sợ hai người em họ của Nông Thị Xuân tố cáo tội ác nên hắn đã cho mật vụ thủ tiêu cả hai chị em. Tất nhiên, sự kiện này bị ỉm đi và cũng không có bất cứ phiên tòa nào đủ bản lĩnh đứng ra thụ lý vụ án trên. Trần Quốc Hoàn xem như vô can, tại Đại hội III, y còn được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị, những tin tức về vụ giết người bịt miệng dã man này đã được các cán bộ cao cấp của ĐCSVN tại Hà Nội biết rõ, có điều tất cả đều ngậm miệng, bởi họ không lạ gì Cảnh Con (tên tục của Trần Quốc Hoàn) vốn xuất thân từ dân đao búa, đã từng làm đủ nghề, từ cầm cờ đám ma, lưu manh trộm cắp đến lừa thầy phản bạn… HCM có biết hay không sự kiện động trời này, mọi người đều không dám khẳng định, cho dù, ông mới là “chính danh thủ phạm” của vụ án thảm khốc cướp đi mạng sống của ba thiếu nữ xinh đẹp, vô tội.

Mối tình của HCM và NTX được William J. Duiker ghi chép tại chương 9: “Giữa hai lần chiến dịch”, trang 505-506 trong tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”. Phần chú thích từ trang 63 đến 660, nội dung dẫn từ “Đêm giữa ban ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên (con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng cho HCM thời kỳ 1946-1955). Nguyên văn bản tố cáo tội ác Trần Quốc Hoàn của vị hôn phu cô Nguyễn Thị Vàng đăng tải trong “Việt Nam lục”, mùa thu, tháng 8 năm 1997, trang 8-11.

Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “Lĩnh Nam Di Dân” cũng ghi chép về mối quan hệ luyến ái giữa HCM và NTX: “Ngày 20 tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genève, HCM trở về Hà Nội đảm nhiệm chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Năm 1955, Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương tuyển một thiếu nữ thuộc thành phần gia đình cách mạng miền núi đưa về Hà Nội, phục vụ sinh hoạt cho HCM. Cô gái là Nông Thị Xuân, dân tộc Nùng (một chi nhánh của người Tráng, Quảng Tây, Trung Quốc. Việt Nam gọi là người Nùng), nhà ở thôn Hà Ma, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Lúc ấy Hồ Chí Minh đã 65, Nông Thị Xuân mới gần 22. Ít lâu sau, hai cô khác, một tên Vàng, một tên Nguyệt là con người cậu của Nông Thị Xuân cũng được chọn đưa về Hà Nội. Ba cô cùng ở trên gác hai ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Nhuộm. Vì để mối quan hệ giữa HCM và NTX không bị tiết lộ, mỗi lần cô Nông Thị Xuân đến Phủ Chủ tịch đều được Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn cho xe đến đón”.

Những câu chuyện “Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc”, “Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân”, cùng “Chuyện tình ái và những người con sinh ra trong bóng tối”, (cho đến nay, dân gian vẫn lưu truyền, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh là con rơi của Hồ Chí Minh) cũng như thân phận thật Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc, vẫn còn là những bí mật, chưa có câu trả lời thỏa đáng. Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân, thời gian ghi chép, địa điểm, nội dung, nguồn gốc tin tức… sự thật chỉ có một mà sự tô vẽ, phóng đại thì rất nhiều bởi người đời làm cho sự việc ngày càng trở nên phức tạp, khó xác định chân tướng.

Tổng kết về hôn nhân và tình ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh

Khảo cứu về hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh trong vô vàn sự kiện cũng như mối quan hệ phức tạp, phải nói rất khó khăn và tốn nhiều công sức. Tuy nhiên, cần phải tin chắc một điều, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, cho nên chuyện hôn nhân và tình ái của họ cũng khác nhau. Trong khi tra cứu hồ sơ, tìm hiểu manh mối qua các nguồn tư liệu, (người viết) cần có thái độ khách quan, tôn trọng chứng cứ mới tìm ra được sự thật trong mớ tài liệu hỗn độn do lịch sử để lại, về quan hệ hôn nhân, tình ái của nhân vật đặc biệt này.

Trước hết, cần phân biệt chuyện hôn nhân tình ái của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh; Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Thị Minh Khai khác với hôn nhân tình ái giữa Hồ Chí Minh với Đỗ Thị Lạc; Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân; Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Từ đó có thể rút ra kết luận: quan hệ tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh; Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai; Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều hình thành trong đấu tranh cách mạng một cách chân tình, nồng nhiệt. Những cuộc tình bắt nguồn từ khói lửa chiến loạn này rất đáng được ca ngợi, không cần phải giấu diếm, càng không nhất thiết có thái độ bôi nhọ.

Tình ái giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân, Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan, trong đó hàm chứa những nỗi đau triền miên làm người đọc cảm động, tỏ thái độ đồng tình, đồng thời phản đối chiến tranh, phản đối bạo lực. Hy vọng rằng những tình cảm nam nữ chân thành này sớm được làm sáng tỏ để nhân gian có cái nhìn đúng đắn về nhân vật huyền thoại Hồ Chí Minh.

Mùa hè năm 1959, ĐCSTQ họp Bộ Chính Trị mở rộng tại Lư Sơn, cũng là lúc Hồ Chí Minh đến thăm Trung Quốc với tư cách cá nhân. Chiều ngày 8 tháng 10, Lưu Thiếu Kỳ cùng Vương Quang Mỹ, Chu Đức cùng Khang Khắc Thanh, Chu Ân Lai cùng Đặng Dĩnh Siêu, Lý Phú Xuân cùng Thái Sướng đến biệt thự 394. Hồ Chí Minh thấy nhiều bạn bè cũ đến thăm, chợt cao hứng hỏi Đặng Dĩnh Siêu: “Tiểu Siêu, nhiều khách quý thế này, hôm nay tôi phải lấy gì chiêu đãi?”. Một tiếng “Tiểu Siêu” làm Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu nhớ lại một thời đã qua. Dịp ấy vào năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vừa từ Liên Xô về Quảng Châu, biết tin Chu Ân Lai vừa được bổ nhiệm là Hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, ông ta đã đến tận phòng ở của hai người chúc mừng. Lúc ấy, Chu Ân Lại gọi vào trong nhà: “Tiểu Siêu, mang đường ra đây”. Đã hơn ba mươi năm, Hồ Chí Minh đã trở thành ông già “cổ lai hy”, từ một chí sĩ vong quốc đến người đứng đầu nhà nước Việt Nam, tất cả dường như chỉ mới hôm qua. Đặng Dĩnh Siêu đón tiếp Hồ Chí Minh, ánh mắt tươi rói, cười bảo: “Pha cà phê”.

Chiều ngày 12 tháng 8, vào lúc 5 giờ, Dương Thượng Côn cùng Vương Giá Tường đến biệt thự 394 thăm Hồ Chí Minh. Một lúc sau có tiếng phụ nữ ồn ào từ ngoài vọng vào. Hồ Chí Minh quay đầu nhìn ra, chính là đội ngũ “nương tử quân” “giá đáo” gồm Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu, Khang Khắc Thanh, Vương Quang Mỹ, ngoài ra còn một vài người chưa quen biết. Mọi người mời Hồ Chí Minh ở lại Lư Sơn thêm ít ngày.

- Được thôi, sau này Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm.
- Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé! Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý.

- Đương nhiên, tôi biết, vì thế, tôi sẽ mời một số đồng bào…
- Không đâu, chỉ đề nghị Chủ tịch cùng phu nhân đến thôi.

Hồ Chí Minh cười, chậm rãi nói:
- Được thôi, nhờ Tiểu Siêu đề đạt ý kiến với Hội Phụ nữ, không được thì phải đền đấy.

- Đúng vậy, Chủ tịch nên chọn một người vợ cách mạng, chẳng nên bắt đền chị Đặng.

Các bà khách chẳng giữ ý tứ gì, nói năng thoải mái, cười khanh khách vang khắp nhà. Hồ Chí Minh luôn sống độc thân. Nhiều năm qua, Việt Nam và Trung Quốc quan tâm đến tình trạng hôn nhân của ông không ít, nhưng có lẽ, ngay từ thờ trai trẻ, ông đã chủ tâm lập chí, đất nước chưa độc lập, thì chưa thành gia thất chăng?

Các “nữ đồng bào” vẫn vui vẻ cười đùa:
- Lần sau Chủ tịch đến đây chị em chúng tôi mong được ăn kẹo cưới.

Hồ Chí Minh đứng lên, vẫy tay gọi vào trong:
- Mời mang kẹo ra đây chiêu đãi khách quý.

- Loại kẹo này chúng tôi không ăn.

- Vậy xin mời các phu nhân dùng cà phê.

- Cà phê cũng không uống.

Hồ Chí Minh cười:
- Vậy tôi đọc một bài thơ được không?

- Không yêu cầu Chủ tịch làm thơ.

Các vị khách đều biết Hồ Chí Minh sành làm thơ nên mới nói đùa vậy.

Hồ Chí Minh là một người có tính cách đặc biệt, ông nhẹ nhàng nói, thời kỳ năm 1940, cơ cấu ban lãnh đạo cách mạng Việt Nam được thành lập tại Côn Minh, để cổ vũ quần chúng, tôi có làm một số “du thi”, xin đọc một bài bài để các nữ đồng chí nghe:

Tam tứ niên lai vọng đoạn trường
Niệm lang lưu lạc tại tha hương
Đồng tâm kết phát thùy thiếp kiên
Cửu biệt lệ lưu thấp lang diện
Quốc hận gia sầu lang vật vong
Gia thường tỏa sự thiếp toàn đương
Đãi lang diệt địch quy lai nhật
Huề thủ đoàn viên lạc điền trang.

Tạm dịch nghĩa:

Ba bốn năm nay trông ngóng đến đứt ruột
Nhớ chàng lưu lạc nơi quê người
Dải tóc kết đồng tâm rủ xuống vai thiếp
Dòng lệ khi từ biệt thấm ướt mặt chàng
Nợ nước thù nhà chàng không quên
Công việc ở nhà thiếp gánh vác
Đợi ngày chàng diệt địch trở về
Dắt tay nhau vui vẻ sống cảnh điền viên.

Các phu nhân chăm chú nghe Hồ Chí Minh đọc từng câu thơ với tâm trạng vô cùng xúc động. Ông biểu thị tình cảm sâu sắc qua từng ngữ điệu, khiến các vị khách, sau khi rời biệt thự 394 lòng đầy cảm thán: “Nếu như Việt Nam sớm độc lập, thống nhất, Hồ Chí Minh nhất định sẽ là người chồng mẫu mực, hết lòng thương yêu vợ”. Trước lúc chia tay, các phu nhân còn tranh nhau đứng gần Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm làm Dương Thượng Côn và Vương Giá Tường phải bật cười”.

Đoạn viết trên là căn cứ vào “Hồ sơ Lư Sơn” của Mã Xã Hương, chương 4 “Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, do Nhân Dân Xuất Bản Xã ấn hành tháng 5 năm 2006. Căn cứ văn bản trên, tôi đặc biệt nghi ngờ Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu. Có một tấm ảnh Hồ Chí Minh cầm tay Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng cười giữa một đoạn đường núi được Han Suyin chụp, Trương Liên Khang dịch trong cuốn “Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại”, trang 314. “Hồ sơ Lư Sơn – Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, kèm theo tấm ảnh, Hồ Chí Minh đứng giữa, bên phải cầm tay Đặng Dĩnh Siêu, bên trái cầm tay Thái Sướng, ba người tỏ ra rất thân mật. Tôi không tin việc Hồ Chí Minh, với tư cách Chủ tịch, lấy quốc gia làm trọng, vậy mà lại gọi phu nhân của Chu Ân Lai bằng cái tên “Tiểu Siêu”, Đặng Dĩnh Siêu chẳng những không phật ý mà còn vui vẻ mỉm cười. Lại nữa, Hồ Chí Minh trả lời các mệnh phụ phu nhân: “Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm”. Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý: “Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé!”. Những lời đối đáp có tính cợt nhả ấy đều vượt qua nghi lễ ngoại giao, thậm chí vượt qua cả tình cảm đồng chí, nhất là, khi ấy Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng lại là cán bộ cao cấp lãnh đạo Hội Phụ nữ Trung Quốc. Chuyện các vị nữ khách đề nghị Hồ Chí Minh đọc thơ tình cũng rất khó xảy ra. Người viết không tin là giữa Hồ Chí Minh và các phu nhân có bất kỳ mối quan hệ tình cảm mờ ám nào. Tôi đồ rằng, trong số các mệnh phụ phu nhân đến biệt thự 394 hôm ấy, có người ngấm ngầm muốn công khai bí mật thân phận thật của Hồ Chí Minh trước bàn dân thiên hạ. Chính vì vậy, qua những lời nói khá tình cảm của Hồ Chí Minh và Đặng Dĩnh Siêu, làm tác giả Bùi Tín hiểu lầm là hai người đã từng yêu nhau.

Trở lại năm 1926, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh chính thức cử hành hôn lễ tại Quảng Châu: Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng từng là người làm mối và chủ trì. Năm 1958, xảy ra vụ “Tăng Tuyết Minh hôn nhân xung đột song bào án kiện” (“Vụ án kép những mâu thuẫn hôn nhân của Tăng Tuyết Minh”), Thái Sướng phải đứng ra giải quyết mới dẹp được sóng gió. Cũng năm 1958, Hồ Chí Minh vì muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn cùng Lâm Y Lan nên đã nhờ Đào Chú, Chu Ân Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng đáng tin cậy, có thể thấy, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng biết rất rõ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc đã bị bệnh chết, càng rõ hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên, với Lâm Y Lan, Hồ Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến tôi vô cùng kính trọng và biểu đồng tình.

Ngày 16 tháng 7 năm 1947, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn một tờ báo nước ngoài: “Đã hỏi đến chuyện hôn nhân và tương lai, xin hãy để tôi tự nhiên trả lời. Tôi không có gia đình, không vợ con, Việt Nam chính là gia đình tôi, các bậc phụ lão chính là người thân của tôi, phụ nữ Việt Nam chính là chị em tôi. Tôi chỉ có một điều duy nhất phải theo đuổi là đấu tranh để Việt Nam độc lập, thống nhất và dân chủ. Sau khi nguyện vọng hoàn thành, tôi sẽ cáo lão hồi hương, làm một người dân bình thường, du ngoạn núi sông, trồng cây, viết sách”.

Đoạn trả lời phỏng vấn trên được dẫn từ “Hồ Chí Minh toàn tập”, tập V, trang 171, NXB Chính trị Quốc gia, làm tôi suy nghĩ mãi. Trừ đoạn nói là không gia đình, không vợ con, Hồ Chí Minh sau khi hoàn thành nguyện vọng không thấy ông cáo lão về quê, bởi suy cho cùng, nếu thực hiện lời hứa ấy thì ông về quê nào ?

Vào thời kỳ trước năm 1947, Hồ Chí Minh chưa từng công khai quê quán hoặc thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, thậm chí còn tích cực tranh thủ nước Mỹ, yêu cầu viện trợ giúp đỡ Việt Nam giành độc lập. Trong thâm tâm Hồ Chí Minh, phải chăng, ông đợi sau khi Việt Nam độc lập, Đài Loan được ủy thác cho quân Đồng minh quản lý cũng giành độc lập, như thế, ông có thể đàng hoàng trở về quê hương, thực hiện lời hứa với người em Hồ Tập Dưỡng: “Không thành công không về quê hương”. Tuy nhiên, trời chẳng chiều người, chỉ một năm sau, quân đội Quốc Dân Đảng tiến nhập Đài Loan, thế là Hồ Chí Minh chẳng bao giờ có thể trở về cố hương, đúng như lời Ngô Trọc Lưu nói, ông Hồ là “đứa con côi châu Á”.

(Hết Thiên IV)

Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ

© Thông Luận 2010 Ngày: 30/12/2010
http://www.thongluan.org/

🔝

Đặng Chí Hùng - Danlambao
Những sự thật không thể chối bỏ (phần 15)

Người chồng, người cha tồi tệ

Kính thưa bạn đọc Danlambao, thông suốt 14 phần của loạt bài gồm 15 phần Những sự thật không thể chối bỏ, tôi hoàn toàn đề cập đến những lỗi lầm lớn của ông Hồ Chí Minh với dân tộc và đất nước Việt Nam như: bán nước, giết người hàng loạt, làm gián điệp cho Trung cộng, âm mưu Hán hóa Việt Nam và tội ác chiến tranh… Đó chính là những sự thật, những tội ác mà dân tộc ta cần được biết trước sự bưng bít của đảng cộng sản Việt Nam.

Bài thứ 15 này tôi xin trình bày về một tội ác cá nhân của ông Hồ với những người vợ và con ông ta. Trong phần này tôi xin không trình bày liệt kê ông ta có bao nhiêu vợ, bao nhiêu con mà tôi xin chứng minh những điều sau đây: Ông Hồ có vợ con chứ không phải không có như ông ta và đảng cộng sản tuyên truyền “Cả đời hi sinh hạnh phúc riêng tư cho dân tộc”; tại sao lúc còn sống ông ta không dám công khai thừa nhận chuyện này; và sự thật về một đảng cộng sản lừa dối nhân dân cả về đời tư của ông ta.

Thật ra, trước tôi đã có nhiều tác giả viết về đề tài vợ con của ông Hồ, hay như DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã nói rất rõ. Tuy nhiên tôi viết bài này không nhằm chỉ trích việc ông Hồ có nhiều vợ con, vì với tôi chuyện có nhiều vợ con không phải là tội ác, mà cái chính là ông ta cư xử thế nào với vợ con ông ta và tại sao ông ta lại phải lừa dối dân tộc điều này. Xin được trình bày cùng bạn đọc.

A. Bác đâu có “Cả đời hi sinh hạnh phúc riêng tư cho dân tộc”:

Theo tôi đối với ông Hồ: Vợ, người tình chỉ để “giải khuây”- con chỉ là “kết quả không mong đợi”. Sở dĩ tôi phải nói vậy vì nếu là một người chồng, người cha tốt thì dù thế nào họ cũng phải thừa nhận với mọi người và chăm sóc vợ con đàng hoàng. Đằng này ông Hồ không hề thừa nhận mình có vợ, con và đối xử với họ tàn tệ. Xưa có câu “Hổ dữ không ăn thịt con” vậy mà ông Hồ không coi trọng nghĩa phu thê, cũng chẳng thương con cái thì làm sao ông ta có thể là vị “Thánh” yêu nước, thương dân như đảng cộng sản tuyên truyền và ông ta tự nhận? Hãy điểm qua những sự kiện chính để thấy điều này.

Người Vợ Tăng Tuyết Minh:

Bà Tăng Tuyết Minh là một người Trung quốc đã kết hôn với ông Hồ khi ông ta còn mang danh là Lý Thụy. Cho đến bây giờ đảng cộng sản vẫn giấu nhẹm việc này, nhưng để chứng minh cho bạn đọc nhất là những người còn tin vào ông “thánh” Hồ Chí Minh thì không phải là một điều khó khăn.

Đầu tiên, trên Wiki có bài viết về bà Tăng Tuyết Minh với đoạn như sau:

Tăng Tuyết Minh (chữ Hán: 曾 雪明, 1905–1991) là một phụ nữ Trung Quốc. Theo nghiên cứu của một số học giả Trung Quốc, Pháp, và Hoa Kỳ thì bà đã kết hôn với Hồ Chí Minh, khi đó có bí danh là Lý Thụy vào năm 1926 và đã sống chung với ông được nửa năm cho đến khi ông phải rời Trung Quốc sau vụ chính biến năm 1927.[1][2] Sau này khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai người đã tìm cách liên lạc nhau nhưng không được… Tháng 10 năm 1926, hôn lễ giữa Lý Thụy, (bí danh hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khi đó) và Tăng Tuyết Minh được tổ chức tại nhà hàng Thái Bình, với sự chứng kiến [3] của Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một số học viên khóa huấn luyện phụ vận.[4] Đây cũng là địa điểm mà Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức kết hôn trước đó một năm.
(http://vi.wikipedia.org/wiki: Tăng Tuyết Minh)

Hẳn mọi người còn nhớ ở phần 8 tôi đã chứng minh Lý Thụy chính là một bí danh của ông Hồ khi ông ta hoạt động ở Trung Quốc và Thái khi ông ta chủ mưu bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp. Và bài viết trên Wiki chỉ rõ ông Hồ-Lý Thụy đã cưới bà Tăng Tuyết Minh. Như vậy có thể coi bà Minh là vợ đầu tiên của ông Hồ có hôn thú và hôn lễ đàng hoàng.

Thứ hai, hiện nay có một bức thư của ông Hồ - Lý Thụy gửi bà Tăng Tuyết Minh, đã bị mật thám Pháp tại Đông Dương chặn được và giữ lại ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d’Outre-Mer - Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence (Daniel Hémery, HO CHI MINH De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.) Khi ở Thái Lan ông Hồ đã viết bức thư này có nội dung như sau:

“Dữ muội tương biệt,
Chuyển thuấn niên dư,
Hoài niệm tình thâm,
Bất ngôn tự hiểu.
Tư nhân hồng tiện,
Dao ký thốn tiên,
Tỷ muội an tâm,
Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnh
Nhạc mẫu vạn phúc.
Chuyết huynh Thụy.”

Dịch nghĩa: “Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về, Thụy”.

Rõ ràng đây là bức thư gửi người mà ông ta sau này lấy làm vợ. Điều này khẳng định ông Hồ có người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh.

Thứ ba, Theo bài Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh, đã đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 12-2001 xuất bản tại Nam Ninh của Hoàng Tranh (Huang Zheng) có viết:

“Tháng 5 năm 1950 Tăng Tuyết Minh nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên Nhân dân Nhật báo cùng với tiểu sử, bà tin chắc đó chính là vị Chủ tịch Việt Nam. Bà đã cố gắng liên lạc với ông qua đại sứ Hoàng Văn Hoan và tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng tất cả cố gắng của bà đều không thành.”

Tăng Tuyết Minh khi đã cao tuổi. Trên tường
nhà có treo ảnh Hồ Chí Minh (viet.com.cn)

Đây là một tác giả của Trung cộng đã thừa nhận việc ông Hồ có vợ con là sự thật. Việc sau này bà Minh lấy ông Hồ và treo ảnh ông ta trong nhà cũng nói lên sự thật là ông Hồ có vợ là bà Minh.

Thứ tư, trong cuốn sách được in năm 1986 tại Liên Xô có tên “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của Mikhail Vasaep - một học giả, nhà nghiên cứu thuộc phân viện lịch sử đảng cộng sản Liên Xô cũ -  tại trang 363: “...Ông Hồ Chí Minh cưới người vợ Tăng Tuyết Minh tại Trung quốc sau khi được ông Lâm Đức Thụ tích cực thu xếp…”

Như vậy có thể khẳng định việc ông Hồ lấy bà Tăng Tuyết Minh là sự thật qua tài liệu này của tác giả đảng viên đảng cộng sản Liên Xô.

Thứ năm, một nhà nghiên cứu thiên tả là bà Quinn khi đề cập đến người vợ Trung Quốc của ông Hồ cũng đã nói trong cuốn sách “Ho Chi Minh: The Missing years” của mình: “Vì một vài lý do nào đó các giới chức tại Hà Nội vẫn chưa chịu đả động gì đến những điều tiết lộ theo đó ông Hồ có liên hệ tình cảm thực sự với những người thuộc lời kể của ông Hoàng Tranh và những tài liệu của phía Liên Xô khẳng định ông Hồ cưới bà Tăng Tuyết Minh năm 1926.

Thứ sáu, theo tác giả Daniel Hémery: “Lý Thụy không gặp lại được vợ mình là Tăng Tuyết Minh từ sau năm 1927, có thể vì Tuyết Minh bị thất lạc do chiến tranh quốc cộng ở Trung Hoa vào đầu năm 1927.” (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l''Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 63, 145.)

Ở đây cũng cần nói thêm báo Tuổi Trẻ của Thành đoàn Thanh niên CSHCM thành phố Hồ Chí Minh đã trích đăng tài liệu của Daniel Hémery trong số báo ngày 18-5-1991. Tổng biên tập báo này lúc đó là bà Kim Hạnh liền bị kiểm điểm và bị mất chức.

Kết luận: Qua sáu dẫn chứng chúng ta có thể thấy ông Hồ thật sự đã cưới bà Tăng Tuyết Minh chứ không phải là cả cuộc đời cô độc, không lấy vợ để lo cho dân tộc như ông ta và đảng cộng sản tuyên truyền. Và sự thật là sau khi đã có thể coi như là “Công thành danh toại” thì ông Hồ lại không thừa nhận và hỏi thăm bà Tăng Tuyết Minh. Như vậy để có thể thấy ông Hồ đâu có phải là người trọng nghĩa phu thê, và là người chồng tồi.

Bà Nguyễn Thị Minh Khai:

Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941),
một trong những đảng viên đầu tiên
của đảng CSĐD -
Nguồn/Ảnh: Ho Chi Minh , A life,
William J. Duiker/TTXVN.

Theo Wiki: “Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình, nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Minh Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm 1930.”
(http://vi.wikipedia.org/wiki: Nguyễn Thị Minh Khai)

Để chứng minh cho việc trước khi lấy ông Lê Hồng Phong thì bà Minh Khai chính là vợ của ông Hồ xin được dẫn chứng như sau:

Đầu tiên, trong tập thư của đảng cộng sản Liên Xô hiện lưu trữ tại cục lưu trữ liên bang Nga có một danh sách gửi tới Moscow về tên người tham gia hội nghị đảng cộng sản quốc tế năm 1935 có nói đến việc bà Minh Khai có chồng tên là Lin. Sự việc này cũng được nhà báo Bùi Tín ghi lại trong cuốn sách của mình (Thành Tín, sđd. tr. 151.):

Ngày 25-7-1935, tới Moscow khai mạc đại hội cộng sản quốc tế. Phái đoàn đại diện đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm có: Lê Hồng Phong, Quốc, Kao Bang, vợ Quốc và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao đến. Khi đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và mở ngoặc tên chồng là Lin. Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó. Những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tới nhà ở tập thể của các cán bộ cộng sản cũng đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng, chung giường, chung đồ dùng...”.

Cũng cần phải nói thêm Lin chính là một trong những bí danh của ông Hồ. Trên website của tỉnh Thừa Thiên Huế có xác nhận Lin là một trong những bí danh của ông Hồ. Xin giới thiệu link đề bạn đọc kiểm chứng:
http://bachovoihue.

Và cũng một website nữa của đảng cộng sản Việt Nam khẳng định Lin chính là một trong những bí danh của ông Hồ. Đây là bài viết trên website của bộ Nông Nghiệp Việt Nam (Cac but danh cua Bac Ho). Bài viết trên của ông Nguyễn Lân Dũng có đoạn: “Lin: Dùng tại 5 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1935 đến tháng 9 năm 1939.”

Như vậy có thể khẳng định Lin chính là ông Hồ và ông ta đã có vợ là bà Nguyễn Thị Minh Khai như chính bà ta khai khi đi họp ở Moscow.

Thứ hai, theo lời con gái của bà Vera Vasilieva - một nhân viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng Sản, kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Bùi Tín viết lời trong “Về ba ông thánh”, thì trong thời gian diễn ra đại hội này, ông Lin hay ghé nhà bà Vera Vasilieva thăm, và thường đi cùng với một phụ nữ Việt Nam tên là Phan Lan. Phan Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai dùng khi ở Moscow.

Như vậy có thể khẳng định nếu ông Hồ và Minh Khai chính là cặp bài trùng không những chỉ là đồng chí mà còn chính là vợ chồng như chính bà Minh Khai tự khai.

Để minh chứng cho cái tên Phan Lan chính là Minh Khai tôi xin được nêu dẫn chứng - đó là đoạn trích trong bài viết “Tổng Bí thư Lê Hồng Phong và chị Minh Khai: Một tình yêu lớn” trên tờ Báo Mới của đảng cộng sản Việt Nam:

“Trong Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và Minh Khai đều có tham luận. Minh Khai đề cập đến "Vai trò phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống việc chuẩn bị chiến tranh chống đế quốc mới, đấu tranh cho hòa bình". Bài phát biểu của Phan Lan (bí danh của Minh Khai), đại biểu trẻ nhất Đại hội đã gây được tiếng vang và cảm tình của nhiều người”.

Thứ ba, xin được nói rõ hơn về cuốn sách của bà Quinn – một người thiên tả người Mỹ đã nói về sự kiện ông Hồ và bà Minh Khai là vợ chồng. Khám phá ra việc bà Minh Khai là vợ ông Hồ do tiến sĩ Sophie Quinn-Judge tìm ra khi tham khảo các tài liệu của Quốc Tế Cộng sản ở Nga sau khi chế độ Cộng sản bị tan vỡ cùng với Liên Bang Xô Viết vào năm 1989. Chi tiết này đã được bà Quinn-Judge, một chuyên gia nghiên cứu về đảng CSVN và đặc biệt cuộc đời ông Hồ, công bố trong cuốn sách “Ho Chi Minh: The Missing Years (1914-1941)” do University of California Press xuất bản.

Đề cập các tài liệu liên quan tới ông Hồ được Quốc Tế Cộng Sản lưu giữ ở Nga, bà Quinn-Judge cho biết:

“Đống hồ sơ này cũng chẳng có được bao nhiêu, sắp xếp lộn xộn, đôi khi in lại hoặc đánh máy, cũng có khi nguyên bản như một lá thư, một vài tài liệu có chữ ký của ông Hồ Chí Minh hoặc ký tắt với danh xưng là Quak, Quac, NAQ hoặc với bí danh là Lee hay là Lin. Sau này khi tra khảo tới các hồ sơ lưu trữ về thuộc địa của Pháp tại Aix-en-Provence, tôi thấy có được lợi ích là góp phần để sắp đặt cho các tài liệu về Quốc Tế Cộng sản theo thứ tự hợp lý hơn dựa vào các tài liệu tại hai nơi thường khi cùng ghi nhận đến các diễn biến như nhau.”

Liên quan tới ông Hồ và bà Minh Khai, bà Quinn-Judge cho biết:

“Một tiết lộ khác được khám phá qua các tài liệu này là có hai sự kiện liên quan đến thời kỳ hoạt động của bà Nguyễn Thi Minh Khai chứng tỏ bà là vợ của ông Hồ Chí Minh.

Một sự kiện thể hiện qua lá thư được viết vào năm 1934 của ông Hà Huy Tập gửi tới Ban Bí Thư Miền Đông, nêu tên đại biểu được cử đi tham dự Đại Hội Quốc Tế Cộng sản lần thứ bảy, trong đó có một người nói là 'vợ của Quốc,' còn sự kiện kia là ở một chỗ khác thấy nói tới danh xưng người đàn bà đó là bà Vãi (bà Minh Khai vào thời gian những năm đầu hoạt động có làm nghề hàng vải). Vì trong phái đoàn chỉ có một phụ nữ cho nên dĩ nhiên đó phải là có ý nói tới bà Nguyễn Thi Minh Khai. Sau này tại Mạc Tư Khoa, khi phải làm tờ khai lý lịch cá nhân, khi điền vào câu hỏi về tình trạng gia đình bà đã ghi là có chồng và kể tên chồng là Lin. Đó cũng là danh xưng của ông Hồ tại Mạc Tư Khoa kể từ năm 1934 cho đến năm 1938.”

Thứ tư, cũng cần nhắc lại cuốn sách “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của một học giả Liên Xô cũ có tên Mikhail Vasaep đã đề cập ở trên có viết tại trang 366:

“Ông Hồ Chí Minh cũng đã có người vợ là người Việt Nam cũng là đồng chí của mình từ năm 1933 sau khi ông không còn liên lạc gì với người vợ đầu tiên Tăng Tuyết Minh. Người vợ thứ hai của ông Hồ Chí Minh chính là nữ chiến sỹ cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu – Nguyễn Thị Minh Khai”.

Có thể nói cuốn sách của ông Vasaep xuất bản năm 1986 trước khi bà Quinn đưa ra cuốn sách của mình cho thấy chính người cộng sản Liên Xô đã biết rất rõ sự việc bà Minh Khai là vợ ông Hồ Chí Minh. Cuốn sách của ông Vasaep ít được biết đến vì ngay khi xuất bản đã bị đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô phản đối vì sợ lộ bí mật về hình tượng “ông Thánh” và bị cấm xuất bản. Chỉ có vài chục cuốn được giấu đi và tôi may mắn được một người thân đã từng đi Liên Xô lao động về cho tham khảo.

Kết luận: Qua bốn dẫn chứng chúng ta có thể thấy thêm một người vợ nữa của ông Hồ chính là bà Nguyễn Thị Minh Khai - người sau này lấy ông Lê Hồng Phong làm chồng thứ hai của mình. Và cũng giống như người vợ đầu Tăng Tuyết Minh, ông Hồ chưa bao giờ dám thừa nhận có lẽ vì ông ta sợ mang tiếng là nhiều vợ, lừa dối nhân dân về sự tận tụy của mình quên cả hạnh phúc riêng cho dân tộc và trên hết là cá nhân ông ta coi những người phụ nữ chỉ là món đồ chơi mà thôi.

Người có tên Đỗ Thị Lạc:

Ngoài hai người vợ trên ông Hồ còn có thêm một người phụ nữ thứ ba tên là Đỗ Thị Lạc. Thậm chí bà này còn có một người con gái cùng ông Hồ. Có ít người biết về bà Lạc nhưng sự thật là ông Hồ và bà Lạc đã có con gái mà đến nay không biết người con ấy sống chết ra sao sau khi ông Hồ bỏ rơi người con này.

Khi Tiêu Văn đồng ý cho ông Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), cộng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Ông Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944. Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức “chị Thuần”. Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều, Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với ông Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Do tình hình biến chuyển, ông Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS dưới bí danh Lucius vào tháng 3-1945. Đầu tháng 5-1945, ông Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó. Chuyện tình giữa ông Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Minh Khai, Tăng Tuyết Minh bị giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa. Để minh chứng cho câu chuyện này tôi xin dẫn chứng sau đây:

Đầu tiên, trong cuốn sách “Một cơn gió bụi” của sử gia, nhà chính trị Trần Trọng Kim đã được tôi giới thiệu ở phần 12, trang 75 của cuốn sách viết: “Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm và họ đã có một người con gái chung”.

Hẳn chúng ta cũng biết ông Trần Trọng Kim đã sống cùng thời với ông Hồ và là nhà viết sử hết sức trung thực nên những gì ông viết đáng để chúng ta tin cậy. Tuy nhiên nếu chỉ có mình đoạn trích nêu trên của ông thì khó có thể làm ta tin được sự việc có con gái của ông Hồ và bà Lạc. Xin nêu thêm những dẫn chứng khác sau đây:

Thứ hai, trong cuốn sách “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của học giả Liên Xô cũ Mikhail Vasaep đã đề cập ở trên có viết tại trang 368: “Có một người phụ nữ đã sinh cho ông Hồ Chí Minh một người con gái tại Cao Bằng (một địa danh ở Phía Bắc Việt Nam) nhưng sau này vì nhiệm vụ với cách mạng, ông Hồ Chí Minh dường như không muốn thừa nhận cháu bé …”

Đoạn trích không nói rõ tên người phụ nữ là ai nhưng những gì tác giả Liên Xô đã nói trùng khớp với nội dung về người con gái chung, nơi ở của bà Lạc mà sử gia Trần Trọng Kim đề cập. Điều này cho thấy ông Hồ thực sự có người tình và người con mà ông ta không công nhận.

Thứ ba, chúng ta cũng nên quay lại với cuốn sách của tác giả Hà Cẩn mà tôi đã từng nhiều lần giới thiệu. Trong phần 9 khi tôi đã giới thiệu về tác giả Trung cộng này (Viện Văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang, có đoạn ở trang 134 tạm dịch: “Cũng là đồng chí Cách mạng nhưng Mao chủ tịch không có đời sống tình ái bi đát như Hồ chủ tịch. Hồ Chủ tịch thậm chí có một người con gái với người đồng chí tên Thuần ở Pacbo mà không được công bố...”

Như đã biết người con gái tên Thuần kia chính là bí danh hoạt động của bà Đỗ Thị Lạc và những gì sử gia Trung cộng đề cập rất đúng với những nghiên cứu của sử gia Trần Trọng Kim và Vasaep.

Kết luận: Vậy qua 3 dẫn chứng có thể thấy ông Hồ đã có một người con gái với người tình Đỗ Thị Lạc. Sở dĩ tôi gọi bà Lạc chỉ là người tình vì không thấy ai đề cập đến lễ cưới cũng như hôn thú của bà và ông Hồ. Hay nói cách khác bà Lạc chỉ là một trong những người tình qua đường của ông Hồ. Và hành động không nhận, không nuôi người con gái của ông và bà Lạc cũng cho thấy bản chất vô trách nhiệm của ông ta với chính giọt máu của mình. Hay nói cách khác người con không biết sống chết thế nào của ông Hồ chỉ là kết quả ngoài mong đợi của ông ta trong chuỗi hành trình đi tìm thú vui xác thịt cho bản thân.

Người đàn bà đoản mệnh Nông Thị Xuân:

Bà Nông Thị Xuân, sau đổi là Nguyễn Thị Xuân, sinh năm 1932, mất năm 1957. Chụp cuối năm 1956 tại Hà Nội sau khi đẻ Nguyễn Tất Trung.

Mối tình với cô gái người Nùng tên Nông Thị Xuân được bạch hóa rõ ràng nhất qua nhiều nhân chứng còn sống viết và kể lại. Tại Hà Nội, cô Xuân được lệnh ở nhà riêng số 66 Hàng Bông Nhuộm, nhưng vẫn phải đến ‘gặp’ bác Hồ. Năm 1956, Nông Thị Xuân sinh cho ông Hồ một người con trai đặt tên Nguyễn Tất Trung. Sau đó Xuân có ý muốn chính thức hóa cuộc hôn nhân với ông Hồ. Ngày 11 tháng 2, 1957, vào khoảng 7 giờ tối, Xuân được ô tô đón sang gặp ông Hồ. Sáng hôm sau, ngày 12 tháng 2, 1957, công an báo tin cho cô Vàng (em cô Xuân) là Xuân đã chết vì tai nạn ô tô. Liền sau đó cô Vàng đến thăm xác chị ở nhà thương Phủ Doãn và chứng kiến biên bản khám nghiệm tử thi của bác sĩ. Bác sĩ cho biết nạn nhân không chết vì tai nạn ô tô, vì khám toàn cơ thể không có dấu hiệu gì cả ngoại trừ vết nứt trên sọ đầu, và bác sĩ đã tuyên bố, có thể nạn nhân bị trùm chăn trên đầu rồi bị đập bằng búa...

Cô Vàng vội chạy về báo tin ngay cho người chồng sắp cưới là một bộ đội đang bị thương tật sống ở tỉnh Cao Bằng. Vàng biết chắc rằng cô cũng sẽ bị thủ tiêu vì cô chứng kiến sự thật chị của cô do ông Hồ âm mưu sát hại. Thật vậy, ngày 2 tháng 11, 1957, cô Vàng bị giết chết và xác được tìm thấy trên sông Bằng Giang, đến ngày 5 tháng 11 xác mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ.

Tin này được phổ biến rộng rãi hơn nhờ lá thư của anh bộ đội này đệ lên Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Quốc Hội CHXHCN VN, vào ngày 29 tháng 7, 1983, trước khi anh qua đời sau cơn bạo bệnh. Trong lá thư anh bộ đội đã kể đầy đủ chi tiết những gì cô Vàng đã kể cho anh nghe, cả việc Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn được ông Hồ Chí Minh giao phó trông coi cô Xuân. Trong thư kể lại hình ảnh Trần Quốc Hoàn đã hãm hiếp cô Xuân rất tàn nhẫn trước đó một tuần khi được lệnh giết cô Xuân... Năm 2007, nhà văn đấu tranh trong nước, bà Trần Khải Thanh Thủy, đã tìm hiểu về tông tích của Trung và chính bà đã tìm gặp anh ta. Qua việc kể lại của Trần Khải Thanh Thủy người ta không ngần ngại gì nữa khi cho rằng Nguyễn Tất Trung chính là con của ông Hồ. Được biết anh ta hiện đang được Đảng ‘nuôi’ đàng hoàng trong khu nhà sang trọng tại Hà Nội.

Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), bí danh Sao đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé Trung năm tuổi (1961), người ta lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Chu Văn Tấn cùng sắc tộc Nùng với bà Xuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị cứu quốc quân đầu tiên của cộng sản ở vùng rừng núi Việt bắc. Khi ông Hồ qua đời ngày 2-9-1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung. Để minh chứng cho điều này tôi xin dẫn chứng sau đây:

Hình ảnh vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên cùng con là Nguyễn Thanh Trung (bên phải) tại gia đình ông Vũ Kỳ vào năm 1998; người có râu trắng dài là ông Vũ Kỳ (giữa)

vợ chồng Trung và Duyên bên dòng suối ở Hang Pắc BóHình ảnh vợ chồng Trung và Duyên bên dòng suối ở Hang Pắc Bó - Cao Bằng (suối Lê Nin)

Đầu tiên, Toàn bộ lá thư của anh bộ đội được đăng trong cuốn “Công Lý Đòi Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần, Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, xuất bản 1997 bởi nhà xuất bản Văn Nghệ dày 394 trang. Ông hiện tỵ nạn chính trị tại Nga. Chúng ta cũng có thể xem giới thiệu cuốn sách tại link sau:

http://books.google.com.vn/

Cuốn sách của tác giả Nguyên Minh Cần có đoạn:

“Bây giờ xin quay trở lại câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau: cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặng Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, "nói là để phục vụ Bác Hồ". Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Đệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.

"Em có nhiệm vụ bế cháu", đấy là lời Vàng kể lại cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây. Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co dúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết". Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước". Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi" Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái”.

Qua những gì tác giả Nguyễn Minh Cần cho ta thấy thực sự ông Hồ và bà Xuân có con trai tên là Tất Trung và sau đó bà ta bị giết bởi Trần Quốc Hoàn.

Thứ hai, câu chuyện cô Xuân này cũng được nhắc tới trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên, cũng một cựu đảng viên, con trai của ông Vũ Đình Huỳnh - là cận vệ, giúp việc, lễ tân trang phục, thư ký riêng, rất gần gũi với ông Hồ. Trong cuốn sách này ông Hiên đã đề cập đến việc ông Hồ có người con tên Nguyễn Tất Trung với bà Nông Thị Xuân rồi bà Xuân bị Trần Quốc Hoàn thủ tiêu.

Cũng cần nói thêm khi ông Vũ Thư Hiên gặp ông Nguyễn Minh Cần tháng 7 năm 1993 cũng đã nói với ông Cần, sau này được ông Nguyễn Minh Cần kể lại:

“Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ", tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng", đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ Đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lới: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà". Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật...”

Như vậy có thể khẳng định về việc ông Hồ và bà Xuân có người con và sau này bà Xuân bị thủ tiêu là sự thật.

Thứ ba, ngoài hai nhân chứng là ông Nguyễn Minh Cần và ông Vũ Thư Hiên thì chính người Trung cộng đã biết việc này và coi nó như một vết nhơ mà đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh muốn giấu nhẹm đi để che đậy sự thật ông Hồ là người nhiều vợ con và không có trách nhiệm với gia đình mình. Chính tác giả Hà Cẩn tôi đã giới thiệu ở trên cũng vẫn trang 134 có viết tiếp về những người vợ của ông Hồ: “Ngoài người con gái với người phụ nữ tên Thuần, Hồ chủ tịch cũng còn có người con trai khác mà mẹ của anh ta bị chết một cách đầy ngờ vực trong một tai nạn giao thông tại Hà Nội.”

Điều này càng khẳng định thêm về sự thật mới quan hệ của ông Hồ và bà Xuân dẫn đến kết quả có con trai và bà Xuân bị giết. Tác giả Hà Cẩn không nói rõ thủ phạm là ai nhưng khi đề cập đến vụ án “đầy ngờ vực” cho thấy ngay cả đồng chí của ông Hồ cũng đặt dấu hỏi về ông Hồ và đảng cộng sản trong cái chết của bà Xuân.

Thứ tư, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh một sử gia, đảng viên đảng cộng sản Ba Lan - ông Constatin Kostadinov cũng đã viết tại trang 90 cuốn sách “Những người con của lãnh tụ” như sau: “Một người con trai của chủ tịch Hồ Chí Minh có tên Nguyễn Tất Trung được nuôi nấng bởi trợ lý riêng của chủ tịch nhưng đã không nối nghiệp cha làm chính trị….”

Cuốn sách được viết năm 1982 và in năm 1984 bởi nhà xuất bản Cách Mạng ở Ba Lan. Chính việc này cũng khẳng định về cuộc tình và kết quả của ông Hồ với bà Xuân.

Kết luận: Qua 4 dân chứng chúng ta có thể thấy mối tình của ông Hồ và bà Xuân là có thật và được kết thúc bằng một số phận người con không được thừa nhận và cái chết bi đát của bà Xuân cũng như em gái bà.

Một người phụ nữ Nùng khác – Nông Thị Trưng

Một phụ nữ cũng người sắc tộc thiểu số, Tầy, khá xinh đẹp tên Nông Thị Ngác. Lý do câu chuyện tình đặc sắc này được nổi bật những năm sau này là do cuộc phỏng vấn của tờ báo Xuân tại Việt Nam vào khoảng năm 1997. Nhà báo có phỏng vấn bà Nông Thị Ngác, một chứng nhân sống nói về ‘Bác Hồ’. Bà Ngác đã không dấu giếm chi cả những gì đã xảy ra trong thời gian ông Hồ tại hang Pác Bó vào đầu thập niên 40. Bà kể hằng ngày Ngác đến ‘học tập’ với ông Hồ ròng rã cả năm. Hồ căn dặn Ngác không nên gọi Hồ bằng ‘Bác’ mà hãy gọi là ‘Chú Thu’ và xưng ‘Cháu’. Thế thì sau đó chú cháu tiếp tục học tập...

Khi ông Hồ cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà ông Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác, lại được cất chức làm Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng.... Ông Hồ yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. ‘Chú Thu’‘Cháu Trưng’ cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giả Trần Khuê, Thép Mới...

Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang 48) rằng sau 20 năm ngày rời Pác Bó, ông Hồ trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, ông Hồ tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm, người mà trước đây ông Hồ đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật... Tác giả còn nhấn mạnh một trong các cháu đã trở thành ‘thanh niên tuấn tú’ góp phần xây dựng đất nước.

Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo...” Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.

Để chứng minh cho mối quan hệ của bà Ngác với ông Hồ tôi xin được trình bày những tài liệu sau đây.

Đầu tiên, trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker – một người thiên tả, trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP” (Vietnamese Communist Party- 14).

Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: “Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho's servant after the latter's return to Vietnam during the early 1940s...”

Tạm Dịch: “Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.”

Chúng ta cũng biết ông Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942. Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, website của “Đảng CSVN” đã xóa hoàn toàn tiểu sử của ông Nông Đức Mạnh trước đó ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị”.

Vấn đề đặt ra là tại sao khi có cuốn sách của Duiker và Time phỏng vấn ông Mạnh thì tiểu sử phải bị xóa bỏ trong khi ông Mạnh là người đứng đầu đảng, việc minh bạch cha mẹ mình trên website của chính phủ có gì sai? Đó chính là việc minh chứng cho ông Mạnh chính là con của bà Ngác và ông Hồ bị cố tình giấu giếm đi.

Thứ hai, cũng liên quan đến sự việc ông Hồ có con với và Ngạc và có con trai, tác giả người Nga, Mikhail Vasaep cũng đề cập tới trong cuốn sách của mình đã được tôi giới thiệu ở phần trên trong trang 372 “Cũng có những nguồn tin đáng tin cậy từ KGB cho biết có một người con trai của Hồ Chí Minh với người phụ nữ tên Nông Thị Trưng được nuôi nấng bời một gia đình người dân tộc thiểu số tại Cao Bằng...

Như vậy có thể khẳng định thêm thông tin ông Hồ có con với bà Nông Thi Trưng (Ngác) là hoàn toàn có thật. Và người con đó chính là ông Mạnh với những thông tin được nêu ra từ W. Duiker.

Thứ ba, khi đề cập đến vấn đề quan hệ với bà Nông Thi Trưng thì tác giả Constatin Kostadinov đã giới thiệu ở trên trong cuốn “Những người con của lãnh tụ” xuất bản năm 1984 tại Ba Lan có viết tại trang 92 “Thật ra trong một nghiên cứu cho thấy chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một mà có những hai con trai nhưng đến nay chưa biết số phận chính trị có giống như người con mang tên Nguyễn Tất Trung hay không...”

Chúng ta nên nhớ vào thời điểm cuốn sách của ông Kostadinov ấn hành thì ông Mạnh chưa có những dấu ấn trên chính trường (năm 1984) nên nhận xét của ông Kostadinov rõ ràng là hợp lý. Nhưng cũng cho thấy về đứa con của ông Hồ không chỉ một mà là 2 con trai.

Thứ tư, chính tác giả Hà Cẩn trong cuốn sách của mình đã được giới thiệu ở trên cũng từng viết tại trang 135 “Bi kịch tình ái của Hồ Chủ Tịch không chỉ dừng lại ở những bà vợ không được thừa nhận mà còn kể cả 2 người con trai của Chủ Tịch. …”

Đến đây ta có thể khẳng định tác giả Hà Cẩn đã ám chỉ về Nguyễn Tất Trung và ông Nông Đức Mạnh là con của ông Hồ Chí Minh. Nhưng dù cho có là ai đi nữa thì tác giả cũng khẳng định ông Hồ có nhiều con và có nhiều vợ không được thừa nhận.

Kết luận: Qua 4 dẫn chứng trên chúng ta có thể thây được ông Hồ và bà Ngác có một mối quan hệ già nhân ngãi non vợ chồng và có con trai là sự thật. Và sản phẩm đó chính là ông Nông Đức Mạnh.

Vài mối tình ngoài lề cần tìm hiểu thêm

Ngoài 5 người phụ nữ để lại dấu ấn bằng con cái và thảm kịch, có hôn thú như nêu trên thì còn có nhiều người phụ nữ từng là người tình của ông Hồ hay được ông ta thích thú. Điều này cho thấy ông ta không hề “hết mình lo cho dân tộc” như đảng cộng sản và ông ta tự bốc thơm mình. Và quan trọng hơn một người có nhiều vợ lại có nhiều người tình như vậy khó có thể là “vị thánh” được. Những câu chuyện về Huỳnh Thị Thanh Xuân, Phương Mai hay vợ ông Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu… chưa có nhiều tài liệu kiểm chứng nên tôi không nêu ra ở đây. Trên nguyên tắc tôn trọng sự thật và không đi sâu vào bôi nhọ cá nhân nên tôi chỉ nêu lên những gì đã có bằng chứng khách quan nhất.

Ngoài ra bạn đọc cũng nên tìm hiểu cho mình về sự thật về những người tình của ông Hồ sau đây khi đã có những nguồn tin khách quan nói đến.

Một trong những người phụ nữ Tây Phương có cô Marie Bière. Thành Tín tức Bùi Tín ghi trong “Về Ba Ông Thánh”, xuất bản 5/1995, (trang 149): “Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Biere nào đó...” Cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham khảo của Sophia Judge, một nữ sử học gia Hoa Kỳ rành tiếng Việt đã bỏ nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về ông Hồ, nhất là 2 năm tại Moscow... Ông Hồ có người tình tên Vera Vasilieva. Vera có con gái riêng, và cô này kể cho bà Sophia nghe. “Về Ba Ông Thánh”, (trang 151): “Vào dịp đại hội 7 của quốc tế cộng sản, cô ta mới 10 tuổi, nhưng còn nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ lại trên ghế dài vào năm 1934...”

Theo tài liệu của bà Sophia Judge, Bùi Tín, cùng sách trên (trang 153): “Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Ông còn để lại khi về nước một va-ly áo quần ông sắm cho vợ ông toàn là loại sang, cô bé Nga này lấy ra dùng bao nhiêu năm mới hết!” Hồ Chí Minh còn ‘yêu’ cả vợ của Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu khi đang dan díu với người phụ nữ Nga Vera này.

Ngoài ra, trong “Ho Chi Minh” tác giả William Duiker có ghi một phụ nữ trẻ khác tên Lý Sâm, lúc đó là vợ của Hồ Tùng Mậu, đồng chí của ông Hồ: “Lý Sâm và HCM đã bị cảnh sát Hongkong bắt tại một phòng hotel khi hai người đang trong phòng ngủ, lúc 2 giờ sáng ngày 6, tháng 6, 1931.”

Sau khi bị tù tại Hongkong, Hồ có tên mới là Tống Văn Sơ. Sau khi rời khỏi HongKong HCM đổi nhiều tên họ khác nhau để tiếp tục hoạt động. Có những nguồn tin cho biết khi ông trở về lại Nga, đàn anh cũng đã tìm cho ông Hồ một người phụ nữ Nga để làm vợ...

Trong cuốn “Con Rồng Việt Nam” tác giả cựu hoàng Bảo Đại ghi “Hồ Chí Minh có một người vợ Nga và có chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến” (trang 205). Sở dĩ cựu hoàng Bảo Đại biết chuyện này nhờ những dịp đi ‘công tác’ với Võ Nguyên Giáp vào 1945. Ông Giáp đã kể lại một số sự thật về HCM, lúc này Bảo Đại mới biết rõ HCM là tên quốc tế cộng sản nên tìm đường lưu vong.

Kết luận chung: Như vậy qua 6 phần chúng ta thấy ông Hồ có rất nhiều vợ, người tình và con cái chứ không phải là một “vị Thánh” như ông ta và đảng cộng sản tung hô cả đời không vợ con mà chỉ lo cho dân tộc. Đây chính là một trong những hành động nói lên sự xấu xa của người cha không nhận con, người chồng không nhận vợ, người lãnh tụ nói dối dân tộc về mình.

B. Bản chất của sự việc?

Có thể nói chuyện tình ái và chuyện có nhiều vợ con cũng chẳng là chuyện to tát. Ngày nay việc sống như vậy càng dễ được chấp nhận hơn. Các vị lãnh tụ có vợ nọ con kia là điều không quá xa lạ nhưng họ dám thừa nhận hoặc được pháp luật các nước đó phanh phui ra. Nhưng điều này với ông Hồ và đảng cộng sản lại khác. Xin được nói rõ ở đây.

Thứ nhất, đối với cá nhân ông Hồ khi ông ta có vợ con mà ông ta không chịu nhận họ, thậm chí còn làm ngơ với cái chết của họ như trường hợp bà Xuân là một tội ác. Như vậy ông ta thật là một người cha và người chồng xấu.

Thứ hai, đối với dân tộc ông Hồ cũng là kẻ lừa dối khi ông ta sinh thời không chịu công khai về vợ con mình mà để yên cho đảng cộng sản tự tung, tự tác bốc thơm ông ta không có vợ con, chỉ dành hết tâm huyết cho dân tộc và đất nước.

Thứ ba, chính đảng cộng sản cũng phải chịu trách nhiệm với ông Hồ Chí Minh về việc cùng ông ta bưng bít sự thật về những lý lịch bất minh của ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Tất Trung. Nhất là đối với một người từng giữ chức Tổng bí thư như ông Mạnh là vi phạm pháp luật. Hãy nhìn sang Mỹ để thấy ông Obama công khai lý lịch của mình từ cái giấy khai sinh cho thấy đảng cộng sản không tôn trọng pháp luật và coi thường nhân dân Việt Nam.

Thứ tư, chúng ta có thể thấy sự việc ông Hồ không công khai vợ con cho thấy trong chế độ cộng sản luôn luôn tồn tại khái niệm dối lừa mà đến cả một chuyện cỏn con như chuyện có vợ con cũng bị bưng bít sự thật. Đó là sự tồi tệ của chính thể cộng sản cần phải dẹp bỏ.

Vậy bản chất sự việc không thừa nhận vợ con của ông Hồ và hành động bưng bít của đảng cộng sản ở đây nói lên điều gì? Đó chính là muốn tiếp tục lừa dối dân tộc về một con người thánh thiện giả tạo như ông Hồ để tiếp tục giữ quyền độc tài đối với dân tộc Việt Nam. Tôi đã gặp nhiều người cho đến nay vẫn bị nhồi sọ với luận điệu “Cả đời Bác không vợ con chỉ lo cho nhân dân...” Bài viết này của tôi chỉ có mục đích nên lên sự thật về chuyện ông Hồ có nhiều vợ con mà ông ta không thừa nhận. Chính ông ta và đảng cộng sản đã lợi dụng điều này để lừa dối dân tộc.

Hoàn thiện và chỉnh sửa 01/09/2012
Đặng Chí Hùng

_____________________________________

P/S:

Kính thưa Dân Làm Báo và bạn đọc!

Đây là bài viết cuối cùng trong loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” của tôi về ông Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn tới Dân Làm Báo đã nỗ lực hết mình trong việc cho đăng tải những bài viết của tôi nhằm trả lại sự thật cho lịch sử đang bị đảng cộng sản bưng bít, bẻ cong để phục vụ cho mục đích độc tài cai trị của mình. Nỗ lực của Dân Làm báo hết sức đáng ghi nhận như một cây cầu kết nối tác giả và bạn đọc đến những sự thật không thể chối bỏ về nhân vật gian ác, bán nước và giết người hàng loạt... như ông Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, riêng cá nhân tôi trong thời gian viết bài đã được sự ủng hộ của rất nhiều bạn đọc mà tôi không thể nhớ hết tên khi đọc comment. Những bạn đọc đó là những độc giả thông minh nhất mà chúng ta đang cần để góp ý cho tôi nói riêng hoặc giúp cho những ai bị nhồi sọ sẽ có ngày tỉnh ra khỏi u mê. Sự đóng góp của bạn đọc là vô giá với những bài viết của tôi. Nếu không có bạn đọc ủng hộ, góp ý thì những bài viết của tôi không đem lại những thành công nhất định về nội dung và dư luận như hiện nay. Chính tôi đôi khi đã tìm thêm được nhiều gợi ý cho những bài sau này khi ở các bài viết trước được nhiều tác giả bổ sung tu liệu.

Xin chân thành cảm ơn bạn đọc ủng hộ nói chung và đặc biệt là những người có đóng góp nhiều nhất cho bài viết của tôi như: Loạt bài của tác giả Lê Nguyên. Bài đóng góp của tác giả Truyền Tấn, Bác Dân Nam với những bài viết và link hay, tác giả Lite_Breeze với những kiến thức về Trung cộng sâu rộng, còm sĩ 1NXX với những đóng góp thông tin phản biện giàu sức nặng và những thông tin pháp lý để tôi tiến hành việc chuẩn bị đưa tội ác Hồ Chí Minh ra công luận quốc tế... Ngoài ra là rất, rất nhiều còm sĩ mà tôi chưa biết mặt, chưa gặp, chưa biết tên thật nhưng đã có những đóng góp tích cực cho loạt bài viết của tôi thêm hoàn thiện: Trực ngôn, BN, PHO, IlluminatiMINDCONTROL, HS-TS-VN, xoathantuong, bác 2 què 1 công dân xứ @, Ju Mong, VN buồn, Hàn sĩ, tieu phu dat quang, MỘT BẠN ĐỌC, Người cảm nhận, Lớp 13, Changkho_thuychung12345632, Người Trẻ Sài Gòn, Lê cửu Long, Danhaiphong, Vitcondaudat, Sinh năm 1980, YVN, Con cháu bác Thiệu, SongBachDang, titanic, em16, SuthatLSVN, Hạ trùng nguyên, Thêm chữ cho Nghĩa, Dân Viêt, Dân Việt Nam, Usa, HK, HKK, Rebecca TSNV, 9xsaigon, Hung Le, Thu Trâm, Dân Chủ, Người Dân, saigon, HT Thich su that… và rất, rất nhiều còm sĩ tôi không thể nhớ và liệt kê ra hết được.

Trong thời gian tới, tôi xin giành thời gian để viết một số bài về các lãnh tụ cộng sản khác như Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… để cho nhân dân ta thấy được bản chất thật sự của đảng cộng sản Việt Nam. Ngoài ra mục đích lớn nhất của tôi là chuẩn bị đưa Hồ Chí Minh và tội ác của ông ta ra Liên Hiệp Quốc và công luận quốc tế.

Ngay sau bài này, tôi sẽ gửi tới bạn đọc một bài “CÁO TRẠNG” tội ác của đảng cộng sản và ông Hồ để bạn đọc góp ý trước khi tôi đi đến các bước tiếp theo cùng tôi đứng lên trả lại sự thật cho nhân dân Việt Nam. Khi có kế hoạch cụ thể tôi xin cùng người đại diện của mình trình bày trên Dân Làm Báo để bạn đọc góp ý, giúp đỡ và ủng hộ.

Xin chân thành cảm ơn Dân Làm Báo và bạn đọc!

Đặng Chí Hùng
danlambaovn.blogspot.com

Dân Làm Báo Blog © 2.9.12

www.geocities.ws/xoathantuong

🔝

13-09-2006 - Ykien.net

Hồ Chí Minh Và Tình Yêu Thắm Thiết Với Cách Mạng Trung Quốc

Hồ Chí Minh, một nhân vật đã đi vào lịch sử Việt Nam với nhiều giai thoại, nhiều điều bí ẩn và khuất tất. Hơn nữa, khi chế độ cộng sản còn đang tồn tại trên đất nước Việt Nam thì những điều bí ẩn đó vẫn mãi mãi nằm trong sự im lặng. Thế nhưng, cổ nhân đã có nói: “cái kim nằm trong bọc lâu ngày rồi cũng lòi ra”, những năm tháng gần đây một số những bí ẩn đó dần dần cũng đã được đưa ra ánh sáng với những bằng chứng, nhân chứng, vật chứng xác thực cụ thể.
Đặc biệt gần đây chính từ đất nước cộng sản “Trung Hoa anh em” lại công bố những tài liệu rất công khai và cụ thể về những điều mà lâu nay đối với cộng sản Việt Nam vẫn là điều tuyệt đối cấm kỵ. Trong thời gian gần đây do các tài liệu đã đến thời hạn “giải mật” (sau 40, 50 năm tùy theo mức độ quy định), một số những chuyện được gọi là “thâm cung bí sử” trong giai đoạn hình thành chế độ cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam đã được những tờ báo rất có uy tín và uy thế ở Trung Quốc sưu tầm và đăng tải. Chúng tôi xin dịch lại nguyên văn (có kèm theo nguyên bản) tài liệu dưới đây từ tờ báo Tin nhanh Văn hóa, kỳ 421, ra ngày 30 tháng 8 năm 2006. Sự việc mà bài báo nêu ra có thể là một thông tin rất hiển nhiên và đã được biết đến từ lâu đối với một số người (trước đây đã có tài liệu nói đến), những đối với đa số nhân dân Việt Nam thì vẫn hầu như không được biết chính xác hoặc vẫn bị coi là những lời đồn thổi thiếu căn cứ, nói xấu lãnh tụ của “thế lực phản động”. Do vậy, mong rằng qua tài liệu này độc giả sẽ có thêm chứng cứ chính xác để hiểu rõ sự thật này và nhiều sự thật khác mà mấy chục năm qua luôn bị chế độ cộng sản che dấu, bóp méo, tô hồng. Chúng ta cũng mong rằng càng ngày sẽ càng có nhiều hơn những tài liệu khác được công bố để đưa những sự thật ra trước ánh sáng công lý, vạch trần bản chất chế độ cộng sản.
Người dịch Quan Công Nhân

Bản dịch không dịch lời dẫn và có chỉnh sửa vài chi tiết cho chính xác hơn

HỒ CHÍ MINH VÀ TÌNH YÊU THẮM THIẾT VỚI CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC

Tôi để trái tim tôi lưu lại với em

Năm 1930, trong lúc khu hành chính tại Bạch Sắc bị khủng bố, các địa bàn khác cũng đang bị địch tăng cường lùng bắt các “phần tử cộng sản”. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đã đến Quảng Châu. Xuất phát từ suy nghĩ bảo vệ an toàn cho mình, ông ta nhờ tỉnh ủy bí mật ở Quảng Đông giúp đỡ. Tỉnh ủy Quảng Đông cử Đào Chú sắp xếp cho Hồ Chí Minh cùng một nữ đảng viên cộng sản tên là Lâm Y Lan đóng giả làm một cặp vợ chồng để bảo vệ Hồ Chí Minh.

Hôm ấy, Hồ Chí Minh tìm đến chỗ ở mới, vừa mới bước vào đến cửa liền đứng sững người lại vì kinh ngạc, vì người phụ nữ đang đứng trước mặt ông ta rõ ràng là người mà ông ngày đêm tưởng nhớ: Nguyễn Thanh Linh. Tựa hồ như trong giấc chiêm bao, Hồ Chí Minh liền hỏi: “Thanh Linh, em… em chưa chết ư ?” Cô gái cũng ngỡ ngàng chưa hiểu được chuyện gì, nhìn kỹ ông ta rồi nói: “Ông có phải là Hồ Chí Minh ? Tôi họ Lâm, tên gọi là Y Lan”. Hồ Chí Minh lúc ấy mới biết là mình đã nhận nhầm người, vội mỉm cười nhận lỗi: “Xin lỗi cô, tôi thất thố quá !”.

Lát sau, Hồ Chí Minh mới chậm rãi kể lại: 10 năm về trước ông ta có yêu một người con gái tên là Nguyễn Thanh Linh, nói đến chuyện ấy lại động lòng rơi lệ, gạt tay lau nước mắt lưng tròng. Hồ Chí Minh viết trong nhật ký: “Tôi phát hiện ra rằng tự bản thân mình cũng không thể là một con người “vô thần”, nhất định là tấm lòng chân tình của tôi đã làm cảm động đến Thượng đế, tôi quyết không để một lần nữa phải chia ly cô ấy”.

Để yểm hộ cho Hồ Chí Minh triển khai công việc tại Quảng Đông, Hương Cảng, Lâm Y Lan đã thực hiện vai trò như một người vợ thực sự, chăm sóc lo liệu cho Hồ Chí Minh từng ly từng tí trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cảm động vô cùng, nhưng lại lo rằng thời cơ vẫn chưa chín muồi, sợ bị Lâm Y Lan cự tuyệt, cuối cùng cũng không dám biểu lộ ra tình yêu của mình. Về phần Lâm Y Lan thì thấy rằng Hồ Chí Minh đã dốc hết bầu tâm sự với mình, nên cũng từ rất sớm trong trái tim đã thầm hứa hẹn những điều tốt đẹp, nhưng lại nhận thấy chưa đến lúc nói ra tình cảm của mình một cách rõ ràng nên cũng lại im lặng.

Không lâu sau, do bị kẻ phản bội bán rẻ, Hồ Chí Minh bị bắt. Lúc sắp chia tay, Hồ Chí Minh ôm hôn Lâm Y Lan, lấy khăn tay lau nước mắt trên khuôn mặt cô và nói: “Kiên cường lên em, đừng để kẻ địch nhìn thấy chúng ta yếu mềm”, nói xong liền lấy ra từ trong người một quyển nhật ký được giấu kỹ đưa cho Lâm Y Lan và nói: “Tôi để trái tim lưu lại với em, hãy giữ lấy nhé !”.

Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được cứu ra, ông ta mang hoa lan đến tặng Lâm Y Lan, nhìn thấy Lâm Y Lan với thái độ ngại ngùng, Hồ Chí Minh nói: “Em đã xem qua quyển nhật ký chưa ? Tôi tin tưởng rằng hoa lan trong trái tim này mãi mãi không bao giờ khô héo”.

Dự định bí mật tổ chức hôn lễ tại Hà Nội

Bánh xe lịch sử đã lăn chuyển đến thập niên 50 của thế kỷ 20, đất nước Trung Quốc được giải phóng. Lúc ấy, Lâm Y Lan đã là cán bộ lãnh đạo cao cấp của tỉnh Quảng Đông, Hồ Chí Minh cũng đã về nước tiếp tục thực hiện sự nghiệp cách mạng.

Hồ Chí Minh kể từ khi tạm biệt Lâm Y Lan, lòng yêu thương nhớ nhung ngày càng thêm da diết. Vài năm sau đó, Hồ Chí Minh nhận lời mời đến thăm Trung Quốc, nhân tiện đó đã đề nghị chủ tịch Mao Trạch Đông thu xếp cho mình được gặp lại các bạn cũ cùng hoạt động ở Quảng Đông để ôn lại chuyện cũ. Chủ tịch Mao Trạch Đông lập tức điện cho tỉnh ủy Quảng Đông bố trí cho Đào Chú, Lâm Y Lan và một vài người khác đến Bắc Kinh để gặp mặt Hồ Chí Minh.

Năm 1958, tại Hà Nội, bên bờ sông có hai người bạn già ngồi thong thả buông câu, họ chính là Đào Chú và Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nói với Đào Chú một cách rất nghiêm túc: “Trung Quốc có câu nói: Trẻ là vợ chồng, già làm bạn. Tôi và Lâm Y Lan thương yêu nhau đã trên 20 năm, cũng bởi vì sự nghiệp cách mạng mà làm lỡ đi tuổi thanh xuân, giờ đây cả hai người tuổi tác đều đã cao, tôi càng cảm thấy cô đơn gấp bội lần, cho nên càng muốn sớm được cùng Lâm Y Lan đoàn tụ. Mong ông khi trở về bên ấy xin ý kiến của Mao chủ tịch và thủ tướng Chu Ân Lai giúp xem giải quyết việc này như thế nào? Nếu quả là Mao chủ tịch và Chu thủ tướng tán thành thì tôi định là sẽ đón Lâm Y Lan về Hà Nội và bí mật tổ chức hôn lễ, đấy chính là đạt đuợc nguyện vọng đã ấp ủ từ bấy nay của tôi.”

Sau khi Đào Chú về đến Bắc Kinh liền truyền đạt ngay ý nguyện của Hồ Chí Minh với Trung ương Đảng và Mao chủ tịch. Mao chủ tịch trầm ngâm giây lát rồi mới nói: “Chúng ta đề xướng “tự do yêu đương, tự chủ hôn lễ”, cá nhân tôi ủng hộ yêu cầu của Hồ chủ tịch, thế nhưng sự việc này quả là một việc “nhỏ mà không nhỏ”, nó có liên quan đến quan hệ giữa hai đảng và hai nước Việt – Trung, không thể lơ là được”. Thủ tướng Chu Ân Lai cũng nhận thấy rằng cần thiết phải bàn bạc với các đồng chí trong Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về việc này.

Lê Duẩn giơ tay phải rồi lại bỏ xuống

Trong phòng họp của Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Bắc Việt. Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên bố trí chỗ ngồi cho các ủy viên. Tất cả mọi người trong phòng họp đều ngồi lặng im không lên tiếng. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đập bàn đứng dậy nói: “Tôi chịu như vậy đủ rồi! Tôi không muốn sống như một con người khác nữa ! Tôi cũng có những quyền lợi của mình để tự đưa ra quyết định chứ, lần này các anh đừng mong thuyết phục tôi !”

Lê Duẩn không hề tỏ ra nóng nảy, bình tĩnh điềm đạm nói: “Cụ Hồ, cụ đừng quá nóng vội ! Phàm là làm việc gì thì cũng phải suy tính cho kỹ, không thể không tính trước tính sau, tôi cũng vì lo cho cụ mà muốn khuyên cụ thế này. Chẳng phải cụ đã từng nói: vì Việt Nam thống nhất nên trọn đời không lấy vợ ? Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn, một khi mà cụ đã vi phạm vào lời hứa đó có nghĩa là chúng ta hủy bỏ sự nghiệp giải phóng miền Nam thiêng liêng, như thế không chỉ ảnh hưởng tới hình tượng “người cha già dân tộc” của cụ đối với nhân dân, mà còn làm mất đi thanh danh của Đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy, tôi thà bị cụ quở trách, căm ghét cũng không thể để nhân dân trách cứ chúng ta là phạm nhân thiên cổ !”

Hồ Chí Minh vẫn không giữ nổi bình tĩnh, nói: “Đúng là tôi đã nói câu nói ấy, thế nhưng con người không phải là thần thánh, ai không phải trải qua ? Vả lại, nhân dân cũng không chỉ nhìn vào lời nói của tôi, điều quan trọng là công việc của tôi như thế nào chứ. Tôi tin rằng nhân dân sẽ lượng thứ cho tôi !”

Hồ Chí Minh thấy Lê Duẩn không nói một lời, nghiến chặt răng nói: “Đã như thế, bàn bạc không thống nhất được thì mọi người biểu quyết, dựa theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số để giải quyết vấn đề này. Ai đồng ý với tôi xin giơ tay.”

Hồ Chí Minh đưa mắt nhìn bốn bên, số ủng hộ và phản đối cũng tương đương nhau, đang nhìn xem thái độ Lê Duẩn thế nào. Lúc ấy, Lê Duẩn ngập ngừng giơ tay phải lên rồi đột nhiên lại hạ xuống, thở dài nói: “ Tôi không thể hại cụ được !”

Điều khiến Lê Duẩn bất ngờ là Hồ Chí Minh đã không những không nổi giận đùng đùng, chửi mắng ầm ĩ, ngược lại ông ta chỉ cười gượng một cách khô khan rồi bước ra bên ngoài.

Giữa lúc hấp hối vẫn nhớ đến Lâm Y Lan

Tình yêu của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần Lâm Y Lan, bà ta mất vào năm 1968, trước lúc lâm chung cũng không quên lấy ra quyển “nhật ký tình yêu” mà Hồ Chí Minh tặng cho mình và nhờ người chuyển cho Hồ Chí Minh, cũng nhắn nhủ Hồ Chí Minh không nên quá buồn phiền.

Hồ Chí Minh nhận được tin người yêu thương mất, buồn không muốn sống nữa, lệ rơi như mưa. Cách một năm sau đó, ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh cũng đột ngột qua đời, giữa lúc hấp hối vẫn còn nhắc đến tên Lâm Y Lan.

Viêm Hoàng Xuân Thu

🔝

2019-05-10 由 史书今古 發表于历史 - kknews.cc

他是越南的开国主席,与中国女子深爱,却因为一个诺言到死都没娶

Vượt qua Việt: chúng tôi không biết tiếng Hoa, nhờ bạn đọc dịch dùm.
前言:越南作为我们的邻居,在越南民主共和国宣布成立之初,与我国的关系十分密切。

我们对于越南的印象之所以不好,是因为当年的对越自卫反击战。诚然,越南
当年对我国所做的事情确实很不“地道”,但是这些都是后话,对于越南的开国
主席而言,中国是他亲密无间的朋友,里面更是有一个他朝思暮想的女子。

胡志明,越南的开国主席,越南(当时叫做阮朝)原本是中国的藩属国,清朝
对其有“宗主权”,然而1885年中法战争中清朝以失败告终,被迫签订了《中法
新约》,其中有一条就是放弃清朝对越南的管制权,将其交给法国。

自此之后,越南沦为法国的殖民地,百姓生活在水深火热之中。

胡志明(原名阮爱国)自小就经历了战争的苦难,他对于殖民者深恶痛绝。经
过努力学习之后,他接触到了马克思列宁主义先进思想,立志解放国家解放民
族。

1923年,胡志明的红颜女友阮清玲在越南遇害,胡志明听闻之后痛不欲生,对
于殖民者的憎恨深入骨髓,他当着战友的面发下誓言:越南不解放统一,我今
生今世就不成家
。随后没日没夜的投入到工作之中。

胡志明一直在中国发展革命力量,他与伟大领袖以及总理都是好朋友,他们虽
然不属于同一个国家,但是都是在为救国而行动。

后来的中国处在“白色恐怖”之中,组织为了掩护胡志明的身份,就派遣女革命
者林依兰假扮胡志明的妻子。

胡志明当看到林依兰的第一眼就惊呆了,他一度认为林依兰就是当年的红颜阮
清玲,因为她们的一瞥一笑,一言一行实在是太像了。但是胡志明知道,她不
是阮清玲,虽然心中满是爱意,但终究没有说出来。

几个月里,林依兰无微不至地照顾胡志明。后来胡志明因为叛徒的出卖而被抓
捕。临别前,胡志明以为这次会是永别,终于对林依兰表达了爱意,并将自己
的日记本交给林依兰,对她说道:“我把心留下来陪你,收下吧!

后来在多方运作之下,胡志明被放了出来。

当再次见到林依兰时,胡志明明显有些尴尬。然而此时的林依兰却主动向胡志
明表达了爱意,两人因此成为一对恋人。

1930年,胡志明成立越南共产党,还未将殖民者赶出家门的时候,1940年的
日本法西斯又入侵越南。

1945年8月,好不容易熬到了二战日本投降,胡志明宣布越南民主共和国成立
(北越),正准备寻找林依兰之时,上天似乎给他开了一个玩笑:法国再次入
侵越南。

这一次的抗战历程达到9年之久。

1954年,北越胜利。而此时的美国又插足与越南战争,统治越南南方(南越)。

1958年,胡志明已经68岁了,林依兰也等了28年,此时的林依兰身患重病,
胡志明再也忍不住自己的思念。将自己的意愿传达给中国,希望中国方面同意
自己与林依兰的婚姻。

然而这件事却遭到了北越中央的制止,北越一位高层说道:

你曾说过越南不解放就终身不娶,这句话影响很大,一旦你违背诺言,就
意味着我们放弃了解放南方的神圣事业,这不仅有损你的国父形象,连越南
共产党也将从此名声扫地。所以,我宁可被你指责、憎恨,也不能让越南老
百姓唾骂我们是千古罪人!

胡志明听完之后还是选择冷静下来,他也知道这件事事关重大,于是写信给身
处医院的林依兰,对她说道:

亲爱的依兰,咱们无缘再会。你听说过柏拉图的精神恋爱吗?就让我们彼
此的心灵永远融为一体吧!

胡志明一直在战,林依兰一直在等。

1968年,林依兰等了一辈子也没能等到,1969年9月2日,胡志明也溘然去
世。弥留之际,他还念叨着林依兰的名字……

舍小家为大家,因为一个誓言,一对恋人相恋38年也终究没能等到结局!

🔝

2018-09-05 由 历史课的那些事儿 發表于历史 - kknews.cc

当领袖前中国生活20年,娶中国妻子,回国上任却立马否认这段婚姻

Vượt qua Việt: chúng tôi không biết tiếng Hoa, nhờ bạn đọc dịch dùm.

十九世纪对于世界各国来说都是一个很大的分水岭,这一时期西方国家走向了强国之路,并将统治的触角伸向了世界各地,在这些地方他们建立了很多的殖民地,将当地的百姓变成了自己谋取暴利的工具。在东南亚,越南就沦为了法国的殖民地,在此之前这个国家本是从中国独立出去的,但是有压迫的地方就会有反抗,二战时期,在日本侵略、法国殖民的困境下,越南也涌现出了很多的革命党人,特别是胡志明,他带领人民完成了独立和解放。

我们知道,有史以来的革命都有一个艰苦卓越的过程,越南也不例外。越南人说他们的国家领袖胡志明为了完成解放越南人民的重任,奉献了自己的一生,甚至放弃了个人的感情生活,一辈子都没有结婚,有着非常伟大光辉的形象,但事实真的如此吗?我们一起走近那段历史。胡志明,1890年出生,越南义安省南坛县人,虽然出生的时候国家已经沦为法国的殖民地了,但是他的家族并没有受到太多的影响。这是一个富有的书香门第,他不但自幼衣食无忧还接受了良好的教育,十几岁的时候还得到了去法国留学的机会,就是在法留学期间他接触到了先进的革命思想,并加入了共产党,也是全国第一个共产党员。

1924年,中国的革命形势发生了很大的变化,国民党第一次代表大会召开,国共开始了第一次合作,这给正在寻找革命出路的越共领袖胡志明很大的启发。就这样,同年他果断的带领几个志同道合的同志来到中国取经。他们一行人首先到达的就是南方的广州,在这里胡志明不仅组建了越南青年培训班,还和很多中共领导人进行了接触,并得到了他们支持和帮助,邓小平、陈延年、澎湃等人都曾给越南青年培训班上过课,还帮助他们分析越南的革命形势和将来的出路,在教学和讨论中双方也建立起了深厚的感情。从1924年到二战结束,整整二十年,胡志明一直都和中国共产党保持着密切的联系,在此期间他不但学会了说普通话,且非常精通中国的书法,对于中国的传统文化他也是非常的钦佩和喜爱。

其实,除了政治、思想上的联系之外,胡志明和中国的牵绊还体现在个人感情生活上,因为,他在广州曾经成立了一个家庭。妻子就是广州本地姑娘,名叫曾雪明,但结婚时胡志明当然没有用本名,而是中国化名李瑞。两人于1926年10月18日正式结为夫妻,当时婚礼还邀请了不少人参加,邓颖超、蔡畅(蔡和森之妹)都是见证者,苏联方面的顾问鲍罗廷先生也在场,后来胡志明回国,遗憾的是他的中国妻子并没有跟随而去,两人随后却失联了。

回到越南的胡志明领导了越南的八月革命,1945年建立了越南民主主义共和国,他担任国家主席。对越南人民来说,胡志明就是国父,具有至高无上的地位,他们的眼中,胡志明一生未娶,把自己全都奉献给了国家。对于胡志明在中国期间的这段婚姻,越南国民包括胡志明本人都予以否认。直到1991年,一直没有等到丈夫归来的曾雪明遗憾去世,当时消息传到越南的时候,还有一家媒体刊登了和她有关的消息,但是没过多久这家媒体的总编就被解雇了,原因不说大家也能想到了。

🔝