Ban liên lạc Đồng hương Thanh Hoá tại Hà Nội đã có buổi đến thăm và giao lưu với bác Phiêu tại nhà riêng tại ngõ 34A Trần Phú (ngôi nhà bác mới chuyển về từ đường Hoàng Diệu).
Đại diện của Ban liên lạc gồm có: ông Lê Xuân Thảo - Trưởng Ban Đồng hương Doanh nghiệp TH, ông Lê Thế Chữ - Truởng Ban liên lạc Đồng hương Tỉnh, ông Hoàng Văn Đoàn - Phó Trưởng ban Doanh nghiệp, ông Lữ Thành Long - TGĐ Công ty Misa, ông Nguyễn Hồng Chung - Chủ tịch Công ty Luật Đại Việt, ông Bùi Việt Hà - Giám đốc Công ty HINCO, ông Nguyễn Hữu Hùng - Công ty Truyền thông Dầu khí Việt Nam, Lê Xuân Tiến Trung - Công ty Việt FT và một số thành viên khác.
Sau đây là một số hình ảnh buổi gặp mặt bác Lê Khả Phiêu:
Trên đường đến nhà bác Lê Khả Phiêu
Nơi ở trước cửa nhà bác Lê Khả Phiêu trên đường Hoàng Diệu
Quà cáp cho bác nho nhỏ thôi, đổi lại tình cảm của bác với nhân dân đất nước mới quan trọng.
Nhà mới của bác Lê Khả Phiêu
Trong nhà bác toàn những hiện vật quý giá mang đậm tinh thần dân tộc, và cả vị "cha già dân tộc" nữa, tất cả mọi người trên đất nước việt nam này đều là "con cháu của bác Hồ" .
Nhìn phong bì thế thôi chứ trong đó ko có tiền đâu, chỉ là thư thăm hỏi sức khỏe bác. Nhưng bác dặn lần sau đến thăm bác là được rồi, đời sống dân mình đang khó khăn, đừng bày vẽ quà cáp gì mà lãng phí.
Gặp mặt bác Lê Khả Phiêu tại phòng khách. Tham quan nhà bác Lê Khả Phiêu.
Mọi người đều ngưỡng mộ con người học cao hiểu rộng của bác, cả 1 tủ sách đồ sộ với tư tưởng Mác, Lê nin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh.
Tham quan Phòng Thư viện: hình cụ Mác cụ Lê đặt trang trọng trên cùng chính giữa, bác Hồ chỉ dưới 1 chút thôi. Còn 2 bên là trống đồng và chử tâm bằng vàng; trống đồng tuy là nét biểu trưng của văn hóa dân tộc nhưng giờ đã là "thời đại Hồ Chí Minh" rồi không nên ôm quá khứ mà phải "học cái hay cái đẹp" của "tư tưởng Hồ Chí Minh" !
Chụp ảnh lưu niệm với tượng bác Lê Khả Phiêu bằng đồng
Ảnh chân dung bác Lê Khả Phiêu, dưới là cặp ngà voi nho nhỏ xinh xinh (giá thị trường hơn 50 nghìn đô).
Tư liệu về các cuộc gặp mặt với các nguyên thủ quốc gia các nước
Bác Phiêu đang giới thiệu với bác Lê Thế Chữ về những bức ảnh ghi lại những năm tháng mà bác đã vất vã lao động cống hiến cho đồng bào quốc dân
Ngôi nhà mới hoàn thiện, nên đang còn một số bề bộn (gía thị trường căn nhà này trên 5 triệu đô la)
Nhà bác thật văn hóa, đi đâu cũng thấy sách.
Bác cũng là 1 người rất đam mê nghê thuật và biết thưởng thức cái đẹp; hình như phải bỏ cái móc áo quần vào giữa bức tranh mới đẹp, nghệ thuật mà.
Quang cảnh nhìn từ tầng 4
Tuy biết cộng sản là vô thần, vô thánh nhưng tối nào trước khi đi ngủ cũng lạy phật và bác phù hộ độ trì cho chúng cháu sống lâu để phục vụ nhân dân được tốt hơn.
Vườn rau sạch nhà bác Phiêu. Vì thực phẩm trên thị trường rất độc hại nên nhà bác phải trồng rau sạch để ăn
Nhìn sang bên phải là Bộ Quốc Phòng, nơi có sân bay trực thăng, để lỡ đất nước có chuyện gì là bác sẽ là người bay đi công tác trước tiên
Nhìn về xa xa là Cột cờ Hà Nội
Nhà bên cạnh là nhà riêng của Đại tướng Chu Huy Mân, các bác phải sống gần nhau để tối lữa tắt đèn có nhau, tình cảm đồng chí đáng quý biết bao
Phòng làm việc của trợ lý bác Phiêu với những vần thơ làm xúc động lòng người: "Hồ chí minh người sống mãi đời với non sông việt nam và trong tái tim nhân loại"
Cuốn sách về bác Lê Khả Phiêu được bác tặng cho mọi người, Mênh Mông tình dân, ôi tình cảm nhân dân dành cho đảng và nhà nước thật nhiều, thử hỏi trên giãi đất hình chử S này có nơi nào mà không mang ơn bác và đảng.
Món quà của Ban liên lạc tặng bác Phiêu nhân ngày sinh nhật
Mình đã đi nhiều nhà lãnh đạo, và thật thương bác Phiêu vì nhà bác sao mà đơn sơ quá, còn thua xa cả những lãnh đạo cấp nhỏ ở tỉnh mình nữa . . .
Đoàn đại biểu rời nhà bác Lê Khả Phiêu ai nấy trong lòng đều trào dâng niềm xúc động về một con người đã một đời vì dân vì nước, chúng cháu hứa đời này kiếp này làm lãnh đạo có vất vả khổ cực đến đâu cũng sẽ học theo gương bác.
Lê Trọng Hiệp
Lê Khả Phiêu – người làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam từ 1997 đến 2001 – đã qua đời sáng sớm ngày 7.8.2020, thọ 89 tuổi. |
Phiêu chính là chính ủy Trung đoàn 9, đơn vị chủ lực trong chiến dịch trận tấn công vào Huế Tết Mậu Thân. Là người nắm quyền sinh sát tại cố đô này trong vòng 26 ngày đêm thì trực tiếp hay gián tiếp, Phiêu phải chịu phần nào trách nhiệm trong vụ thảm sát người dân vô tội tại đây.
Thời Phiêu nắm đỉnh cao quyền lực cũng là thời Cộng sản Việt Nam (CSVN) ký Hiệp định Biên giới với Bắc Kinh, dẫn đến làn sóng phản đối dữ dội, kết án rằng CSVN Hà Nội đã cắt đất dân cho Tàu.
Lúc này lại có tin đồn Trung Quốc dùng gái để gài bẩy Phiêu.
Nay chúng ta nhắc lại đôi ba việc về Phiêu, cũng là những việc “điển hình” trong cách “ăn ở” giữa những “đồng chí” CSVN với nhau.
Ghế tổng bí thư: lên và xuống
Việc Phiêu lên làm tổng bí thư cũng là chuyện đầy bât ngờ, sau khi Đỗ Mười đã bị “hạ” giữa nhiệm kỳ, trong Hội nghị Trung ương Đảng (khoá VIII) năm 1993.
Cuối năm 1997 Lê Đức Anh và Đỗ Mười bị ép về hưu giữa đường và cả hai chỉ chịu rút lui với điều kiện Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu lên thay (Lương chủ tịch, Phiêu tổng bí thư), và phải cho cả hai vị trí danh dự “Cố vấn Trung ương đảng”. Cả hai nghĩa rằng mình sẽ nắm thóp được Phiêu trong vai trò “ông cố vấn”.
Trong hồi ký bị cấm Làm người là khó – Làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn, tác giả Đoàn Duy Thành -, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Kinh tế Đối ngoại – viết về việc Đỗ Mười bị xuống để Lê Khả Phiêu lên:
“Nhất là anh Phạm Văn Đồng biết rất rõ anh Mười… Sau này tôi mới hiểu một chi tiết nhỏ, là anh Mười làm thêm khóa thứ hai Tổng Bí thư, anh Tô (Phạm Văn Đồng) phản ứng rất gay gắt. Tuy thế phản ứng của nhà lãnh đạo có tầm cỡ, nhà hiền triết, nhà ngoại giao cũng khác những người khác. Anh đã nói với 5 đồng chí là cấp tướng, nếu anh Mười không chịu thôi giữa nhiệm kỳ các đồng chí phải tham gia “hạ” anh Mười xuống… Việc này qua cơ quan nắm tin tức, anh Đỗ Mười đã được báo cáo lại.”
‘Tôi lại thăm anh Mười. [..]. Anh kể cho tôi nghe, cuộc họp Trung ương giữa nhiệm kỳ này, anh xin nghỉ. Tôi hỏi ai thay, anh bảo tôi: “Lê Khả Phiêu”. Rồi anh giới thiệu quá trình của anh Lê Khả Phiêu, có đoạn đáng lưu ý và buồn cười với sự giới thiệu và giải thích này “Cậu Phiêu nó chiến đấu ở Bình Trị Thiên được rèn luyện 14 năm. Nó lên có thể giữ được hai khóa. Còn bảo nó hủ hóa thì mấy người còn hủ hóa quá nó!”…
Cùng bị hạ với Mười là Lê Đức Anh, trao ghế chủ tịch nước cho Trần Đức Lương. Nhưng Anh và Mười, đã xoay xở để biến cái chức “Cố vấn” chỉ mang tính danh dự của mình thành một vị trí “hữu danh hữu thực”.
Nhưng do hay cố vấn với thái độ kẻ cả nên năm 2001 Phiêu đâm cáu, ra lệnh giải tán Ban cố vấn, thực sự cho Anh và Mười về vườn. Thế là Anh và Mười tìm cách lật Phiêu để trả thù.
Tác giả Đoàn Duy Thành kể:
‘Đại hội 9, trong thời gian chuẩn bị nhân sự đại hội, tôi biết có nhiều phức tạp. Bộ Chính trị mời một số cán bộ cao cấp đến tham khảo ý kiến về nhân sự, trước khi đến họp tôi lại thăm anh Mười. Anh nói nhiều chuyện về nhân sự. Khi nói đến Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, anh Mười nói: “Cậu Phiêu bây giờ gái nó nắm hết rồi. Có đứa là CIA. Kỳ này phải thay người khác…” Tôi đã định nói một câu, nhưng suy đi nghĩ lại sợ anh Mười phật lòng, nên tôi không nói nữa. Câu tôi định nói là: “Nay chắc anh Lê Khả Phiêu hủ hóa hơn mấy người trước?”. Tôi thấy rất buồn, cán bộ chủ chốt không đào tạo, không qui hoạch, thay đổi vội vàng thì lòng Đảng không yên, lòng dân yên sao được?
Trong việc thay anh Lê Khả Phiêu, tôi đến dự hội nghị được một đồng chí cho biết: có một cán bộ thân với anh Mười, hỏi anh Mười sao lại làm như vậy. Anh Mười trả lời: “Nó lật tôi, tôi lật lại”.’
Để lật Phiêu, Mười rêu rao chuyện Phiêu “bị gái nắm” còn Anh thì lạm dụng sự khù khờ của Phiên trong nghề tình báo.
Gã khờ tình báo!
Để đối phó với Tổng cục II của Anh, Phiêu cho thành lập cơ quan điệp báo gọi là A-10, thế nhưng ông tướng chính trị này bị Anh chơi bằng đòn “gậy ông đập lưng ông”.
Số là khi làm chủ tịch nước (1992 – 1997) Anh đã lũng đọan nền nội chính bằng cách nâng Cục 2 (Cục quân báo) của Bộ quốc phòng thành Tổng cục II (TCII), có quyền hạn vượt qua cả bộ Quốc phòng vì làm việc thẳng với Bộ Chính trị.
Dưới sự lãnh đạo của Đặng Vũ Chính thuộc phe Anh, TC II đẻ ra các vụ gián điệp ma như Sáu Sứ, gây nhiễu về Võ Nguyên Giáp, bịa ra vụ T4, cho biết TCII cài người vào CIA và phát hiện đảng viên cao cấp làm việc cho Mỹ, trong đó có cả Trương Tấn Sang!
Không ai có cách nào để phối kiểm tin của TCII cả nên Phiêu cùng Phạm Văn Trà (đại tướng, bộ trưởng quốc phòng) và Phạm Thanh Ngân (thượng tướng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội) bàn cách thành lập “Tổ A10”, bao gồm TCII, Cục bảo vệ an ninh, Tổng cục chính trị để “phối kiểm tin địch, tránh tình trạng mạnh ai nấy báo”. Phiêu cử Trà làm tổ trưởng A10 nhưng Trà từ chối, đề cử Ngân.
Nhưng Phiêu khờ tới mức giao Vũ Chính (lãnh đạo TC II – bố vợ của Nguyễn Chí Vịnh, tay chân đắc lực của Anh) soạn kế hoạch. Khi Chính nộp bản sơ thảo “Quyết định 234”, Phiêu thấy Chính đề bạt quyền hạn của A10 quá lớn nên sửa chữa nhiều chỗ, trong đó có phần “Theo dõi thượng cấp” và “Theo dõi lực lượng cấp tiến trong và ngoài quân đội”.
Nhưng Chính chơi Phiêu: viết lại thành 1 bản chính như Phiêu đã sửa chữa nhưng phụ lục hướng dẫn thì để nguyên rồi trao cho Ngân thông qua.
Cẩu thả, chỉ xem bản chính không xem phụ lục, Ngân ký rồi chuyển cho Phiêu duyệt.
Cẩu thả, Phiêu cũng ký ngay, không xem phụ lục và khi ký ghi chức danh là “Bí thư quân uỷ TƯ để đối phó với Tổng cục II của Anh” chứ không ghi “Thay mặt Quân uỷ TƯ”.
Chính đem văn bản này “dâng” cho Anh và Anh để yên, chỉ chờ đến khi đảng họp bàn vấn đề nhân sự mới tung ra làm át chủ bài, lên án Phiêu “lộng quyền, độc đoán, phạm nguyên tắc không qua tập thể Quân Uỷ TƯ”. Xa hơn, Anh quy chụp Phiêu tội “chủ trương theo dõi cán bộ cao cấp, cán bộ trong và ngoài quân đội” và “nâng quan điểm” rằng Phiêu có ý “theo dõi cả Bộ chính trị, mang ý định âm mưu lật đổ”.
Anh đòi phải kỷ luật, buộc Phiêu phải từ chức ngay.
Vấn đề nổ lớn và Bộ chính trị triệu tập Hội nghị TƯ. Tại đây Phiêu phải vất vả tìm lại bản thảo có những đoạn đã gạch mà Chính không chịu sửa và được một số người bảo vệ. Phe bảo vệ cho là Phiêu là chỉ “sơ hở về hành chính” chứ không “phạm nguyên tắc”. Đồng thời cũng cho là Phiêu không độc đoán mà vẫn có họp Thường vụ đảng uỷ quân sự TW khi quyết định thành lập A10 gồm Phiêu, Trà, Ngân. Nhưng khổ thân Phiêu, khi Anh tấn công Phiêu thì Trà lại ậm ừ, ngồi im, để một mình Phiêu vất vả chống đỡ.
Phiêu phản đòn rằng nếu nói chuyện lộng quyền thì Anh đã lộng quyền từ năm 1995 khi Anh đưa cục II lên thành TCII để hoạt động quá phạm vi hoạt động của mình! Trong khi đó thì phẩn kiểm tra hồ sơ, giấy tờ của Uỷ ban kiểm tra TƯ đều không phát hiệu dấu hiệu gì là theo dõi cán bộ cao cấp mà chỉ là vu khống. Thế nhưng vì vây cánh của Anh khá mạnh nên Hội nghị TƯ không thể kết luận đó là vu khống, mà cũng không kết tội Phiêu, chỉ bỏ ngỏ, không đưa ra kết luận ngay nghị quyết dứt khoát nào, chỉ giải tán suông.
Không quật được Phiêu về A10, Anh dùng trò khác: tố cáo Ngân cử người theo dõi cán bộ cao cấp trong đảng. Ngân phản bác: không có chỉ thị, văn bản nào giao nhiệm vụ đó.
Tiếp tay Anh để mong ngồi ghế tổng bí thư, Trần Đức Lương trực tiếp đe doạ sẽ kỷ luật thiếu tướng cục trưởng bảo vệ an ninh tên An: “Phiêu, Ngân có rủ đến anh không?”, nhưng không được kết quả.
Thất bại trong vụ này, Anh dùng mưu cuối cùng là gọi Nguyễn Chí Vịnh làm chứng: Phiêu và Ngân đã từng tới rỉ tai Vịnh.
Sau đó Anh cho người đến từng nhà các cựu ủy viên Bộ chính trị như Nguyễn Đức Tâm, Tố Hữu, Nguyễn Thanh Bình, các tướng lĩnh về hưu như Chu Huy Mân, Trần Văn Quang, Hoàng Minh Thảo, Nguyễn Quyết, Đồng Sĩ Nguyên để hạch tội Phiêu về vụ A10 với bản cáo trạng dài đến 6,7 trang để thuyết phục họ ủng hộ việc lật Phiêu.
Chính Nguyễn Bắc Son, Bộ trưởng 4T hiện đã đi tu, là người thay mặt Anh mang hồ sơ A-10 tới gõ cửa từng ủy viên trung ương và từng công thần của đảng để tố Phiêu.
Tuy nhiên Son không thành công trong nhiệm vụ này, thậm chí bị Chu Huy Mân chửi vào mặt, đuổi ra khỏi nhà!
Vụ hạ bệ Phiêu chỉ thành khi có bàn tay của Võ Văn Kiệt.
Kiệt có đầu óc cải cách không ưa Anh và Mười nhưng Phiêu lại làm mất lòng Kiệt ở thái độ chống Mỹ. Tháng 11 năm 2011 nguyên Tổng thống Mỹ Bill Clinton đến Việt Nam, một chuyến đi lịch sử, đáp lễ bài diễn văn cởi mở của ông Clinton, Phiên đã đọc trọn bài diễn văn sặc mùi “chống Mỹ cứu nước” do trợ lý của Phêu là nhà văn Nguyễn Chí Trung chấp bút. Việc này khiến Kiệt nổi giận, “đoàn kết” cùng Anh và Mười để hạ Phiêu.
Bài diễn văn với Bill Clinton
Phiêu đón Clinton vào chiều ngày 18-11-2000 bằng một bài diễn văn dài lê thê trong đó đáng chú ý nhất là các đoạn:
“Tôi đồng ý với Ngài là chúng ta không quên quá khứ, không làm lại được quá khứ. Vấn đề quan trọng là hiểu cho đúng thực chất cái quá khứ ấy. Cụ thể là hiểu cho đúng thực chất cuộc kháng chiến chống xâm lược mà chúng tôi đã phải tiến hành… Việt Nam có đem quân đi đánh Hoa Kỳ đâu mà Hoa Kỳ lại đem quân sang đánh Việt Nam? Cuộc kháng chiến chống xâm lược của chúng tôi là giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên đối với chúng tôi, quá khứ không phải trang sử đen tối, đau buồn và bất hạnh”.
[…] “Bà Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ trong một lần gặp tôi có hỏi: chủ nghĩa xã hội có tồn tại được không? Tôi nói: không những tồn tại mà chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi… Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 150 nước. Đảng chúng tôi có quan hệ với hơn 180 đảng cộng sản, cánh tả, đảng cầm quyền… Trong quan hệ quốc tế ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc đều cần hợp tác để cùng phát triển. Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn, cách sống và chế độ chính trị của các dân tộc. Chúng tôi cũng đòi hỏi các nước tôn trọng chế độ chính trị, sự lựa chọn của dân tộc chúng tôi.
[…] Chúng tôi quý trọng nhân dân Mỹ, cảm ơn nhân dân Mỹ đã ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Thấy hình ảnh cháu Chelsea, tôi chạnh nhớ cháu Emily, con gái của Morrison, và mẹ cháu cũng đã từng sang thăm Việt Nam. Đó là biểu tượng đẹp của tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước”.
Sau này Bill Clinton kể lại trong hồi ký của mình:
“Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi càng phẫn nộ hơn khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến tranh. Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hoá Việt Nam”.
Sau đó không lâu, trước Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) Phiêu đã bị cả ba ông cố vấn là Mười, Anh, Kiệt cùng ký tên vào một lá thư phê phán Phiêu, gây sức ép để Phiêu ra đi.
Cùng lúc đó thì Mười nhắm vào tật mê gái của Phiêu!
Bị gái nắm
Năm 2004 Tòa án Hà Nội mở phiên xử ba can phạm Đỗ Ngọc Chấp, Nguyễn Quang Vinh và Đặng Diệu Hà. Tòa kết án ba can phạm tội giả mạo tài liệu và biển thủ 50,000 đô la từ ngân quỹ nhà nước, phạt Chấp 5 năm tù ở, Vinh tám năm rưỡi, Hà 4 năm.
Tòa đã không nói rõ hơn những lý do bên trong nhưng giới thạo tin thì kể ra vanh vách.
Chấp, lúc đó 62 tuổi, là một đại tá cục trưởng của Tổng cục 2; Vinh cũng là đại tá của Tổng cục 2 và chỉ mới 39 tuổi, phụ trách công ty TOSEKO, buôn bán vũ khí chủ yếu với nước Nga. Còn bà Đặng Diệu Hà lúc đó 40 tuổi, con gái của Đặng Kinh (Đặng Văn Rợp), nguyên là Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 3 sau làm Phó Tổng Tham mưu trưởng (1978-1988).
Hà từng là cán bộ trong Sở văn hóa thông tin Sài Gòn TPHC, là một phụ nữ có nhan sắc, được Tổng cục 2 chiêu mộ, sử dụng như làm mỹ nhân kế để phe Anh không chế và hạ bệ Lê Khả Phiêu.
Và như đã nói ở trên, Đoàn Duy Thành từng hai lần dẫn lời Mười về chuyện mê gái của Phiêu:
“Nó lên có thể giữ được hai khóa. Còn bảo nó hủ hóa thì mấy người còn hủ hóa quá nó!”….
và “Cậu Phiêu bây giờ gái nó nắm hết rồi.”
Nhưng thực tế thì như thế nào?
Trong cuốn Bên Thắng Cuộc, nhà báo Huy Đức dẫn lời ông Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, người được giao thẩm tra các sai phạm của ông Lê Khả Phiêu, cho biết: “Đầu năm 2001, Bộ Chính trị họp chuẩn bị Đại hội IX, chị Nguyễn Thị Xuân Mỹ đi họp về nói, Bộ Chính trị đang kiểm điểm anh Phiêu gay gắt nhiều chuyện: vấn đề Campuchia, quan hệ nam nữ, vô nguyên tắc khi ra Quyết định 234, ngành tình báo lâu nay chỉ nắm địch, nay được theo dõi nội bộ, gặp Giang Trạch Dân, đi không hỏi, về không trình“.
Nhà báo Huy Đức dẫn lời ông Hùng:
“Trước khi đi Cuba, ông Lê Khả Phiêu có đến nhà anh Đoàn Mạnh Giao ăn cơm. Tới đó có cả cô Đặng Thu Hà, con gái Trung tướng Đặng Kinh. Ông Phiêu giải trình, quan hệ giữa ông và ông Đặng Kinh là quan hệ giữa cấp dưới với thủ trưởng, ông coi cô Hà như là cháu. Tôi có hỏi anh Trần Đình Hoan, anh có thấy yếu tố quan hệ nam nữ không. Anh Hoan nói không thấy. Còn “quan hệ với CIA”, khi đi Cuba, đoàn có Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Mạnh Cầm, Đỗ Trung Tá đi cùng, chuyển tiếp máy bay ở Thuỵ Điển. Tại đây thông qua Hà có gặp một phụ nữ tên là Vũ Thị Dung, có người tố cáo Dung là CIA”.
Trên thực tế, Vũ Thị Dung chỉ là một cán bộ doanh nghiệp đi trong phái đoàn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu thăm châu Âu. Một tấm hình chụp có Vũ Thị Dung trong chuyến đi này được photoshop, cắt hình những người cùng chụp chỉ để lại hình Lê Khả Phiêu và Vũ Thị Dung để nói ông Phiêu lén lút quan hệ với “gái” là một nữ điệp viên. Tại phiên họp Bộ Chính trị mà tấm hình này được đưa ra, ông Nguyễn Mạnh Cầm xác nhận bức ảnh này khi chụp có cả ông nhưng đã bị xoá. Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Văn An thừa nhận: “Bức ảnh được cắt xén quá ấu trĩ. Tổng cục II đưa ảnh cho ông Đỗ Mười, ông Đỗ Mười đưa cho nhiều người xem trước mặt Bộ Chính trị rồi đưa lại cho tôi quản lý”.
Chuyện này cho thấy chuyện gái gú của Phiêu có thể là do thủ đoạn của Mười và Anh. Nếu thực sự có thì trong chuyện này Phiêu chỉ phạm tội với vợ con. Trong khi đó thì bằng chứng cho thấy Phiêu mang một tội khác cực kỳ nặng với dân tộc: tội đi đêm với Tàu!
Đi đêm với Giang Trạch Dân
Cũng trong cuốn Bên Thắng Cuộc, nhà báo Huy Đức dẫn lời Nguyễn Văn An (cựu chủ tịch quốc hội), cho rằng Lê Khả Phiêu bị hạ vì vi phạm nguyên tắc “cả đối nội và đối ngoại”:
‘Về đối ngoại, ông An nói: “Ông Lê Khả Phiêu gặp Giang Trạch Dân không theo con đường chính thống bằng quan hệ Đảng, Nhà nước mà theo con đường tình báo”. Theo ông Nguyễn Đình Hương, thành viên Ban Chuyên án A10: “Tháp tùng chuyến đi ấy của Lê Khả Phiêu gồm Trần Đình Hoan, Nguyễn Mạnh Cầm và Phó Tổng cục trưởng Tổng cục II Nguyễn Chí Vịnh. Vịnh bố trí một cuộc gặp giữa ông Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân. Khi gặp, cả ông Nguyễn Mạnh Cầm và ông Trần Đình Hoan cùng đi nhưng phía Trung Quốc ngăn ông Cầm và ông Hoan, chỉ cho Vịnh vào. Theo báo cáo của Vịnh thì hội đàm cũng không có thoả thuận riêng gì nhưng có nhiều người đặt vấn đề trong đó có Trần Đình Hoan”.
Theo ông Lê Khả Phiêu thì đây là một cuộc gặp theo đề xuất của Giang Trạch Dân, phía Việt Nam cũng nhân đấy, muốn “thăm dò thái độ của Trung Quốc đối với Mỹ và đối với chủ nghĩa xã hội”. Phía Trung Quốc thoả thuận thành phần, mỗi bên bốn người, chủ yếu là chỉ để Tổng bí thư gặp Tổng bí thư. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, trong khi ông bị chặn lại thì phía Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền vẫn vào ngồi cùng Giang Trạch Dân.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm kể: “Trước cuộc họp kín giữa Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu, chúng tôi bị chặn lại. Phía Trung Quốc chỉ cho Tổng bí thư, chánh Văn phòng, thư ký Tổng bí thư và Nguyễn Chí Vịnh, phó tổng cục trưởng Tổng cục II vào. Bọn tôi phản ứng nhưng anh Phiêu bảo thôi”.
Chính hành tung mờ ám này đã dẫn đến câu hỏi về những thoả thuận kín giữa Phiêu với G Dân khi trong việc phân chia Thác Bản Giốc, Ảo Nam Quan, bãi Tục Lãm và Điểm cao 1509,
Phần Lê Khả Phiêu thì giải thích: “Tôi gặp Giang Trạch Dân hai lần, lần thứ hai, hai bên thống nhất là nên có gặp riêng để bàn về biên giới và Biển Đông. Trước cuộc gặp tôi có xin ý kiến Bộ Chính trị nhưng nhiều anh quên. Tôi và Giang Trạch Dân chỉ thoả thuận, trong vấn đề Biển Đông, cái gì chỉ liên quan đến hai nước thì đàm phán song phương, cái gì còn liên quan đến quốc gia khác thì đàm phán đa phương. Cho đến bây giờ thoả thuận này vẫn còn được thực hiện”.
Qua những tài liệu trên chúng ta thấy tin đồn về chuyện “bị gái nắm” của Phiêu có thể là trò bôi nhọ do Anh và Mười thực hiện, có thể là có, có thể là không có, có thể là “có ít xít ra nhiều”. Nhưng rõ ràng việc Phiêu đi đêm với Giang Trạch Dân là có thật và hoàn toàn mờ ám.
Phải chăng là lúc đó Phiêu tìm kiếm sự ủng hộ của Dân trong cuộc đấu với những đồng chí của mình và bắt đất nước phải trả giá bằng Bản Giốc và Nam Quan?
Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam
Khánh An dịch
Seth Mydans
Nhiệm kỳ lãnh đạo cứng rắn ở Việt Nam của ông Lê Khả Phiêu, xuất thân là bộ đội, đã kết thúc một cách ô nhục khi ông bị cách chức trong bối cảnh đấu đá công khai bất thường. Ông Phiêu đã qua đời vào ngày 7 tháng 8 tại Hà Nội hưởng thọ 88 tuổi.
Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương cho biết ông mất “sau một thời gian ốm đau”, và do “tuổi già sức yếu”.
Ông Phiêu, bộ đội miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến chống thực dân Pháp và Mỹ, được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản vào năm 1997, trong thời điểm tranh giành quyền lực và chính quyền bế tắc.
Là một người bảo thủ, ông được coi là một lựa chọn thỏa hiệp. Nhưng ngay lập tức ông Phiêu phải đối mặt với xung đột phe phái liên tục với những người cải cách đảng và, và kết quả là bị phế truất vào năm 2001, sau khi phục vụ chỉ chưa đầy 4 năm trong nhiệm kỳ 5 năm của mình.
Ông Phiêu bị chỉ trích vì sự lãnh đạo kém hiệu quả, không vực dậy được nền kinh tế đang trì trệ của Việt Nam, không có khả năng diệt trừ tận gốc nạn tham nhũng, phụ thuộc vào Trung Quốc và hành vi “phản dân chủ” nhằm bành trướng quyền lực cá nhân.
Ông Carlyle A. Thayer, chuyên gia về Việt Nam gọi đó là “trận chiến cung đình”, ông Phiêu cũng bị cáo buộc lạm dụng tình báo quân sự để thực hiện việc nghe lén các đồng chí trong Bộ Chính trị.
Ông Thayer nhận định những năm cầm quyền của ông Phiêu là thời kỳ “bất di bất dịch”, vì chỉ lo ổn định chính trị mà quên đi những lo ngại về kinh tế và hạn chế hành động quyết định đối với một loạt vấn đề như tham nhũng và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đối với Việt Nam.
Ông Phiêu tiếp tục ủng hộ “vai trò chủ đạo” của các doanh nghiệp nhà nước, một quan điểm bảo thủ mà cả các nhà kinh tế phương Tây và Việt Nam cho là một trong những điều cản trở chính đối với tăng trưởng.
Khi ông được chọn làm tổng bí thư, ba thành viên cầm quyền đương nhiệm được chỉ định làm cố vấn, vai trò giám sát việc lãnh đạo của ông Phiêu. Trong năm đầu tiên cầm quyền, của ông Phiêu, một trong ba cố vấn là ông Đỗ Mười, tổng bí thư tiền nhiệm, không chỉ tham dự các cuộc họp của Bộ Chính trị mà còn tiếp tục làm chủ toạ.
Ông Phiêu đã cố bãi bỏ vai trò của các cố vấn và tự sửa soạn bổ sung thêm cho chính mình chức vụ chủ tịch nước, động thái gây ra cuộc tranh giành lãnh đạo dẫn đến việc ông bị gạt ra rìa.
Ông Phiêu cứng rắn trong các vấn đề đối ngoại cũng như kinh tế vào thời điểm những người cải cách đảng đang tìm cách tiếp cận với phương Tây. Ngay trước khi Tổng thống Bill Clinton đến Việt Nam vào năm 2001, ông Phiêu đã cảnh báo rằng cuộc chiến chống lại phương Tây, mà ông đã cống hiến cả đời, vẫn chưa kết thúc với chiến thắng của Việt Nam.
Ông nói: “Họ tiếp tục tìm cách quét sạch hoàn toàn các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Chúng ta không bao giờ nên lơi lỏng cảnh giác một phút giây nào.”
Ông ra lệnh cho các quan chức đảng chỉ dành cho ông Clinton cuộc đón tiếp không chính thức và sau đó mắng mỏ tổng thống Mỹ về chủ nghĩa đế quốc Mỹ.
Ông Lê Khả Phiêu sinh ngày 27 tháng 12 năm 1931, quêThanh Hóa, tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1949. Một năm sau, ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam, bắt đầu thăng tiến trong quân đội qua các cuộc khánh chiến chống Pháp và Mỹ cũng như thời kỳ chiếm đóng Campuchia.
Ông Phiêu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản năm 1991, được bầu làm Bí thư một năm sau đó và tham gia Bộ Chính trị năm 1994.
He served for less than four years as the country’s general secretary, losing his post after unusually public factional struggles.
By Seth Mydans - Aug. 13, 2020
Le Kha Phieu, a career military man whose tenure as a hardline leader of Vietnam ended ignominiously when he was removed from office amid unusually public infighting, died on Aug. 7 in Hanoi. He was 88.
The Central Committee for the Protection and Health Care of Officials said he died “after a period of illness,” which it attributed to “his old age and weak strength.”
Mr. Phieu, who had fought for North Vietnam in its wars against French colonialists and American forces, was elevated to general secretary of the Communist Party in 1997, a time of power struggles and government gridlock.
An ideological conservative, he was considered a compromise selection. But he immediately faced constant factional strife with party reformers and, with his ouster in 2001, wound up serving less than four years of his five-year term.
Mr. Phieu was criticized for ineffective leadership, failure to revive Vietnam’s stagnant economy, inability to root out corruption, subservience to China, and “anti-democratic” behavior in seeking to expand his power.
In what Carlyle A. Thayer, a Vietnam specialist at the Australian Defense Force Academy in Canberra, called a “battle royal” over his removal, he was also accused of misusing military intelligence services to conduct wiretaps on his fellow Politburo members.
Mr. Thayer described Mr. Phieu’s years in office as a period of “reform immobilism,” a preoccupation with political stability that overshadowed economic concerns and limited decisive action on a range of issues, including corruption and the impact on Vietnam of the Asian financial crisis.
Mr. Phieu continued to support the “leading role” of large state-controlled enterprises, a conservative position that both Western economists and liberals within Vietnam said was one of the chief hindrances to growth.
When he was chosen general secretary, the three members of the incumbent ruling troika were named as advisers, a role that enabled them to cast a shadow over his leadership. During Mr. Phieu’s first year in office, one of the three, Do Muoi, the previous general secretary, not only attended meetings of the Politburo but also continued to sit at the head of the table.
Mr. Phieu tried to abolish the role of advisers and adopt for himself the additional post of state president, moves that largely triggered the leadership struggle that led to his removal.
Mr. Phieu was a hard-liner in international affairs as well as on the economy, at a time when party reformers were seeking to reach out to the West. Just before President Bill Clinton visited the country in 2001, Mr. Phieu warned that the battle against the West, to which he had dedicated his life as a soldier, had not ended with Vietnam’s wartime victory.
“They continue to seek ways to completely wipe out the remaining socialist countries,” he said. “We should never relax our vigilance for a minute.”
He ordered party officials to accord Mr. Clinton only a low-key welcome and then berated the president about American imperialism.
Le Kha Phieu was born on Dec. 27, 1931, in the northern Thanh Hoa province. He became a member of the Indochinese Communist Party in 1949. A year later he joined the Vietnam People’s Army, beginning a rise through the ranks that would take him through the wars against the French and the Americans and the subsequent occupation of Cambodia.
He was elected to the Communist Party Central Committee in 1991, elevated to the party secretariat a year later and joined the Politburo in 1994.
Information about survivors was not released.
Seth Mydans reported as a foreign and national correspondent for The New York Times and its sister publication, The International Herald Tribune, from 1983 to 2012. He continues to contribute to The Times.
Trích “Bên Thắng Cuộc”: Phần IV: Tam nhân
Tháng 6-1991, ông Lê Khả Phiêu mới được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương; năm 1992, vì giữ chức chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, ông được cơ cấu vào Ban Bí thư và tháng 1-1994, tại đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ, ông được đưa vào Bộ Chính trị. Vậy mà tháng 12-1997, ông Lê Khả Phiêu đã trở thành tổng bí thư. Nhưng, ông Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư ở một giai đoạn mà các nhà chính trị Việt Nam bắt đầu bị quan sát bởi Internet. Ông cũng làm tổng bí thư khi các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt vẫn giữ quyền bính như những “thái thượng hoàng”. Cho dù có không ít nỗ lực để thay đổi bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam, người bị thay thế lại là ông Lê Khả Phiêu chỉ sau hơn ba năm giữ chức.
1- Kỷ nguyên Internet:
Tuy con đường phát triển hạ tầng viễn thông được đắp bởi công lao của rất nhiều người, sự chấp thuận của ông Lê Khả Phiêu vào năm 1997 là rất quan trọng để Việt Nam có thể kết nối Internet. Đó là giai đoạn ông Phiêu bắt đầu nhận chuyển giao quyền lực và bản thân ông cũng không hình dung được khả năng thay đổi thế giới của công nghệ này.
Internet từ đây sẽ đưa Việt Nam bước sang một kỷ nguyên rất khác.
Cuối thập niên 1980, điện thoại vẫn là một dịch vụ xa xỉ mà rất ít người dân miền Bắc biết tới. Cho dù tiếp quản một hệ thống viễn thông tương đối hiện đại của miền Nam, đến năm 1990, cả nước chỉ có chưa tới 80.000 máy điện thoại 479
Cho đến giữa thập niên 1980, Việt Nam hoàn toàn là một quốc gia bị đóng cửa. Năm 1985, phải mất chín mươi phút mới có thể có một cuộc điện thoại gọi từ Việt Nam ra nước ngoài. Theo ông Đỗ Trung Tá 480, lúc đó Việt Nam chỉ có sáu kênh vô tuyến nối Việt Nam với Hồng Kông. Năm 1993, cũng theo ông Tá, tỉ lệ điện thoại chỉ đạt 0,087%, nghĩa là một vạn dân Việt Nam chưa có được một máy điện thoại.
Năm 1987, ông Đặng Văn Thân 481 đã có một quyết định làm thay đổi căn bản ngành viễn thông Việt Nam. Theo ông Đỗ Trung Tá: “Khi ấy, Liên Xô viện trợ không hoàn lại mười triệu rúp vàng để trang bị mạng thông tin cho Bộ Công an nhưng ông Thân thuyết phục ông Phạm Hùng không nên dùng vì cho dù đó là thiết bị hiện đại nhất của Đông Đức thì công nghệ analog của họ đã rất lạc hậu so với thế giới. Những thiết bị này sau đó được mang tặng Cuba. Trong số mười triệu rúp thiết bị ấy, ông Thân chỉ dùng bốn thứ: pin mặt trời, cột, kèo và xe chuyên dùng”. Công nghệ kỹ thuật số của “tư bản” được ông Thân chọn từ năm 1987, thông qua việc hợp tác đầu tư với Úc, đã mở ra một giai đoạn mới của ngành viễn thông Việt Nam cho dù đầu thập niên 1990, giá cước viễn thông của Việt Nam vẫn thuộc vào hàng đắt nhất thế giới 482.
Năm 1992, trong một lần làm việc với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông Đặng Văn Thân đưa ra kế hoạch, đến năm 2000, Việt Nam sẽ có một điện thoại cho 100 dân. Ông Võ Văn Kiệt hỏi: “Tại sao phải là năm 2000 mà không phải là 1995”.
Theo ông Tá, người cùng có mặt trong buổi làm việc: “Chúng tôi coi đó là một mệnh lệnh và trên đường về, chúng tôi đưa ra chiến lược tăng tốc hai giai đoạn: 1993-1995 và 1995-2000”. Khi bắt đầu đưa điện thoại di động vào Việt Nam, ông Đặng Văn Thân lại quyết định đúng khi chọn công nghệ số GSM, loại công nghệ mà châu Âu mới triển khai năm 1991.
Ngày 16-4-1993, Mobifone, mạng di động đầu tiên của Việt Nam, chính thức đi vào hoạt động 483. Hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ viễn thông phát triển là cơ sở để Việt Nam tiến tới kết nối Internet.
Chiến tranh đã đưa Việt Nam tiếp cận với máy tính khá sớm 484, nhưng cho tới thập niên 1980, “tin học” vẫn là một khái niệm rất xa lạ đối với công chúng. Trong suốt thập niên 1980, khoa Toán trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đào tạo được 143 người có khả năng ứng dụng tin học vào quản lý kinh tế. Năm 1988, Tiến sỹ Nguyễn Quang A tiếp xúc với một Việt kiều có liên hệ với một công ty phần mềm của Pháp tên là Genlog. Một liên doanh 50-50 giữa Tổng cục Điện tử và Genlog, lấy tên là Genpacific, ra đời.
Theo ông Nguyễn Quang A: “Mục tiêu ban đầu của chúng tôi là nhận outsourcing phần mềm cho người Pháp”. Nhưng, kế hoạch này thất bại bởi không làm sao liên hệ được với các đơn đặt hàng. Khi ấy, phải chờ ít nhất bốn mươi phút mới có thể nối được một cuộc điện thoại với Paris, còn Air France thì phải hai tuần mới có một chuyến. Genpacific chuyển sang lắp ráp máy tính cá nhân.
Có khoảng sáu nghìn máy tính loại 286, tốc độ cực thấp: 8Mhz và bộ nhớ chỉ 20Mb, đã được Genpacific sản xuất trong năm 1989. Cho dù, theo ông Nguyễn Quang A, sản phẩm của ông chủ yếu được xuất sang Liên Xô, máy tính cá nhân đã được Genpacific tặng trường Nguyễn Ái Quốc và được nhiều doanh nghiệp, công sở, trường học ở Việt Nam trang bị. Sau Genpacific, Công ty 3C của Nguyễn Quang A và FPT bắt đầu kinh doanh máy tính, xã hội Việt Nam không còn phải học chay tin học nữa.
Tháng 8-1990, Giáo sư Phan Đình Diệu kêu gọi: “Nhà nước cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư tin học”.
Ông cũng đề nghị Nhà nước đưa giáo dục tin học vào các nhà trường. Từ đầu năm 1990, ở Sài Gòn, tin học bắt đầu được ứng dụng trong ngành in ấn.
Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin đề cập đến khả năng “một số hệ thông tin trong nước được ghép nối với các mạng thông tin quốc tế” 485. Tổng cục Bưu điện bắt đầu thiết lập mạng Vietpac X.25, cung cấp các dịch vụ truyền dữ liệu chuyển mạch gói công cộng, kết nối với mạng điện thoại tự động đã được số hóa. Đến cuối năm 1995, các dịch vụ thuê bao kênh X.25 đã đáp ứng nhu cầu đến tất cả các tỉnh lỵ và một số huyện, và cuối năm 1996 đến hơn 400 huyện trong cả nước.
Khoảng năm 1993, một kỹ sư ở Viện Công nghệ Thông tin, ông Trần Xuân Thuận lập ra mạng T-net với tham vọng tạo ra một mạng truyền dẫn mang tên ông nhưng không mấy thành công. Cùng thời gian ấy ở Viện Công nghệ Thông tin, ông Trần Bá Thái, trưởng phòng mạng trở thành người Việt Nam đầu tiên đi tiên phong khi Phòng của ông nhận chuyển giao công nghệ chuyển nhận thư điện tử UUCP từ Úc, lập ra mạng NetNam. Tháng 4-1994, NetNam đã chuyển một lá thư của Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho Thủ tướng Thụy Điển. Ông Kiệt trở thành người Việt Nam đầu tiên từ trong nước chính thức gửi email ra nước ngoài.
Cuối năm 1995, từ Khánh Hòa, ông Nguyễn Anh Tuấn, giám đốc Trung tâm Tin học Teltic, Bưu điện Khánh Hòa, tiếp cận với cả ông Thuận, ông Thái, tự mày mò nghiên cứu công nghệ giao thức truyền thông Internet rồi lập ra mạng VietNet. VietNet thuê cửa ra Úc của NetNam và sử dụng hệ thống điện thoại nội bộ để kết nối với các thuê bao cá nhân.
Từ 31-1-1996, VietNet chính thức hoạt động 486. Cuối năm 1996, về mặt nhà nước, một “taskforce” được thành lập để chuẩn bị kết nối Internet gồm: Chu Hảo, thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Mai Liêm Trực, Tổng cục Bưu Điện; Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ Công an 487.
Những điều kiện tối thiểu để có thể nối mạng đều đã được chuẩn bị, lợi ích thì ai cũng rõ nhưng làm cho các nhà lãnh đạo hết lo sợ là một điều không hề dễ dàng. Thời điểm quyết định kết nối Internet cũng là thời điểm chuyển giao thế hệ lãnh đạo ở Việt Nam. Ông Chu Hảo nói: “Từ ông Võ Văn Kiệt đến ông Phan Văn Khải đều ủng hộ, nhưng khó nhất là phải được Bộ Chính trị cho phép”. Giáo sư Đặng Hữu, từ sau Đại hội VIII, tháng 6-1997, chuyển sang bên Đảng làm trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Từ bên trong, các ủy viên Bộ Chính trị lo sợ Internet nhất được ông Đặng Hữu tìm cách thuyết phục 488.
Theo ông Đỗ Trung Tá, ông Đỗ Mười cũng trở thành một người ủng hộ, ông Mười nói: “Tôi mà thạo tiếng Anh có khi tôi còn sử dụng Internet nhiều hơn các anh vì tôi đọc nhiều hơn”. Phó Thủ tướng Phan Văn Khải yêu cầu nhóm phải trực tiếp báo cáo Ban Bí thư. Theo ông Chu Hảo: “Đến ngày hẹn, ông Đỗ Mười đang ở miền Nam, đề nghị chúng tôi báo cáo trực tiếp ông Lê Khả Phiêu, thời gian ấy là ủy viên Thường vụ Thường trực Bộ Chính trị”.
Gặp ông Lê Khả Phiêu, ông Mai Liêm Trực trình bày về pháp lý, Chu Hảo nói về kỹ thuật, Nguyễn Khánh Toàn báo cáo về đảm bảo an ninh. Đây là giai đoạn mà ông Lê Khả Phiêu sắp trở thành tổng bí thư, ông tỏ ra khá cởi mở. Giáo sư Chu Hảo nói:
“Chúng tôi chia sẻ những lo sợ của ông Phiêu cũng như của các vị trong Ban Bí thư về an ninh, về bí mật quốc gia, sợ văn hóa đồi trụy và phản động tràn vào Việt Nam. Chúng tôi nói về những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong ngành bảo mật thông tin nhưng không dám khẳng định là kiểm soát được tất cả. Chúng tôi cho rằng tường lửa cũng như cái khóa, khóa tốt thế nào cũng có người mở được, nên vấn đề quan trọng vẫn là con người. Ông Phiêu rất thích lập luận ‘vấn đề quan trọng là con người’, ông đồng ý”.
Tháng 12-1996, Trung ương Đảng khóa VIII họp Hội nghị lần thứ hai bàn về khoa học công nghệ. Ông Đỗ Trung Tá nói:
“Tôi mở một phòng máy và dùng sơ đồ đơn giản nhất để ‘giới thiệu Internet và các biện pháp đề phòng’. Các ủy viên dự họp Trung ương được Tổng Bí thư Đỗ Mười cho phép tới tìm hiểu về Internet và tường lửa. Bằng vài thuê bao Internet nối với server của VDC, tôi cho tải các websites có nội dung tốt xuống cho các uỷ viên Trung ương xem; rồi cho tải những web-sex, các uỷ viên Trung ương giữ ý quay mặt đi, tôi cho anh em biểu diễn kỹ thuật ngăn các web-sex này lại. Các ủy viên Trung ương nói: Nếu làm được như thế thì cho mở được. Hội nghị Trung ương 2 thừa nhận Internet tải được trí tuệ của nhân loại về và tin rằng có thể ngăn các nội dung xấu”.
Ngày 5-3-1997, Chính phủ ban hành Nghị định 21 “quy định tạm thời quản lý Internet” theo nguyên tắc “quản lý được đến đâu thì phát triển tới đó” 489. Ngày 19-11-1997, tại trụ sở Tổng cục Bưu điện, 18 Nguyễn Du, Hà Nội, “Lễ kết nối Internet toàn cầu” đã được long trọng tổ chức 490.
2- Luân chuyển cán bộ:
Ông Lê Khả Phiêu được đưa lên giữ chức tổng bí thư trong một hội nghị Trung ương, thay vì được bầu trong đại hội (12-1997) 491. Sau khi nhận chức không lâu, ông Phiêu xuất hiện trong một cuộc họp báo với gần 200 phóng viên trong nước và quốc tế. Bộ quân phục cấp tướng đã được thay bằng comple xám, cavat màu sáng, mái tóc vốn lòa xòa phủ trán, che sát cặp mắt nhỏ, được xịt keo, chải lật ra phía sau, để lộ vầng trán rộng. Cuộc họp báo được thực hiện vào buổi chiều, được ghi hình và sau khi biên tập, được phát trong chương trình thời sự tối của Đài Truyền hình Việt Nam. Ông Lê Khả Phiêu, rõ ràng, đã nỗ lực tạo ra khác biệt với những người tiền nhiệm.
Ngày 18-1-1998, khi đến thăm Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tuyên bố: “Dân chủ 100% là hình thức”. Trong nền chính trị của Việt Nam nơi mà các ứng cử viên của Đảng thường không lo sợ rớt mà chỉ lo mất phiếu mấy phần trăm thì phát biểu đó của Tổng Bí thư có rất nhiều thông điệp. Tuy nhiên, quyết định mang tính cải cách chính trị ngay sau đó của ông: “Quy chế dân chủ ở cơ sở” lại là một điển hình về hình thức 492.
Quyền lực thực sự của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu bắt đầu được thể hiện sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần hai 493. Tuy trong Nghị quyết này, ông Lê Khả Phiêu đặt ra tham vọng “nghiên cứu lý luận trong nước và thế giới, làm rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” nhưng trên thực tế chỉ có “cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng” và “luân chuyển, điều động cán bộ” mới thực sự giúp ông tạo ra những bước đi quyền lực.
Vấn đề luân chuyển, điều động cán bộ từng được Hội nghị Trung ương 3 494, khóa VIII đặt ra như một giải pháp nhằm “bồi dưỡng toàn diện, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ trong từng ngành, từng địa phương, từng tổ chức”. Nhưng, kể từ khi Nghị quyết này được thông qua (6-1997), việc luân chuyển cán bộ gần như chưa thực hiện.
Từ thập niên 1990, vai trò địa phương trong hệ thống chính trị Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Điều này thể hiện qua con số các bí thư tỉnh ủy được cơ cấu vào Trung ương 495. Đặc biệt, đại biểu địa phương cũng thường chiếm hơn 80% số đại biểu của các đại hội Đảng, thành phần thực sự có tiếng nói thông qua các lá phiếu. Kinh tế thị trường đã làm cho con số các tỉnh thành tự túc được ngân sách tăng lên. Luật Đất đai và Luật Đầu tư bắt đầu tăng thẩm quyền được cấp đất, cấp giấy phép đầu tư cho tỉnh, thành. Chính quyền địa phương bắt đầu có điều kiện để độc lập hơn với trung ương.
Đây cũng là giai đoạn xuất hiện thuật ngữ “trên bảo dưới không nghe”, một câu đùa ý nhị còn để chỉ trật tự hành chính không còn trung ương tập quyền nữa.
Chính sách luân chuyển cán bộ không chỉ giúp Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu bố trí nhân sự của mình vào các vị trí chủ chốt mà còn đặt các nhà lãnh đạo địa phương vào thế phụ thuộc vào ông hơn. Đang là người đứng đầu một tỉnh, họ có thể bị “luân chuyển” đến một vị trí ngồi chơi xơi nước 496. Các quyết định “luân chuyển” lại chủ yếu được thông qua trong Thường vụ Bộ Chính trị nơi mà tổng bí thư là người có tiếng nói quyết định.
Ngay sau khi nhậm chức, ông Lê Khả Phiêu đã đưa Bộ trưởng Lao động và Thương binh Xã hội Trần Đình Hoan về làm chánh Văn phòng Trung ương. Quyết định này được coi là nhằm tạo chỗ trống để có thể đưa một ủy viên Trung ương cùng quê Thanh Hóa, bà Nguyễn Thị Hằng, lên bộ trưởng Lao động và Thương binh Xã hội. Cuối năm 1999, một ủy viên Trung ương người Thanh Hóa khác, ông Tô Huy Rứa phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia được luân chuyển về làm bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 2-2000, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển bị “luân chuyển” về làm bí thư Tỉnh ủy Nghệ An.
Trong tiệc tiễn do Văn phòng Chính phủ tổ chức, ông Trương Đình Tuyển đã đọc một bài thơ của ông nói rằng, việc ra đi của ông đơn giản vì (Tổng Bí thư) cần “chỗ trống”. Chỗ trống để đưa Thứ trưởng kỳ cựu Vũ Khoan rời Bộ Ngoại giao, tạo “chỗ trống” cho ông Nguyễn Dy Niên, cùng quê Thanh Hóa với Tổng Bí thư, lên bộ trưởng.
Luân chuyển cán bộ còn ảnh hưởng tới các ủy viên Bộ Chính trị: Tháng 1-2000, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Phan Diễn được điều về làm bí thư Quảng Nam Đà Nẵng thay thế ông Trương Quang Được ra Hà Nội làm Trưởng Ban Dân vận thay thế ông Nguyễn Minh Triết được điều trở lại Sài Gòn làm bí thư 497; Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Trương Tấn Sang lại phải ra Hà Nội “lấp vào chỗ trống” Trưởng Ban Kinh tế của ông Phan Diễn.
Không mấy địa phương hài lòng với việc trung ương đưa người về nắm những vị trí chủ chốt, cho dù, có những người được điều “về quê” như Trương Đình Tuyển, bí thư Nghệ An, Phan Diễn, bí thư Quảng Nam – Đà Nẵng, và có những người như ông Nguyễn Minh Triết, được đưa về một nơi thế lực hơn. Luân chuyển có thể là cơ hội của người này, có thể lại chấm dứt sự nghiệp chính trị của người khác. Luân chuyển cán bộ, vì thế, vừa có thể tạo ra đồng minh, vừa tích lũy “ân oán” cho ông Lê Khả Phiêu người vận hành cơ chế đó.
3- “16 chữ vàng” :
Ông Lê Khả Phiêu còn phải nhận lãnh trách nhiệm lịch sử trong một giai đoạn mà quan hệ đối ngoại, đặc biệt là với Trung Quốc, có rất nhiều thử thách. Nguyên tắc “hai nước xã hội chủ nghĩa phải cùng chống âm mưu của đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội” xác lập trước Hội nghị Thành Đô (9-1990) đã được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và những đồng chí của ông đặt trên cả truyền thống cảnh giác nghìn năm trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 498.
Là một vị tướng quân đội mới bắt đầu làm chính trị, ông Lê Khả Phiêu đã không tránh khỏi những ứng xử thiếu kinh nghiệm với các nhà lãnh đạo cơ mưu của Bắc Kinh. Những quyết định đưa ra trong nhiệm kỳ của ông đã từng bị chỉ trích cả trong nội bộ và trên dư luận, nhất là đối với những quyết định gay go để kết thúc đàm phán Hiệp định Biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Nhưng, trên nhiều phương diện, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chỉ là người thừa kế những chính sách được thiết lập từ thời “Thành Đô”.
Đầu năm 1991, ông Đoàn Mạnh Giao được cử đi Đài Loan. Đây là chuyến đi đầu tiên của một quan chức Việt Nam đến một nhà nước không được chính quyền Trung Quốc công nhận. Đài Loan được coi là đối tác đầu tư tiềm năng số một của Việt Nam. Theo ông Đoàn Mạnh Giao: “Đôi bên cần mở một đường bay thẳng. Lâu nay, từ Đài Loan đến Việt Nam vẫn phải quá cảnh ở Bangkok. Tôi làm đề án, chuẩn bị khôi phục quan hệ kinh tế với Trung Quốc và khôi phục kinh tế dân gian với Đài Loan. Chủ nhiệm Văn phòng Trần Xuân Giá trình lên, ông Võ Văn Kiệt đưa ra Bộ Chính trị khóa VI, cả Bộ Chính trị đồng ý”.
Sau một thời gian ngắn đàm phán, Việt Nam chấp thuận cho hãng China Airline mở đường bay thẳng Kao Hung – Tân Sơn Nhất. Mọi việc chuẩn bị xong, China Airline mở tiệc ra mắt ở khách sạn Rex, Sài Gòn. Tiệc mời lúc 5 giờ 30 chiều, thì 1 giờ 30, Phó chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Hoàng Thúc Tấn nhận được điện thoại từ đích thân Tổng Bí thư Đỗ Mười. Ông Đỗ Mười hỏi: “Ai phụ trách vấn đề Đài Loan?”. Ông Tấn: “Thưa anh, Đoàn Mạnh Giao?”. “Phải Giao con ông Đoàn Trọng Truyến không? Bảo cậu ấy nói chuyện với tôi”. Ông Giao cầm máy, ông Đỗ Mười hỏi: “Ai cho phép cậu bay với Đài Loan?”. Ông Giao: “Thưa, chính bác cho phép, Đề án đã được Bộ Chính trị thông qua ạ”. Ông Đỗ Mười: “Đấy là trước khi khôi phục quan hệ với Trung Quốc”.
Ông Đỗ Mười yêu cầu, ngay trong chiều hôm ấy, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ và Đoàn Mạnh Giao phải sang làm việc với Ban Bí thư. Chiều, ông Trần Quang Cơ sang, cuộc làm việc có cả Thường trực Ban Bí thư Đào Duy Tùng và Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà. Đào Duy Tùng nói thẳng: “Trước thì Bộ Chính trị chủ trương như thế, nhưng nay kinh tế phải phục tùng chính trị. Không cho Đài Loan bay. Nếu ai cho bay, tôi sẽ ra lệnh cho tên lửa bắn hạ”.
Buổi tiệc hôm ấy ở Rex và các chuyến bay từ Đài Loan sang Sài Gòn bị hủy bỏ. Chủ tịch hãng China Airline gọi điện thoại cho ông Đoàn Mạnh Giao than phiền. Ông Giao trấn an: “Chuyện này sẽ được xử lý”. Ông Võ Văn Kiệt sau đó chỉ đạo lập hồ sơ cho thấy hàng không Đài Loan bay đến hầu như tất cả các nước, kể cả bay đến Quảng Châu, Trung Quốc, chứ không chỉ có bay đến Việt Nam để xin Bộ Chính trị khóa VII xem xét lại.
Ông Đoàn Mạnh Giao nói: “Ông Kiệt là người mà những lúc bế tắc luôn vượt ra khỏi ý thức hệ và ngoại giao kinh điển để đạt được mục đích”. Khi đó, ông Võ Văn Kiệt đang thèm khát nguồn vốn ODA từ Đài Loan cho đường dây 500kV và các công trình hạ tầng đầy tham vọng của ông. Đài Loan có quỹ OECDF có thể cho “những nước chậm phát triển có quan hệ kinh tế thực chất với Đài Loan” vay. Theo ông Đoàn Mạnh Giao:
“Buổi tối trước khi tôi đi Đài Loan, ông Kiệt gọi lên Văn phòng. Tôi lên thấy ông đang ngồi một mình. Ông nói: ‘Qua đó, mày tìm cách vay năm mươi triệu USD cho đường dây 500kV’. Tôi nói: ‘Không được đâu chú ơi, quỹ này người ta chỉ cho vay cho các vấn đề xã hội’. Ông nói: ‘Vậy mới phải tìm cách’. Tôi sang gặp một quan chức quen của Đài Loan tên là Giang Bỉnh Khôn, chuyển thông điệp của Thủ tướng cho Đài Loan, ông Giang nói sẽ báo lên trên và tính”.
Ít lâu sau, Lâm Thủy Cát, vụ trưởng Vụ Á – Thái của Bộ Ngoại giao Đài Loan đến Hà Nội gặp ông Đoàn Mạnh Giao, nói:
“Có một việc khẩn thiết tôi muốn bàn: Tổng thống Lý Đăng Huy đang ở Indonesia, trên đường về muốn dừng ở Đà Nẵng và muốn hội kiến với Thủ tướng Võ Văn Kiệt một giờ. Việt Nam có thể bố trí để Thủ tướng đi tuần du miền Trung ghé qua. Cuộc gặp sẽ được giữ hết sức bí mật để thỏa thuận một số việc, phía Đài Loan, sau cuộc gặp này có thể cho Việt Nam vay từ 300 đến 500 triệu USD”.
Ông Giao nói: “Tôi báo lại với Thủ tướng, chỉ lưu ý ông là truyền thông Đài Loan có thể sẽ có được tin này và sẽ loan đi. Một tuần sau ông Kiệt nói ông Đỗ Mười đã đồng ý. Chưa kịp liên hệ với Lâm Thủy Cát thì mấy ngày sau ông Kiệt lắc đầu: “Hỏng rồi, ì xèo hết trong Bộ Chính trị. Căng lắm, không thuyết phục được”.
Nhưng chính quyền Đài Loan vẫn rất thực tế: Đường bay Kao Hung-Tân Sơn Nhất vẫn được mở. Văn phòng Kinh tế – Văn hóa Đài Bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn được thiết lập. Ông Võ Văn Kiệt vẫn vay được ba mươi triệu USD đầu tiên với lãi suất rất thấp.
Kể từ năm 1991, quan hệ giữa Hà Nội và Trung Quốc bắt đầu được thúc đẩy bằng các “chuyến thăm hữu nghị”. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tăng dần nhịp độ đến Hà Nội: tháng 11-1992, Thủ tướng Lý Bằng; tháng 11-1994, Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch; tháng 6-1996, Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân; tháng 11-1996, Thủ tướng Chu Dung Cơ. Nhưng, có thể nói, phải đến chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Bắc Kinh vào tháng 2-1999, công cụ “ý thức hệ” mới được Bắc Kinh khai thác ở “tầm cao” để đến gần hơn với Hà Nội.
Trong cuộc gặp thượng đỉnh này, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân đưa ra “hai phương châm” làm nền tảng cho quan hệ hai nước thể hiện trong “16 chữ vàng” và “4 tốt”. “16 chữ vàng” của Giang Trạch Dân là: “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Và “4 tốt” gồm: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
“Hai phương châm” cùng với Bản Tuyên bố chung giữa Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu đưa ra trong chuyến đi được hai Đảng đánh giá: “Đã xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới”. Thủ tướng Phan Văn Khải (1997-2006) nói: “16 chữ vàng với 4 tốt chỉ là những lời nói. Tôi làm thủ tướng cũng muốn tạo ra sự tin cậy lẫn nhau nhưng Trung Quốc chẳng tin mình, mình thì cũng không tin họ”.
Nhưng, như Đặng Tiểu Bình từng tuyên bố “Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”. Đây là thời điểm Trung Quốc cần những quyết định của phía Hà Nội để kết thúc tiến trình đàm phán Hiệp định Biên giới.
Ngày 7-11-1991, trong chuyến đi Bắc Kinh của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt, “Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới hai nước”, Việt Nam – Trung Hoa, đã được ký kết.
Đường biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc dài 1.406 km, có truyền thống lâu đời 499, bắt đầu được phân định lại.
Đường biên giới truyền thống đó là cơ sở để người Pháp, sau khi chiếm Bắc Kỳ, đàm phán với triều đình Mãn Thanh, ký Công ước 26-6-1887 và Công ước bổ sung 20-6-1895. Đây là hai văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, đường biên giới dài 1.406 km, từ Móng Cái đến biên giới Lào – Trung, chỉ có 341 cột mốc.
“Lời văn công ước mô tả đơn giản, không rõ ràng, không phù hợp với thực địa, bản đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh, khu vực không thể hiện như bãi Tục Lãm, Tài Xẹc, Dậu Gót, nhiều khu vực chưa được phân giới cắm mốc hoặc cắm mốc quá thưa. Ngoài ra, qua hơn trăm năm, hệ thống mốc cũng bị hư hại, xê dịch, phá hủy do chiến tranh và thời gian” 500.
Năm 1955, ngay trong giai đoạn mà tình hữu nghị Việt – Trung đang được mô tả là như “môi với răng”, chính quyền Trung Hoa cộng sản đã có ý “đẩy lùi biên giới” sâu vào phía lãnh thổ Việt Nam:
“Tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Y ên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua… Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100m trên đường quốc lộ để xoá vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này” 501
Ngày 2-11-1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên giải quyết vấn đề biên giới trên cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử theo hai Công ước Pháp – Thanh (1887 và 1895) và mọi tranh chấp có thể giải quyết bằng đàm phán. Tháng 4-1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam. Điều này có thể được coi là một “thắng lợi quan trọng của quan hệ Trung – Việt” nếu như hơn một thập niên sau, Trung Quốc không lặp lại những điều mà họ đã làm hồi năm 1955.
Có lẽ ít có một quốc gia to lớn nào lại sử dụng những phương thức lấn cõi theo kiểu người Trung Quốc đã làm ở Việt Nam:
“Ở một số địa phương, do địa hình phức tạp, điều kiện sinh hoạt của dân cư Trung Quốc gặp khó khăn, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, Việt Nam đã cho mượn đường đi lại, cho dùng mỏ nước, cho chăn trâu, lấy củi, đặt mồ mả,… trên đất Việt Nam. Nhưng, lợi dụng thiện chí đó của Việt Nam, họ đã dần dần mặc nhiên coi những vùng đất mượn này là đất Trung Quốc. Khi xây dựng các công trình cầu cống trên sông, suối biên giới như cầu ngầm Hoành Mô, Quảng Ninh, cầu ngầm Pò Hèn, Quảng Ninh, đập Ái Cảnh, Cao Bằng, cầu Ba Nậm Cúm, Lai Châu,… phía Trung Quốc cũng lợi dụng việc thiết kế kỹ thuật làm thay đổi dòng chảy của sông, suối về phía Việt Nam, từ đó dịch dần đường biên giới” 502.
Chuyện Trung Quốc tự ý di chuyển, lén lút đập phá, thủ tiêu các cột mốc, lấy tên bản của Trung Quốc đặt cho xóm của Việt Nam… có thể tìm thấy ở bất cứ địa phương nào trên vùng biên giới. Họ cũng không ngần ngại áp dụng những phương thức như vậy để lấn chiếm những vùng lãnh thổ nổi tiếng lâu đời của Việt Nam như Đồng Đăng, thác Bản Giốc.
“Ngày 20-2-1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. Khi quan hệ hai bên còn hữu nghị, Trung Quốc đã xây dựng đường sắt vượt qua đường biên giới lịch sử 300m rồi coi điểm nối ray đó là biên giới. Họ trắng trợn nguỵ biện rằng khu vực hơn 300m đường sắt đó là đất Trung Quốc vì không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác” 503.
Đàm phán biên giới Việt – Trung lần thứ nhất diễn ra tại Bắc Kinh ngày 15-8-1974, khi “tình hữu nghị” giữa hai nước bắt đầu có những rạn nứt sau chuyến đi năm 1972 của Nixon. Sau khi đánh chiếm Hoàng Sa, ngày 19-1-1974, Trung Quốc bắt đầu gia tăng các hoạt động khiêu khích biên giới 504. Đàm phán lần thứ hai, kéo dài từ ngày 7-10-1977 tới tháng 6-1978, diễn ra khi các vụ khiêu khích vũ trang từ phía Trung Quốc tăng cao hơn 505. Đối thoại chấm dứt khi xung đột lên đỉnh điểm bởi vụ “nạn kiều”. Sau cuộc chiến tranh biên giới, kéo dài từ ngày 17-2 đến 5-3-1979, ngày 18-4-1979, cuộc đàm phán lần thứ ba được nối lại tại Hà Nội. Nhưng, từ đó cho đến năm 1991, xung đột vũ trang liên tục diễn ra. Theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, mỗi năm Trung Quốc gây ra hơn tám trăm vụ khiêu khích biên giới 506.
Đàm phán chỉ thực sự bắt đầu ở vòng thứ tư, tháng 10-1992, sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Ngày 19-10-1993, hai đoàn đàm phán chính phủ đã ký thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ 507.
Trên cơ sở bản đồ và thực địa, hai bên đưa ra đường biên giới trên thực tế theo nhận thức của mình. Đây là một công việc không hề dễ dàng cho Việt Nam vì phần đất biên giới phía Việt Nam vẫn đầy mìn Trung Quốc. Chiến tranh cũng đã buộc dân chúng ở nhiều nơi phải rời khỏi những vùng đất sinh sống và canh tác truyền thống. Trong khi đó, các đoàn khảo sát từ Hà Nội lên lại chỉ tiến hành “xác lập bản đồ hiện trạng” trong bí mật. Những phần đất mà bản “Bị vong lục ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam” mô tả là đã “bị Trung Quốc dùng những thủ đoạn xấu xa” để lấn chiếm trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1978 giờ đây phần lớn được gọi là những khu vực “hai bên có nhận thức khác nhau” 508. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và trưởng đoàn đàm phán giai đoạn đầu, ông Vũ Khoan, đều thừa nhận, các địa phương không hài lòng với kết quả này.
Trong khi đó, kể từ năm 1993, Trung Quốc tiếp tục gây xung đột ở nhiều sắc thái khác nhau để tiếp tục gây áp lực lên các vòng đám phán. Đường lên cửa khẩu Chi Ma, huyện Lộc Bình, Lạng Sơn, phải dừng lại trước đường biên 63m. Cho dù cột mốc 44, cắm từ thời Pháp – Thanh vẫn còn, năm 1993, khi tỉnh Lạng Sơn cho rải đá, lực lượng vũ trang Trung Quốc từ phía Ái Điểm, đã tràn sang để ngăn cản việc thi công. Ngày 28-5, Trung Quốc đưa hàng trăm binh sỹ có vũ trang từ Ái Điểm sang, theo sau là mười lăm xe chở đá. Trong khi phía Việt Nam chưa kịp phản ứng, hai xe “vượt biên” sang đổ đá chồng lên đoạn công nhân Việt Nam đang thi công. Ngay lập tức bộ đội biên phòng, hải quan, công nhân và nông dân Chi Ma được huy động ra ngăn chặn.
Ngày 11-6-1993, lính Trung Quốc rút. Từ đó, Tổ cột mốc 44 được đồn biên phòng Chi Ma thành lập, bảy cán bộ biên phòng đã phải túc trực 24/24, trong gió Chi Ma thổi bạc mặt, trong rét Chi Ma có khi xuống dưới độ 0. Vì bị phía Trung Quốc ngăn cản không thể dựng nhà, Tổ cột mốc 44 chỉ có thể dựng một túp lều bằng sáu cọc tre và những thùng giấy carton nằm bên lãnh thổ Việt Nam năm mét.
“Nhật ký” của Tổ ghi nhận ba mươi hai sự kiện tiêu biểu xảy ra xung quanh mốc 44: một lần biên phòng Ái Điểm, Trung Quốc, cho dựng một nhà tạm lấn sang đất Việt Nam hai mét; hai mươi hai lần lực lượng vũ trang Trung Quốc xâm nhập sâu vào đất Việt Nam từ năm đến ba mươi lăm mét, bảy lần xâm canh, một lần lén chôn một bia đá sang đất Việt Nam hai mươi mét… Phía bên kia mốc 44, Trung Quốc dựng một bức tường đá, dày một mét, cao ba mét, bao bọc đồn Ái Điểm. Trên bức tường đó, sâu hoắm những lỗ châu mai, nhìn sang.
Thiếu tá Lục Văn Moong, người từng là đồn phó Chi Ma bốn năm, nói: “Có rất nhiều chuyện không được ghi chép, đó là những cục đá được ném sang từ phía bên kia lúc nửa đêm” 509. Mỗi tấc đất biên giới trong thời gian này, không chỉ để cấy lúa, trồng rau mà còn là khát vọng lãnh thổ và ý chí quốc gia của đôi bên. Tại Cao Bằng, nhiều nơi, bộ đội biên phòng phải dựng lưới B40 cho nông dân cày cấy ở những thửa ruộng giáp biên để ngăn phía Trung Quốc ném đá sang. Ở Hà Giang, cho đến trước khi tiến trình phân giới cắm mốc thực hiện xong, hầu hết các điểm cao chiến lược đều đang có quân Trung Quốc chiếm đóng.
Ngày 30-12-1999, sau sáu vòng đàm phán ở cấp chính phủ, mười sáu vòng đàm phán ở cấp chuyên viên, chủ yếu tập trung xử lý 164 khu vực C, hai bên đã ký “Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền”.Theo đó: “Quy thuộc khoảng 114,9 km2 cho Việt Nam (gồm 112,3km2 thuộc khu vực C; 2,6 km2 thuộc khu vực A và B) và khoảng 117,2 km2 thuộc Trung Quốc (trong đó có 114,8 km2 thuộc khu vực C; 2,4 km2 thuộc khu vực A và B)” 510. Nhìn qua các con số thì có vẻ như “đây là một kết quả công bằng” 511. Nhưng, trên thực tế, chính quyền địa phương, các cán bộ biên phòng và người dân nhìn thấy từng tấc đất giờ đây đã thuộc về Trung Quốc. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Khi tôi lên, Cao Bằng nói, những phần đất này lâu nay là của ta sao các anh để thế này. Tôi phải giải thích là phải theo các nguyên tắc đã thỏa thuận trong quá trình đàm phán”.
Quá trình “chuyển đường biên giới từ lời văn Hiệp ước 1999 và bản đồ ra thực địa, một cách chính xác, rõ ràng và đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới chính quy hiện đại” vẫn là một con đường cam go. Ở 109 “khu vực tồn đọng”, được coi là những “khu vực khó, nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời”, hai bên đã phải tiến hành thêm mười lăm vòng đàm phán các loại, “vòng ngắn nhất kéo dài chín ngày, vòng dài nhất hai mươi ba ngày, phiên họp dài nhất ba mươi mốt giờ liền” 512, để “giải quyết các mâu thuẫn giữa lời văn với bản đồ đính kèm Hiệp ước, giữa bản đồ với thực địa và sự không rõ ràng của một số từ ngữ trong Hiệp ước” 513.
Một trong những “khu vực nhạy cảm”, cửa khẩu Hữu Nghị, mốc km0 nơi đường biên giới giờ đây đi qua vốn là mốc 19 cũ của Pháp, cách điểm nối ray 148m về phía Bắc. Đối chiếu với “Bị vong lục ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam” sẽ thấy cột mốc tham chiếu ở khu vực này không phải là “19 cũ” mà là “cột mốc 18 nằm cách cửa Nam Quan 100m trên đường quốc lộ đã bị Trung Quốc ủi nát để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột km0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m”. Nếu 300m từ đường biên giới lịch sử đến điểm nối ray này là khu vực có “nhận thức khác nhau”, thì việc Việt Nam được chia 148m so với phần nước lớn Trung Quốc được chia 152m là công bằng như các nhà đàm phán giải thích. Nhưng, phần 300m này là của Việt Nam, năm 1955 bị Trung Quốc lấn vào so với đường biên lịch sử 514.
Tại khu vực thác Bản Giốc:
“Theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam” 515.
Thác Bản Giốc là một biểu tượng mà trong suốt hàng trăm năm đã nằm trong tiềm thức của người Việt Nam. Bức ảnh nổi tiếng về thác Bản Giốc do nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp đã từng ngự trị trong sách giáo khoa, trên các tờ lịch in màu hiếm hoi của miền Bắc thời trước năm 1975.
Theo “Bị vong lục 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao” thì toàn bộ khu vực thác Bản Giốc nằm trong lãnh thổ Việt Nam cho tới ngày 20-2-1970 mới bị phía Trung Quốc “đưa 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang” sang lấn chiếm. Các tài liệu lịch sử của người Pháp và những người dân sống lâu năm ở khu vực Đàm Thủy đều biết rõ toàn bộ thác Bản Giốc nằm sâu trong biên giới Việt Nam chứ không phải là phần được “quy thuộc” như các nhà đàm phán trong thập niên 1990 giải thích 516.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm thừa nhận: “Anh em Cao Bằng cũng phản ứng, nhưng muốn thỏa thuận được thì mình cũng phải nhượng bộ”. Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong. Ông Nguyễn Mạnh Cầm giải thích: “Sở dĩ chia thác Bản Giốc như vậy là vì trước đó mình đã thỏa thuận nguyên tắc ‘đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy’. Nguyên tắc này do anh Vũ Khoan trực tiếp đàm phán thỏa thuận với Đường Gia Triền. Tất nhiên là có xin ý kiến Bộ Chính trị”.
Theo ông Vũ Khoan:
“Bản thân vấn đề là quá phức tạp, chúng tôi phải lần mò từng mét đất. Năm 1991, thỏa thuận nguyên tắc mở ra đàm phán biên giới. Năm 1992 bắt đầu đàm phán nguyên tắc, ông Võ Văn Kiệt chỉ đạo trực tiếp cụ thể và phải bàn, quyết định tập thể. Nhiều người không hiểu, một con sông ở biên giới hai nước thì phải chia đôi. Thực tế lịch sử có những điều mình nói cũng không đúng”.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm thừa nhận: “Năm 1993, khi thông qua những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, thấy rằng việc phân chia theo trung tuyến dòng chảy là một nguyên tắc hợp lý. Lúc bàn nguyên tắc này, Bộ Chính trị chưa nghĩ tới những trường hợp cụ thể như Bản Giốc”.
Theo Thủ tướng Phan Văn Khải:
“Thác Bản Giốc mình không thể nào lấy hết. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chịu nhưng kéo dài quá thì không xong toàn cục. Bãi Tục Lãm họ có ý đồ lấn thật. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Cố vấn Đỗ Mười cũng phải đấu với Trung Quốc trên tình hữu hảo mới được như vậy. Tôi, ông Vũ Khoan và ông Lê Khả Phiêu đã đấu tranh rất căng thẳng nhưng đôi bên cũng phải có nhân nhượng, chẳng thà mình có một phân định sau này còn có cơ sở để đấu tranh”.
Việc hoạch định biên giới, cụ thể là phân chia 227 km2 nằm trong 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C được quyết định trong nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Thủ tướng Phan Văn Khải. Tương nhượng là điều không thể tránh khỏi trong các cuộc đàm phán, nhưng tương nhượng ở Hữu Nghị Quan, thác Bản Giốc, những nơi mà từ xa xưa các nhà nước Việt Nam đều đã khẳng định chủ quyền và trong tiềm thức nhân dân, đã trở thành một phần lãnh thổ thiêng liêng quả là những quyết định khó phân công, tội.
Còn một sự nhượng bộ khác mà chắc chắn lịch sử rồi sẽ có ý kiến đó là nhượng bộ trên điểm cao 1509, Vị Xuyên, Hà Giang.
Ngày 16-5-1984, sau mười tám ngày dùng một lực lượng lớn tấn công, Trung Quốc đã chiếm và chốt giữ hai mươi chín điểm dọc biên giới Việt Nam, trong đó có điểm cao 1509. Hàng ngàn người lính Việt Nam đã hy sinh trong các đợt phản công lấy lại hai mươi cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1984. Nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh Biên giới, đa số hy sinh trong giai đoạn 1984 – 1985, có người hy sinh năm 1988 khi tái chiếm điểm cao 1509. Giai đoạn 1984 – 1985, theo ông Nguyễn Thanh Loan, người trông coi nghĩa trang: “Cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau”.
Theo Đại tá Phó chỉ huy trưởng Biên phòng Hà Giang Hoàng Đình Xuất:
“Từ khi chiếm được điểm cao 1509, Trung Quốc cho xây dựng trên đỉnh một pháo đài quân sự. Ở phía bên kia, Trung Quốc xây được đường xe hơi lên tận đỉnh trong khi bên mình dốc, hiểm trở. Theo nguyên tắc mà hai bên thống nhất, đường biên giới đi qua đỉnh, cắt đôi pháo đài mà Trung Quốc xây dựng trên cao điểm này, nhưng khi hoạch định biên giới, phía Trung Quốc cho rằng, đây là một khu vực có ý nghĩa thiêng liêng nên họ xin được giữ lại toàn bộ pháo đài để làm du lịch. Đau xót là các nhà lãnh đạo của chúng ta đã đồng ý. Phần Việt Nam nhượng Trung Quốc ở đây tuy chỉ có 0,77 hecta nhưng, 1509 là một vị trí chiến lược. Từ trên pháo đài ấy có thể nhìn thấy từng chiếc ô tô ở thị xã Hà Giang”.
Tuy không bình luận trực tiếp trường hợp điểm cao 1509, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm giải thích: “Tôi nghĩ, các anh ấy cũng biết, nhượng một tấc đất là có tội, nhưng với một nước lớn như Trung Quốc thì tranh chấp phải được giải quyết để có được một biên giới hòa bình. Trước đó không ngày nào là không có khiêu khích”. Chính quyền Trung Quốc đã liên tục gây sức ép, từ cả những việc nhỏ mọn như ném đá vào những người dân Việt Nam cày cấy trên lãnh thổ bên biên giới của mình. Điều này đe dọa sự ổn định mà chính quyền Việt Nam kỳ vọng nên không dám bảo lưu những “khu vực nhạy cảm” như thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan… Theo ông Vũ Khoan: “Bảo lưu là mình luôn phải sống trong nơm nớp”.
Đường biên giới trước đây chỉ có 341 cột mốc, nay được đánh dấu chi tiết hơn bằng 1.971 cột mốc, với 1.378 vị trí mốc chính và 402 vị trí mốc phụ. Theo ông Nguyễn Hồng Thao: “Kết quả này là sự thể hiện sinh động của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt” (VNN). Nguyễn Hồng Thao là thành viên của Đoàn đàm phán, ông ấy có thể chỉ nhắc lại “phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt” như một cái máy ngoại giao. Nhưng người dân Việt Nam thì không mấy ai thiếu trải nghiệm để hiểu sâu về người láng giềng tự cho là tốt đó.
Việt Nam đã phải phân chia biên giới phía Bắc trong thế yếu. Y ếu không chỉ vì đàm phán với một đối tác to lớn hơn mình gấp nhiều lần, với một chính quyền rất khó lường, mà còn vì, toàn bộ quá trình đàm phán, hoạch định và phân giới cắm mốc đều được tiến hành trong bí mật. Trí tuệ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước không được tập hợp. Sức mạnh của dư luận không được sử dụng để vạch trần những thủ đoạn khiêu khích của Bắc Kinh. Sự hiểu biết thực địa của người dân biên giới đã không được khai thác để giúp Việt Nam giữ từng tấc đất.
4- Hiệp định thương mại Việt-Mỹ:
Cũng năm 1999, trong khi mang “Phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt” về từ một láng giềng nhiều thủ đoạn, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu lại đánh mất cơ hội ký hiệp định thương mại với một đối tác tiềm năng: Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ.
Tại tiểu bang Ohio (Mỹ), sau khi thông báo quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận của Tổng thống Bill Clinton với Bộ trưởng Lê Văn Triết, Bộ trưởng Ron Brown đề nghị bộ thương mại hai nước lập ra tổ công tác chuẩn bị cho quan hệ song phương.
Brown cho biết luôn là ông sẽ lập nhóm USTA do bà Barshefsky làm nhóm trưởng. Khi trở về Việt Nam, Bộ trưởng Lê Văn Triết đến thẳng phủ thủ tướng, chờ ông ngoài Thủ tướng còn có Bộ trưởng Đậu Ngọc Xuân, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm.
Ông Triết kể chi tiết cuộc trò chuyện với Ron Brown. Ông Kiệt hỏi: “Theo anh, điều này sẽ tác động đến việc mở cửa của Việt Nam như thế nào?”. Ông Triết:
“Theo tôi, nó phù hợp với chủ trương đa phương hóa, thêm bạn bớt thù. Chắc chắn sẽ có một số anh chưa nhất trí, có anh sẽ phân vân, nhưng mình mà lẩn quẩn thì không những mất cơ hội mà còn ảnh hưởng đến việc mở rộng quan hệ với những đối tác khác”.
Ông suy nghĩ rồi nói:
“Các anh nghiên cứu ngay xem quyết định bỏ cấm vận sẽ tác động đến việc Việt Nam mở rộng quan hệ với các nước như thế nào. Phần ngoại giao, anh Cầm phải có kế hoạch mở rộng quan hệ đa phương ngay sau khi Mỹ chính thức tuyên bố. Anh Triết chuẩn bị tờ trình, trình Bộ Chính trị xin chủ trương cho đàm phán ký kết hiệp định thương mại với Mỹ”.
Ông Triết hỏi: “Ký một hiệp định song phương như với các nước?”. Ông Kiệt nói: “Đúng!”.
Ông Lê Văn Triết kể:
Tôi về làm phương án đàm phán, chuẩn bị xong, tôi mời đại diện Bộ Ngoại giao, Tài chánh, Ngân hàng, Bộ Kế hoạch Đầu tư… tới họp và góp ý. Văn phòng Trung ương cũng thông báo năm ngày sau đó Bộ Chính trị sẽ nghe trình bày. Tại cuộc họp Bộ Chính trị, tôi trình bày xong, ông Đỗ Mười nói: “Yêu cầu các bộ có phản biện trước”. Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân vun xới mạnh. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu thận trọng. Thứ trưởng Bộ Tài chánh Chu Tam Thức thì chừng mực. Nghe xong, ông Đỗ Mười phát biểu rất căng: “Chúng ta đã đổi mới thành công, các nước đều thừa nhận, đời sống khá hơn có cần bàn tay của Mỹ ?”. Ông Đậu Ngọc Xuân nói: “Sự giúp đỡ của Mỹ là cần thiết”. Ông Đỗ Mười: “Mình hoàn toàn độc lập, cần gì phải giúp đỡ. Việc gì phải ký hiệp định thương mại?”.
Hôm ấy, theo chỉ đạo của anh Kiệt, Bộ Thương mại trình một lúc hai đề án: một để đàm phán gia nhập W TO, một để ký BTA 517. Nhưng, theo ông Triết, với cả hai, ông Đỗ Mười nói:
“Việt Nam còn nghèo, hàng hóa sản xuất tỷ trọng bao nhiêu, ăn thua gì, ra nó đè chết ngay lập tức. Cái thứ ba, mình xưa giờ chủ yếu quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, chỉ am hiểu xã hội chủ nghĩa. Giờ quan hệ với người ta, bị buộc phải theo những quy định của người ta mình càng mất độc lập”.
Bấy giờ ông Triết mới nhận ra lý do ông Võ Văn Kiệt mời bằng được Cố vấn Phạm Văn Đồng tham gia phiên họp này. Theo đề nghị của ông Kiệt, Cố vấn Phạm Văn Đồng phát biểu ngắn: “Bây giờ là thời kỳ toàn cầu hóa, ai cũng phải có quan hệ với các quốc gia. Đường lối đa phương hóa mà ta đã đi là đúng. Đã đúng thì cứ tiếp tục. Thời đại này không ai còn tự cung, tự túc. Có gì mà không dám làm ăn với Mỹ với WTO”.
Ông Kiệt tiếp lời:
“Tôi tán thành ý kiến anh Đồng. Xu thế đó là không thể tránh khỏi. Nói để anh Mười yên tâm, tiền thân của WTO là GATT, một tổ chức mà Liên Xô là sáng lập viên, lúc đầu có ba mươi quốc gia. Chỉ khi có khối SEV, Liên Xô mới rút ra. Bây giờ nước Nga cũng muốn trở lại WTO, làm đơn xin mà họ đã chấp nhận đâu. Những nước tham gia đều theo những nguyên tắc nhất định được hình thành bằng sự đóng góp của các thành viên. Đã có 100 nước tham gia, có những nước yếu hơn Việt Nam, nhiều nước còn phải sắp hàng. Anh Đồng rất đúng, Việt Nam tuy còn yếu, hàng hóa chưa nhiều, chưa hiểu hết quy luật. Nếu mình đứng ngoài thì sẽ như cũ. Tham gia vào thì đội ngũ mới trưởng thành. Mới hiểu thị trường, luật pháp ra sao mà ứng phó.
Yêu cầu các bộ Phải tham gia để có tiếng nói của mình, còn nếu đứng ngoài thì họ quyết sao mình chịu vậy. Trung Quốc đã gửi hàng trăm người đi đàm phán lâu nay mà vẫn chưa được. Giữ gìn chế độ là nhiệm vụ của mình, nhưng không thể giữ chế độ bằng cách không chơi với ai cả”.
Ông Phạm Văn Đồng tiếp: “Anh Mười lo lắng mình bị lép vế cũng có lý vì mình còn yếu. Nhưng, tôi thì tôi không sợ. Như anh Kiệt nói, phải vào hang mới bắt cọp”. Ông Đỗ Mười không kết luận. Ông Phạm Văn Đồng đề nghị: “Bộ Thương mại và Bộ Ngoại giao hoàn chỉnh phương án, để báo cáo lại”.
Tháng 5-1996, ông Nguyễn Đình Lương tháp tùng ông Lê Văn Triết đi Washington, DC., gặp Charlene Barshefsky, trưởng Đại diện Thương mại Mỹ. Thông điệp mà Barshefsky chuyển cho ông Triết vẫn là Hoa Kỳ sẵn sàng ký hiệp định thương mại song phương. Ông Lương nói:
“Khi về nhà, tôi biết số phận của mình. Tháng 8-1996, tôi chuẩn bị một tờ trình, phân tích bối cảnh quốc tế, phân tích những ý đồ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam rồi đề ra năm nguyên tắc để bộ trưởng ký trình thủ tướng. Ông Triết đưa ra lấy ý kiến trong Bộ, một số cán bộ chủ chốt không đồng ý, lấy lý do, “không cần bàn nguyên tắc, cần bàn cụ thể thôi”, ông Triết cũng phân vân chưa ký. Phải một tháng sau, trước giờ ông Lê Văn Triết ra sân bay đi nước ngoài, tôi nói: “Anh ký đi, Văn phòng Chính phủ giục”. Ông ký. Chiều tôi mang lên Văn phòng Chính phủ. Sáng hôm sau, Văn phòng gọi: “Lương ơi, báo tin mừng cho mày, anh Sáu (Võ Văn Kiệt) chỉ ghi một chữ: ‘Đồng ý’, viết từ bên này trang giấy kéo sang tới bên kia”.
Đàm phán Việt- Mỹ, theo ông Nguyễn Đình Lương:
“Lên bờ xuống ruộng. Năm năm cực kỳ khó khăn. Khó nhất là vì ngay từ khi bắt đầu, ông Võ Văn Kiệt đã không còn ở vị trí quyết định. Trong các vị lãnh đạo, số người đồng ý không nhiều, lý do: đây là vấn đề nhạy cảm, nhiều người muốn mình không trắng, không đen, công được hưởng, tội không phải mình. Tôi là một quan chức bé tí. Nhưng cuộc họp nào cũng phải có mặt, vì viết bài, sửa bài cũng tôi. Bộ Chính trị họp xong bảo chuẩn bị bài ra Ban Chấp hành. Cứ tiếc, ông Kiệt không còn làm Thủ tướng nữa”.
Lúc ấy trên Bộ Chính trị còn có ba ông cố vấn: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt. Ông Lương nói, chúng tôi gọi tổng bí thư là “hoàng thượng”, trên “hoàng thượng” là “vương gia”. Trước khi quyết, “hoàng thượng” còn phải xem ý “vương gia”.
“Vương gia” lại có hai phía, người ủng hộ quyết liệt, người thì không. Theo ông Lương:
“Cứ mỗi khi họp Bộ Chính trị, chúng tôi lại phải hỏi Văn phòng: ông Kiệt có ra họp không. Có mặt ông Kiệt thì cán cân sẽ khác. Từ đầu, quan điểm của ông Kiệt đã rất rõ ràng: phải bình thường hóa với Mỹ, ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc, ký Hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Trong cuộc họp, có khi ông mở đầu, nhưng thường, ông nghe hết các ý kiến. Cho dù các ý kiến trong cuộc họp phát biểu theo chiều hướng nào thì ý kiến của ông Kiệt vẫn là phải ký”.
Ngày 30-8-1999, ông Nguyễn Đình Lương sang Washington, D.C., hoàn tất văn bản để chuẩn bị ký. Theo ông Lương:
Ngày 1-9, khi tiếp ông Lương tại phòng làm việc, Phó đại diện thương mại Hoa Kỳ Richard Fisher nói: “Lương, tôi hỏi ông một câu thôi: phía Hoa Kỳ định ký BTA tại Hội nghị APEC 518, Việt Nam có ký không ?”. Ông Lương nói: “Chắc chắn ký với điều kiện ông giải quyết cho tôi mười vấn đề”. Thực ra, theo ông Lương: “Mười vấn đề mà tôi đề nghị ấy chỉ là tiểu tiết nhưng các nhà lãnh đạo bên Đảng đòi giải quyết”. Fisher nói: “Ông về báo với lãnh đạo của ông, nếu Việt Nam quyết định ký tại Auckland, có sự chứng kiến của Bill Clinton thì những vấn đề còn lại sang đó sẽ được giải quyết hết”. Hội nghị APEC cấp bộ trưởng dự kiến nhóm họp vào ngày 9 và 10-9-1999 và cuộc gặp cấp cao lần thứ 11 sẽ diễn ra ngày 12 và 13-9-1999 tại Auckland, New Zealand.
Ông Nguyễn Đình Lương nói tiếp:
“Tôi về báo cáo. Bộ Chính trị họp đồng ý nhưng chưa ra thông báo. Hai ngày trước khi APEC nhóm họp, phía Hoa Kỳ cử bà Ngoại trưởng Madeleine Korbelová Albright sang Hà Nội. Albright sang, chỉ làm một việc duy nhất là thuyết phục ký. Bill Clinton muốn gây tiếng vang, ông ta muốn kết thúc trang sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nếu việc ký kết thành công, tháng 11-1999, Bill sẽ sang thăm Việt Nam luôn. Người Mỹ khi ấy còn có một mục tiêu khác: đàm phán Mỹ – Trung đang bế tắc sau chuyến đi của Chu Dung Cơ, Bill Clinton muốn việc ký BTA với Việt Nam như một tín hiệu gửi tới Bắc Kinh”.
Ông Võ Văn Kiệt nhận được những thông tin này ngay khi ông Nguyễn Đình Lương chưa về tới Hà Nội. Ngày 05-9-1999, từ Thành phố Hồ Chí Minh, ông viết thư gửi Bộ Chính trị, xin vắng mặt phiên họp ngày 7-9-1999 bàn về Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và “xin phát biểu với Bộ Chính trị một số ý kiến”. Ông Kiệt cho biết, những ý kiến này, ông đã trao đổi với ông Nguyễn Mạnh Cầm tại Hà Nội trong lần gặp tuần trước đó. Ông Võ Văn Kiệt viết:
“Nên lưu ý những diễn biến trong quan hệ Mỹ – Trung và nên tính tới tình hình chính trị nội bộ của Mỹ. Chúng ta không đặt vấn đề nhất thiết, bằng mọi giá phải ký nhanh hiệp định này nhưng nếu có điều kiện thì nên ký sớm để phía Mỹ có thể phê chuẩn hiệp định trước bầu cử”.
Ông Kiệt cũng đưa ra một số lập luận để cho thấy việc hai nước ký hiệp định tại một nơi thứ ba, Auckland, New Zealand, nhân Hội nghị APEC là “bình thường và ngày càng thông dụng”.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Ngày 7-9-1999, Bộ Chính trị họp đồng ý ký hiệp định tại Auckland. Anh Phiêu đã rất hào hứng nói, nên thưởng gì cho anh em đàm phán. Tôi nói khoan đã anh ạ, chờ xem thế nào, nhỡ người Mỹ lật lọng”. Người Mỹ không lật lọng nhưng nhà ngoại giao lão luyện người Mỹ, bà Albright, đã phạm một lỗi nhỏ góp phần làm hỏng việc lớn. Mười giờ sáng ngày 8-9-1999, gặp Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, bà Albright được ông Cầm xác nhận “sẽ ký”; hai giờ chiều gặp Thủ tướng Phan Văn Khải, ông Khải vui vẻ trả lời: “Sẽ ký”.
Có lẽ, nghĩ sứ vụ đã hoàn thành, cho nên năm giờ chiều hôm ấy, khi hội đàm với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, thay vì chỉ đề cập đến việc ký kết BTA, bà Albright đã buột mồm hỏi: “Thế giới giờ chỉ còn bốn nước xã hội chủ nghĩa, theo ông, có tiếp tục giữ được không?”. Sau khi khẳng định với bà Albright, “chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi”, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu gặp hai ông cố vấn Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Mọi việc bắt đầu thay đổi.
Ông Đỗ Mười thừa nhận:
“Buổi chiều, khoảng năm giờ, trước ngày đi họp APEC, anh Phan Văn Khải sang gặp tôi, nói: ‘Anh Mười ạ, mai tôi đi, anh cho ký đi’. Tôi bảo chưa được. Mai anh gặp Clinton, tôi đề nghị anh nói ba điểm: Chúng tôi muốn ký trong nhiệm kỳ của ngài nhưng hiệp định phức tạp quá không như hiệp định chúng tôi ký với EU, nên còn một số vấn đề trong Đảng và Chính phủ có ý kiến khác nhau. Tôi đề nghị ngài chỉ thị cho phái đoàn đàm phán phía Mỹ cùng chúng tôi bàn tiếp những vấn đề đó rồi sẽ ký. Ký được trong nhiệm kỳ của ngài thì tốt, nhưng nếu chưa ký được thì trước khi ngài nghỉ, mời ngài sang thăm Việt Nam để quan hệ giữa ngài và Việt Nam có trước, có sau”.
Trước đó, theo ông Đỗ Mười: “Hiệp định nó dày thế này, Bộ Chính trị ít người đọc. Tôi có thời giờ, đọc thấy nhiều vấn đề quá. Tôi gọi các vị lãnh đạo đến, nói: ‘Cái này mới quá. Đây là hợp tác toàn diện chứ đâu có phải chỉ là thương mại. Tôi đề nghị Bộ Chính trị bàn tiếp’ ”.
Theo ông Nguyễn Đình Lương: “Hôm sau, 8-9-1999, trước giờ chuyên cơ chở Thủ tướng Phan Văn Khải, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đi Auckland, tôi nhận được điện: Ông Lương ngồi đấy, chờ có lệnh mới đi”. Ông Lương chờ, ngày thứ nhất Bộ Chính trị chưa họp, ngày thứ hai nghe tình hình khó khăn. Ngày thứ ba, quyết định không ký. Ngày thứ tư, tôi về. Vừa tới nhà đã thấy chuyên viên trong vụ ngồi đợi, bảo “lên văn phòng Ba Dũng ngay”. Ông Lương chạy lên thấy Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang nhăn nhó.
Ông Lê Khả Phiêu giải thích về việc trì hoãn ký BTA một cách thận trọng:
“Tôi bảo anh Phan Văn Khải cứ đi, mời Tổng thống Bill Clinton sang, sẽ ký. Lúc đó có chế độ cố vấn, dù sao cũng phải tôn trọng. Trong Bộ Chính trị, tuyệt đại đa số cũng chưa đồng ý. Ta không được chuẩn bị kỹ. Có hai chương họ tự đưa vào, năm thành bảy chương. Trước những vấn đề quốc tế khi có những ý kiến khác nhau thì phải đảm bảo chín muồi cả về nội dung lẫn kỹ thuật và phải tôn trọng tính tập thể”.
Trong nhiều tình huống “tập thể” chỉ là nơi pha loãng trách nhiệm cho các cá nhân. Phiên họp Bộ Chính trị mang tính quyết định này diễn ra khi những người am hiểu quá trình đàm phán nhất như ông Phan Văn Khải, Trương Đình Tuyển (ủy viên Trung ương thường được mời dự), Nguyễn Mạnh Cầm đều đang ở Auckland. Ông Đỗ Mười chỉ tay hỏi: “Các anh đã đọc chưa mà biểu quyết? Các anh biểu quyết bán nước à?”.
Đúng như ông Đỗ Mười nói, trong Bộ Chính trị rất ít người đọc và gần như không có ai đọc kỹ như ông. Ông Nguyễn Đức Bình buông một câu: “Toàn cầu hóa chỉ đem lại đói nghèo”. Trong khi ông Nguyễn Phú Trọng lưu ý về “diễn biến hòa bình”. Tuy không có được vai vế như Đào Duy Tùng nhưng từ khóa VIII, ông Nguyễn Đức Bình trở thành “nhà lý luận hàng đầu của Đảng”. Theo ông Nguyễn Đình Lương, trong suốt quá trình đàm phán, mỗi khi xin ý kiến Bộ Chính trị, ông Nguyễn Đức Bình lại nói: “Chúng ta không chống toàn cầu hóa nhưng chỉ tham gia phong trào toàn cầu hóa do vô sản lãnh đạo chứ không nên tham gia toàn cầu hóa do giai cấp tư sản lãnh đạo hiện nay”.
Cũng theo ông Nguyễn Đình Lương:
“Chúng tôi rất khó để biết ý kiến thật sự của ông Lê Đức Anh. Không chống BTA nhưng ông Lê Đức Anh nói: nên ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc trước khi ký Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ. Trong khi đó, nhiều ủy viên Bộ Chính trị nhận được những ‘thông tin mật’ từ Tổng cục II: Trung Quốc phản ứng rất xấu nếu ký hiệp định thương mại” 519.
Theo ông Phan Văn Khải, khi ông Đỗ Mười đặt lại vấn đề về BTA, ông Lê Đức Anh đã đồng ý với ông Mười là chưa ký. Tại Auckland, theo ông Phan Văn Khải, ông và Bill Clinton vẫn gặp nhau. Clinton biết rõ nội tình Việt Nam nên cả hai đều không nhắc tới BTA.
Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm nói:
“Tôi tiếc đứt ruột. Năm 1999, Bill Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ cả phương Tây lẫn phương Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ chỉ chờ có hiệp định là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết bao nhiêu cơ hội”.
Những thỏa thuận đạt được với Mỹ đã giúp Trung Quốc gia nhập WTO vào tháng 11-2001 520. Thị trường 1,2 tỷ dân này đã có một sức hút to lớn đối với các nhà đầu tư. Năm năm sau, năm 2006, Trung Quốc trở thành quốc gia có mức tăng trưởng cao nhất thế giới: 10,7% so với năm 2005.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Mất thêm một năm đàm phán, phía Mỹ cũng chấp nhận một số đề nghị của ta nhưng đồng thời cũng bắt mình phải chấp nhận thêm những yêu cầu của họ”. Mãi tới ngày 14-7-2000, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ mới được ký ở W ashington, khi nhiệm kỳ của Tổng thống Bill Clinton chỉ còn chưa đầy 6 tháng.
Về tổng thể, theo Thủ tướng Phan Văn Khải: “So với những nội dung định ký năm 1999, Hiệp định Thương mại (BTA) Việt – Mỹ ký năm 2000 không đạt được thêm tiến bộ nào”. Nhưng, về mặt thời gian, thất bại năm 1999 đã đánh mất của Việt Nam hơn hai năm cơ hội. Ngày 4-10-2001, Thượng viện Mỹ mới thông qua BTA và hai tuần sau, ngày 17-10-2001, được Tổng thống G.W .Bush phê chuẩn. Cứ mỗi năm chậm trễ, người dân Việt Nam phải chịu thiệt hại hơn 1,5 tỷ USD 521.
5- Bill Clinton và Lê Khả Phiêu:
Gần cuối nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Bill Clinton thăm chính thức Việt Nam. Ông là vị tổng thống Mỹ thứ hai đến nơi mà ông nói, giờ đây là tên của một đất nước chứ không chỉ là một cuộc chiến tranh, và là tổng thống Mỹ đầu tiên tới Hà Nội. Tại đây, Bill Clinton đã được đón tiếp bằng hai thái độ có thể nói là trái ngược nhau, một của người dân và một của các nhà lãnh đạo trong các nghi lễ đón ông chính thức.
Bill Clinton và tùy tùng tới sân bay Nội Bài lúc 11 giờ đêm ngày 16-11-2000. Điều ngạc nhiên là vị tổng thống của quốc gia mà chính quyền đang coi như kẻ thù lại được hàng ngàn người dân Hà Nội và các địa phương lân cận đứng chờ trong đêm lạnh dọc hai bên đường cao tốc Thăng Long – Nội Bài. Dường như cảm kích trước sự chào đón đó, Tổng thống Clinton đã bật đèn trong khoang xe của mình để vẫy tay đáp trả người dân Hà Nội. Dân chúng cũng đã chen chúc đến khu Văn Miếu để nhìn thấy Bill Clinton. Hai hôm sau, khi rời Hà Nội đến Sài Gòn cũng vào lúc mười một giờ đêm, Bill Clinton lại được người dân đứng chờ và reo hò khi thấy ông xuất hiện từ sân bay Tân Sơn Nhất.
Trong khi đó, Bộ Chính trị đã phải tính đến từng nụ cười, cái bắt khi đón vợ chồng Tổng thống Mỹ. Thủ tướng Phan Văn Khải kể, khi tiếp Clinton, ông đã không cười và bàn tay thì chỉ đưa ra nhẹ mà không nắm lại. Ông Nguyễn Đức Hòa, trợ lý của ông hỏi: “Người ta đã sang tận đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ?”. Ông Khải nói: “Không được đâu mày ơi, Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười” 522. Chiều 17-11-2000, một ngày trước khi Tổng thống Bill Clinton nói chuyện với sinh viên ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Tướng Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã mấy lần xuống “quán triệt” với Ban Giám đốc các nghi thức, khi nào thì đứng dậy, khi nào vỗ tay.
Bill Clinton là một nhà hùng biện, bài nói chuyện ngày 17-11-2000 tại hội trường Đại học Quốc gia Hà Nội của ông được chuẩn bị kỹ. Thay vì theo kịch bản, sinh viên đã vỗ tay gần như liên tục ở các đoạn đầu. Trước hàng trăm sinh viên, Bill Clinton đã bập bẹ vài từ tiếng Việt mà ông nói là vừa cố học: “Xin chào các bạn”. Clinton đã làm cho các sinh viên phải vỗ tay lần thứ hai trong đoạn mở đầu khi ông nhắc tới thành tích của vận động viên Trần Hiếu Ngân 523, người Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương tại một Olympic, và các tuyển thủ bóng đá như Lê Huỳnh Đức, Hồng Sơn, đang tranh giải ở Tiger Cup 2000 Bangkok.
Bill Clinton cho rằng, lịch sử giữa hai quốc gia “vừa là nguồn đau thương cho các thế hệ đã qua vừa là nguồn hứa hẹn cho các thế hệ sắp tới”. Ông nói: “Cách đây hai thế kỷ, trong những ngày đầu của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, chúng tôi đã vượt biển để tìm các đối tác thương mại và một trong các nước mà chúng tôi tiếp cận đầu tiên là Việt Nam”. Clinton dẫn thêm một câu chuyện, cho tới lúc đó, ít người biết đến: hơn 200 năm trước, Thomas Jefferson đã cố gắng để đưa các giống lúa Việt Nam về trồng trong trang trại của ông ở Virginia. Jefferson là tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ. Bản tuyên ngôn mà Clinton nói là đã “vang vọng trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1945” của Việt Nam.
Theo Bill Clinton: “Tất cả những điểm gặp gỡ nhau trong lịch sử 200 năm này đã bị lu mờ trong vài thập niên vừa qua bởi cuộc xung đột mà chúng tôi gọi là Chiến tranh Việt Nam và các bạn gọi là Kháng chiến chống Mỹ”. Bill Clinton nhắc đến bức tường đá đen ghi tên những người Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam, nhắc đến điều mà theo ông, các cựu binh Mỹ gọi là “mặt sau của bức tường”, đó là “sự hy sinh lớn lao” 524 của ba triệu người Việt Nam. Đứng giữa thủ đô của một chế độ coi chính quyền miền Nam là “ngụy quyền”, coi những người lính miền Nam là “ngụy quân”, Bill Clinton đã gọi đội quân người Việt ở cả hai bên là “những người lính dũng cảm”.
Không đến hội trường Đại học Quốc gia như một khách mời, nhưng có thể nói, người lắng nghe đầy đủ nhất bài phát biểu của Bill Clinton chính là ông Nguyễn Chí Trung 525. Thế hệ Nguyễn Chí Trung rất khó để chấp nhận cách gọi những người Việt ở phía bên kia, những người mà ông coi là kẻ thù là “những người lính dũng cảm”.
Nhưng ông Trung còn quan ngại khi Bill Clinton giải thích toàn cầu hóa và nói: “Theo kinh nghiệm chúng tôi, giới trẻ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào tương lai nếu họ có tiếng nói trong việc định hướng tương lai, trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ của họ và có một chính phủ có trách nhiệm đối với những người dân mà chính phủ phục vụ”. Mặc dù nhấn mạnh “chúng tôi không tìm cách và cũng không thể áp đặt những ý tưởng này”, Bill Cliton nói với sinh viên:
“Chỉ có các bạn mới quyết định xem có nên chăng tiếp tục mở cửa thị trường, mở cửa xã hội của mình và củng cố nền pháp trị. Chỉ có các bạn mới quyết định liên kết như thế nào giữa tự do cá nhân và nhân quyền trên nền tảng giàu mạnh của bản sắc quốc gia Việt Nam”.
Vào thời điểm mà Bill Clinton đang nói chuyện với sinh viên ở Hà Nội, Lý Tống, một cựu phi công của Không lực Việt Nam Cộng hòa, từ California bay về Thái Lan, thuê một máy bay thể thao bí mật bay vào vùng trời Việt Nam, rải truyền đơn ở Sài Gòn và Tây Ninh, kêu gọi lật đổ chế độ cộng sản. Lực lượng phòng không hôm ấy đã bị Lý Tống qua mặt và hôm sau, 18-11-2000, vì quá cảnh giác đã nổ súng sượt vào một máy bay dân dụng.
Cuối buổi chiều 18-11-2000, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chào đón Tổng thống Bill Clinton bằng một bài phát biểu dài 526, sau khi mở đầu theo đúng thủ tục: “Tôi hoan nghênh Ngài và Phu nhân cùng phái đoàn Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam”. Ông Lê Khả Phiêu bắt đầu:
“Tôi đồng ý với Ngài là chúng ta không quên quá khứ, không làm lại được quá khứ. Vấn đề quan trọng là hiểu cho đúng thực chất cái quá khứ ấy. Cụ thể là hiểu cho đúng thực chất cuộc kháng chiến chống xâm lược mà chúng tôi đã phải tiến hành… Việt Nam có đem quân đi đánh Hoa Kỳ đâu mà Hoa Kỳ lại đem quân sang đánh Việt Nam ?
Cuộc kháng chiến chống xâm lược của chúng tôi là giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên đối với chúng tôi, quá khứ không phải trang sử đen tối, đau buồn và bất hạnh”.
Ông Lê Khả Phiêu nói tiếp:
“Bà bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ trong một lần gặp tôi có hỏi: chủ nghĩa xã hội có tồn tại được không? Tôi nói: không những tồn tại mà chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi… Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 150 nước. Đảng chúng tôi có quan hệ với hơn 180 đảng cộng sản, cánh tả, đảng cầm quyền… Trong quan hệ quốc tế ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc đều cần hợp tác để cùng phát triển. Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn, cách sống và chế độ chính trị của các dân tộc. Chúng tôi cũng đòi hỏi các nước tôn trọng chế độ chính trị, sự lựa chọn của dân tộc chúng tôi”.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu kết thúc bài phát biểu “chào mừng” tổng thống đầu tiên của nước Mỹ đến Văn phòng Trung ương Đảng:
“Chúng tôi quý trọng nhân dân Mỹ, cảm ơn nhân dân Mỹ đã ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Thấy hình ảnh cháu Chelsea, tôi chạnh nhớ cháu Emily 527, con gái của Morrison 528, và mẹ cháu cũng đã từng sang thăm Việt Nam. Đó là biểu tượng đẹp của tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước”.
Bill Clinton nhớ lại:
“Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến tranh. Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hóa Việt Nam” 529.
Ông Phan Văn Khải nhớ lại:
“Ông Phiêu nói như thời chiến tranh làm cho họ rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn trên thế giới không có ai vào cả”.
Theo Tổng thống Bill Clinton thì giữa ông và Thủ tướng Phan Văn Khải đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp trong lần gặp ở Auckland, khi đó ông Khải cũng nói là ông cảm kích trước việc Bill Clinton đã từng phản đối chiến tranh Việt Nam. Clinton nhớ lại: “Khi tôi nói: những người Mỹ phản đối hay ủng hộ cuộc chiến tranh đó đều là người tốt. Ông Khải nói: tôi hiểu”. Clinton nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao hơn thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ hơn 530.
6- Đại hội IX:
Ông Lê Khả Phiêu giữ chức tổng bí thư được ba năm. Trong ba năm đó ông luôn chứng tỏ sự vững vàng, kiên định lập trường của mình 531. Nhưng những nỗ lực của ông trước hết lại bị chính các ông cố vấn sử dụng như một lý do để chống lại ông. Thái độ “kiên định” trước Tổng thống Bill Clinton rồi sẽ bị các cố vấn phê bình là cứng nhắc. Trước Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) ông Lê Khả Phiêu đã bị cả ba ông cố vấn hiệp sức ép ông phải rời chính trường.
Kiến nghị buộc ông Phiêu thôi chức được cả ba ông cố vấn đồng tình và cùng ký. Ông Nguyễn Văn An nói:
“Nó có kịch tính, chính các ông ấy đưa ông Lê Khả Phiêu lên rồi lại đưa xuống. Những khuyết điểm của ông Lê Khả Phiêu chỉ là nguyên cớ. Sẽ không làm được điều đó nếu cả ba ông cố vấn không đồng tình, đặc biệt là vai trò của Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Rất ít trường hợp cả ba ông lại đồng tình như vậy”.
Ông Nguyễn Văn An cũng thừa nhận: “Nếu để ông Phiêu tiếp tục giữ chức thì sẽ dẫn đến tiền lệ tổng bí thư vi phạm nguyên tắc cả đối nội và đối ngoại”. Điều đáng nói là sự “vi phạm nguyên tắc cả đối nội lẫn đối ngoại” của ông Lê Khả Phiêu đều có bàn tay của Tổng cục II. Về đối ngoại, ông An nói: “Ông Lê Khả Phiêu gặp Giang Trạch Dân không theo con đường chính thống bằng quan hệ Đảng, Nhà nước mà theo con đường tình báo”. Theo ông Nguyễn Đình Hương, thành viên Ban Chuyên án A10:
“Tháp tùng chuyến đi ấy của Lê Khả Phiêu gồm Trần Đình Hoan, Nguyễn Mạnh Cầm và Phó Tổng cục trưởng Tổng cục II Nguyễn Chí Vịnh. Vịnh bố trí một cuộc gặp giữa ông Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân. Khi gặp, cả ông Nguyễn Mạnh Cầm và ông Trần Đình Hoan cùng đi nhưng phía Trung Quốc ngăn ông Cầm và ông Hoan, chỉ cho Vịnh vào. Theo báo cáo của Vịnh thì hội đàm cũng không có thỏa thuận riêng gì nhưng có nhiều người đặt vấn đề trong đó có Trần Đình Hoan” 532.
Theo ông Lê Khả Phiêu thì đây là một cuộc gặp theo đề xuất của Giang Trạch Dân, phía Việt Nam cũng nhân đấy, muốn “thăm dò thái độ của Trung Quốc đối với Mỹ và đối với chủ nghĩa xã hội”. Phía Trung Quốc thỏa thuận thành phần, mỗi bên bốn người, chủ yếu là chỉ để tổng bí thư gặp tổng bí thư. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, trong khi ông bị chặn lại thì phía Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền vẫn vào ngồi cùng Giang Trạch Dân.
Ông Lê Khả Phiêu giải thích:
“Tôi gặp Giang Trạch Dân hai lần, lần thứ hai, hai bên thống nhất là nên có gặp riêng để bàn về biên giới và Biển Đông. Trước cuộc gặp tôi có xin ý kiến Bộ Chính trị nhưng nhiều anh quên. Tôi và Giang Trạch Dân chỉ thỏa thuận, trong vấn đề Biển Đông, cái gì chỉ liên quan đến hai nước thì đàm phán song phương, cái gì còn liên quan đến quốc gia khác thì đàm phán đa phương. Cho đến bây giờ thỏa thuận này vẫn còn được thực hiện” 533.
Về đối nội, ông Lê Khả Phiêu bị cáo buộc làm trái nguyên tắc khi ký Quyết định 234, cho lập ra một cơ quan theo dõi nội bộ, chủ yếu là cán bộ cao cấp. Theo ông Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng: “Việc xem xét những sai lầm của Quyết định 234 bắt đầu sau khi ông Lê Đức Anh chính thức đặt ra”. Một ban chuyên án được Bộ Chính trị cho thành lập với thành phần gồm: Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Chủ nghiệm Ủy ban Kiểm tra Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Trưởng Ban Bảo vệ Đảng Nguyễn Đình Hương 534.
Ông Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, người được giao thẩm tra các sai phạm của ông Lê Khả Phiêu, cho biết:
“Đầu năm 2001, Bộ Chính trị họp chuẩn bị Đại hội IX, chị Nguyễn Thị Xuân Mỹ đi họp về nói, Bộ Chính trị đang kiểm điểm anh Phiêu gay gắt nhiều chuyện: vấn đề Campuchia, quan hệ nam nữ, vô nguyên tắc khi ra Quyết định 234, ngành tình báo lâu nay chỉ nắm địch, nay được theo dõi nội bộ, gặp Giang Trạch Dân, đi không hỏi, về không trình. Từ đó, Ủy ban Kiểm tra phải vào cuộc, họp cả ngày cả đêm. Trong khi Bộ Chính trị vẫn cứ họp. Ông Phạm Thế Duyệt, ủy viên thường trực Thường vụ Bộ Chính trị, thường xuyên gọi tôi sang, dặn: phải có trách nhiệm với Đảng, phải khách quan, không chịu áp lực của mấy ông cố vấn”.
Theo ông Vũ Quốc Hùng: “Quyết định 234 được ký theo tham mưu của ông Vũ Chính. Lẽ ra anh Phiêu phải thận trọng. Khi Vũ Chính tham mưu thì nói là làm sao để ngăn chặn diễn biến hòa bình, ngăn chặn những xu hướng không tốt trong nội bộ Đảng. Tham mưu bằng mồm và có tham mưu cả bằng giấy. Ông Phiêu thấy cần phải có một văn bản, một tổ chức nên ký”. Ông Lê Khả Phiêu giải thích:
“Lúc đó, có nhiều tin tình báo được đưa ra thiếu kiểm chứng nhiều người có ý kiến. Tôi còn giữ thư anh Võ Văn Kiệt yêu cầu phải chấn chỉnh công tác tình báo, nguồn tin tình báo cần được thẩm định trước khi cho lưu hành trong nội bộ. Bản thân anh Lê Đức Anh cũng đồng ý là phải chấn chỉnh. Vì thế tôi lập ra bộ phận này giao cho anh Phạm Thanh Ngân phụ trách”.
Về “quan hệ nam nữ”, theo ông Vũ Quốc Hùng:
“Trước khi đi Cuba, ông Lê Khả Phiêu có đến nhà anh Đoàn Mạnh Giao ăn cơm. Tới đó có cả cô Đặng Thu Hà, con gái Trung tướng Đặng Kinh. Ông Phiêu giải trình, quan hệ giữa ông và ông Đặng Kinh là quan hệ giữa cấp dưới với thủ trưởng, ông coi cô Hà như là cháu. Tôi có hỏi anh Trần Đình Hoan, anh có thấy yếu tố quan hệ nam nữ không. Anh Hoan nói không thấy. Còn “quan hệ với CIA”, khi đi Cuba, đoàn có Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Mạnh Cầm, Đỗ Trung Tá đi cùng, chuyển tiếp máy bay ở Thụy Điển. Tại đây thông qua Hà có gặp một phụ nữ tên là Vũ Thị Dung, có người tố cáo Dung là CIA”.
Trên thực tế, Vũ Thị Dung chỉ là một cán bộ doanh nghiệp đi trong phái đoàn Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm châu Âu.
Một tấm hình chụp có Vũ Thị Dung trong chuyến đi này được photoshop, cắt hình những người cùng chụp chỉ để lại hình Lê Khả Phiêu và Vũ Thị Dung để nói ông Phiêu lén lút quan hệ với “gái” là một nữ điệp viên. Tại phiên họp Bộ Chính trị mà tấm hình này được đưa ra, ông Nguyễn Mạnh Cầm xác nhận bức ảnh này khi chụp có cả ông nhưng đã bị xóa. Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Văn An thừa nhận: “Bức ảnh được cắt xén quá ấu trĩ. Tổng cục II đưa ảnh cho ông Đỗ Mười, ông Đỗ Mười đưa cho nhiều người xem trước mặt Bộ Chính trị rồi đưa lại cho tôi quản lý”.
Đường đi của Quyết định 234 cho thấy, khó có viên tướng nào trưởng thành trong thời gian ông Lê Đức Anh cầm quyền lại có thể dễ dàng thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của ông. Khi trở thành tổng bí thư, kiêm bí thư Quân ủy Trung ương, ông Lê Khả Phiêu bàn với Tướng Phạm Văn Trà, bộ trưởng Quốc phòng và Phạm Thanh Ngân, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, lập ra một cơ quan, thành phần gồm Tổng cục II, Cục Bảo vệ An ninh, Tổng cục Chính trị. Người mà Tướng Lê Khả Phiêu giao thiết kế mô hình, chức năng, nhiệm vụ lại là Trung ướng Vũ Chính.
Tướng Vũ Chính đã “thiết kế” chức năng quyền hạn cho cơ quan này gồm cả quyền “theo dõi lực lượng cấp tiến trong và ngoài quân đội”. Ông Phiêu được nói là đã gạch bỏ đoạn này nhưng, Tướng Chính chỉ bỏ trong phần quyết định còn phần phụ lục hướng dẫn thì vẫn giữ nguyên. Sau khi Tướng Phạm Thành Ngân ký nháy, Bí thư Quân ủy Lê Khả Phiêu đã ký Quyết định 234.
Theo ông Vũ Quốc Hùng, từ khoảng tháng 6-2000, Vũ Chính đã báo cáo với Cố vấn Lê Đức Anh rằng Quyết định 234 do Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu ký là sai. Nhưng đến ngày 5-1-2001, khi Bộ Chính trị họp bàn chuẩn bị nhân sự Đại hội IX, Tướng Lê Đức Anh mới đưa ra Bộ Chính trị, đòi kỷ luật ông Lê Khả Phiêu vì đã có “chủ trương theo dõi cán bộ cao cấp trong và ngoài quân đội”. Ông Nguyễn Đình Hương cho rằng: “Quyết định 234 là một kịch bản của ông Lê Đức Anh nhằm hạ bệ ông Lê Khả Phiêu, nhất là sau khi ông Phiêu tuyên bố bỏ định chế cố vấn”. Ông Phiêu nói: “Có thể có mưu mẹo gì đấy nhưng tôi thì chỉ nghĩ đơn giản”.
Trong tuần lễ từ ngày 3 đến 11-1-2001, nhân Đại hội Đảng toàn quân, cố vấn Lê Đức Anh đột ngột buộc tội Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu. Trong Hội nghị Bộ Chính trị, ông Lê Khả Phiêu thừa nhận có sơ hở về hành chính trong việc ký Quyết định 234, ông vẫn còn giữ được bản thảo và chứng minh Tướng Vũ Chính đã không sửa phần ông gạch bỏ. Ông Phiêu cũng cho biết trước khi quyết định có họp Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương gồm Lê Khả Phiêu, Phạm Văn Trà và Phạm Thanh Ngân. Hội nghị Bộ Chính trị ngày 5-1-2001 kết luận việc ông Lê Khả Phiêu ký quyết định 234 là vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể, yêu cầu hủy bỏ ngay Quyết định 234, giải tán ngay bộ phận tình báo theo dõi nội bộ.
Sau Hội nghị Trung ương 11, các vị cố vấn, đặc biệt là Tướng Lê Đức Anh cử người gặp các cán bộ lão thành, thông báo những thông tin liên quan đến các “sai phạm của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu”. Theo ông Vũ Quốc Hùng, đây là những việc làm sai nguyên tắc của Đảng và chính Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đã gửi công văn yêu cầu các vị cố vấn phải giải trình.
Cũng theo ông Vũ Quốc Hùng, trước khi có kết luận chúng tôi đã mời ông Lê Khả Phiêu sang Ủy ban Kiểm tra chất vấn.
Ủy ban Kiểm tra kết luật không đề nghị kỷ luật ông Lê Khả Phiêu và ông Phạm Thanh Ngân nhưng không để tái cử trong nhiệm kỳ IX. Bộ Chính trị họp nói thẳng, ông Phiêu phải rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Có ý kiến đòi phải kỷ luật ông Phiêu trước khi cho nghỉ.
Ở Bộ Chính trị, ông Lê Khả Phiêu chấp nhận, nhưng tại Hội nghị Trung ương 12, theo ông Nguyễn Văn An:
“Khi Trung ương bỏ phiếu, số người đồng ý cho ông Lê Khả Phiêu nghỉ chỉ chiếm 50,5%, số không đồng ý là 49,5%, trong khi có năm ủy viên Trung ương vắng họp. Ông Phiêu không tâm phục khẩu phục mà những người ủng hộ ông Phiêu cũng không tâm phục khẩu phục. Chúng tôi cũng lo ngại rằng ra đại hội sẽ lộn xộn. Trong Bộ Chính trị thì còn phân hóa. Ông Phiêu lại đang nắm quân đội. Tôi bàn với anh Phạm Thế Duyệt cho bỏ phiếu lại. Bộ Chính trị đồng ý. Các ông cố vấn phản đối nhưng chúng tôi kiên quyết làm. Thực ra khi đó đánh giá tình hình, bỏ phiếu lại thì ông Lê Khả Phiêu chỉ mất thêm phiếu.
Đưa ra Trung ương cũng bàn cãi mãi thì Trung ương mới biểu quyết đồng ý cho bỏ phiếu lại. Ngày 18-4-2001, Ban Chấp hành Trung ương bỏ phiếu lại, ông Phiêu chỉ còn một số phiếu rất thấp. Ông chấp nhận”.
Khi Ban Chấp hành Trung ương khóa IX họp phiên thứ nhất (22-4-2001) để bầu tổng bí thư, ông Phan Văn Khải được giao chủ trì phiên họp. Trong danh sách thăm dò mà Ban Tổ chức công bố, ông Nông Đức Mạnh đứng đầu, kế đó là Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An và Phạm Thế Duyệt. Ông Phan Văn Khải đã đề nghị “để thể hiện thái độ nhất trí cao trong Đảng” chỉ giữ một mình ông Mạnh trong danh sách bầu tổng bí thư. Trung ương vỗ tay đồng ý. Ông Mạnh “được bầu” với số phiếu 100%.
Ở sau hậu trường, theo ông Nguyễn Đình Hương:
“Ba ông cố vấn cũng đã có bàn nhau, cả ba nhân vật được các cố vấn đưa ra cân nhắc trước như Lương, Trọng, An, đều có những vấn đề. Ông Mạnh nhờ không nằm trong danh sách được chuẩn bị nên không có phản đối, con người ông Mạnh lại trung dung, các ông tính, đưa ông Mạnh lên là yên. Nhưng cách tính trước mắt ấy đã dẫn đến một sai lầm chiến lược”.
===========================================
Ghi chú :
479- Trong thập niên 1960s, điện thoại tư nhân đã tăng rất nhanh ở miền Nam: Năm 1965, 23.377; năm 1966, 24.837; năm 1967, 27.082; năm 1968, 30.964; năm 1969, 36.150; năm 1970, 34.889; năm 1971; 38.133 máy.
Ngày 30-1-1966, lần đầu tiên người dân Sài Gòn được xem một bộ phim Mỹ, vừa có tiếng Việt vừa có tiếng Anh, qua 1000 máy vô tuyến truyền hình được đặt ở những địa điểm đông người tại Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Tín hiệu được phát đi từ hai máy bay hiệu Constellation bay vòng quanh Sài Gòn.
Hôm sau, ngày 31-1-1966, Tháp vô tuyến truyền hình đã được khánh thành tại số 7 đường Hồng Thập Tự. Cuối thập niên 1960s, máy vô tuyến truyền hình trở thành phổ biến ở các đô thị lớn và bắt đầu về tới các vùng nông thôn miền Nam.
Trong khi đó, mãi tới ngày 7-9-1970, miền Bắc mới cho phát thử một chương trình truyền hình đen trắng và phải sau ngày 30-4-1975, một số người dân ở Hà Nội, mới được “xem vô tuyến” nhờ các máy thu hình đưa từ miền Nam ra chuyển hệ hoặc đưa từ Liên xô và các nước Đông Âu. Truyền thông báo chí, ngay cả của nhà nước cũng phát triển rất hạn chế ở miền Bắc.
Trong thập niên 1960s, trong một xã may ra có ông chủ tịch hay bí thứ là có được chiếc máy thu thanh hiệu Xiong Mao hoặc Orionton. Sau năm 1975, những chiếc radio bán dẫn Nhật như Stadar, National… được các anh bộ đội, các cán bộ vào Nam công tác đưa ra nhưng nó vẫn là một mặt hàng bị “nhà nước quản lý”.
480- Bộ trưởng Bưu chính Viễn thông 2001-2006.
481- Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu Điện 1985-1995.
482- Theo Quyết định 221, ngày 23-3-1993 của Tổng cục Bưu điện, được triển khai từ ngày 2-5-1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh: Giá cước thuê bao nội hạt trong định mức tăng khoảng 50%, từ 45.000 đồng/tháng lên 68 000đ/tháng. Giá cước phút đầu tiên của một cuộc điện đàm đường dài giảm 10%, nhưng mỗi phút sau tăng từ 20-30% so với giá cũ.
Trong khi, giá cước điện thoại, telex và điện báo thuê bao kể cả đại lý công cộng đi các nước giảm khoảng 30%, nhất là các nước có đông Việt Kiều như Mỹ, Pháp, Anh, Ý, Thụy Điển, Đan Mạch, Bỉ, Phần Lan, Thụy Sĩ… Cước gọi đi Mỹ, giá cũ là 17.90USD/3 phút đầu, giá mới là 13.80USD, gọi đi Pháp giá cũ là 16.38USD, giá mới là 13.80USD, Canada giá cũ là 16.38USD, giá mới là 13.80USD.
483- Mạng Mobifone ban đầu chỉ có một tổng đài dung lượng 2.000 số với 7 trạm thu phát sóng (BTS) tại Hà Nội và một tổng đài 6.400 số với 6 trạm BTS tại khu vực phía Nam, phủ sóng 4 địa phương TP. Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Long Thành, Vũng Tàu. Trong hai năm đầu Mobifone gặp nhiều khó khăn, số lượng thuê bao không nhiều do vùng phủ sóng hạn chế và giá cước cũng như thiết bị đầu cuối chưa hoàn thiện và giá cực kỳ đắt đỏ. Mỗi cục điện thoại di động lúc đó lớn gần bằng viên gạch và giá thì lên tới hàng nghìn USD/chiếc.
484- Năm 1965, tức là chỉ hơn một năm sau khi IBM giới thiệu mẫu máy tính IBM 360 Model 50, một chiếc IBM 360/50 đã được đưa tới Việt Nam. Chiếc máy tính này được đặt tại Trung tâm Điện Toán Tiếp Vận thuộc Bộ tư lệnh quân đội Mỹ (MACVI) ở Tân Sơn Nhất và được dùng để quản lý toàn bộ vật tư ở Tổng kho Long Bình.
Trong khoảng từ 1965-1973, có 250 kỹ thuật viên IBM đã được đưa tới làm việc tại Nam Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ 1965-1968, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara chủ trương vi tính hóa cuộc chiến, hàng lô máy tính siêu mạnh đã được đưa tới Việt Nam. Ở miền Bắc, ngày 22-6-1968 chiếc Minsk-22 dùng bóng bán dẫn, chưa có hệ điều hành, do Liên Xô chế tạo theo mẫu máy PDP của hãng DEC Hoa Kỳ, cũng được đưa về tới ga Đồng Đăng, Lạng Sơn.
Tháng 7-1968, các chuyên gia Liên Xô sang lắp đặt và bàn giao máy tại số 39 Trần Hưng Đạo. Tháng 9-1968, chiếc Minsk-22 bắt đầu được sử dụng vào việc giải các bài toán khoa học kỹ thuật, tính toán dự báo thời tiết, tính toán bảng bắn cho pháo binh, giải các bài toán thấm, tính toán các công trình cầu đường, giải các bài toán vận trù trong nông nghiệp…
485- Ngày 4-8-1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký Nghị quyết 49 về phát triển công nghệ thông tin. Tháng 4-1995, ông Kiệt ký tiếp Quyết định 211 kèm theo Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin, xác định mục tiêu đến năm 2000: xây dựng hệ thống các máy tính và các phương tiện truyền thông được liên kết với nhau trong các mạng, có khả năng phục vụ các hoạt động quản lý nhà nước và các hoạt động huyết mạch của nền kinh tế; phát triển rộng rãi việc ứng dụng công nghệ thông tin; phổ cập “văn hoá thông tin” trong xã hội nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc chuẩn bị hướng tới một “xã hội thông tin”; xây dựng cơ sở cho một ngành công nghiệp công nghệ thông tin, làm ra được các sản phẩm và dịch vụ tin học có giá trị; ưu tiên phát triển công nghiệp “phần miềm”, đồng thời tận dụng các khả năng chuyển giao công nghệ để phát triển một cách thích hợp các cơ sở sản xuất linh kiện và thiết bị tin học hiện đại.
486- Trong khi các thuê bao của NetNam chỉ có thể gửi email thì các thuê bao của VietNet vừa có thể gửi email vừa có thể vào các trang mạng quốc tế. Vào thời điểm cao nhất, VietNet có tới gần 10.000 thuê bao với phí cài đặt lên đến ba triệu/thuê bao và cước phí cho một email là 500 nghìn đồng.
487- Trước đó, giới khoa học đã bắt đầu thảo luận và các nhà lãnh đạo có học như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Khánh, Phan Diễn, Phạm Gia Khiêm đều có sự ủng hộ. Ông Đỗ Trung Tá nói: “Cụ Phạm Văn Đồng mỗi khi gặp lại mắng sao bảo làm mà lâu thế. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì cho rằng, nếu không phát triển nhanh Internet thì sẽ có tội với đất nước”.
488- Ông Đặng Hữu nói:
“Hồi đó, tôi phải đưa anh Nguyễn Đức Bình, ủy viên Bộ Chính trị, đến tận nơi truy cập Internet để giới thiệu rằng những ai truy cập Internet, truy cập như thế nào đều được ghi lại nội dung, và kiểm soát được. Sau đó, khi đi Đà Lạt với anh Đỗ Mười để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương 2, khóa VIII về khoa học và công nghệ, tôi cũng cố gắng kết nối Internet, mở các trang web Yahoo, MSN… để giới thiệu với tổng bí thư rằng với mạng Internet, anh muốn tìm thông tin gì là có ngay, còn trên Internet cũng có thông tin, nội dung đồi trụy, nhưng truy cập vào đó thì cũng phải có tiền (cười). Còn nội dung phản động thì không đi cách này thì đi cách khác, chứ không phải là tất cả từ Internet mà ra. Cứ thế, dần dần chúng tôi thuyết phục các nhà lãnh đạo về vai trò, ý nghĩa của Internet” (theo VNN).
489- Nguyên tắc quản lý được tới đâu thì phát triển tới đó đã khiến Internet Việt Nam trong giai đoạn 1998-2000 phát triển rất chậm.
Phải đến cuối năm 2000, những người chủ trương Internet mới đưa được vào Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị một nguyên tắc tiến bộ hơn: Đã đến lúc, nhu cầu phát triển Internet tới đâu thì năng lực quản lý của các ngành phải theo kịp sự phát triển tới đó.
490- Trong giai đoạn đầu, mạng Chính phủ, Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Cơ yếu, chưa được kết nối Internet.
491- Điều lệ Đảng quy định tổng bí thư chỉ do Ban chấp hành Trung ương bầu. Tuy nhiên, những người được đưa lên từ các đại hội thường có tính chính danh cao vì trước khi đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương, những người được cơ cấu vào các chức danh chủ chốt như tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội đều được Ban chấp hành khóa bắt đầu mãn nhiệm chuẩn bị và trình ra đại hội.
492- Chỉ thị 30 ngày 18-02-1998 của Bộ Chính trị, Lê Khả Phiêu ký, đưa ra quy trình dân chủ được gọi là “dân chủ trực tiếp”. Dân chủ trực tiếp, được thực hiện ở thành Athena, Hy Lạp, từ khoảng năm 500 trước Công nguyên, dưới hình thức người dân không bầu các đại diện để họ bỏ phiếu nhân danh mình mà trực tiếp quyết định các vấn đề liên quan đến hành pháp và lập pháp.
Hình thức tương tự cũng được áp dụng trong nhà nước La Mã cổ đại, loài người trải nghiệm nên dân chủ trực tiếp theo hình thức này được khoảng hơn 400 năm, sau cái chết của Julius Caesar, năm 44 trước Công nguyên. Dân chủ được đánh dấu bằng một hình thức phát triển mới ở thế kỷ 13: dân chủ đại diện, người dân bầu ra những đại biểu thay mình thực hiện quyền lập pháp và hành pháp.
Dân chủ trực tiếp xuất hiện trở lại vào năm 1847, khi người Thụy Sĩ đưa khái niệm “đạo luật trưng cầu dân ý” vào hiến pháp của họ. Theo đó, thông qua các cuộc trưng cầu dân ý, người dân có thể phủ quyết các sáng kiến luật của nghị viện.
Trong khi dân chủ trực tiếp mà Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu định áp dụng ở Việt Nam chỉ là để cho công nhân, cán bộ, công chức “ở cơ sở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính” được “góp ý kiến, đánh giá, phê bình” thủ trưởng.
493- Họp từ 25-1 đến 2-2-1999 tại Hà Nội ra nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng”.
494- Nghị quyết Trung ương B, khoá VIII: “chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, trong đó có quy định có ý nghĩa chấm dứt truyền thống nắm quyền trọn đời của các nhà lãnh đạo: “Cán bộ đứng đầu từ cấp huyện, quận trở lên không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ ở cùng một đơn vị, địa phương”.
495- Từ thập niên 1990, tổng số các đơn vị địa phương đã tăng lên 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu như ở Đại hội V, năm 1982, chỉ có 15,6% lãnh đạo các địa phương được bầu vào Trung ương, ở Đại hội VI, năm 1986, con số này là 23,7% và tiếp tục tăng lên đến 35% trong Đại hội VII năm 1991. Tỉ lệ lãnh đạo địa phương được bầu vào Trung ương có giảm chút ít trong khóa VIII, còn 31,2%.
Nhưng, kể từ khóa VII, năm 1991, bí thư thành ủy của cả Hà Nội và Sài Gòn bắt đầu được cơ cấu vào Bộ Chính trị. Tại Đại hội IX có tới 56/61 bí thư tỉnh ủy được cấu tạo vào Trung ương.
496- Đầu năm 2000, Chủ tịch một tỉnh lớn, Nghệ An, ông Hồ Xuân Hùng bị điều ra Hà Nội giữ chức phó ban Vật giá Chính phủ.
497- Ông Nguyễn Minh Triết, từ tháng 1-1997, đã được đưa từ Sông Bé, nơi ông làm bí thư, về làm phó bí thư trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi tỉnh này được tách thành hai tỉnh: Bình Dương và Bình Phước. Theo Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Văn An, lúc bấy giờ, Bộ Chính trị có ý định điều chuyển ông Trương Tấn Sang đi nên đưa ông Triết về với ý định sẽ lên thay vị trí bí thư Thành ủy. Nhưng việc không thành vì nội bộ Thành phố tỏ ra không ủng hộ. Tháng 12-1997, ông Nguyễn Minh Triết được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị cùng với Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Phạm Thanh Ngân và được điều ra Hà Nội giữ chức trưởng Ban Dân vận Trung ương Đảng.
498- Xem Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ, bản thảo 2003.
499- Ngày 29-10-1964, tạp chí Geographer, số 38, viết: “Nhà nước mới này đã bảo vệ được nền độc lập của mình… một đường biên giới gần giống như ngày nay dường như đã tồn tại giữa hai quốc gia cách đây mười thế kỷ”.
500- TS Nguyễn Hoàng Thao, thành viên Việt Nam trong Đoàn Đàm phán Biên giới.
501- Bị vong lục ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, Sài Gòn Giải Phóng (SGGP) 19-3-1979.
502- Bị vong lục ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, SGGP 19-3-1979:
“Tại khu vực Phia Un, mốc 94-95, thuộc huyện Trà Lĩnh, Cao Bằng, mới đầu phía Trung Quốc mượn con đường mòn rồi tự ý mở rộng mặt đường để ô tô đi lại được vào khu vực mỏ của Trung Quốc, đặt đường dây điện, đưa dân đến ở ngày càng đông, lập làng bản mới. Dựa vào ‘thực tế’ đó, từ năm 1956 họ không thừa nhận đường biên giới lịch sử chạy trên đỉnh Phia Un mà đòi biên giới chạy xa về phía Nam con đường sâu vào đất Việt Nam trên 500m. Lý lẽ của họ là nếu không phải đất của Trung Quốc sao họ lại có thể làm đường ô tô, đặt đường điện thoại được. Nguyên nhân chủ yếu việc họ lần chiếm là vì khu vực Phia Un có mỏ Mangan. Ở khu vực Trình Tường, Quảng Ninh, từ năm 1956, Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang, Quảng Tây.
Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6km, sâu hơn 1,3 km thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc, thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ đó họ đuổi người Việt Nam đã nhiều đời làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam.
Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở Lạng Sơn; Khâm Khau (mốc 17, 19 ở Cao Bằng; Tả Lũng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên; khu vực xã Nặm Chay (mốc 2, 3) ở Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn 4km, chiều sâu hơn 1km, diện tích hơn 300 ha”.
503- Bị vong lục ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, SGGP 19-3-1979.
504- Năm 1974, 179 vụ; năm 1975, 294 vụ; năm 1976, 812 vụ.
505- Năm 1977, 873 vụ; năm 1979, 2.175 vụ.
506- Năm 1986: 831 vụ, năm 1987: 875 vụ.
507- Phần nói về biên giới trên bộ quy định: “Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp ngày 26-6-1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20-6-1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định, đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc”.
508- Kết quả là gần 900km trên tổng chiều dài biên giới 1.350km, đo trên bộ bản đồ thể hiện đường biên giới chủ trương, nhận thức của hai bên trùng nhau, tức là không có tranh chấp. Khoảng 450km còn lại, tức là 33% tổng chiều dài đường biên giới, không có văn bản, hoặc văn bản và bản đồ chưa rõ ràng nên nhận thức hai bên có khác nhau, được chia thành 289 khu vực (với tổng diện tích khoảng 231km2), trong đó: 74 khu vực khác nhau vì lý do kỹ thuật vẽ chồng lấn lên nhau, được gọi là khu vực A, 51 khu vực vì lý do kỹ thuật hai bên đều chưa vẽ tới, gọi là khu vực B.
Các khu vực loại A và B có diện tích không lớn, chỉ khoảng 5 km2; 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C (rộng khoảng 227km2). Các cuộc đàm phán chủ yếu tập trung vào việc xử lý 164 khu vực C này.
509- Trận đá kích cuối cùng xảy ra năm 2003, Tổ Cột mốc 44 tồn tại từ tháng 6-1993 đến tháng 1-2009.
510- Nguyễn Hồng Thao, thành viên đoàn đàm phán (theoVNN).
511 - Nguyễn Hồng Thao (VNN).
512 - Nguyễn Hồng Thao(VNN).
513 - Nguyễn Hồng Thao(VNN).
514 - Bị vong lục 15-3-1979.
515 - Nguyễn Hồng Thao(VNN).
516 - Hồi ký “Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si” của Famin –phó chủ tịch Ủy ban Phân giới năm 1894, phụ trách công tác phân giới vùng Cao Bằng, Lạng Sơn tiếp giáp với Quảng Tây, Trung Quốc, trang 12-13 viết:
“Trên vùng phía Bắc (vùng II Quân-Sự), sông Qui Thuận chảy qua Trùng Khánh Phủ. Ðây là một phụ lưu của sông Tây Giang (Shi-Jiang). Có chiều rộng khoảng 60 thước, chảy vào Tonkin qua cửa Ải Lung và chảy vào lại đất Tàu ở gần công sự Tàu, có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn và rất trù mật. Hai cây số trước khi rời khỏi đất Tonkin, sông này chảy xuống một bậc đá và tạo thành một cái thác tuyệt đẹp cao khoảng 40 thước”.
517 - Ngay từ năm 1993, ông Trần Văn Thình, một người Pháp gốc Việt, làm Ðại sứ Cộng hòa Pháp tại Ủy ban châu Âu (EC) từ năm 1993 đến 1995, đã có nhiều nỗ lực giúp giải thích những lợi ích và khó khăn nếu Việt Nam nếu gia nhập GATT. Ông Thình khuyến nghị Việt Nam gia nhập GATT và giới thiệu ông Arthur Dunkel, tổng thư ký của GATT, người có thể hỗ trợ Việt Nam gia nhập GATT.
Chính ông Long Vĩnh Ðồ, trưởng đoàn đàm phán của Trung Quốc tại Thụy Sĩ về việc Trung Quốc gia nhập GATT cũng trao đổi kinh nghiệm đàm phán với các quốc gia để đạt các hiệp định song phương. Các vị đại sứ phương Tây ở Hà Nội tư vấn, nếu ký được BTA với Mỹ thì Việt Nam sẽ được các nước nể nang hơn, việc đàm phán WTO sẽ thuận lợi hơn nhiều.
518 - Asia-Pacific Economic Cooperation.n
519 - Khi Việt Nam bỏ lỡ cơ hội của mình ở Auckland, Bắc Kinh đã tận dụng cơ hội ấy. Cuối năm 1999, khi Barshevsky đến Bắc Kinh, tiếp tục đàm phán với Bộ trưởng Đầu tư và Thương mại quốc tế Thạch Quả Sinh các điều kiện để Trung Quốc gia nhập WTO. Cuộc đàm phán gần như bế tắc, Barshevsky đã quyết định chín giờ sáng hôm sau sẽ rời Bắc Kinh. Nhưng, đêm hôm ấy, đích thân Giang Trạch Dân gặp Barshevsky, nhân nhượng các điều kiện của Mỹ và quyết định ký với Mỹ Thỏa thuận những điều kiện để Trung Quốc gia nhập WTO.
520 - Ngày 7-11-2006, Việt Nam mới chính thức gia nhập WTO.
521 - Trong bài phát biểu với sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 18-11-2000, Tổng thống Bill Clinton nói:
“Khối lượng thương mại trên thế giới đã tăng gấp đôi, số lượng đầu tư từ những quốc gia giàu vào những quốc gia đang phát triển đã tăng gấp sáu lần, từ hai mươi lăm tỷ đô la vào năm 1990 lên đến hơn 150 tỷ đô-la vào năm 1998. Những quốc gia đã mở cửa nền kinh tế trong hệ thống thương mại quốc tế đã tăng trưởng nhanh ít nhất gấp đôi so với những quốc gia có nền kinh tế khép kín… Một tính toán của Ngân hàng Thế giới nói rằng Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có thể đưa lại cho Việt Nam thêm mỗi năm 1,5 tỷ đô-la, chỉ riêng từ xuất khẩu”.
522 - Tháng 6-2005, Thủ tướng Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng sản đầu tiên thăm chính thức Washington.
Chuyến đi của ông Khải gây chú ý đặc biệt và người ta không khỏi bàn tán khi trước báo giới, ngồi bên cạnh một ông Bush tự tin, ông Khải tỏ vẻ bối rối, tay cầm tờ giấy trả lời báo chí. Ông Khải thừa nhận:
“Quan hệ với Mỹ dễ dàng hơn nhiều so với Trung Quốc. Tôi hội đàm hết sức thoải mái với Tổng thống G. W. Bush và Bill Clinton trước đây nhưng đúng là tôi ngại báo chí. Chỉ cần báo chí đưa không đúng một câu nói của mình thì sẽ có vấn đề ngay với Bộ chính trị. Sang Mỹ nhưng thực ra chúng tôi phải lo đối nội nhiều hơn đối ngoại”.
523 - Vận động viên Taekwondo, huy chương bạc Olympic Sydney, 28-9-2000.
524 - Staggering sacrifice.
525 - Nguyễn Chí Trung sinh năm 1930, khởi nghiệp bằng một số truyện ngắn rồi trở thành một cán bộ tuyên huấn trong quân đội. Khi ông Lê Khả Phiêu giữ chức chủ nhiệm chính trị Quân Tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, Nguyễn Chí Trung là phó chủ nhiệm. Nguyễn Chí Trung được phong hàm thiếu tướng khi làm trợ lý cho tổng bí thư. Do không vướng bận gia đình, Nguyễn Chí Trung gần như dành trọn thời gian của mình, trở thành người giúp việc gần gũi và có ảnh hưởng nhất đến Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu.
526 - Nhân Dân 19-11-2000.
527 - Emily rất nổi tiếng ở Việt Nam sau khi bài thơ “Ê-mê-ly, Con ơi!” của Tố Hữu được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy suốt nhiều thập niên.
528 - Một người Mỹ ở Pennsylvania, ngày 2-11-1965, bế con gái Emily một tuổi tới trước văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara rồi tự thiêu để phản đối Vietnam War.
529 - My Life Bill Clinton, Vintage Books 2005, trang 930 – Phát biểu của Bill Clinton được lược thuật trên báo Nhân Dân ngày 19-11-2000: “Về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhiều người ở Hoa Kỳ không nhất trí với nhau về chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ và về bản chất cuộc chiến tranh. Nhiều người, trong đó có Đại sứ Peterson của chúng tôi, đã tưởng rằng họ sang chiến đấu để giúp cho người Việt Nam được tự do và tự quyết. Ngày nay, tôi thấy rất thú vị là đã có một nước Việt Nam thống nhất và tiến bộ”.
530 - Bill Clinton mô tả chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh: “Võ Viết Thanh ăn nói như những thị trưởng năng nổ ở Mỹ mà tôi biết. Ông khoe về việc cân đối ngân sách, cắt giảm chi tiêu, và nỗ lực lôi kéo thêm các nhà đầu tư nước ngoài”.
Còn Chủ tịch nước Trần Đức Lương thì Bill Clinton nhận xét: “Chỉ kém giáo điều hơn (Lê Khả Phiêu) một chút”.
Ông Phiêu có lý do đối nội khi cố ý làm mất lòng Bill Clinton như thế nhưng rồi chính những người mà ông nghĩ sẽ hài lòng với thái độ cứng rắn trước tổng thống Mỹ lại chính là người sẽ sử dụng điều đó để chỉ chống lại ông (sách đã dẫn).
531 - Tại lễ kỷ niệm bảy mươi năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức tại Hà Nội đầu tháng 2-2000, Lê Khả Phiêu nhấn mạnh: “Chúng ta đổi mới nhưng chúng ta kiên quyết không đổi màu. Những khó khăn và thách thức sẽ không buộc chúng ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nhấn mạnh điều này trong tình thế mà ông cho rằng “chủ nghĩa đế quốc đang tiếp tục tìm cách xóa hết những nước xã hội chủ nghĩa còn lại”.
Lê Khả Phiêu nói: “Khi chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh tự do hóa thương mại và dịch vụ, toàn cầu hóa đầu tư, những nước giàu sẽ trở nên giàu hơn, khoảng cách giữa các quốc gia giàu và nghèo sẽ càng mở rộng”.
532 - Câu chuyện này xảy ra trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu vào tháng 2-1999. Theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm: “Trước cuộc họp kín giữa Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu, chúng tôi bị chặn lại. Phía Trung Quốc chỉ cho tổng bí thư, chánh Văn phòng, thư ký tổng bí thư và Nguyễn Chí Vịnh, phó tổng cục trưởng Tổng cục II vào. Bọn tôi phản ứng nhưng anh Phiêu bảo thôi”.
533 - Gánh nặng lịch sử còn đặt lên vai Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu khi trong nhiệm kỳ của mình, Bộ chính trị mà ông đứng đầu phải đưa ra những đưa ra những quyết định liên quan đến việc phân chia Thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan, bãi Tục Lãm và Điểm cao 1509 –những khúc mắc cuối cùng trong hiệp định phân định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc – và ông bị cáo buộc đã có những thỏa thuận kín với Giang Trạch Dân.
534 - Theo ông Nguyễn Đình Hương, “Chuyên án mang mật danh ‘A10’ nên về sau người ta cứ gọi cơ quan tình báo lập ra theo Quyết định 234 là A10”.
Ông Lê Khả Phiêu (trái) trong lần đón tiếp Chủ Tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tại Hà Nội, ngày 28 Tháng Hai, 2002, khi đó ông Phiêu không còn là tổng bí thư. (Hình: STR/AFP via Getty Images) |
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Sáng 7 Tháng Tám, khi các báo nhà nước đồng loạt đăng tin cựu Tổng Bí Thư CSVN Lê Khả Phiêu qua đời, thọ 89 tuổi, mạng xã hội xuất hiện nhiều ý kiến “không tiếc thương” mà thay vào đó là một số bình luận chỉ trích.
Các báo nhà nước nói ông Phiêu qua đời “sau một thời gian lâm bệnh, dù được bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc,” trong khi Facebooker Lê Nguyễn Hương Trà cho biết rõ hơn là “bị ung thư di căn, gia đình đưa từ bệnh viện 108 về nhà vào đêm 6 Tháng Tám.”
Sau khi ông Phiêu qua đời, những lời ca ngợi ông chỉ đọc được trên báo nhà nước.
Ở chiều ngược lại, viết trên mạng xã hội, nhà báo Ngọc Vinh, cựu thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, bình luận: “Một cựu nguyên thủ quốc gia chết đi nhưng không nhận được sự tiếc thương nào của công chúng thì phải xem lại đường ăn ở lúc cầm quyền. Và như vậy, ông ta không xứng đáng được làm quốc tang.”
Cùng thời điểm, Facebooker Phạm Minh Vũ, một người trong giới tranh đấu, viết: “Năm 1999, Hiệp Ước Phân Chia Biên Giới Việt Nam-Trung Quốc, lúc đó là Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải đã nhượng cho Trung Cộng cả Ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc, và 15,000 cây số vuông dọc biên giới Việt-Trung. Cũng sang Tháng Mười Hai, 2000, lại là bộ ba quyền lực đó đã cắt 15,000 cây số vuông Vịnh Bắc Bộ bán cho Trung Cộng ở Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ. Người ta sẽ nhớ công lao với đảng Việt cũng như Trung Cộng của Lê Khả Phiêu chắc chỉ từng đó, một kẻ phản quốc bán nước. Thế thôi!”
Liên quan “cáo buộc” này, trong chương 20, sách “Bên Thắng Cuộc,” nhà báo Huy Đức viết: “Là một vị tướng quân đội mới bắt đầu làm chính trị, ông Lê Khả Phiêu đã không tránh khỏi những ứng xử thiếu kinh nghiệm với các nhà lãnh đạo cơ mưu của Bắc Kinh. Những quyết định đưa ra trong nhiệm kỳ của ông đã từng bị chỉ trích cả trong nội bộ và trên dư luận, nhất là đối với những quyết định gay go để kết thúc đàm phán Hiệp định Biên giới Việt Nam-Trung Quốc. Nhưng, trên nhiều phương diện, Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu chỉ là người thừa kế những chính sách được thiết lập từ thời ‘Thành Đô.’”
Ông Huy Đức viết thêm: “Việc hoạch định biên giới, cụ thể là phân chia 227 km2 nằm trong 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C được quyết định trong nhiệm kỳ của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu và Thủ Tướng Phan Văn Khải. Tương nhượng là điều không thể tránh khỏi trong các cuộc đàm phán, nhưng tương nhượng ở Hữu Nghị Quan, thác Bản Giốc, những nơi mà từ xa xưa các nhà nước Việt Nam đều đã khẳng định chủ quyền và trong tiềm thức nhân dân, đã trở thành một phần lãnh thổ thiêng liêng quả là những quyết định khó phân công, tội.”
Nhà báo kỳ cựu này cũng tiết lộ chuyện hậu trường của Hội Nghị Bộ Chính Trị vào ngày 5 Tháng Giêng, 2001, kết luận việc ông Lê Khả Phiêu “vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể” và rằng sau Hội Nghị Trung Ương 11, các vị cố vấn, đặc biệt là Tướng Lê Đức Anh cử người gặp các cán bộ lão thành, thông báo những thông tin liên quan đến các “sai phạm của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu.”
“Ủy Ban Kiểm Tra kết luận không đề nghị kỷ luật ông Lê Khả Phiêu và ông Phạm Thanh Ngân nhưng không để tái cử trong nhiệm kỳ IX. Bộ Chính Trị họp nói thẳng, ông Phiêu phải rút khỏi Ban Chấp Hành Trung Ương. Có ý kiến đòi phải kỷ luật ông Phiêu trước khi cho nghỉ,” theo sách “Bên Thắng Cuộc.”
Với công chúng nói chung, nhắc đến ông Phiêu, người ta lại nhớ đến những hình ảnh trong bài “Thăm nhà cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu” đăng trên BBC Việt Ngữ hồi Tháng Giêng, 2009, gây xôn xao dư luận. Thời điểm đó, cơ quan truyền thông Anh Quốc này nói rằng ảnh chụp tư dinh của ông Phiêu vào ngày Mùng Một Tết Kỷ Sửu do bạn đọc ẩn danh gửi tới.
Các tấm ảnh cho thấy dinh thự nguy nga của ông Phiêu tọa lạc trên đường Lý Nam Đế, Hà Nội. Trong nhà có bộ ngà voi to đặt trước tấm ảnh chân dung cỡ lớn của ông, ngoài ra là tượng bán thân của ông, trống đồng, tượng Phật và cả một vườn rau sạch. Chi tiết này được một số blogger nhắc lại khi ông qua đời, với câu hỏi: “Nhà ông ấy có vườn rau sạch mà sao vẫn bị ung thư?”
Theo thông lệ, ông Phiêu là hàng “tứ trụ,” nên nhà cầm quyền CSVN sẽ tổ chức quốc tang cho ông trong những ngày tới. (N.H.K) [kn]
Link Video: https://youtu.be/-Ac5-wGZC8M
Mỗi khi một vị lãnh đạo tối cao của Đảng và Nhà nước ra đi, người ta thường nhắc đến di sản của người mới nằm xuống để nhân dân tưởng nhớ, ghi công. Cố Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã qua đời hôm 07/08 mới đây. Đảm nhận vị trí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, chức vụ được cho là tối cao tại đất nước độc đảng độc tài Việt Nam trong một thời gian ngắn ngủi từ tháng 12/1997 đến tháng 04/2001 nhưng di sản mà ông để lại chứa chất những tai hại cho đất nước và cho nhiều thế hệ người dân Việt Nam.
Theo nhà quan sát Đỗ Ngà, nếu Nguyễn Văn Linh – Đỗ Mười – Phạm Văn Đồng có “công lớn” đưa Việt Nam trở lại vòng tay của Trung Quốc với Hội nghị Thành Đô 1990 thì Lê Khả Phiêu lại là người có “công lớn” cắt đất nhượng cho quốc gia láng giềng với “Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền” năm 1999 và “Hiệp Định Vịnh Bắc Bộ” năm 2000.
Hội nghị Trung ương 4 của kỳ đại hội 8 là một kỳ họp khá đặc biệt khi không chỉ ra chủ trương cho Quốc hội bù nhìn thông qua mà tại hội nghị này, Đỗ Mười nhường chức Tổng bí thư cho Lê Khả Phiêu và rút về làm cố vấn cùng với Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt.
Theo nhà báo kì cựu Nguyễn Công Khế: “Trước khi làm Tổng bí thư, ông (Lê Khả Phiêu) được ông Lê Đức Anh và ông Đỗ Mười ưu ái, chuẩn bị kỹ càng để ngồi vào chiếc ghế quyền lực cao nhất nước này. Ông Đỗ Mười nhiều lần đánh giá rằng chỉ có ông Lê Khả Phiêu và ông Nguyễn Hà Phan là lập trường vững vàng nhất, là thứ gạo bỏ vào cối giã không bao giờ bị bể vụn.”
Có lẽ “lập trường vững vàng” như “thứ gạo bỏ vào cối giã không bao giờ bị bể vụn” mà ông Nguyễn Công Khế nói đến là tinh thần thần phục hoàn hoàn vào Trung Quốc không màng đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia mà biết bao thế hệ cha anh đã ngã xuống để bảo vệ.
Ảnh: Lãnh đạo Việt Nam gồm Nguyễn Văn Linh – Đỗ Mười – Phạm Văn Đồng và lãnh đạo Trung Quốc tại hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên, năm 1990. Kể từ hội nghị Thành Đô, Trung Quốc chi phối Việt Nam |
Với 2 bản hiệp ước biên giới mà ông Phiêu ký với Trung Quốc, Việt Nam đã mất trắng 15.000 km2 lãnh thổ tương đương với diện tích của đất nước Đông Timor.
Facebooker Trần Thanh Cảnh viết: “Đất đai của ông cha, giao cho ai đó thay mặt nhân dân quản lý mà tùy tiện đem xén, đem cho, đem bán cho nước người cứ như không! Cứ như là những tấc đất mét núi dặm sông biển trời kia chưa từng ngấm máu và mồ hôi của con dân Việt trải từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn cho đến nay khai phá bồi đắp giữ gìn mà nên được non sông gấm vóc này!
Ôi, Ải Nam Quan xưa đã vĩnh viễn chỉ còn trong sử sách! Mỗi lần muốn chiêm ngưỡng dấu tích cổ xưa của biên giới nước Việt ta lại phải mua vé du lịch sang nước “bạn”, mới được ngắm cảnh xưa và mong gặp lại hồn cố nhân…
Ai làm ra nỗi này?”
Có lẽ vì công lao to lớn của ông Phiêu đối với đất nước anh em “4 tốt 16 chữ vàng” mà lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình đã gửi điện cho đồng nhiệm Nguyễn Phú Trọng, ca ngợi ông Phiêu là “lãnh đạo tiền bối xuất sắc” và “cũng là người đồng chí thân thiết và bạn bè thân mật của Đảng và nhân dân Trung Quốc”…
Ông Tập cũng ca ngợi ông Phiêu là người “dẫn dắt nhân dân Việt Nam đạt thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới”. Không nói thì ai cũng biết là “công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới” là bám theo mô hình của Trung Quốc thì mới được ông Tập ca ngợi như vậy.
Nhà quan sát Trương Nhân Tuấn mới đây đã tiết lộ ông Phiêu đã cản trở làm cho Việt Nam “lỡ chuyến tàu”. Nếu Việt Nam tuyên bố “trung lập” và theo tư bản chủ nghĩa từ thời đó tức là thời điểm năm 1995 khi ông Võ Văn Kiệt trình lên Bộ Chính trị đề xuất loại bỏ “định hướng xã hội chủ nghĩa”, “bỏ điều 4 Hiến pháp”, chủ trương trung lập và “thực hiện dân chủ triệt để” thì hiển nhiên bây giờ Việt Nam đã được “Phần Lan hóa”, số phận Việt Nam chắc chắn khá hơn, không nằm trong thế “bi đát”, trong gọng kềm ý thức hệ của Trung Quốc hôm nay.
Ảnh: Bức ảnh chụp Ải Nam Quan từ thời Pháp thuộc còn lưu lại cho thấy cửa ải và những bức tường chạy dài về hai bên, phân định rõ ràng biên cương lãnh thổ theo Công ước Pháp – Thanh đã ký năm 1887 và ký bổ sung năm 1895 |
Cũng theo ông Tuấn, di sản chính trị của Lê Khả Phiêu “kiên định con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa” đã làm cho Việt Nam đến nay không thể hội nhập hoàn toàn với thế giới văn minh.
Phiêu chủ trương hoãn ký Hiệp ước kinh tế với Mỹ. Ông Khế cũng đã thừa nhận “chính ông (Phiêu) là người đã cản trở việc Việt Nam ký Hiệp định hợp tác song phương với Mỹ tại New Zealand năm 1999, làm cho ông Phan văn Khải phải đi và về tay không sau khi phải giải thích rất khó khăn với Tổng thống Clinton. Và cũng chính ông đã tổ chức một cuộc đón tiếp Tổng thống Mỹ Bill Clinton thiếu những nghi thức ngoại giao sơ đẳng và nhất là trong nội dung các cuộc trao đổi là thiếu chuẩn mực khi Clinton đến Hà Nội. Cuộc trao đổi với bà Ngoại trưởng Madeleine K. Albright cũng tương tự như vậy.”
Chỉ hai năm ngồi ghế Tổng Bí thư, Phiêu đã khiến Đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Đảng Cộng sản Trung Quốc, từ tư tưởng, hành động cho tới ý thức hệ. Tương lai chính trị Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc.
Có thông tin cho rằng nếu ở Hội nghị Thành Đô, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng lấy danh nghĩa đảng và nhà nước để gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng, thì Lê Khả Phiêu lại dám lấy quan hệ cá nhân để bàn tính chuyện quốc gia đại sự với lãnh đạo Trung Quốc.
Ông Ngà viết: “Vốn là người xuất thân từ quân đội, Lê Khả Phiêu đã dùng Nguyễn Chí Vịnh điều khiển Tổng cục Tình báo Quân đội (tức tổng cục 2) để bắt liên lạc với tình báo Tàu của phía Giang Trạch Dân nhằm nhận lệnh riêng của ông này. Đây là cách làm việc vô lối và chắc chắn lịch sử sẽ ghi tội. Với lối quan hệ này, Lê Khả Phiêu đã xem đất nước Việt Nam này như là một thứ món hàng riêng của ông ta và muốn thỏa thuận với ai thì thỏa thuận. So với Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Phạm Văn Đồng thì phải nói rằng, Lê Khả Phiêu bán nước táo bạo hơn.”
Việc ông Phiêu tự ý làm việc trức tiếp với lãnh đạo Trung Quốc cũng được đề cập đến trong một nguồn khác.
Sách của tác giả Huy Đức dẫn lời ông Vũ Quốc Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, người được giao thẩm tra các sai phạm của ông Lê Khả Phiêu, cho biết: “Đầu năm 2001, Bộ Chính trị họp chuẩn bị Đại hội IX, chị Nguyễn Thị Xuân Mỹ (khi đó là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng) đi họp về nói, Bộ Chính trị đang kiểm điểm anh Phiêu gay gắt nhiều chuyện: vấn đề Campuchia, quan hệ nam nữ, vô nguyên tắc khi ra Quyết định 234, ngành tình báo lâu nay chỉ nắm địch, nay được theo dõi nội bộ, gặp Giang Trạch Dân, đi không hỏi, về không trình.”
Việc sử dụng cơ quan tình báo để theo dõi các đối thủ chính trị như trong danh sách các tội trên cho thấy ông Phiêu là một người có tham vọng quyền lực rất lớn, muồn thâu tóm hết quyền lực vào tay mình. Lê Khả Phiêu đã ban hành Quyết định 234 cho tổng cục 2 theo dõi các đồng chí trong Đảng Cộng sản. Mục đích của Phiêu là muốn khai thác những chuyện thâm cung bí sử của các đồng chí mình để nắm thóp họ, và từ đó thâu tóm quyền lực về cho mình. Chưa hết, tiếp theo Quyết định 234 thì Lê Khả Phiêu còn có ý định bỏ luôn Ban Cố Vấn để mình rảnh tay thâu tóm quyền lực. Đây chính là sai lầm “chết người” của Phiêu góp phần đánh dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị của con người bán nước cầu vinh này.
Có lẽ vì lý do này mà đám tang của ông Phiêu trở thành vấn đề nhức nhối từ trong nội bộ Đảng Cộng sản cho đến quần chúng nhân dân.
Ảnh: Các lãnh đạo Việt Nam dự Quốc tang ông Lê Khả Phiêu, ngày 14/8/2020 |
Ông Nguyễn Doãn Đôn nhận định: “Ông Phiêu chết từ hôm 07/08/2020 nhưng Nhà nước ta chưa dám ra thông cáo cụ thể gì về tang lễ (cho đến 3 ngày sau đó).
Những người cùng quê với ông như Tô Huy Rứa, Phạm Quang Nghị v.v… được ông cất nhắc, cùng với đàn em thân tín đang ở Ba Đình thì muốn đòi hỏi tiêu chuẩn cho bằng chị, bằng em. Nên muốn tổ chức tang lễ cho hoành tráng và định xây cả lăng trong tỉnh Thanh cho ông.
Nhưng do tình hình diễn biến phức tạp về kinh tế, chính trị và xã hội ở Việt Nam vô cùng căng thẳng như bây giờ thì việc chi tiêu quá tốn kém tiền của và công sức của dân khó có thể phù hợp và đạt được. Mà Đảng dễ bị ăn đòn. Vì làm đám ma to cho một người có tội với non sông…”
Những ngày qua cộng đồng mạng lan truyền một câu hỏi lớn: Tại sao phải bắt dân để tang cho kẻ dâng đất cho ngoại bang?
Ông Nguyễn Văn Hùng viết: “Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chưa có môt triều đại nào phải bắt dân để tang cho kẻ ‘dâng đất’ cho ngoại bang. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới làm điều nghịch lý như thế!
Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam xem việc dâng đất cho ngoại bang là đúng, xem việc làm đó là có công với Đảng thì nên gọi là “đảng tang” chứ đừng bắt dân phải để tang vì ông Phiêu chưa có làm gì có ích cho dân.
Ngày nào mà chế độ cộng sản Việt Nam vẫn còn tồn tại thì ngày đó dân tộc Việt Nam không bao giờ thoát khỏi “vòng kim cô” của Trung Quốc.
Các bạn nghĩ thế nào khi Đảng bắt bạn, gia đình của bạn để tang cho cho ông Lê Khả Phiêu?”
Hoàng Trung – Thoibao.de (Tổng hợp)