Thái Nguyễn
NGUỒN HÌNH ẢNH,THÁI NGUYỄN
Tồn tại chứ không phát triển không chỉ là đặc điểm của xã hội Việt Nam hiện đại mà cũng là đặc điểm của xã hội Việt Nam thời trung cổ.
Khi tìm những nguyên nhân của hiện tượng đó chúng ta thấy trước hết do tình trạng lạc hậu lại cũng do chiến tranh đóng vai trò quá lớn chi phối đời sống cộng đồng hàng thế kỷ mà bộ phận trí thức ưu tú cần thiết, đáp ứng được nhu cầu vận động của xã hội không hình thành.
Cả những rắc rối chồng chất do lịch sử ba phần tư thế kỷ vừa qua nay để lại lẫn những khó khăn kỳ cục do hoàn cảnh thế giới phức tạp hôm nay mang tới đều chỉ có hướng giải quyết thông qua con đường tự nhiên tức là con đường đưa trí thức vào vai trò những người đạo diễn xã hội. Chuyện quá dài…
Nhưng dù thế nào việc tìm hiểu bộ mặt của trí thức Việt Nam trong lịch sử vẫn rất bổ ích.
Kẻ sĩ thời trung đại và nền giáo dục đơn sơ
Nhiều năm qua chúng ta hay nói một cách hồn nhiên rằng dân ta ham học và trong quá khứ ta có một nền giáo dục chẳng kém gì những nước khác. Bản thân tôi ban đầu cũng tin như thế, sau thực tế ngày càng thấy phải nói ngược lại.
Trong một cuốn sách lịch sử giáo dục (Roger Gal, Lịch sử giáo dục, bản dịch Lê Thanh Hoàng Dân-- Trần Hữu Đức, NXB Trẻ-- Sài gòn, 1971), tôi thấy người ta chỉ ra rằng thật ra giáo dục là chuyện xài sang. Chỉ những đất nước giàu có mới có tiền của để chi cho giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Khi nền kinh tế ở trình độ tiểu nông manh mún, thậm chí trình độ hái lượm, con người có mỗi việc kiếm ăn đã không làm nổi, ta chỉ có thứ giáo dục ở dạng đơn sơ, kém cỏi. Ta hay khoe, người dân quê nào ở nông thôn Việt Nam cũng sẵn sàng bớt ăn bớt mặc cho con đến học ở các thầy đồ lấy “năm ba chữ thánh hiền”.
Các triều đại Lý Trần Lê có 47 người được phong trạng, nhưng phần lớn họ không có tên trong danh sách các tác gia nổi tiếng ở Việt Nam
Nhưng hãy nhìn kỹ vào những lớp học đó. Trường sở sơ sài. Sách vở tài liệu không có, đến bữa cơm chắc bụng cho người dạy cũng không có nốt (nhiều truyện tiếu lâm toàn ghi lại chuyện thầy đồ ăn vụng) - thử hỏi sau mấy năm theo học các ông thầy ấy, phần lớn các cậu học trò nhà quê học được gì? Biết dăm ba chữ để đủ đọc tên mình trong khế ước văn tự thế thôi chứ làm sao hơn được?
Sự ham học có tính cá nhân nông nổi đó chưa bao giờ kết hợp với nỗ lực của cộng đồng để xây dựng nổi cơ chế giáo dục hợp lý và một nội dung giáo dục lâu dài, có triển vọng. Đọc lịch sử, đời Lê, sau khi đánh xong giặc Minh, nhà vua lo cầu hiền tài để chọn quan lại ở cấp cơ sở. Chọn như thế nào? Chẳng qua chỉ một số người tinh nhanh đủ chữ ghi chép và… biết làm tính (Đại Việt sử ký toàn thư).
Theo như cách nói của một tác giả trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (1998) thì một nét đặc thù của trí thức Việt Nam trong lịch sử là tính cách lưỡng phân. Ông Nguyễn An Ninh, tác giả bài này giải thích:
Họ vừa là kẻ sĩ vừa là nông dân.
Khi không thể sống bằng chữ tức bằng nghề của mình, nhu cầu trí tuệ của họ bị giảm thiểu.
Những xung lực cho hoạt động trí tuệ ở họ thường xuyên bị kìm hãm. Gặp hoàn cảnh khó khăn, họ dễ bị hư hỏng. Tính cách lưỡng phân ấy là cả một ám ảnh, như ám ảnh về quê hương nghèo đói. Ta hiểu tại sao một số trí thức tỉnh táo khi đã thành đạt, vẫn không thể quên nguồn gốc của mình, cái nơi mà từ đó mình đi tới. Đây là lời dặn của Nguyễn Khuyến cho con cái:
Các con nối nghiệp cha nên biết
Nghiên bút đừng quên đậu lúa cà
Thế sao những người nông dân một nửa này vẫn miệt mài đèn sách để có ngày lều chõng khoa cử thì sao? Việc nhồi vào óc một ít kiến thức cổ lỗ sở dĩ thu hút được toàn bộ tinh hoa nghị lực của nhiều người vì đó là con đường ngắn nhất để được gia nhập vào hàng ngũ quan chức.
Tự hào về nền giáo dục xưa, ta hay đưa dẫn chứng là trong lịch sử, các triều đại đã mở nhiều khoa thi và đã lấy được nhiều tiến sĩ, các bia tiến sĩ đó còn được đặt trong Văn Miếu. Nhưng thử hỏi trước tác của các vị tiến sĩ đó là gì hay chỉ là những bài văn mòn sáo sau khi dâng vua thì chính người viết ra nó cũng quên nó luôn.
Có thể chứng minh sự kém cỏi của nền giáo dục cổ ở một khía cạnh khác.
Nhân xem xét danh sách các tác gia văn học VN bằng con mắt thống kê, người ta đã phát hiện ra một nghịch lý vui vui (theo Tâm lý Người Việt nam nhìn từ nhiều góc độ, 2000): Đó là nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam thời trước nổi tiếng mà không có tác phẩm, đây là nói những tác phẩm dày dặn, có chất lượng đáng kể, được truyền tụng về sau và trở thành một đối tượng mô tả bắt buộc của các bộ từ điển.
Từ điển Văn học Việt Nam do Lại Nguyên Ân biên soạn với sư cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường có 276 mục dành cho tác giả trong khi chỉ có 132 mục dành cho tác phẩm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, tính đổ đồng, mỗi thế kỷ chỉ có 7 tác phẩm; riêng thế kỷ XIX khá hơn, có tới 68 tác phẩm được ghi vào từ điển, nhưng số tác giả cũng lớn hơn, tới 78 người.
Cái hiện tượng cây không trái này (đúng hơn, có thể là toàn những trái chua trái héo, không cần cho ai, đời sau không ai buồn nhớ) càng thấy rõ khi nhìn vào hàng ngũ các ông trạng - chúng tôi muốn nói tới trạng chính thống chứ không phải trạng theo nghĩa dân gian.
Getty Images
Theo Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng về các ông trạng Việt Nam, thì không kể triều Nguyễn không lấy trạng nguyên, các triều đại Lý Trần Lê có tới 47 người được phong trạng. Nhưng phần lớn họ không có tên trong danh sách các tác gia nổi tiếng ở nước ta.
Ngược lại, xét chung các nhà sáng tác thơ văn, từ Nguyễn Du tới Nguyễn Đình Chiểu, từ Nguyễn Gia Thiều Phạm Thái cho tới Tú Xương, nhiều người không thuộc loại đỗ đạt cao. Riêng về biên khảo, một học giả thực thụ như Phan Huy Chú, tác giả của bộ sách đồ sộ, mang tính cách tổng kết lớn, một thứ bách khoa toàn thư là Lịch triều hiến chương loại chí, chỉ đỗ đến tú tài.
Câu chuyện người đỗ không giỏi và người giỏi không đỗ không chỉ tố cáo sự kém cỏi của hệ thống giáo dục mà còn cho thấy một phần thực chất con người của nhiều ông trạng. Họ chính là điển hình của loại học trò thuộc bài, chỉ biết tầm chương trích cú rồi làm theo những khuôn mẫu sẵn có, nói chung là những cá tính tầm thường, không có quan hệ gì tới tư duy độc lập và sự sáng tạo. Còn như muốn hiểu tại sao họ thi đỗ thì chúng ta có thể tìm đọc ngay những giai thoại về họ. Ví như trường hợp Nguyễn Giản Thanh mà trong dân gian thường gọi là Trạng Me.
Vũ Ngọc Khánh, trong sách đã dẫn, chép rằng lẽ ra ông này chỉ đỗ loại nhì (bảng nhãn), chẳng qua hôm vào yết kiến vua có cả mẹ nuôi vua ở đấy, bà này thấy Nguyễn Giản Thanh mặt mũi khôi ngô liền ngẫu nhiên hỏi: “Người này chắc là trạng nguyên?“ do đó nhà vua, vì muốn chiều lòng mẹ nuôi, lấy Nguyễn Giản Thanh làm Trạng.
Đằng sau câu chuyện vui vui, có một sự thật, ấy là xưa kia, việc phong trạng dù được đề cao trên trời dưới biển ghê gớm như vậy, vẫn mang nhiều tính cách ngẫu nhiên tuỳ tiện; các vua chúa rất hay can thiệp vào công việc định giá, phong tặng; các danh hiệu đôi khi chỉ là sản phẩm của những cơn nóng lạnh bất thường của họ.
Là những cường hào phất lên nắm được quyền lực, họ chỉ dùng đám kẻ sĩ nửa mùa chung quanh như một thứ thư lại để sai vặt, và ban phát các chức danh để làm sang cho vương quốc mà họ là chủ. Họ chỉ cần người trung thành chứ không cần người giỏi. Kẻ bề tôi càng tầm thường hèn hạ thì càng dễ sai bảo. Chính cái loại trạng xin trạng nhặt được như thế này lại sẽ là người thích khoe khoang trước bàn dân thiên hạ về danh vị của mình. Thói háo danh chỉ là một biểu hiện nhỏ của sự tha hoá con người -- một sự tha hoá không mạnh mẽ nhưng lại đều đều gặm nhấm cả bản lĩnh lẫn nhân cách.
Văn Miếu là nơi nhiều người tới cầu xin may mắn khi thi cử
Bàn thêm về giới thông thái chân đất
Bước vào giai đoạn hội nhập, gần đây, những cuộc bàn cãi xuất hiện đều đều trên mặt báo ở ta cho thấy vấn đề về giới trí thức đang là mối quan tâm chung của xã hội. Điều này có lý do chính đáng của nó.Sự trì trệ kéo dài hàng ngàn năm mà đến nay ta vẫn lĩnh đủ có một nguyên nhân sâu xa: cộng đồng không hình thành nổi bộ phận tinh hoa (elite) của mình. Một chủ nghĩa bình quân tối đa đã níu kéo tất cả lại. Có điều, không hẳn khi “ngửi” thấy tầm quan trọng của vấn đề là người ta đã nhận thức được nó đầy đủ.
Bằng chứng là nói tới trí thức, người ta thường nêu ra những yêu cầu lý tưởng đâu đâu với tầng lớp này, như đòi hỏi tính độc lập cao, khả năng phản biện để đóng góp mạnh mẽ cho xã hội, rồi từ đó đưa ra nhiều lời chê bai trong đó lời chê nặng nhất là “tư cách phò chính thống” của trí thức Việt Nam nói chung.
Tôi muốn thử đặt vấn đề theo một cách khác: liệu trong thực tế lịch sử chúng ta đã có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa chưa? Nếu tạm thời chấp nhận là có một tầng lớp như vậy, thì quá trình hình thành của họ có đặc điểm gì? Tại sao họ dễ bị làm hỏng đến vậy?
Trước 1945, những Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, các tác giả có bài thường xuyên trên Đông Dương Tạp chí, Nam phong Tri Tân Thanh Nghị…đã có ý kiến về vấn đề này mà chưa ai có dịp tổng kết.
Thời của chúng ta thì thế nào? Trên đây tôi vừa thử nhắc lại bài "Tính chất lưỡng phân, một nét đặc thù của trí thức Việt Nam trong lịch sử" trong đó tác giả hé ra cho thấy vai trò của hoàn cảnh hình thành đã ảnh hưởng ngay tới trình độ và chất lượng thấp của trí thức Việt Nam ra sao. Dưới đây xin tiếp tục nêu thêm lớp người có cách sống lặng lẽ ngoài luồng này.
Tuy không nói ra, nhưng có vẻ như với nhiều người, kẻ sĩ Việt Nam chỉ là một loại trí thức chân đất. Một số nhà nghiên cứu gần đây đôi khi còn đi tới những khái quát cực đoan hơn.
Trong một bài viết mang tên "Tâm lý dân tộc với cuộc Cải cách hành chính hiện nay" nhà xã hội học lão thành Đỗ Thái Đồng cho rằng xã hội cổ truyền Việt Nam thiếu ba chỗ dựa cơ bản:
Trong ba đặc điểm tôi cho là được nêu ra chính xác này, cái thứ hai liên quan đến chủ đề trí thức chúng ta đang nói.
Đáng nhắc nhở đầu tiên là trường hợp Nguyễn Trãi. Theo cách nói thông thường ông là trí thức hàng đầu của dân tộc. Nhưng bảo rằng ông là trí thức cũng đúng mà bảo rằng đây là người đứng trên đỉnh cao của bộ máy quyền lực cũng đúng. Gia nhập chính trường, vốn liếng và bản lĩnh trí thức sẵn có trong ông hoạt động theo quy luật của nhà chính trị.
Cái chết của Nguyễn Trãi là bi kịch của một quan chức chứ không phải của một trí thức. Trên nguyên tắc, ở ông đã có một sự chuyển đổi, dù không trọn vẹn. Thuần tuý hơn về trí thức phải kể loại như Chu Văn An, Nguyễn Du... và rõ hơn là Nguyễn Thiếp. La Sơn phu tử có lúc ra cộng tác với chính quyền có lúc quay về ở ẩn. Và ông ở lại trong lịch sử không phải là những đóng góp phò vua giúp nước cụ thể, mà còn là những đề nghị phải cho dịch Tứ thư Ngũ kinh thế này, phải dạy cho trẻ học thế kia...
Trong suốt trường kỳ lịch sử, bao nhiêu kẻ sĩ ở Việt Nam đều được đào tạo theo hướng như Nguyễn Trãi, kể sao hết. Còn loại như Nguyễn Thiếp quá ít, không tạo nên hiệu quả ngay lập tức nên bị chìm trong vô danh và không thể đóng vai trò dắt dẫn xã hội như giới trí thức các xứ khác. Không đạt đến chuẩn mực cần thiết. Còi cọc ốm yếu. Cấu trúc đã đơn giản lại dễ bị phá vỡ.
Những bệnh trạng loại này phải được coi là đặc điểm lớn nhất của giới có học, những kẻ sĩ trong xã hội cũ và ngày nay kêu bằng trí thức. Ngay so với tình hình bên Trung Hoa, “kiểu dáng mẫu mã” trí thức của ta cũng nghèo nàn hơn rất nhiều.
Nói Việt Nam thuở ấy không có trí thức cũng tương tự như nói Việt Nam trong thời trung đại không có thành thị, mà chỉ có những phố chợ còm nhom hiu hắt, lắt lay tồn tại giữa một bãi lầy nông thôn tăm tối.
Bài đã đăng trên trang Facebook của tác giả Vương Trí Nhàn tại Hà Nội.
Tin liên quan
Giáo dục ‘chiến thắng’ tạo thói dữ dằn trong xã hội VN?
29 tháng 2 năm 2020
Người Việt và triết lý 'giàu nhanh, đi tắt, gồm cả phá hoại'
15 tháng 11 năm 2019
Đảng Cộng sản nhấn mạnh phòng, chống biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ
Có lẽ, phải hỏi rõ ràng hơn, hiện nay, trong nước đã thật sự có một tầng lớp đáng gọi là trí thức chưa? Và, phải hiểu thế nào là trí thức?
Điều này, nhìn chung có vẻ đơn giản, nếu người ta hiểu trí thức là những người có học với một trình độ hiểu biết nào đó được xã hội nhìn nhận như giới bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo, chuyên viên các loại hoặc văn nghệ sĩ v.v…
Nhưng nếu hiểu trí thức như những người có ý thức về vai trò của mình trong xã hội đối với sự hưng vong của một dân tộc thì dường như trong suốt một thời gian dài, Việt Nam đã thiếu vắng hẳn những con người đạt đến chuẩn mực về khả năng dẫn dắt quần chúng, hay phản biện xã hội, biểu tượng cho lương tâm dân tộc.
Trong suốt quá trình cai trị của Đảng Cộng sản VN, từ 1945, không phải chúng ta không từng chứng kiến sự đàn áp của chế độ đối với những tiếng nói ngay thẳng, nhưng sự bất tuân dân sự hay sự phản biện chính trị có hệ thống thì dường như chưa hề xảy ra.
Đảng Cộng sản đã thành công tuyệt đối trong tuyên truyền và đàn áp bạo lực.
Những năm tháng gọi là bao cấp, quốc gia đứng trước ngưỡng sụp đổ vì ngân sách cạn kiệt, dân chúng đói khát lầm than cùng cực… chúng ta cũng không thấy một tiếng nói trí thức nào đủ mạnh để phản kháng hay báo động cho một thảm họa của dân tộc, cho dù trong miền Nam không thiếu những tổ chức chống đối chế độ.
Chỉ đến khi Trung Quốc tuyên bố thành lập huyện đảo Tam Sa bao trùm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam năm 2007, trí thức mới bừng tỉnh… với cuộc biểu tình đầu tiên diễn ra cả ở Hà Nội và Sài Gòn, cùng một "Tuyên cáo của người Việt yêu nước" do nhóm nghệ sĩ Sài Gòn khởi xướng.
Tuy nhiên, phải đến năm 2013, với bản Kiến nghị 72 (do 72 nhân sĩ trí thức cả nước đứng tên ban đầu) đòi thay đổi hiến pháp, trí thức mới thực sự vào cuộc và tạm gọi là đóng đúng vai trò của mình: phản biện xã hội.
Trí thức có thể làm gì?
Cho đến nay, không biết bao nhiêu kiến nghị đã được gởi tới chính quyền, từ chuyện quốc gia đại sự đến những yêu cầu cho một cá nhân nào đó, tôi không thể nhớ hết, nhưng họ đã nhận được gì? Hay đã mang lại điều gì?
Điều ai cũng biết, không những chính quyền im lặng mà thậm chí còn thực hiện những biện pháp đối phó với những người tham gia ký tên ủng hộ các kiến nghị đó, đôi khi thô bạo.
Tại sao chính quyền im lặng?
Câu trả lời chỉ có thể là chính quyền không thể đáp ứng những đòi hỏi do các bản kiến nghị đưa ra.
Tuy nhiên, tôi tin rằng chính quyền cũng không thể không biết đến cái áp lực của những kiến nghị cũng như các hành động khác của giới bất đồng chính kiến lên các chính sách của mình.
Đảng Cộng sản có sợ không?
Tôi tin rằng có, vì thế họ không ngừng kêu gọi chống lại cái gọi là "tự diễn biến, tự chuyển hóa", đồng thời gia tăng bắt bớ, đàn áp với toàn bộ những "nhen nhóm" phản kháng, từ Bắc vào Nam.
Trong lúc cái nguy cơ mất nước hay lệ thuộc Trung Quốc càng ngày càng rõ… Và xã hội càng ngày càng suy đồi, ngoài việc "xóa bàn làm lại", thì liệu những kiến nghị suông có thể giải quyết được gì?
Nhiều người cổ võ lại cái ý tưởng do cụ Phan Châu Trinh khởi xướng hàng trăm năm trước: "Khai dân trí" như một giải pháp khả thi nhất.
Tất nhiên, khai dân trí bao giờ cũng tốt và không bao giờ cũ. Nhưng với tình thế cấp bách hiện nay, chắc chắn, chỉ khai dân trí là không đủ.
Tôi có một số bạn được gọi là lão thành cách mạng và những người lo lắng cho tương lai quốc gia, thỉnh thoảng gặp nhau, lại hỏi: "Phải làm gì bây giờ?"
Làm gì bây giờ? Một câu hỏi khó.
Trong ít năm gần đây, một loạt các tổ chức xã hội dân sự đã hình thành bất chấp sự đàn áp của chính quyền, như Hội Nhà báo Độc lập, Ban vận động Văn đoàn Độc lập, Con Đường Việt Nam, Hội Anh Em Dân Chủ, Mạng lưới Blogger Việt Nam, Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm, Lao Động Việt, Phụ Nữ Nhân Quyền... bên cạnh những cá nhân nổi bật trong cuộc đấu tranh cho công bằng và dân chủ.
Phiên tòa xử các ông Nguyễn Văn Đài và năm người hôm 5/4
NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Trong lúc chưa có luật về Hội cũng như quyền tự do phát biểu chính kiến, sự có mặt này cho phép tin vào sự thức tỉnh cũng như ý chí đấu tranh của người dân và tầng lớp trí thức cho một Việt Nam tươi sáng hơn.
Bên cạnh đó, cũng thấy một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử, sự xuất hiện của các nhà báo công dân.
Thông qua internet và các trang mạng xã hội, một phong trào quần chúng, mà hầu hết cũng là người có học và "có lý luận", đã mạnh mẽ cất tiếng nói bất bình của mình đối với đảng Cộng sản cầm quyền và các chính sách của họ.
Đối phó với một hiện tượng đáng mừng như thế, đảng và nhà cầm quyền đã thành lập một lực lượng đáp trả được gọi là dư luận viên, cũng hùng hậu không kém.
Tuy nhiên, nhìn chung, phong trào tranh đấu cho tự do và dân chủ đến nay vẫn còn rời rạc, thiếu đồng bộ.
Người trí thức chưa tập hợp được quần chúng sau lưng mình, thậm chí ngược lại, họ theo đuôi quần chúng trong những việc như tham gia biểu tình chống Trung Quốc, hoặc các dân oan bị cướp đất…
Dù vậy, tôi tin rằng, một cách lạc quan, đảng và nhà cầm quyền không thể không suy nghĩ để có những bước đi thích hợp cho một xu hướng tất yếu, tự do hơn, dân chủ hơn, lành mạnh hơn trước khi quá muộn.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
Tin liên quan
Mỹ phản ứng sau bản án cho ông Nguyễn Văn Đài
6 tháng 4 năm 2018
VN “đừng nên coi bất đồng là thù địch”
18 tháng 12 năm 2017