Vượt qua Việt
📧   ||  A  A  A  A 
Hội nhập
Hội nhập được thì cần gì Thoát Trung !

Quyền Dân tộc (1)

Đọc báo mạng

📂  🏠

28/03/2018 - luatkhoa

Trung Quốc “bắt nạt” các công ty dầu khí trên Biển Đông như thế nào?

Sự kiện chính phủ Việt Nam dừng dự án Cá Rồng Đỏ, một dự án dầu khí quan trọng ở biển Đông, do áp lực từ Trung Quốc đang làm nóng lại các tranh luận về tranh chấp biển Đông tại Việt Nam.

Có thể điểm qua một số dữ kiện cơ bản của vụ việc:

Dự án mỏ khí Cá Rồng Đỏ là dự án mỏ sâu của Việt Nam nằm ngoài khơi biển Đông tại Lô số 07/03, thuộc Bể Nam Côn Sơn, cách bờ biển Vũng Tàu 440 km.

Mỏ này được cho là gồm 12 cụm giếng, và sẽ cung ứng 25.000-30.000 thùng dầu/ngày và 60 triệu m3 khí/ngày. Tổng giá trị hợp đồng của dự án này có thể lên đến 1,2 tỷ đô la.

Công ty dầu khí Repsol (Tây Ban Nha) và các đối tác đã đầu tư sẵn sàng cho việc khai thác dự án Cá Rồng Đỏ. Tuy nhiên theo tin tức trong ngành dầu khí mới đây, ngày 23/03/2018, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) đã yêu cầu Repsol ngừng khai thác.

Việc ngừng khai thác này có thể khiến cho Repsol và các đối tác thiệt hại khoảng 200 triệu đô la đã đầu tư.

Hiện chưa rõ ràng là Bộ Chính trị Việt Nam sẽ quyết định dừng hay chấm dứt hoàn toàn dự án này.

Thực sự, chuyện Trung Quốc dùng sức ép để ngăn cản việc khai thác dầu khí trên các vùng biển thuộc biển Đông vốn đang tranh chấp chủ quyền với Việt Nam và nhiều nước khác là chuyện đã diễn ra từ lâu.

Và Trung Quốc nhiều khi không cần gián tiếp ép Việt Nam buộc các công ty nước ngoài ngừng làm ăn.

Nếu bạn đọc đang tìm một tài liệu hay một cuốn sách giúp hiểu sâu rộng về những chiêu trò dùng sức ép như thế của Trung Quốc trên biển Đông, có thể tìm ngay đến cuốn  “Biển Nam Trung Hoa: Tranh Giành Quyền Lực Ở Châu Á của nhà báo, nhà nghiên cứu người Anh Bill Hayton.

Nhà nghiên cứu Bill Hayton trong một buổi thuyết trình về tranh chấp biển Đông – Ảnh: youtube.com

Hayton tốt nghiệp Đại học Cambridge, và là một phóng viên quốc tế lâu năm của kênh tin tức BBC. Ông đặc biệt tập trung vào khu vực Đông Nam Á và đã viết hai cuốn sách nói riêng về chính trị Việt Nam.

Những gì ông đã viết và nhận xét đủ mức “gây tranh cãi” để chính quyền Việt Nam cấm ông nhập cảnh vào Việt Nam năm 2012.

Trong hơn 300 trang sách đầy ắp thông tin nghiên cứu của “Biển Nam Trung Hoa…”, người đọc bắt gặp một giọng văn báo chí vừa khá cuốn hút, vừa cung cấp các tường thuật chi tiết, hệ thống, và khá rõ ràng về cuộc tranh chấp chủ quyền biển Đông.

Tác giả nhìn cuộc tranh chấp một cách công tâm (không thiên vị bên nào) và bằng nhiều lăng kính: lịch sử, pháp luật, ngoại giao v.v.

Nhưng lăng kính thú vị nhất có lẽ là lăng kính “trinh thám doanh nghiệp” khá sống động mà bạn đọc sẽ được cùng Café Luật Khoa nhìn qua trong trích đoạn dưới đây.

***

Trích đoạn Biển Nam Trung Hoa: Tranh Giành Quyền Lực Ở Châu Á” (The South China Sea: The Struggle for Power in Asia) – Nhà xuất bản Đại học Yale 2014 – Tác giả: Bill Hayton

Luật Khoa trích đoạn và dịch từ sách gốc bản tiếng Anh (cách dòng do người trích, hình minh họa không thuộc nội dung trong sách)

“… BP [British Petroleum – Dầu khí Anh Quốc] đã có mặt ở Việt Nam từ năm 1989 nhưng phải mất đến cả thập niên trước khi trở thành một trong những công ty quốc tế làm ra được tiền tại đây.

Năm 2002, mỏ khí Lan Tây trên Lô số 6.1, nằm cách bờ 362km, bắt đầu bơm gas vào một trong những đường ống dẫn ngầm dưới nước dài nhất thế giới. Ống này bơm về một nhà máy điện qua một lối đi vào cửa biển, ngang qua trước mặt khách sạn Grand Hotel [Vũng Tàu – ND].

Năm 2006, khí đốt của BP được dùng để tạo ra một phần ba lượng điện năng của Việt Nam. Và còn nhiều khí đốt nữa sẽ được khai thác bởi vì công ty này lúc đó có quyền khai thác trên hai lô khác đang được thăm dò.  BP đã “ngồi chờ” trên hai lô này hàng năm trời, chờ đợi thời điểm họ cảm thấy chắc rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức nhu cầu để đảm bảo phải mở rộng sản xuất điện, và theo đó là khí đốt.

Năm 2007, khi Việt Nam vừa trở thành thành viên Tổ chức Thương Mại Quốc tế (World Trade Organisation – WTO) và các nhà đầu tư tên tuổi bắt đầu đổ xô đến nước này, thì BP mới sẵn sàng để gắn bó lâu dài.

Tháng 3/2007, BP công bố kế hoạch phát triển hai mỏ khí trên Lô 5.2 rồi họ hoặc là nối chúng với ống dẫn sẵn có, hoặc là đã lắp ống dẫn mới. Một nhà máy điện khác được lên kế hoạch xây dựng trên bờ để biến khí đốt thành điện năng cho đất nước và thành tiền cho BP. Thời gian dự án không nói rõ nhưng đối tác của BP là PetroVietnam gợi mở rằng khí đốt sẽ có từ năm 2011.

Cũng trong khoảng năm 2007, Đại sứ Trung Quốc tại Australia, bà Fu Ying [Phó Oánh] đang lên những kế hoạch riêng của bà ta trong lúc chuẩn bị nhận một vị trí mới tại London.

Bà Phó từng có ít nhiều qua lại trong quá khứ với BP.

Năm 2000, khi BP công bố kế hoạch phát triển Lô 6.1, bà đang là giám đốc Phòng Châu Á Vụ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Theo một nguồn tin cao cấp bên trong BP, bà Phó đã nhiều lần bày tỏ rất mạnh mẽ cho lãnh đạo BP tại Bắc Kinh và Đông Nam Á biết đòi hỏi của Trung Quốc rằng BP phải dừng dự án này vì nó xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.

Khu vực đường “lưỡi bò” mà Trung Quốc đang tuyên bố là thuộc chủ quyền của họ – Ảnh: BBC

Hồi năm 2000, Giám đốc điều hành BP là John Browne, một người dày dặn kinh nghiệm chiến trận tại các vùng “tiền phương”.

Ông Browne đơn giản phớt lờ các phản đối của bà Phó và dự án Lô 6.1 vẫn đã tiếp diễn.

Nhưng vào ngày 1 tháng 5 năm 2007, ông Browne từ chức tại BP sau một vụ bê bối cá nhân. Người thay thế ông ta là Tony Hayward.

Bà Phó Oánh tới London vào ngày 10 tháng 4 năm 2007. Cùng ngày, Bắc Kinh bắc đầu tỏ ra hiếu chiến trong một thế trận mới với BP.

Trả lời một câu hỏi “mớm bài” từ một phóng viên truyền hình quốc gia Trung Quốc, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Qin Gang [Tần Cương] tuyên bố, “Các động thái mới của Việt Nam là bất hợp pháp và vô căn cứ… không có lợi cho sự ổn định của khu vực biển Nam Trung Hoa.”

Lạ lùng là cái lô mà Bắc Kinh đang phàn nàn – Lô 5.2 – lại nằm sâu trong vùng biển Việt Nam hơn chính Lô 6.1 mà BP đang vận hành.

Không hề gì: đây là một cơ hội cho bà Phó Oánh trả thù.

Một trong những điều đầu tiên bà ta làm khi vừa mở valy hành lý ở London là đòi gặp lãnh đạo mới nhậm chức của BP, Tony Hayward.

BP biết khá rõ chuyện gì sẽ tới. Họ cho gọi các lãnh đạo cao cấp từ Việt Nam sang London để chuẩn bị bàn bạc. Các lãnh đạo BP tại Việt Nam trình bày lý lẽ mạnh mẽ cho việc BP phải tiếp tục dự án rồi để cho Hayward và nhóm của ông ta xử lý phần còn lại.

Tính tới năm 2007, BP là một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc. Danh mục đầu tư lên đến 4.2 tỷ đô la Mỹ của BP tại Trung Quốc bao gồm các nhà máy hóa dầu, các cơ sở khai thác khí đốt xa bờ, 800 trạm xăng dầu và 30% cổ phần trong trạm tiếp nhận khí tự nhiên hóa lỏng đầu tiên của Trung Quốc, cùng nhiều hạng mục khác.

Bà Phó Oánh biết rõ những điều trên và vào ngày 18 tháng 5 năm 2007, bà ta dùng chúng trong các buổi họp mặt tại tổng hành dinh BP. Bà ta đưa ra các phản đối của mình dành cho hoạt động của BP trên các vùng biển đang tranh chấp, và sau đó, theo một nguồn tin bên trong BP, đã đưa ra hai cảnh báo chi tiết: đầu tiên, nếu BP tiến hành dự án Lô 5.2, nhà chức trách Trung Quốc sẽ xem xét lại các hợp đồng đang có với BP; thứ hai, Trung Quốc sẽ không đảm bảo an toàn cho nhân viên của BP làm việc trong các vùng tranh chấp.

Đó có vẻ là một lời đe dọa thẳng thừng dành cho cả công việc kinh doanh lẫn tính mạng các nhân viên tham gia dò tìm và sản xuất dầu khí của BP.

Không có kinh nghiệm làm việc với các chính thể “du côn” (roughhouse) như người tiền nhiệm của mình, Hayward đã sửng sốt. Ông ta thỏa thuận với bà Phó –  BP sẽ tiếp tục hoạt động Lô 6.1 nhưng sẽ ngừng các hoạt động tại Lô 5.2.

Bà Phó đã trả thù thành công.

Phó Oánh – Tony Hayward: không phải một cuộc đấu tay đôi – Ảnh: asiamedia.lmu.edu, investigatemagazine.co.nz

Đó là mớ bòng bong mà Gretchen Watkins [giám đốc BP Việt Nam mới nhậm chức vào năm 2007] thừa hưởng khi bà ta tới Vũng Tàu hai tuần sau đó.

BP ký kết hợp đồng với PetroVietnam (đại diện cho chính quyền Việt Nam) trong khi công ty Mỹ ConocoPhillips thì tiến hành khảo sát và thăm dò trong Lô 5.2.

Nhìn từ các điện tín ngoại giao của Mỹ mà Wikileaks để lộ thì có vẻ là BP đã không hề cho các đối tác của họ biết thỏa thuận của Hayward với bà Phó Oánh cho tới ngày 8 tháng 6 năm 2007 khi BP hủy bỏ kế hoạch công tác trong năm 2007.

Cả ConocoPhillips và PetroVietnam đều không để cho BP thoát. Watkins tự thấy rằng bà ta hoàn toàn không có năng lực đối đầu với một cơn bão pháp lý và địa chính trị thế này.

Ngày 13 tháng 6 năm 2007, tin tức bắt đầu lộ ra ngoài rằng BP đã tạm dừng việc khảo sát địa chấn mà họ đã lên kế hoạch. Trong hai ngày sau đó, ngài Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội là ông Michael Marine đã gặp cả ngài Đại sứ Anh và đại diện công ty ConocoPhillips.

Trong tường thuật về các buổi gặp này (do Wikileaks công bố), ConocoPhillips phàn nàn rằng PetroVietnam đang đòi hỏi họ phải hoàn thành hợp đồng công tác bất kể việc BP đã tạm dừng. Đại sứ Anh ông Robert Gordon thì nói với ông Marine rằng Anh quốc đang gửi một quan chức cấp cao Bộ Ngoại giao sang đàm phán với chính phủ Việt Nam.

Với việc BP phải lùi bước trước sức ép của Trung Quốc, ConocoPhillips không còn lựa chọn nào ngoài việc bước theo đuôi. Họ cũng có lợi ích kinh doanh tại Trung Quốc, cho dù nhỏ hơn, bao gồm mỏ khí đốt Xijiang phía Nam Hong Kong và nhà máy Peng Lai ở Vịnh Bột Hải.

Ngửi mùi chiến thắng, Bắc Kinh mở rộng chiến dịch.

Cũng trong tháng 6 năm 2007, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phàn nàn với chính phủ Nhật Bản về các hoạt động của một tổ hợp bao gồm công ty dầu khí Idemitsu, Nippon Oil và Teikoku Oil vốn lúc đó đang lên kế hoạch thăm dò địa chất trong các Lô 5.1b và 5.1c (cạnh các lô của BP).

Theo một tường trình của Đại sứ Hoa Kỳ tại Tokyo cũng được để lộ từ Wikileaks, chính phủ Nhật Bản chọn phương án không làm gắt với Bắc Kinh và vào tháng 7 năm 2007, tổ hợp Nhật Bản tạm dừng các kế hoạch của họ.

Khoảng đầu tháng 8 năm 2007, các lãnh đạo công ty Chevron được triệu tập lên Đại sứ quán Trung Quốc ở thủ đô Washington và bị bảo phải dừng việc khai thác của công ty này tại Lô 122 ở Việt Nam. Thông điệp này được lập lại một cách còn mạnh mẽ hơn trong một buổi họp ở Bắc Kinh vào tuần tiếp theo sau đó.

Đòi hỏi này nhìn qua là thấy quá quắt. Lô 122 nằm ngay sát bờ biển Việt Nam và rõ ràng trên thềm lục địa nước này.

Tuy nhiên Chevron vừa mới ký một thỏa thuận lớn với [công ty dầu khí quốc doanh Trung Quốc] PetroChina để được nhượng quyền cung cấp khí đốt tại tỉnh Tứ Xuyên. Họ có rất nhiều thứ để mất. Chevron tạm dừng hoạt động tại Lô 122 ngay trong tháng 8 năm 2007.

Ngày 8 tháng 9 năm 2007, Lãnh sự quán Trung Quốc tại Houston gửi một lá thư cho một công ty dầu khí khác là Pogo yêu cầu họ dừng hoạt động ở Lô 124, nằm cách Lô 122 khoảng 50km về phía Nam.

Bà Phó Oánh rõ ràng là rất hài lòng với BP bởi vì vào ngày 31 tháng 8 năm 2007, bà ta đã có một chuyến thăm đặc biệt tới khu chế biến dầu khí trong bờ tên Wytch Farm của BP, nằm ở miền nam nước Anh. Tại đây, bà Phó đề xuất rằng ‘cả hai bên có thể trao đổi hợp tác nhiều hơn nữa’.

Khá khác lạ cho một chuyến thăm tỉnh lẻ, người tiếp bà Phó là ông John Hughes, giám đốc phụ trách Châu Á Thái Bình Dương của BP. Ông ta đặc biệt đề cập đến hy vọng của BP rằng họ sẽ ‘tiến hành hợp tác chiến lược với các công ty dầu khí lớn của Trung Quốc’.

Bản đồ các lô dầu khí của Việt Nam. Dự án Cá Rồng Đỏ nằm ở Lô 07/03 màu vàng – Ảnh: BBC

Nhưng Bắc Kinh vẫn chưa tha cho BP. Bước tiếp theo của Trunq Quốc là dùng công ty này để thao túng ép chính quyền Việt Nam phải nhường nhịn chủ quyền.

Theo một nguồn tin nội bộ cao cấp từ BP, chính phủ Trung Quốc đã ‘đề xuất’ rằng BP tạo điều kiện cho việc thương lượng giữa Tổng công ty Dầu khí Ngoài Khơi Trung Quốc (CNOOC) và PetroVietnam về việc hợp tác khai thác tại Lô 5.2 và Lô 5.3 bên cạnh.

Động cơ của CNOOC vừa là lợi nhuận vừa là chính trị: chủ tịch của CNOOC lúc đó là Fu Chengyu [Phó Thành Ngọc] là người có tham vọng lớn.

Tổng hành dinh CNOOC tại Bắc Kinh nằm ngay đối diện văn phòng thượng cấp của bà Phó Oánh, Bộ Ngoại giao, bên kia giao lộ đường Triều Dương Môn.

Trong các năm 2007 và 2008, phe trục Phó – Phó có vẻ như là hai mặt của cùng một thứ chính sách.

Đó thực ra đã là lần thứ hai CNOOC ép BP làm “bà mai” cho họ: đã có một lần trước vào năm 2003.

Hồi đó, BP giới thiệu CNOOC cho PetroVietnam rồi tránh sang một bên. PetroVietnam bèn lịch sự thảo luận chung chung với CNOOC trong vài tháng cho đến khi PetroVietnam nói rõ với CNOOC rằng CNOOC sẽ được hoan nghênh như là một đối tác kinh doanh, nhưng không đời nào CNOOC sẽ trở thành bên được quản lý chung các lô dầu khí vốn là của Việt Nam.

Khi CNOOC trở lại sân khấu vào năm 2007, ông Phó Thành Ngọc có một mục tiêu chi tiết: một phần chia chác trong các Lô 5.2 và 5.3.

Giống như thỏa thuận mà Randall Thompson [lãnh đạo công ty dầu khí Mỹ Crestone] đã từng đưa ra cho Trung Quốc 15 năm trước đó, thỏa thuận CNOOC muốn phải là một cuộc dàn xếp dưới vỏ bọc ‘hợp tác khai thác’ (joint development) vốn sẽ gián tiếp công nhận chủ quyền của Trung Quốc với các khoáng sản trong khu vực tranh chấp.

Lần này thì BP không được phép trốn tránh cuộc đàm phán. Họ sẽ bị sử dụng trên thực tế như một cánh tay của chính sách ngoại giao Trung Quốc.

Giới lãnh đạo BP tại London dưới quyền Tony Hayward có vẻ là đã mù tịt lịch sử và cơ cấu địa chính trị trong tình huống tại biển Nam Trung Hoa.

BP tiếp tục công việc trên cơ sở rằng đây sẽ chỉ là một liên doanh (joint venture) khác, rằng CNOOC có thể bán phần chia của họ bằng một thỏa thuận thương mại, và rằng các tranh chấp chủ quyền có thể được khoán hết cho các chính phủ xử lý riêng.

BP đã không hề nhận ra rằng họ đang nằm giữa một tranh chấp chủ quyền.

BP, người khổng lồ Anh “ngây thơ”? – Ảnh: curacaochronicle.com

Trong hơn một năm trời, Gretchen Watkins và các lãnh đạo BP khác bay ra bay vào giữa Hà Nội và Bắc Kinh để chuyển thông điệp qua lại giữa giới quan chức lãnh đạo ngành dầu khí của hai nước.

BP đề nghị sẽ phát triển các dự án trong các lĩnh vực mới hơn, các dự án vốn sẽ mang lại lợi ích qua lại cho cả hai bên, và họ đã cho rằng một thỏa thuận có thể đạt được.

BP thậm chí còn đổi tên chức vụ của Watkins sang thành Tổng giám đốc BP phụ trách Việt Nam, đồng thời phụ trách Thăm Dò và Sản Xuất tại khu vực Trung Quốc.

Không lạ gì khi chả có tiến triển nào.

Việt Nam không buông chủ quyền còn CNOOC thì không hứng thú với một thỏa thuận thương mại.

Nhưng phải vài tháng sau thì Hayward và nhóm của ông ta cuối cùng mới hiểu vấn đề. Lúc đó họ đang quan tâm đến các triển vọng lớn đang được mở ra ở Vịnh Mexico. Với họ, Đông Nam Á chỉ là một màn phụ.

Watkins và giám đốc khu vực của BP cố tìm cách thoát ra. Họ biết rằng họ không thể thực hiện được các trách nhiệm hợp đồng bao gồm việc hoàn thành thăm dò địa chấn trước khi hết năm 2008.

Đầu năm 2008, BP và ConocoPhillips lặng lẽ trao lại quyền điều hành (operatorship) trong Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam. Hai công ty nước ngoài này tiếp tục nắm một số quyền lợi liên quan đến hai Lô kia, nhưng dàn xếp mới cho phép họ tránh việc phải gửi tàu thuyền của mình đến các vùng biển tranh chấp.

Ngày 13 tháng 5 năm 2008, Watkins thông báo cho Đại sứ Hoa Kỳ mới được bổ nhiệm là ông Michael Michalak về các dàn xếp trên. Bà Watkins bảo ông Michalak rằng BP và ConocoPhillips không có kế hoạch thông báo cho chính phủ Trung Quốc về việc thay đổi bên chủ điều hành.

Hai tuần sau đó, chính trị gia quyền lực nhất Việt Nam, Tổng bí thư Đảng Cộng sản ông Nông Đức Mạnh thăm Bắc Kinh ba ngày.

Đi cùng ông Mạnh là chủ tịch PetroVietnam. Ông này đã có hội đàm riêng với chủ tịch Phó Thành Ngọc của CNOOC. Ông Phó sau đó thăm Hà Nội để bàn tiếp với PetroVietnam nhưng vẫn không có tiến triển.

Tháng 7 năm 2008 có tin tức lộ ra về việc PetroVietnam tiến hành khảo sát. Tuy nhiên Trung Quốc lúc đó đang quá chú tâm với Olympic Bắc Kinh sắp diễn ra nên đã không có động thái gì.

Bà Watkins thì đã chịu hết nổi.

Việc phát triển mỏ dầu khí bị ngưng trệ trong khi bà ta không có kỹ năng cần thiết cho việc thương lượng địa chính trị. Sự nghiệp của bà ta tại BP Việt Nam đang chẳng đi đâu cả. Thế nên tháng 7 năm 2008, Watkins đổi từ một chức vụ tầm trung trong một công ty khổng lồ sang một chức vụ lớn hơn tại một công ty tương đối tí hon. Watkins về làm Phó giám đốc Sản xuất Dầu khí Quốc tế của Marathon Oil, một công ty ít phải giải quyết các tranh chấp chủ quyền hơn.

Người kế nhiệm Watkins là một người Mỹ khác, Luke Keller, một cựu chủ tịch tại một công ty con của BP là Atlantic Richfield. Luke đã có nhiều năm kinh nghiệm tranh cãi với chính quyền bang Texas và với chính quyền nước Azerbaijan.

Đến lúc này thì BP đã nhận ra rằng trò chơi đã hết và cuối tháng 11 năm 2008 họ thông báo cho PetroVietnam. BP muốn rút lui. Họ lặng lẽ trao lại phần sở hữu tại các Lô 5.2 và 5.3 cho PetroVietnam miễn phí và cũng bỏ qua luôn khoản 200 triệu đô họ đã đầu tư tại đây.

Quyết định này buộc ConocoPhillips phải làm điều tương tự vào tháng 12 cùng năm.

Bà Phó Oánh đã có chiến thắng cuối cùng.

Một giàn khoan dầu trên biển – Ảnh: ibtimes.com

BP liệu có thể đã hành xử theo cách khác?

Kinh nghiệm của một công ty dầu khí khác – công ty dầu khí lớn nhất thế giới – gợi mở rằng họ có thể.

ExxonMobil cũng bị nhà chức trách Trung Quốc đe dọa – nhưng họ đã phớt lờ.

Qua nhiều năm, ExxonMonil không thành công bằng BP trong việc thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Khoản đầu tư đáng để ý nhất của họ là 22,5% cổ phần trong một dự án lọc và chế biến hóa dầu ở Phúc Kiến.

Lãnh sự Hoa Kỳ tại địa phương ghi chú rằng dự án này liên quan đến “các mối quan hệ và vốn chính trị tiềm năng có thể được trao cho chính quyền Trung Quốc” hơn là bất cứ đóng góp quan trọng nào của ExxonMobil.

Ngay cả vị trí dự án này, chỉ nằm ngay gần biển giáp Đài Loan, cũng đã được xem là một phương tiện giành lợi thế ngoại giao với Hoa Kỳ, trong trường hợp có một khủng hoảng khác diễn ra giữa Bắc Kinh và Đài Bắc.

ExxonMobil cũng có bài tẩy của họ. Trung Quốc đang khao khát tăng nguồn cung khí đốt tự nhiên của họ và ExxonMobil thì đang phát triển một dự án lớn ở phía đông bắc Trung Quốc, trên hòn đảo Sakhalin thuộc Nga.

Đối tác Nga của ExxonMobil là Gazprom muốn bán khí đốt trong nội địa trong khi ExxonMobil lại muốn xuất khẩu. Bắc Kinh không muốn đẩy Exxon đi đến chỗ quá xa lánh họ.

Cũng quan trọng, và hoàn toàn tương phản với các công ty dầu khí Anh hay Nhật Bản, chính là việc ExxonMobil có thể dựa vào chính phủ Mỹ để gây sức ép lên nhà chức trách Trung Quốc.

Tháng 1 năm 2008, một lãnh đạo công tác thăm dò mới bay sang Việt Nam: Russ Berkoben. Ông ta đã có 32 năm làm cho ExxonMobil, bao gồm một thời gian làm thăm dò ở Trung Quốc.

Không lâu sau đó, ExxonMobil ký một biên bản ghi nhớ (memorandum of understanding) với PetroVietnam để khai thác Lô 156 và 159.

Hai lô này là hai lô nằm xa bờ nhất mà Việt Nam từng cho thuê.

Góc Đông Nam của Lô 159 cách bờ biển Việt Nam đến 500km. Vậy là nằm ngày trong vùng biển tranh chấp.

ExxonMobil cũng có các thương lượng thực sự với chính quyền Việt Nam để thuê Lô 117, 118, và 119 ngoài khơi vùng biển miền Trung.

Ngày 20 tháng 7 năm 2008, phóng viên Greg Torode của tờ báo Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng đóng tại Hong Kong đưa tin rằng các nhà ngoại giao Trung Quốc tại Washington đã cảnh báo ExxonMobil rằng triển vọng kinh doanh của họ tại Trung Hoa đại lục đang gặp rủi ro.

Nguồn tin của Torode là một quan chức cấp cao trong chính quyền Obama, người lúc đó vừa được báo tin bởi một lãnh đạo ExxonMobil.

Cuối tháng 8 năm 2008, Trung Quốc có vẻ nghiêm trọng hơn.

Liên doanh nhà máy khí đốt tự nhiên hóa lỏng trị giá 1 tỷ đô la tại Hong Kong của ExxonMobil bị hủy bỏ không báo trước.

Giới lãnh đạo ExxonMobil nói với giới ngoại giao Mỹ rằng họ không cho rằng Việt Nam là lý do – liên doanh đó đã bị phản đối mãnh liệt bởi các nhà hoạt động môi trường địa phương – tuy nhiên có vẻ là Trung Quốc đang hiện thực hóa các lời đe dọa của họ.

Trớ trêu là ExxonMobil lại bị chính quyền Việt Nam trừng phạt bởi vì chính quyền Việt Nam bị chính quyền Trung Quốc trừng phạt.

ExxonMobil đã thương lượng hơn cả năm trời với PetroVietnam về bốn Lô (129 đến 132, nằm ở khoảng giữa Lô 156 đến 159 và bờ biển) nhưng tháng 10 năm 2008 PetroVietnam lại trao hợp đồng cho Gazprom của Nga.

Berkoben nói với Đại sứ Michalak rằng PetroVietnam sợ là ExxonMobil sẽ không chịu nổi sức ép từ Bắc Kinh.

Tháng 7 năm 2008, giới ngoại giao Nga thông báo cho giới ngoại giao Mỹ rằng Trung Quốc không hề gây sức ép với các công ty Nga – chắc rằng nhà chức trách Việt Nam cũng đã được cho biết điều đó.

Repsol chỉ là “nạn nhân” mới nhất trong một loạt các “nạn nhân” của Trung Quốc tại biển Đông? – Ảnh: thestraitstime.com

ExxonMobil không phải là công ty duy nhất phớt lờ sự ép buộc từ Trung Quốc.

Công ty năng lượng Ấn Độ ONGC Videsh (từng là đối tác của BP tại Lô 6.1 và cũng là bên thuê các Lô 127 và 128), công ty KNOC của Hàn Quốc và một số công ty nhỏ hơn vốn không có lợi ích lớn tại Trung Quốc – như công ty Premier của Anh và Talisman của Canada – cũng đều phớt lờ Trung Quốc.

Bắc Kinh tìm các cách khác để gây sức ép.

Tháng 10 năm 2007, Mike Bruce, giám đốc tài chính của Pearl Energy tại Singapore, nhận được một cú điện thoại từ Đại sứ quán Trung Quốc.

Một nhà ngoại giao nói với Bruce rằng công ty của ông đang thăm dò trái phép trên lãnh hải Trung Quốc. Nhà ngoại giao đó cũng mời ông ta lên Đại sứ quán nói chuyện.

Bruce từ chối và mời ngược lại nhà ngoại giao đến gặp ông ta.

Vài ngày sau, một phái đoàn có mặt và thông báo cho công ty Pearl Energy rằng họ có một tàu thăm dò đang làm việc tại Lô 6.94 vốn nằm gần như bao quanh Lô 6.1 của BP.

Bruce kể lại rằng, họ ‘đe dọa sẽ gây sức ép với chính quyền Singapore vì Pearl đang nằm trên sàn chứng khoán Singapore’.

Lúc này Bruce bèn thông báo rằng Pearl thực ra không còn nằm trên sàn chứng khoán Singapore nữa vì công ty này đã được mua lại bởi một công ty khác là Aabar Energy đến từ Abu Dhabi [Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất] từ một năm trước đó.

Đám ngoại giao Trung Quốc sa sầm mặt mày. ‘Ồ, thế thì khác rồi,’ người phụ nữ dẫn đầu đoàn ngoại giao nói.

Sau đó, công ty Pearl không còn nghe gì từ đoàn Trung Quốc nữa.

Đầu năm 2009, công ty duy nhất có lợi ích tại Trung Quốc mà vẫn còn khảo sát ngoài khơi Việt Nam là ExxonMobil.

Ngày 30 tháng 6 năm 2009, ExxonMobil ký kết một hợp đồng chia sẻ sản xuất với PetroVietnam đối với hai nhóm Lô (Lô 156 đến 159 tại vùng đông nam hoang dã, và Lô 117, 118, 119 ngoài khơi Đà Nẵng). Hợp đồng này khiến ExxonMobil trở thành bên thuê nhiều diện tích ngoài khơi của Việt Nam nhất.

Tuần trước đó, Russ Berkoben đã đến Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội để giải thích rằng lễ ký kết sẽ được tổ chức ‘lặng lẽ’ để tránh chọc giận Trung Quốc.

Berkoben thú nhận rằng ông không rõ phản ứng của Trung Quốc sẽ là thế nào, nhưng ông nói ExxonMobil ‘sẵn sàng nếu Trung Quốc phản ứng’.

Những nỗ lực của Berkoben được tưởng thưởng vào hơn một năm rưỡi sau. Tháng 10 năm 2011, khi ExxonMobil tìm thấy một trữ lượng khí đốt có tiềm năng lớn tại Lô 118. Việc thăm dò vẫn tiếp tục tại các lô khác.

Một nhà máy ExxonMobil ở Mỹ – Ảnh: washingtonpost.com

Ngoại trừ ExxonMobil, tất cả các công ty dầu khí khác đều đã phải chọn lựa giữa việc hoạt động ở Trung Quốc hay là hoạt động ở vùng biển đang bị các nước tranh chấp này.

ConocoPhillips đã bỏ Lô 5.2 và 5.3 vào tháng 12 năm 2008 nhưng vẫn còn cổ phần trong hai lô khác nằm sát bờ biển Việt Nam, cách xa khỏi mọi vấn đề với Trung Quốc. Tháng 2 năm 2012, ConocoPhillips hoàn toàn rời bỏ Việt Nam để tập trung vào các dự án có lời hơn.

Chevron vẫn giữ 20% cổ phần tại Lô 122 nhưng đã dừng mọi hoạt động tại đó cho đến khi họ bán hết cổ phần vào đầu năm 2013.

Điều đó có vẻ đã làm hài lòng Bắc Kinh vì vào năm 2010, Chevron đã được mua cổ phần trong ba mỏ dầu tại phần phía bắc của biển Nam Trung Hoa, ngoài khơi đảo Hải Nam.

Tại thời điểm viết sách này, giữa năm 2014, có tin rằng Chevron đang cố gắng bán hết các cổ phần tại Việt Nam – hai lô ngoài khơi bờ biển phía Tây Nam, gần biên giới biển với Indonesia và Malaysia.

BP vẫn kinh doanh tại Việt Nam với hoạt động chuyển đổi khí đốt sang điện năng của họ từ Lô 6.1. Nhưng đến tháng 7 năm 2010, mỏ vàng Vịnh Mexico của Tony Hayward biến thành thảm họa.

BP cần gấp 30 tỷ đô la để trả bồi thường sau vụ tràn dầu và nổ giàn khoan Deepwater Horizon.

Ngày 18 tháng 10 năm 2010, BP bán hết cổ phần tại Việt Nam và Venezuela cho liên doanh với Nga của họ là TNK-BP để lấy về 1.8 tỷ đô la.

Chắc rằng BP đã cảm thấy rằng người Nga có thể chịu nổi nhiệt.

BP có một nhiệm vụ khác cho tài năng của Luke Keller. Ông ta được bổ nhiệm Phó giám đốc phụ trách Tổ Chức Phục Hồi Vùng Vịnh của BP – giúp giải quyết đống hỗn độn ở Vịnh Mexico.

Vài tuần trước khi bán tốc bán tháo, vào ngày 21 tháng 9 năm 2010, Tony Hayward đã gặp lại bà Phó Oánh. Sau những thành công của mình tại London, bà ta đã được bổ nhiệm thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Hayward đã dắt theo người sẽ kế nhiệm ông ta là Bob Dudley. Đó là một trong những công tác cuối cùng cho BP của Hayward. Chín ngày sau đó, ông ta không còn là Tổng giám đốc BP nữa…”

Bìa cuốn sách “Biển Nam Trung Hoa: Tranh Giành Quyền Lực Ở Châu Á” (The South China Sea: The Struggle for Power in Asia) – Ảnh: Amazon.com

Tìm đọc thêm:

🔝

16/03/2021 - voatiengviet

Ngoại trưởng Mỹ cảnh báo Trung Quốc ‘cưỡng ép và hung hãn’ trong chuyến công du châu Á đầu tiên

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken phát biểu tại buổi họp báo chung sau cuộc họp với đồng cấp Nhật Bản ở Tokyo vào ngày 16/3/2021.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken hôm 16/3 cảnh báo Trung Quốc không nên dùng cách “cưỡng ép và hung hãn”, trong lúc ông thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên nhằm củng cố các liên minh châu Á khi đối mặt với sự quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh, theo Reuters.

Yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông và biển Hoa Đông đã trở thành một vấn đề ưu tiên trong mối quan hệ Trung-Mỹ đang ngày càng gay gắt. Đây cũng là mối quan tâm an ninh quan trọng đối với Nhật Bản.

“Chúng ta sẽ đẩy lùi, nếu cần thiết, khi Trung Quốc sử dụng biện pháp cưỡng ép và hung hãn để thực hiện ý đồ của họ”, Reuters dẫn lời ông Blinken nói.

Chuyến thăm của ngoại trưởng Mỹ đến Tokyo cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của các thành viên hàng đầu trong nội các của Tổng thống Joe Biden. Chuyến đi diễn ra tiếp theo sau hội nghị thượng đỉnh tuần trước của các lãnh đạo nhóm Bộ tứ bao gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ.

Phát biểu của ông Blinken được đưa ra trước cuộc họp tại Alaska vào ngày 18/3, là cuộc họp đầu tiên mà các quan chức cấp cao của chính quyền Biden và những người đồng cấp Trung Quốc sẽ cùng nhau thảo luận về mối quan hệ rạn nứt giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới.

Washington chỉ trích Bắc Kinh vì lợi ích của mình mà “bắt nạt” các nước láng giềng. Còn Trung Quốc tố cáo Mỹ âm mưu gây bất ổn trong khu vực và can thiệp “công việc nội bộ” của họ.

Trong tuyên bố đưa ra với những người đồng cấp Nhật Bản, ông Blinken và ông Austin nói “Hành vi của Trung Quốc, vốn không phù hợp với trật tự quốc tế hiện hữu, gây ra những thách thức về chính trị, kinh tế, quân sự và công nghệ đối với liên minh và cộng đồng quốc tế”.

Hai nước cam kết chống lại hành vi cưỡng bức và gây bất ổn đối với những nước khác trong khu vực làm suy yếu hệ thống quốc tế dựa trên luật lệ, các giới chức Mỹ nói thêm.

Cuộc họp được tổ chức theo thể thức “2 + 2” với Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Toshimitsu Motegi và Bộ trưởng Quốc phòng Nobuo Kishi chủ trì.

Vấn đề Triều Tiên cũng được tập trung cao độ sau khi Nhà Trắng cho biết Bình Nhưỡng đã bác bỏ các nỗ lực đối thoại.

Quốc gia bị cô lập và đã theo đuổi các chương trình hạt nhân và tên lửa bất chấp các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc lên tiếng cảnh báo chính quyền Biden không nên “phá hôi” nếu muốn hòa bình, truyền thông nhà nước Triều Tiên nói hôm 16/3.

Ông Blinken nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản và Hàn Quốc trong việc phi hạt nhân hóa Triều Tiên. Ông nói: “Chúng tôi không có lợi thế chiến lược nào lớn hơn so với liên minh này về vấn đề Triều Tiên. Chúng ta sẽ đối diện với thách thức trong tư cách là một liên minh và chúng ta phải làm điều đó nếu muốn đạt hiệu quả”.

Các bộ trưởng cũng thảo luận về “cam kết kiên định” của Washington trong việc bảo vệ Nhật Bản trong tranh chấp với Trung Quốc về các đảo nhỏ ở Biển Hoa Đông, đồng thời lặp lại phản đối về các yêu sách hàng hải “bất hợp pháp” của Trung Quốc ở Biển Đông.

Họ cũng chia sẻ những lo ngại về các diễn biến như luật mới mà Trung Quốc thông qua vào tháng Giêng cho phép lực lượng cảnh vệ nổ súng vào các tàu nước ngoài.

Ngoại trưởng Motegi cho biết các vấn đề liên quan đến Trung Quốc đã chiếm phần lớn trong các cuộc đàm phán hai chiều của ông với ông Blinken, đồng thời bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với “nỗ lực đơn phương” của Trung Quốc nhằm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên nói trong một cuộc họp báo thường kỳ rằng quan hệ Mỹ-Nhật “không nên nhắm mục tiêu hoặc làm suy yếu lợi ích của bất kỳ bên thứ ba nào” và nên thúc đẩy “hòa bình và ổn định ở châu Á - Thái Bình Dương”.

Ngoài ra, ông Blinken cũng bày tỏ quan ngại về nỗ lực của quân đội Myanmar nhằm lật ngược kết quả của cuộc bầu cử dân chủ và cuộc đàn áp của họ đối với những người biểu tình ôn hòa.

🔝

22 tháng 2 2021 - BBC

Mỹ cảnh báo Bắc Kinh về việc sử dụng vũ lực ở Biển Đông

Hoang Dinh Nam/Getty Images

Trong một cuộc họp báo cuối tuần trước, Hoa Kỳ cảnh báo TQ về việc sử dụng vũ lực trong các vùng biển tranh chấp, tái xác định rằng chiến dịch khẳng định chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông là bất hợp pháp.

Phát ngôn nhân của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ông Ned Price, bày tỏ với báo giới sự ''quan ngại'' của nước này về luật hải cảnh mới do Trung Quốc ban hành, nói rằng luật này có thể làm leo thang các tranh chấp lãnh thổ và hàng hải đang diễn ra:

''Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến ngôn ngữ trong luật, đề cập rõ ràng đến việc có thể sử dụng vũ lực, gồm cả lực lượng vũ trang của hải cảnh Trung Quốc, trong việc khẳng định chủ quyền của nước này tại các nơi có tranh chấp lãnh thổ và hàng hải ở Biển Đông.''

''Ngôn ngữ bao gồm cả văn bản cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển (của Trung Quốc) phá hủy cấu trúc kinh tế của các nước khác, và sử dụng vũ lực để bảo vệ yêu sách hàng hải của Trung Quốc ở các khu vực tranh chấp, ngụ ý mạnh mẽ rằng luật này có thể được sử dụng để đe dọa các nước láng giềng trên vùng biển mà Cộng Hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa khẳng định chủ quyền.'' Ông nói.

Phát ngôn nhân Ned Price nói thêm với các phóng viên:

'' Hoa Kỳ tái khẳng định tuyên bố ngày 13 tháng 7 năm 2020 liên quan đến các yêu sách hàng hải ở Biển Đông. Và nhắc nhở Trung Quốc về các nghĩa vụ của mình theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc, là phải kiềm chế các hành động đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, cũng như phải tuân theo Luật Biển Quốc tế, như được phản ánh trong Công ước Luật Biển năm 1982. Lập trường của chúng tôi về các yêu sách hàng hải của CHND Trung Hoa vẫn phù hợp với kết luận của Tòa Trọng tài năm 2016, rằng Trung Quốc không có tuyên bố chủ quyền hợp pháp tại các khu vực mà họ cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa của Philippines.''

Trả lời câu hỏi của phóng viên Financial Times là Hoa Kỳ đã trực tiếp nêu quan ngại này với Bắc Kinh chưa, ông Price trả lời:

'Khi nói đến luật tuần duyên, chúng tôi đã liên hệ chặt chẽ với các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ, như Philippines, Việt Nam, Indonesia, Nhật Bản và các quốc gia khác phải đối mặt với loại áp lực không thể chấp nhận được của CHND Trung Hoa ở Biển Đông. Tôi không muốn mô tả bất kỳ cuộc trò chuyện nào với Bắc Kinh về vấn đề này. Tất nhiên, chúng tôi đã nhấn mạnh rằng, điều đầu tiên và quan trọng nhất trong chương trình nghị sự của chính quyền Biden là sự phối hợp giữa các đối tác và đồng minh, và chúng tôi chắc chắn đã bàn luận rất kỹ về điều đó.''

Chính sách của Hoa Kỳ được ông Price nói rõ hơn, khi ông trả lời Wall Street Journal về quan điểm của chính quyền Biden liên quan đến Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Ông nói:

''Chúng tôi tái khẳng định tuyên bố ngày 13 tháng 7 năm 2020 về các yêu sách hàng hải bất hợp pháp và quá mức của Trung Quốc ở Biển Đông. Lập trường của chúng tôi về các yêu sách hàng hải của CHND Trung Hoa, vẫn phù hợp với kết luận của Tòa Trọng tài năm 2016 rằng Trung Quốc không có tuyên bố chủ quyền hợp pháp tại các khu vực mà họ cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa của Philippines.''

''Chúng tôi cũng bác bỏ bất kỳ yêu sách nào của CHND Trung Hoa với vùng biển ngoài lãnh hải 12 hải lý, tính từ các đảo mà nước này khẳng định chủ quyền ở Trường Sa. Hành vi sách nhiễu các bên tranh chấp khác của Trung Quốc trong các khu vực tranh chấp này, hoạt động thăm dò hydrocarbon của nhà nước, hoặc việc đánh bắt cá, hay khai thác đơn phương các tài nguyên biển này là bất hợp pháp.''

Hoa Kỳ từ lâu đã bác bỏ các tuyên bố chủ quyền hung hăng của Trung Quốc trong tuyến đường thủy chiến lược, nhưng dưới thời ông Donald Trump, Ngoại trưởng Pompeo đã đi xa hơn bằng cách rõ ràng ủng hộ lập trường của các quốc gia Đông Nam Á như Philippines và Việt Nam, thay vì đứng ngoài tranh chấp.

Ngoại trưởng Antony Blinken, trước cuộc họp báo, cũng đã lên tiếng bày tỏ quan ngại về luật hải cảnh mới của Trung Quốc trong cuộc điện đàm với người đồng cấp Nhật Bản, Toshimitsu Motegi.

Ông Blinken lúc đó tái khẳng định rằng quần đảo Senkaku ở Biển Hoa Đông - cũng được Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền, gọi là Điếu Ngư và Đài Loan - thuộc một hiệp ước an ninh cam kết Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ bảo vệ lẫn nhau.

Trước đó, công ty công nghệ Simularity's South China Sea Rapid Alert Service có trụ sở tại Mỹ hôm 16/2 công bố những hình ảnh về Đá Vành Khăn cho thấy Trung Quốc có những hoạt động mới ở vùng nước này kể từ cuối năm 2020 trong bối cảnh đại dịch COVID-19, theo Inquirer.

CNES

Các hình ảnh vệ tinh cho thấy những thay đổi diễn ra tại bảy địa điểm thuộc Đá Vành Khăn.

Chuyên gia hàng hải, Tiến sĩ Jay Batongbacal cho biết trên một bài đăng trên Facebook rằng các công trình mới có radar dường như đang trong giai đoạn hoàn thiện, thiết bị xây dựng và doanh trại đang được vận chuyển đến và một số khu vực có thể đang được dọn dẹp cho các tòa nhà mới hơn.

🔝

2020-11-23 - RFA

Biển Đông: “Mỹ có một lập trường vững chắc phản đối sự bắt nạt của Trung Quốc”

Hình minh hoạ. Cố vấn Anh ninh Quốc gia Mỹ Robert O'Brien và Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao VN Phạm Bình Minh ở Hà Nội hôm 21/11/2020. NSA

Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Robert O'Brien vào ngày 22/11 phát biểu tại Học viện Ngoại giao ở Hà Nội trong chuyến thăm Việt Nam rằng “Mỹ có một lập trường vững chắc phản đối sự bắt nạt của Trung Quốc” .

Ông nói thêm "Chúng tôi chia sẻ cam kết sâu sắc đối với một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương dựa trên các quy tắc tôn trọng, công bằng và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế như chủ quyền và tự do hàng hải. Khu vực này không có hứng thú quay trở lại một thời kỳ đế quốc khi mà “chân lý thuộc về kẻ mạnh.. Đó chính là lý do vì sao Hoa Kỳ có một lập trường vững chắc phản đối sự cưỡng ép bắt nạt của Trung Quốc tại biển Đông và các mối đe dọa an ninh trong khu vực Mekong".

Trong phát biểu của mình Cố vấn An ninh Nhà Trắng mặc dù không nhắc đến Trung Quốc nhưng có ám chỉ đến quốc gia này cùng những mưu đồ ở Biển Đông:

Từ biển Đông đến lưu vực sông Mekong, những nguồn tài nguyên phong phú dồi dào của đất nước các bạn thuộc về con cháu của các bạn.”

Quyền thừa hưởng những nguồn tài nguyên này không thể bị cướp mất chỉ đơn giản vì một nước láng giềng lớn hơn và thèm muốn những gì thuộc về các bạn".

Cố vấn thân cận của Tổng thống Mỹ Donald Trump cuối cùng khẳng định:"Thể chế chính trị của chúng ta có thể khác nhau, nhưng Tuyên ngôn độc lập của cả Hoa Kỳ và Việt Nam tôn vinh những giá trị giống nhau.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử của các bạn, người Việt Nam, giống như người Mỹ, đã đấu tranh chống lại những kẻ muốn xâm phạm chủ quyền của các bạn – người Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ bản sắc và không gian chiến lược của mình.

Chúng tôi tôn trọng lòng yêu nước, tầm nhìn, quyết tâm của các bạn và tâm huyết các bạn dành cho một quốc gia độc lập và thực sự có chủ quyền, không phụ thuộc vào quốc gia nào khác.

Chúng tôi quan tâm sâu sắc đến một nước Việt Nam mạnh mẽ và thịnh vượng, đóng vai trò trung tâm của một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Chúng tôi rất mong chờ sẽ đạt được những thành tựu tuyệt vời cùng các bạn trong tương lai".

Tin, bài liên quan

🔝

Thứ Hai, 29/06/2020 - vtc

Trung Quốc bắt nạt, gây hấn với nhiều quốc gia láng giềng thế nào?

(VTC News) - Trung Quốc nhiều năm trở lại đây liên tục gây hấn với các nước láng giềng từ Việt Nam, Ấn Độ cho tới Nhật Bản, Hàn Quốc.

Năm 2014, khi tuyên bố chung giữa lãnh đạo Việt - Trung còn chưa ráo mực, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam bất chấp quy định của luật pháp quốc tế về luật biển cũng như sự chỉ trích dữ dội từ cộng đồng quốc tế.

Liên tục những năm sau đó, Bắc Kinh bồi đắp phi pháp các thực thể ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Cũng chỉ vài tháng trở lại đây, Bắc Kinh ngang ngược tuyên bố thành lập cái gọi là "huyện Tây Sa" và "huyện Nam Sa" trực thuộc "thành phố Tam Sa", tỉnh Hải Nam. Tây Sa và Nam Sa cũng là cách Trung Quốc gọi tên cho lần lượt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 đi vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam hồi giữa tháng 4.

Mới đây nhất, Trung Quốc ngang ngược ra lệnh cấm đánh bắt cá thường niên ở Biển Đông từ 1/5 đến 16/8. Phạm vi cấm đánh bắt trải dài từ vùng biển phía bắc Biển Đông đến 12 độ vĩ bắc, bao gồm cả một phần vịnh Bắc bộ và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Ngang ngược là vậy nhưng Trung Quốc "duy trì" việc đưa ra tuyên bố này từ năm 1999.

Chưa hết, các tàu của Trung Quốc còn nhiều lần cố tình va đâm tàu cá Việt Nam và thậm chí có trường hợp còn đổ vấy cho tàu Việt đâm chìm tàu của họ. Trong vụ việc mới đây nhất hồi giữa tháng 6, sau khi đâm chìm tàu cá Việt Nam, làm 16 ngư dân rơi xuống biển, phía Trung Quốc dùng vũ lực ép thuyền trưởng tàu cá QNg 96416 TS điểm chỉ vào một số giấy tờ tiếng nước ngoài, rồi cướp số lượng lớn hải sản, ngư cụ, trang thiết bị.

Trung Quốc ngang nhiên công bố "đường lưỡi bò” phi pháp.

Cuối tháng 4/2020, tàu khảo sát Hải Dương địa chất 8 của Trung Quốc sau khi rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam tiến về vùng EEZ của Malaysia, hoạt động gần tàu khoan thăm dò đáy biển West Capella do Công ty Dầu khí Petronas (Malaysia) vận hành.

Đây không phải là lần đầu tiên tàu Trung Quốc "xâm nhập" EEZ của Malaysia.

Năm 2016, hơn 100 tàu cá của Trung Quốc bị Cơ quan An ninh quốc gia Malaysia phát hiện đang đánh bắt trái phép ngoài khơi bãi cạn Luconia, nằm trong vùng EEZ của quốc gia này.

Đầu năm 2014, Trung Quốc huy động lực lượng đặc nhiệm của hải quân trên tàu đổ bộ Jinggangshan cùng với sự hỗ trợ của thủy phi cơ, tàu hộ tống đổ bộ lên bãi James Shoal của Malaysia trong một chiến dịch mà Bắc Kinh khẳng định là để "bảo vệ Nam Hải, duy trì chủ quyền quốc gia và phấn đấu đạt ước mơ Trung Hoa hùng mạnh”.

Khác với Việt Nam và Malaysia, Trung Quốc áp dụng chiến lược khác với Philippines là liên tục có những hành vi gây hấn nguy hiểm nhưng lại muốn Philippines hợp tác, đối thoại trong vấn đề Biển Đông.

Trung Quốc một mặt không ngại va đâm tàu cá Philippines, điều động tàu sát khu vực bãi cạn Scarborough của Philippines nhằm thể hiện quyền kiểm soát, triển khai hàng trăm tàu cá bị nghi là các tàu dân quân biển nguỵ trang tới các khu vực tiền đồn của Philippines, nhắm pháo vào chiến hạm Philippines trên Biển Đông.

Mặt khác lại kêu gọi thúc đẩy hợp tác, đối thoại bằng một số hành động như đăng tải video ca nhạc bằng hai thứ tiếng là tiếng Quan thoại và tiếng Philippines với mục đích “ghi dấu mối quan hệ hợp tác giữa Philippines và Trung Quốc trong việc phòng chống COVID-19” mới đây.

Tàu cá FB Gimver 1 của Philippines bị tàu Trung Quốc đâm chìm trên Biển Đông hồi tháng 6/2019. (Ảnh: Rappler)

Với Indonesia, nước này không có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc nhưng 2 quốc gia có những tuyên bố chủ quyền chồng chéo ở một vài khu vực trên Biển Đông.

Trong năm 2016, Trung Quốc và Indonesia ít nhất 3 lần xảy ra đụng độ có nổ súng cảnh cáo trên biển. Sau vụ đụng độ thứ ba vào tháng 6/2016, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra thông cáo tuyên bố "đường 9 đoạn" gây tranh cãi của họ bao gồm "ngư trường truyền thống" nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia.

Năm 2017, Indonesia đổi tên phần phía bắc của vùng đặc quyền kinh tế nước này ở Biển Đông thành “biển Bắc Natuna”. Động thái này được xem là để cảnh báo Trung Quốc trước ý định xâm nhập vào khu vực này một cách bất hợp pháp.

Cuối năm 2019, Bắc Kinh điều động tàu hải cảnh xâm nhập vùng EEZ của Indonesia sát cạnh Biển Đông, động thái khiến Jakarta giận dữ và gửi công hàm phản đối tới Bắc Kinh.

Phó Đô đốc Aan Kurnia – lãnh đạo Cơ quan An ninh Hàng hải Indonesia, khẳng định Trung Quốc ngày càng có nhiều hành động “khiêu khích” Indonesia ở Biển Đông, mới đây nhất là Chiến dịch Biển xanh năm 2020, lệnh cấm đánh bắt cá và tôn tạo trái phép các đảo nhân tạo.

Lực lượng bảo vệ bờ biển Indonesia tuần tra biển Bắc Natuna. (Ảnh: SMH)

Ngoài tranh chấp với các nước trên Biển Đông, Bắc Kinh còn cạnh tranh quyết liệt với Nhật Bản ở Biển Hoa Đông.

Căng thẳng giữa 2 nền kinh tế lớn của châu Á kéo dài nhiều năm qua liên quan tới quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư.

Senkaku/Điếu Ngư là nhóm đảo nhỏ nằm cách đảo chính của tỉnh Okinawa, Nhật Bản, khoảng 400 km về phía Tây hiện do Nhật Bản kiểm soát nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và thường xuyên đưa tàu hoặc máy bay đến vùng biển này.

Mới đây, Bắc Kinh tuyên bố đặt tên mới cho 50 thực thể dưới nước ở Biển Hoa Đông, động thái được cho là để trả đũa việc Nhật Bản đặt lại tên cho một khu vực hành chính thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.

Tương tự như Nhật Bản, Hàn Quốc bị cuốn vào tranh chấp với Trung Quốc liên quan tới chủ quyền của đảo Ieodo.

Ieodo, chìm 4,6 m so với mực nước biển, nằm ở phía nam đảo Jeju và trong khu vực chồng lấn của vùng đặc quyền kinh tế hai nước Hàn Quốc và Trung Quốc. Dù luật hàng hải quốc tế quy định một dải đá chìm không thể tuyên bố là lãnh thổ của bất kỳ nước nào, Hàn Quốc hiện quản lý Ieodo, do vị trí địa lý gần với đảo này hơn các nước khác.

Trung Quốc từng để ngỏ kế hoạch dùng máy bay không người lái để giám sát hòn đảo này. Seoul cũng không dưới 1 lần tố Bắc Kinh điều máy quân sự xâm nhập Vùng nhận diện phòng không trên Ieodo.

Tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước khác trong những năm gần đây chủ yếu dừng ở mức khiêu khích và Bắc Kinh luôn cố tránh đổ máu.

Nhưng với Ấn Độ, vụ ẩu đả độ mới đây ở biên giới giữa binh sỹ 2 nước khiến 20 lính Ấn Độ thiệt mạng. Đây là vụ đụng độ nghiêm trọng nhất kể từ trận chiến biên giới đẫm máu giữa 2 nước vào năm 1962 khiến 2.000 người thiệt mạng, trong đó đa phần là binh sĩ Ấn Độ. Sau trận chiến này, biên giới Trung Quốc được mở rộng thêm một chút.

Căng thẳng giữa Trung Quốc và Ấn Độ kéo dài nhiều năm qua.

Vụ việc cũng được xem là hệ quả sau những căng thẳng âm ỉ bấy lâu nay giữa Ấn Độ và Trung Quốc, nhất là ở vùng biên giới trên bộ. Trong khi Trung Quốc tố Ấn Độ vượt qua một ranh giới được nhất trí chung, New Delhi cáo buộc Bắc Kinh xây dựng các hầm trú ẩn ở phía Ấn Độ, cản trở hoạt động tuần tra thông thường của quân đội nước này, triển khai một loạt cuộc tập trận ở Tây Tạng cách không xa nơi đồn trú của binh sĩ Ấn Độ.

Người hàng xóm với Ấn Độ, Nepal cũng không tránh khỏi tranh chấp với Trung Quốc. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền một số khu vực của Nepal từ thời chiến tranh Trung Quốc-Nepal giai đoạn 1788-1792. Trung Quốc cho rằng các khu vực này là một phần của Tây Tạng của Trung Quốc.

Đài truyền hình CGTN hồi đầu tháng 5 cũng từng khiến dư luận Nepal phẫn nộ khi vơ toàn bộ đỉnh Everest về Trung Quốc.

🔝

Apr 18, 2020 - nguoi-viet

Mỹ đòi Trung Quốc chấm dứt trò bắt nạt trên Biển Đông

Tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc Haiyang Dizhi 8. (Hình: Weibo)

KUALA LUMPUR, Malaysia (NV) – Mỹ kêu gọi Trung Quốc hãy chấm dứt các “trò bắt nạt” trên Biển Đông khi có “các hành động khiêu khích” đối với các nước nhỏ phía Nam.

Hôm Thứ Bảy, 18 Tháng Tư, Bộ Ngoại Giao Mỹ phản ứng về tin tức mấy ngày gần đây nói chiếc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc được một nhóm tàu hải cảnh và “dân quân biển” hộ tống hoạt động trên Biển Đông, thuộc các vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam và Malaysia.

“Hoa Kỳ quan ngại trước các thông tin Trung Quốc lập lại các hành động khiêu khích nhắm vào các hoạt động phát triển dầu khí trên biển của các nước khác,” Bộ Ngoại Giao Mỹ trả lời qua điện thư câu hỏi về sự hiện diện của tàu khảo sát địa chất Haiyang Dizhi 8 ở khu vực đặc quyền kinh tế của Malaysia. “Trung Quốc hãy chấm dứt cử chỉ bắt nạt và kiềm chế các hành động khiêu khích cũng như hoạt động gây bấn ổn.”

Trước khi tiến xuống vùng biển Malaysia, tàu Hải Dương (Haiyang Dizhi) 8 cùng nhóm tàu hộ tống đã đi qua vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những dữ liệu theo dõi vị trí tàu biển cho thấy phía Hà Nội cũng cho tàu bám theo quan sát.

Tàu hải cảnh Trung Quốc chận đường tàu cảnh sát biển Việt Nam khi hai bên đối đầu ở khu vực phía Nam đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa, hồi năm 2014. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP via Getty Images)

Hồi năm ngoái, đám tàu này quấy rối, khiêu khích hoạt động khai thác và dò tìm dầu khí của Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính, hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công Ước Quốc Tế Về Luật Biển (UNCLOS). Không những vậy, suốt khoảng thời gian hơn hai tháng, nhóm tàu vừa kể còn chạy ngang chạy dọc, tiến sâu vào gần bờ biển miền Trung Việt Nam nhưng chế độ Hà Nội chỉ cho mấy tàu hải cảnh theo dõi.

Bản tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Mỹ nói thêm rằng hành động của Bắc Kinh là đe dọa an ninh năng lượng ở khu vực cũng như làm tổn hại thị trường năng lượng vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và mở.

Cho đến Thứ Bảy, dựa trên dữ liệu theo dõi tàu biển quốc tế của tổ chức Marine Traffic, người ta vẫn thấy tàu Hải Dương 8 còn ở trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Malaysia. Đây là khu vực thềm lục địa gần với khu vực chồng lấn chủ quyền giữa Việt Nam với Malaysia nhưng lại cũng nằm trong mấy cái vạch nối lại giống hình “Lưỡi bò” mà Bắc Kinh ngang ngược tạo ra để tuyên bố chủ quyền.

Một nguồn tin an ninh của Malaysia nói với hãng tin Reuters rằng có lúc, tàu Hải Dương 8 được hơn 10 tàu của Trung Quốc hộ tống, gồm cả tàu hải cảnh và tàu “dân quân biển.” Đồng thời người ta cũng trông thấy cả một tàu của Việt Nam.

Trước đó, hôm Thứ Năm, 17 Tháng Tư, ghi nhận của tổ chức Marine Traffic thấy tàu Hải Dương 8 ở khu vực cách bờ biển Malaysia và Brunei khoảng 352 km. Tàu cảnh sát biển KM Pekan của Malaysia bám theo canh chừng. (TN) (Đ.D.)

Mỹ nói Trung Quốc nên ngừng 'hành vi bắt nạt' ở Biển Đông

19/04/2020 - voatiengviet

Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh: China Geological Survey)

Mỹ ngày thứ Bảy kêu gọi Trung Quốc ngừng “hành vi bắt nạt” ở Biển Đông và nói rằng Mỹ lo ngại trước các báo cáo về “những hành động khiêu khích” của Bắc Kinh nhắm vào các hoạt động phát triển dầu khí ngoài khơi ở vùng biển tranh chấp.

Ba nguồn tin an ninh khu vực nói với Reuters ngày thứ Sáu rằng một tàu khảo sát của chính phủ Trung Quốc đang đeo bám một tàu thăm dò do công ty dầu khí nhà nước Petronas của Malaysia vận hành ở vùng biển đó.

Tàu Hải dương Địa chất 8 trước đó trong tuần này đã được nhìn thấy ngoài khơi Việt Nam, nơi mà năm ngoái nó đã thực hiện các hoạt động nghi là khảo sát thăm dò dầu khí trong các khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

“Mỹ lo ngại trước các báo cáo về các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhắm vào việc phát triển dầu khí ngoài khơi của các quốc gia có tuyên bố chủ quyền khác,” Bộ Ngoại giao Mỹ nói trong một thông cáo gửi qua email cho Reuters trả lời câu hỏi về sự hiện diện của Hải dương Địa chất 8 ở vùng biển Malaysia.

“Trong trường hợp này, (Trung Quốc) nên chấm dứt hành vi bắt nạt của mình và không tham gia vào hoạt động khiêu khích và gây bất ổn kiểu này,” thông cáo nói.

Các hành động của Trung Quốc đe dọa an ninh năng lượng trong khu vực và làm suy yếu thị trường năng lượng Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở, thông cáo nói thêm.

Đầu tuần trước, khi tàu khảo sát này xuất hiện trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói con tàu đang tiến hành các hoạt động bình thường và cáo buộc các quan chức Mỹ bôi nhọ Bắc Kinh.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông giàu tài nguyên và cũng là một tuyến đường thương mại trọng yếu. Philippines, Brunei, Việt Nam, Malaysia và Đài Loan cũng có những tuyên bố chồng chéo.

🔝

August 24, 2019 - vietucnews

Thăm Việt Nam, Thủ tướng Úc gián tiếp lên án hành vi “bắt nạt” của Trung Quốc

VietucnewsThủ tướng Scott Morrison đã lên án các hành động cưỡng ép và đe dọa trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông khi ông đang có chuyến thăm chính thức tới Việt Nam.

Thủ tướng Morrison đã hạ cánh xuống Việt Nam vào chiều hôm thứ năm 22/8, trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên của Úc kể từ năm 1994 có chuyến thăm song phương chính thức tới Việt Nam.

Thủ tướng Morrison cùng phu nhân đã được chào đón long trọng ngay khi vừa hạ cánh xuống Hà Nội.

Tối 22-8, tại Hà Nội, Thủ tướng Scott Morrison đã gặp gỡ cộng đồng doanh nghiệp tiêu biểu hai nước, ông Morrison cho biết hai nước đều nhất trí với một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương cởi mở, hòa nhập và thịnh vượng.

“Một Ấn Độ-Thái Bình Dương nơi chúng ta tôn trọng chủ quyền và độc lập của nhau, bởi vì nếu chúng ta cho phép chủ quyền hoặc độc lập của bất kỳ nước láng giềng nào của mình phải chịu sự bắt nạn từ nước khác, thì tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng”, Thủ tướng Morrison nói vào tối thứ năm. Tuyên bố xuất hiện sau khi Mỹ cáo buộc Trung Quốc sử dụng biện pháp cưỡng ép với tính chất “bắt nạt kiểu nước lớn” khi tàu của họ vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

“Ở khu vực Đông Nam Á, chúng ta cần an ninh và hòa bình để duy trì sự thịnh vượng”, ông Morrison nói.

Chuyến thăm này diễn ra trong bối cảnh quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang ở trong tình trạng căng thẳng khi một tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc được hộ tống bởi nhiều tàu hải cảnh đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Ngài Thủ tướng đã không nhắc trực tiếp mà ám chỉ Trung Quốc – một động thái tương tự trong thông cáo chung với Nhật Bản và Hoa Kỳ về Biển Đông được công bố vào tháng trước.

Tuy nhiên, Thủ tướng Morrison đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của một Ấn Độ-Thái Bình Dương hòa bình để duy trì và tăng cường sự thịnh vượng trong khu vực.

“Một Ấn Độ-Thái Bình Dương nơi chúng ta tôn trọng chủ quyền và độc lập của nhau, bởi vì nếu chúng ta cho phép chủ quyền hoặc độc lập của bất kỳ nước láng giềng nào của mình phải chịu sự bắt nạn từ nước khác, thì tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng”, Thủ tướng Morrison nói vào tối thứ năm.

“Chúng ta đang sống trong một khu vực của các quốc gia độc lập có chủ quyền luôn có ý thức chống lại sự cưỡng ép và đe dọa từ bên ngoài, nhưng sẵn sàng đối thoại trên cơ sở lợi ích chung”, ông nói.

Thủ tướng Morrison nhấn mạnh rằng tham vọng và hành động là cần thiết để biến tiềm năng của Việt Nam thành hiện thực.

“Chúng ta là 2 quốc gia với thể chế chính trị khác nhau, ngôn ngữ khác nhau và nền văn hóa cũng rất khác nhau. Dù vậy, quan hệ đối tác giữa 2 nước đã phát triển một cách tốt đẹp”, ông nói.

Ông Morrison tuyên bố Úc sẽ đầu tư 5 triệu đô la trong 3 năm tới để thành lập Trung tâm trao đổi kiến ​​thức Việt – Úc.

Trung tâm sẽ dựa vào chuyên môn của Úc để phát triển năng lực lãnh đạo trong tương lai của Việt Nam trong nước và trên trường quốc tế trên các diễn đàn khu vực.

“Chúng ta đang sống trong một khu vực của các quốc gia độc lập có chủ quyền luôn có ý thức chống lại sự cưỡng ép và đe dọa từ bên ngoài, nhưng sẵn sàng đối thoại trên cơ sở lợi ích chung”, ông Morrison nói.

Đại diện của trường đại học Úc RMIT, ngân hàng ANZ và ông trùm lĩnh vực hậu cần Linfox cũng tham dự tiệc chiêu đãi.

Kim ngạch thương mại 2 chiều giữa Úc và Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ năm 2012, lên mức kỷ lục 14,5 tỷ đô la trong năm 2018.

Trước đó, Thủ tướng Morrison cùng phu nhân đã được chào đón long trọng ngay khi vừa hạ cánh xuống Hà Nội.

Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam Mai Tiến Dũng và đại sứ Úc tại Việt Nam Robyn Mudie cũng có mặt tại sân bay.

Sáng nay 23-8, lễ đón chính thức Thủ tướng Úc Scott Morrison đã được tổ chức trọng thể tại Phủ Chủ tịch, trước khi diễn ra 2 ngài Thủ tướng tiến hành hội đàm.




Sự kiện căng thẳng gần đây ở Biển Đông dự kiến ​​sẽ là một trong các vấn đề thảo luận nổi bật trong các cuộc gặp giữa phái đoàn 2 nước.

Nguồn: au.news.yahoo.com

🔝

20 tháng 7 2019 - BBC

Mỹ đòi TQ 'dừng thái độ bắt nạt' nước khác ở Biển Đông

Getty Images. Các lực lượng của Việt Nam hồi 5/2014 đã phải đối đầu với nhiều tàu thuyền Trung Quốc khi Bắc Kinh đưa Giàn khoan HD-981 vào vùng biển mà Việt Nam nói là thuộc lãnh thổ của mình

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm thứ Bảy 20/7/2019 lên tiếng trước các tường thuật có nội dung nói Trung Quốc can thiệp vào các hoạt động dầu khí tại Biển Đông, bao gồm cả các hoạt động thăm dò, khai thác mà Việt Nam đã tiến hành từ lâu nay.

"Các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhắm vào hoạt động dầu khí ngoài khơi của các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông đang đe dọa tới an ninh năng lượng khu vực và làm suy yếu thị trường năng lượng tự do và cởi mở tại Ấn Độ-Thái Bình Dương," Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói trong một tuyên bố.

Bộ Ngoại giao cũng nói rằng việc Trung Quốc gia tăng áp lực lên các nước ASEAN trong việc hạn chế quyền của các nước này trong việc hợp tác với các bên thứ ba cho thấy Bắc Kinh đang muốn xác quyết quyền kiểm soát của mình đối với các nguồn trữ liệu dầu khí tại Biển Đông.

Hồi tháng 3/2018, Việt Nam đã yêu cầu đối tác Repsol ngừng dự án ở lô 07/03 thuộc mỏ Cá Rồng Đỏ, ngoài khơi Vũng Tàu.

Giới quan sát khi đó cho rằng đây là vì sức ép của Trung Quốc.

Trước đó, vào tháng 7/2017, một dự án dầu khí quan trọng khác của Việt Nam ở Biển Đông, trong đó Repsol cũng là đối tác, cũng đã phải ngưng.

Tin cho hay giới lãnh đạo Repsol khi đó được chính phủ tại Hà Nội thông báo rằng Trung Quốc đã đe dọa sẽ tấn công các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu không dừng việc khoan thăm dò.

VN và TQ cáo buộc lẫn nhau 'vi phạm chủ quyền, quyền tài phán'

Việt Nam hôm thứ Sáu, 19/7, chính thức cáo buộc một tàu thăm dò khảo sát của Trung Quốc cùng các tàu hộ tống đã vi phạm chủ quyền với việc tiến vào vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa ở phía nam Biển Đông.

China Geological Survey. Sự hiện diện của tàu khảo sát của Trung Quốc trên lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông dẫn đến cuộc đối đầu

"Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên," phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói.

"Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực."

Trước đó, hôm 17/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã lên tiếng về cuộc căng thẳng hiện thời.

"Chúng tôi hy vọng phía Việt Nam thực sự tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại các vùng biển có liên quan và không có những hành động làm phức tạp tình hình," ông Cảnh Sảng nói tại cuộc họp báo định kỳ ở Bắc Kinh.

Tuy nhiên, cho đến nay, cả hai bên đều không trực tiếp đề cập tới Bãi Tư chính, tâm điểm của cuộc đối đầu hiện nay.

"Hoa Kỳ cương quyết phản đối việc o ép và hăm dọa từ bất kỳ bên nào nhằm xác quyết các tuyên bố của mình về lãnh thổ hay quyền trên biển," thông cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 20/7 nói.

"Trung Quốc cần phải dừng thái độ bắt nạt của mình và kiềm chế, không thực hiện kiểu hành động khiêu khích và gây bất ổn này," bản thông cáo nói thêm.

🔝

10/04/2015 - giaoduc

Tổng thống Obama: Trung Quốc bắt nạt các nước nhỏ ở Biển Đông

(GDVN) - Tổng thống Mỹ Barack Obama đã bày tỏ quan ngại về việc Trung Quốc "cậy lớn và dùng cơ bắp" để "bắt nạt" các nước nhỏ hơn trong khu vực Biển Đông.

Reuters ngày 9/4 đưa tin cho biết, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã bày tỏ quan ngại về việc Trung Quốc "cậy lớn và dùng cơ bắp" để "bắt nạt" các nước nhỏ hơn trong khu vực Biển Đông.

Tổng thống Mỹ Barack Obama.

Bình luận của ông được đưa ra sau khi Trung Quốc lên tiếng bảo vệ lập trường xây dựng các đảo nhân tạo (trái phép) ở Biển Đông của mình và nói rằng nó là cần thiết để bảo vệ chủ quyền (phi lý và sai trái - PV) của mình ở vùng biển giàu khoáng sản.

"Điều chúng tôi quan ngại là Trung Quốc không tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế và đang ỷ lớn và dùng cơ bắp để buộc các nước nhỏ phải phục tùng", ông Obama nói trong một sự kiện ở Jamaica trước thềm hội nghị thượng đỉnh các nước vùng Caribe, nơi ông hy vọng sẽ tái khẳng định sự lãnh đạo của Mỹ ở châu Mỹ Latinh.

"Chúng tôi nghĩ rằng vấn đề này có thể được giải quyết bằng con đường ngoại giao, nhưng chỉ vì Philippines hay Việt Nam nhỏ hơn Trung Quốc, không có nghĩa là họ có thể bị gạt sang một bên", ông Obama nói.

Quan điểm trên được Tổng thống Obama bày tỏ sau khi chính quyền Trung Quốc cùng ngày lên tiếng thừa nhận rằng các công trình cải tạo bãi đá trái phép tại khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam được sử dụng cho mục đích quân sự và các mục đích khác có lợi cho nước này. 

Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết hoạt động này đã khiến các nước khu vực lo lắng về tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc. Tổng thống Obama trong buổi trò chuyện với những người trẻ ở Jamaica nói rằng, Mỹ khuyến khích đầu tư của Trung Quốc trên toàn thế giới, nhưng các giao dịch cần phải lợi cho người dân của các quốc gia đó.

Nguyễn Hường

🔝