Vượt qua Việt
Nước Việt và thế giới
Hội nhập được thì cần gì Thoát Trung !
  ||   A   A   A   A  

Tổ chức chính trị người Việt hải ngoại (3)

Những suy nghĩ về đất nước

Những suy nghĩ về đất nước (phần 1)

03/07/2009 - danluan

Bằng Phong Đặng Văn Âu
Theo danchimviet.com

Lời mở đầu: Trăn trở theo vận nước điêu linh, người viết nghiêm chỉnh trình bày những suy nghĩ riêng tư với tinh thần trách nhiệm, chấp nhận những phản biện của bất cứ ai thực sự quan tâm đến vấn đề Đất Nước và sẵn sàng thảo luận để mưu tìm một đường lối khả thi, hiệu quả trong công cuộc tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ ở quê nhà.
"Bây giờ hai miền Nam Bắc đã thống nhất làm một, bất kể thống nhất theo kiểu nào, sự đấu tranh vì Tự Do – Dân Chủ của chúng ta là cho cả nước Việt Nam, chứ không phải chỉ riêng cho Miền Nam. Nhân dân Miền Bắc cũng có nhu cầu Tự Do – Dân Chủ, nếu chúng ta bắt buộc phải hát Quốc ca VNCH và chào lá Cờ Vàng trong các cuộc hội thảo về tiến trình dân chủ là vô tình chúng ta đã loại một nửa thành phần Dân Tộc ra khỏi công cuộc đấu tranh chung. Về vấn đề này, tôi mong mỏi các nhà tranh đấu vì Tự Do – Dân Chủ thực sự cho Việt Nam phải suy nghĩ sâu sắc để tầm nhìn không bị giới hạn. Cờ Vàng đã bị lạm dụng một cách quá đáng."

“Chủ nghĩa Cộng Sản là tai họa của Nhân loại”. Không phải người thua trận như tôi phát biểu câu nói đó. Quốc Hội Âu Châu với đa số tuyệt đối ra Nghị quyết với kết luận bằng câu nói ấy. Bởi vì cộng sản biểu hiện cho sự man trá, sự lừa đảo, sự bất nhân. Vậy thì, chống Cộng là nghĩa vụ rất bình thường của con người có lương tâm, không có gì ghê gớm để tự vỗ ngực khoe mình là người chống Cộng và không có gì tồi bại cho bằng con người phạm tội ác, chuyên lừa đảo, chuyên man trá lại chụp mũ người khác là cộng sản. Với nhận định này, tôi quan niệm một người không phạm vào tội ác, không lừa đảo, không man trá, sống lương thiện đã là người chống Cộng rồi.

Sau 30 Tháng Tư năm 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi vì không chấp nhận sống dưới chế độ cộng sản. Trong hơn 34 năm qua, ở hải ngoại đã có nhiều tổ chức, đoàn thể chống Cộng ra đời, nhưng tại sao chúng ta vẫn còn ở trong vòng lẩn quẩn chia rẽ, gấu ó lẫn nhau thì phải tự hỏi chúng ta đã phạm khuyết tật gì để khiến tình hình xảy ra nông nỗi này. Thử kiểm điểm một số hoạt động của lực lượng chống Cộng ở hải ngoại suốt 34 năm qua bằng thái độ tỉnh táo, không để cho tình cảm chi phối, vọng động, dám nhìn thẳng vào sự thật thì ta sẽ nhận biết nguyên do vì đâu.

Về Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam

Trước năm 1975, tôi không hề biết trong Quân chủng Hải Quân VNCH có vị Phó Đề đốc tên là Hoàng Cơ Minh. Cuối năm 1976, tại chung cư của tôi ở thành phố Arlington, Virginia có cuộc họp mặt của một nhóm người muốn làm “một cái gì đó” cho Việt Nam. Thành phần tham dự gồm:

- Lãnh đạo tinh thần: Thượng tọa Giác Đức, linh mục Trần duy Nhất.

- Dân sự: Lãnh tụ Đảng Đại Việt Hà Thúc Ký, cựu Dân biểu Nguyễn văn Kim, cựu Tổng trưởng Tài chánh Châu Kim Nhân, cụ bà Đức Thụ, cụ Chử Ngọc Liễn, Tham vụ Ngoại Giao Lê Chí Thảo, luật sư Đỗ Đức Hậu, giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, bà Lê thị Anh, sinh viên quốc gia tranh đấu Ngô vương Toại …

- Quân nhân: Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, Đại tá Nguyễn Hợp Đoàn, Trung tá Nguyễn văn Phán và tôi.

Sau hơn ba giờ đồng hồ thảo luận, chúng tôi quyết định thành lập Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền cho Việt Nam để phơi bày trước dư luận quốc tế về thảm trạng thuyền nhân. Để tránh cho mọi người mang cảm tưởng tôi mời đến họp tại nhà mình là có mưu toan gì cho cá nhân, tôi nhất định không đảm nhiệm một chức vụ gì trong Ủy Ban. Có thể nói, đó là tổ chức Nhân Quyền được hình thành sớm sủa nhất ở hải ngoại. Dù hoàn cảnh tài chánh khó khăn, vì phần lớn đều đi làm với đồng lương tối thiểu, chúng tôi đã thực hiện nhiều cuộc biểu tình trước Tòa Bạch Ốc, trước tiền đình Liên Hiệp Quốc, được đồng bào hưởng ứng hết sức nồng nhiệt.

Qua sinh hoạt, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh và tôi trở thành đôi bạn vong niên khá tương đắc. Bỏ lối xưng hô ông Tướng, tôi thân mật gọi ông Hoàng Cơ Minh là anh. Tôi bàn: “Có lẽ chúng ta không thể kéo dài tổ chức biểu tình đòi nhân quyền mãi được, vì chỉ có hiệu quả gây tiếng vang. Nhất định phải tiến hành tổ chức một đảng cách mạng để đấu tranh bằng vũ lực với kẻ thù, bởi vì căn cứ theo lời khẳng quyết của Trường Chinh Đặng Xuân Khu rằng Đảng CSVN cướp chính quyền bằng bạo lực thì Đảng CSVN sẽ bằng mọi giá giữ chính quyền bằng bạo lực". Cuộc thảo luận kéo dài hơn một tháng trời, nhưng chúng tôi không thể nào đi đến một điểm mấu chốt: Tôi chủ trương hoạt động bí mật với phương châm “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, chọn đối tượng một cách cẩn trọng để tránh tối đa bị đối phương xâm nhập. Anh Hoàng Cơ Minh chê cách xây dựng tổ chức của tôi sẽ mất quá nhiều thời gian. Anh đề nghị tôi bay sang Hawaii với anh, tìm một cánh rừng na ná miền nhiệt đới Đông Dương, quay phim hoạt cảnh sinh hoạt của kháng chiến quân, rồi đem về Hoa Kỳ chiếu cho đồng bào xem để vận động tài chánh. Tôi kêu lên: “Không thể làm như thế được đâu anh Minh. Một ngày nào đó người ta phát giác việc làm khuất tất của anh em mình, thì chỉ còn có nước chui xuống hang mà sống”. Thuyết phục tôi mãi không được, anh Minh giận dỗi đứng lên. Tôi nắm tay anh, nhỏ nhẹ nói: “Nếu cuộc đấu tranh này phải kéo dài hết đời mình, mình vẫn phải kiên nhẫn làm và truyền lại cho thế hệ mai sau, anh ạ! Dục tốc bất đạt!”. Anh Minh cười khẩy: “Cậu là con người lý thuyết, tôi là con người hành động. Cậu hãy ngồi đó mà lý thuyết!”. Nói xong, anh bỏ ra về. Lúc bấy giờ tôi cũng khá giận anh, vì nghĩ rằng anh cho tôi chết nhát, nên tôi nói với theo: “Làm như cách của anh, anh sẽ trở thành thảo khấu!

Được sự hỗ trợ của Richard Armitage, Thứ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, đặc trách Á Châu Sự Vụ, dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, trong công tác đi tìm người Mỹ mất tích ở chiến trường Đông Dương, anh Hoàng Cơ Minh dẫn đoàn chiến sĩ cách mạng Việt Nam lên đường đi Thái Lan. Ông Richard Armitage từng là Cố vấn cho Hải Quân Việt Nam, có vợ Việt nên nói được tiếng Việt. Ông Nguyễn Thanh Hoàng, chủ nhiệm tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong, gửi ký giả Hoàng Xuyên đi theo đoàn để làm phóng sự. Nếu không thông rõ nội vụ, ai đọc bài phóng sự của ông Hoàng Xuyên đều cảm thấy hào hứng, mừng rỡ vô cùng. Tôi nói cho ông Hoàng biết bài phóng sự của ký giả Hoàng Xuyên viết hấp dẫn, nhưng không phản ảnh đúng sự thật. Ông Hoàng không tin, cho rằng tôi có lòng đố kỵ.

Có một nhân vật đi theo đoàn, Đại tá Nguyễn Hữu Duệ – nguyên Tỉnh trưởng Thừa Thiên – cho tôi biết sự dàn cảnh quay phim Kháng Chiến quân để lộ nhiều sơ hở mà nếu kẻ nào tinh ý đều thấy. Anh Duệ là người sĩ quan rất thương yêu và kính trọng Tổng thống Ngô Đình Diệm. Anh Hoàng Cơ Minh từ “Khu Chiến” trở về Hoa Kỳ, tổ chức Đại hội Chính Nghĩa ở California, Texas, Virginia có xe cảnh sát chớp đèn, hụ còi hộ tống. Ai nấy đinh ninh Mặt Trận được Hoa Kỳ ủng hộ, chứ không biết rằng ở Mỹ hễ có tiền là có thể thuê cảnh sát hộ tống. Mọi người nô nức reo hò như thể chứng kiến đoàn quân giải phóng của Mặt Trận ca khúc khải hoàn giữa thủ đô Sài Gòn. Phong trào yểm trợ kháng chiến bùng lên như diều gặp gió. Anh Minh sai người đi mời tôi đến gặp anh, giống như anh muốn khoe sự nồng nhiệt ủng hộ của đồng bào. Tôi không đến, vì anh đã đăng quang, đội vương miện, chẳng lẽ gặp anh, tôi nói sớm muộn gì rồi anh sẽ bị rơi mặt nạ thì buồn lòng nhau biết mấy!

Một người anh thúc bá của tôi – Đặng Văn Đệ – đề nghị giới thiệu tôi với người đồng chí cũ từng lưu lạc sang Tầu, anh Phạm Văn Liễu. Tôi từ chối và nói cho ông anh họ biết Mặt Trận Kháng Chiến của anh Hoàng Cơ Minh là bịp, đã khiến cho anh Đặng Văn Đệ giận tôi một thời gian khá lâu, mãi cho đến khi Mặt Trận vỡ ra làm đôi thì anh Đệ mới hết giận tôi. Nhiều người tham gia Mặt Trận được tôi cho biết sự thật, cũng giận tôi, vì họ nghĩ rằng tôi dèm pha, nói xấu Mặt Trận. Ở đất nước tự do, kiểm chứng thông tin dễ dàng, nhưng người ta có xu hướng không dám nhìn vào sự thật, vì sợ vỡ mộng?! Đó là cái tâm lý giúp ta hiểu vì sao Hồ Chí Minh có thể đánh lừa cả nước.

Do nguồn yểm trợ tài chánh tuôn vào dồi dào, Mặt Trận vỡ ra làm đôi vì ăn không đồng, chia không đều? Anh Chín (bí danh của Chủ tịch Hoàng Cơ Minh) muốn chứng tỏ Mặt Trận là tổ chức kháng chiến thật, nên anh dẫn một đoàn cán bộ xâm nhập nội địa Việt Nam. Dường như có viên tình báo phản gián Việt Cộng tên Bùi Văn Nam Sơn xâm nhập vào tổ chức từ lâu mà Mặt Trận không hay biết. Tên này đã dẫn đường cho đoàn kháng chiến rơi vào ổ phục kích Việt Cộng. Trung tá Nhảy Dù Lê Hồng đến chào từ biệt tôi trước khi lên đường. Tôi đã hết lời khuyên can anh, nhưng chí Lê Hồng đã quyết, không thể thay đổi được. Tôi thương tiếc Lê Hồng xiết bao! Vì xốc nổi, đi ngược quy luật đấu tranh, anh Minh dấn thân vào chỗ chết đã đành, anh còn kéo theo nhiều đồng chí của anh chết thật oan uổng. Nhưng điều tệ hại hơn hết, Mặt Trận vẫn khai thác cái chết của anh để làm tiền. Theo tôi, anh Minh là con người lý tưởng, nuôi chí lớn, nhưng nóng vội để chứng tỏ mình là con người hành động. Một khuyết điểm nghiêm trọng là khi được tung hô, anh Minh quên những người quanh anh dám nói lời thật để cố vấn anh. Dù sao đã từng chia nhau điếu thuốc, gói mì, nằm đất với nhau, bàn tính cùng nhau mưu sự quang phục quê hương, anh Minh sai người tới gọi tôi lại là một kiểu cách trịch thượng.

Mặc dầu anh Hoàng Cơ Minh đã hy sinh trên vùng biên giới Thái – Lào, tờ báo Kháng Chiến của Mặt Trận vẫn tiếp tục đăng thư của chiến hữu Chủ tịch từ chiến khu quốc nội gửi ra thăm đồng bào và các cháu nhi đồng. Ngoài ra, tờ Kháng Chiến mỗi số đều phịa ra tin Kháng Chiến Quân đánh tan những đồn Công An của Việt Cộng để nhằm mục đích quyên tiền đồng bào yểm trợ kháng chiến. Ông Nguyễn Thanh Hoàng là người cực kỳ đa nghi mà bị cú lừa của Mặt Trận nên đau vô cùng. Tờ Văn Nghệ Tiền Phong với ngòi bút sắc, độc của Tú Rua Lê Triết đã “đánh” Mặt Trận tơi bời hoa lá. Chẳng bao lâu sau, vợ chồng Lê Triết bị bắn chết khi vừa mở cửa xe hơi đỗ trước sân nhà. Đó là sự bạo hành hết sức hèn mọn. Báo chí Hải Ngoại im rơ, không dám hé răng. Cho đến khi Việt Cộng mở cửa cho “Việt Kiều” về thăm nhà, sự bịp bợm không thể kéo dài, Mặt Trận mới chịu giải tán và đặt ra tổ chức khác có danh xưng Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (gọi tắt: Việt Tân). Một đảng chính trị thoát thai từ một Mặt Trận lừa bịp đồng bào thì lấy gì bảo đảm Việt Tân không tiếp tục lừa bịp đồng bào? Tôi viết lên điều này để cảnh tỉnh những người Việt có lòng đừng mê muội mà tiếp tay với TỘI ÁC.

Mặt Trận Hoàng Cơ Minh có một số hành vi khá giống Đảng Cộng Sản Việt Nam. Về hình thức, Chủ tịch thay hình đổi dạng, để râu dê giống ông Hồ, mặc đồ bà ba quấn khăn rằn giống Nguyễn Thị Định. Về phương pháp khủng bố, Mặt Trận có toán trừng giới K-9 để thanh toán kẻ nào lên tiếng công kích Mặt Trận. Nhà báo, nhà văn nào viết bài phơi bày sự thật đều bị giết chết một cách thê thảm. Có lẽ cơ quan an ninh cảnh sát Hoa Kỳ chẳng quan tâm đến chuyện giữa người Việt với nhau, nên tất cả các vụ án mạng không thủ phạm nào bị phát giác. Lợi khí đi làm tiền là Cờ Vàng dán trên các cái lon để lây lất ở chợ búa, hiệu ăn và các cơ sở thương mại. Nhờ giỏi lừa bịp đồng bào, tiền đẻ ra tiền qua các dịch vụ kinh tài, Việt Tân là đảng chính trị có nguồn tài chánh dồi dào hơn tất cả các đảng chính trị khác. Việt Tân trả lương cho cán bộ, lập ra nhiều đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí, trang Web được phủ che bằng lá Cờ Vàng làm bùa hộ mạng. Cơ sở ngoại vi nhiều đến độ không ai biết hết được. Những thành phần cốt cán của Mặt Trận mà chúng ta có thể tin là người quốc gia như các ông Nguyễn Kim Huờn, bác sĩ Trần Xuân Ninh, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa đều lần lượt bị đẩy ra khỏi Việt Tân để nhường chỗ cho ông Tổng Bí thư Lý Thái Hùng không ai có thể xác định nguồn gốc. Các ông Nguyễn Kim Huờn, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Xuân Ninh là những người nằm trong gan ruột của Mặt Trận, phải có trách nhiệm nói lên Sự Thật. Nếu một ngày nào đó Việt Tân trở thành Đảng Đối Lập Cuội của Việt Nam Cộng Sản thì các ông này chính là kẻ tiếp tay cho TỘI ÁC.

Về Hội Đoàn Quân Đội

Hội đoàn Quân Đội không thể là một đoàn thể chính trị. Tôi đã khẳng định điều này bằng nhiều bài viết từ thế kỷ trước. Bởi vì đoàn thể chính trị có Cương Lĩnh, Tuyên Ngôn và kết nạp đối tượng đảng viên theo một tiêu chuẩn nào đó. Trong khi ấy, Hội đoàn Quân Đội là nơi quy tụ những quân nhân có chung mầu cờ sắc áo của Quân, Binh chủng, đơn vị, quân trường … Ví dụ hội Không Quân đều đón nhận bất cứ người Không Quân nào, bất kể cấp bực, dĩ vãng, đạo đức. Hội không thể viện lý do anh Trần văn Xoài chỉ biết nịnh bợ xếp để xin đi sang Air Việt Nam lái tầu bay dân sự lắm tiền, khi thấy địch trang bị hỏa tiễn phòng không SA-7, rồi xin trở lại KQ để từ chối đương sự gia nhập Hội. Hoặc anh KQ Nguyễn văn Mít trước kia coi kho xăng, thường chở cả xe bồn xăng đi bán, cũng phải được Hội chào đón. Thậm chí, kể cả anh em quyết ở lại nước sau 30 Tháng 4 vì tin tưởng Mặt Trận Giải Phòng Mìền Nam, khi sang Mỹ còn được Hội nồng nhiệt tiếp đón. Ngoài ra, hội viên của Hội có những thành viên thuộc đảng tịch chính trị khác nhau hoặc không ưa chính trị, mà ông Hội trưởng dẫn dắt hội viên vào đường chính trị thì chắc chắn sẽ gây phân hóa, chia rẽ. Hội trưởng được bầu chọn là vì người ấy chấp nhận hy sinh “vác ngà voi”, chứ không phải là người có khả năng chính trị. Ngay như có vị từng đảm trách cương vị đứng đầu Quân chủng trước kia cũng không có khả năng điều hành trôi chảy một cuộc đầu phiếu, thì nói chi đến việc lãnh đạo Hội làm chính trị? Đoàn thể chính trị cần thống nhất tư tưởng để thống nhất hành động và chịu sự lãnh đạo của lãnh tụ. Hội đoàn Quân đội chỉ lấy lập trường Chống Cộng chung chung và thành viên muốn đến với Hội thì đến hoặc muốn đi thì đi. Hội trưởng không phải là lãnh tụ. Cho nên khi được bầu làm Hội trưởng, tôi yêu cầu hủy bỏ tiết mục Chế Tài trong Nội Quy. Nói tóm lại, Hội đoàn Quân Đội là hội ái hữu, tương thân tương trợ có tính cách thù tạc nhiều hơn là sự giúp đỡ đời sống vật chất thường nhật, vì đã có cơ quan xã hội (welfare) của chính phủ đảm trách rồi. Từng là trưởng ban tổ chức Đêm Không Gian “hoành tráng”, bây giờ nghĩ lại tôi tự cảm thấy thèn thẹn, vì cử hành chào cờ hát quốc ca xong, rồi quay ra ăn nhậu, nhảy đầm thì thật là khôi hài.

Tuy nhiên, chính trị bao trùm mọi mặt của đời sống: văn hóa, xã hội, khoa học … Thậm chí một người nào đó nói “tôi không làm chính trị” cũng đã là làm chính trị rồi! Vậy thì anh em quân nhân có cùng quan điểm, lập trường, ý chí đứng ra thành lập một đoàn thể chính trị cho riêng mình thì được; nhưng lấy danh xưng của Quân Đội để khoác cho đoàn thể của mình là không nên. Trường hợp điển hình mới đây nhất là ở San José, Tập Thể Chiến Sĩ và Liên Hội Cựu Quân Nhân cử hành Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu trong hai ngày khác nhau tại cùng một địa điểm, vì một bên chống cô Nghị viên Madison Nguyễn và một bên bênh cô Madison Nguyễn là bằng chứng hùng hồn nhất cho khẳng định trên.

Về Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa

Năm 2003, một nhóm vài trăm quân nhân họp nhau lại và tự đặt cho mình cái tên “Đại Hội Toàn Quân” là một sự tiếm dụng danh nghĩa không thể chấp nhận được. Điều tệ hại hơn nữa, Đại Hội lại chọn một vị giáo sư đã rời hàng ngũ từ lâu, chưa hề tác chiến, làm thủ lãnh thì hết nước nói. Lãnh đạo một Tập Thể phải là người từng lăn lộn sống chết với anh em, nếu không có cái uy do thành tích chiến đấu mang lại, thì tối thiểu ông ta phải là người có “máu” nhà binh, nhân dáng nhà binh, nói năng hùng hồn và lập luận vững chắc. Ông Chủ tịch Tập Thể Chiến sĩ không chịu nhìn nhận mình là Đại tá Cựu Tư Lệnh KQ, lại xưng là Giáo sư thì chứng tỏ ông coi khinh đám lính võ biền dưới tay thấy rõ. Ở Phi châu, nước Libya có ông Đại tá tên là Momar Khadafi làm Tổng thống dưới tay có nhiều Tướng lãnh phục vụ đấy thôi. Do không có thành tích quân sự và bản tính ông Vinh nhát sợ vì khi được chính phủ VNCH mời về làm Bộ trưởng mà nghe đêm đêm Việt Cộng pháo kích vào Sàigòn, ông đã quay trở lại Hoa Kỳ, nên ông chỉ đặt trọng tâm hoạt động của Tập Thể trong việc hiếu hỉ, quan hôn, tang tế, hô hào mặc quân phục và … ngồi xe bỏ mui để được vệ sĩ hộ tống là điều đương nhiên. Con người chỉ chuộng hình thức, ưa kẻ khác tâng bốc nhằng, ông Vinh đang dẫn dắt Tập Thể đi theo chiều hướng “Lễ Hội” nổi đình nổi đám cờ quạt, hơn là thực sự đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ ở quê nhà.

Giữa ông Nguyễn Xuân Vinh và tôi không có vấn đề tư thù cá nhân như một ông sĩ quan KQ cố tình đánh lạc hướng. Trái lại giữa hai chúng tôi từng có mối giao tình, vì ông Vinh đã ca ngợi tôi trong một tác phẩm của ông. Bây giờ ông Vinh là khuôn mặt quần chúng, tôi có nghĩa vụ đề nghị Tập Thể Chiến Sĩ phải xét lại người lãnh đạo của họ để những chiến sĩ đã nằm xuống không tủi hổ vong linh.

Không hiểu do vận nước hay cơ trời hành hạ cái dân tộc này, văn đàn Đồng Tâm xuất bản một số báo tôn vinh ông Nguyễn Xuân Vinh là một nhân vật “Văn Võ Toàn Tài” mà bất cần khảo sát thành tích của đương sự. Về nghiệp Văn, ông Vinh chỉ viết một vài tác phẩm làng nhàng với mục đích đề cao cá nhân (Cái Tôi), không hề có tư tưởng cải tạo xã hội hay xây dựng tư duy quần chúng trong sự nghiệp đấu tranh về quyền con người. Về nghiệp Võ, ông Vinh được làm Tư Lệnh không do thành tích chiến đấu; là phi công, ông Vinh chưa hề được xác định hành quân, chỉ do tài “khéo léo” để được ông Đỗ Mậu – Quân ủy Cần Lao – tiến cử lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sự tâng bốc ông Nguyễn Xuân Vinh thành một nhân vật “Văn Võ Toàn Tài”, là tự đánh giá thấp danh xưng Văn Đàn và gián tiếp khinh miệt chiến sĩ có dự mưu. Bởi vì danh hiệu Văn Đàn chắc phải là nơi quy tụ của những con người có trình độ văn hóa cao, không thể hành động lấy lòng một cách bừa bãi để tổn thương một Quân Đội từng chiến đấu cho tự do của Miền Nam.

Về Hội Đồng Tướng Lãnh

Hiệp định Genève năm 1954, các thế lực quốc tế chia Việt Nam ra làm hai nước: Bắc Vỹ tuyến 17 là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; Nam Vỹ tuyến 17 là nước Việt Nam Cộng Hòa. Sau 30 Tháng 4, nước Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ, các cơ chế hành chánh, quân sự không còn. Quan to cũng như lính quèn đều là người tị nạn chính trị. Đó là một thực tế không cần luận bàn. Ông Tướng có binh quyền trong tay thì có quyền hành. Ông Tướng mất binh quyền thì cũng giống như anh Binh Nhì mà thôi. Nếu anh em cựu quân nhân còn nghĩ tới chút tình chiến hữu, các ông Tướng do tuổi cao, chức lớn có thể tạo cái UY cho mình giống như bậc Tiên Chỉ trong làng. Cái UY lớn hơn cái Quyền. Chẳng hạn, công nhân bến tàu Anh Quốc đình công, chính phủ thương lượng không xong. Cựu Thủ tướng Winston Churchill, mặc dầu không còn là Thủ tướng, nhưng ông đích thân kêu gọi công nhân trở lại làm việc, vì tàu bè là nguồn sống của đảo quốc. Các công nhân vui vẻ trở lại làm việc là do cái UY của ông. Lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam có QUYỀN mà không có UY, vì họ là những kẻ bội tín, bị dân khinh.

Suốt thời gian 34 năm qua, các ông Tướng không có một động thái nào để tạo cái UY cho mình mà mang danh xưng Hội Đồng Tướng Lãnh là cả một sự khôi hài. Giá như khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan bị bọn phản chiến Mỹ đòi trục xuất ông ra khỏi nước mà các Tuớng Lãnh đều đồng loạt ký vào affidavit để xin tòa bãi nại, thì cái UY của Tướng sẽ có. Giá như khi biết Tướng Hoàng Cơ Minh đã chết và Mặt Trận vẫn tiếp tục đánh lừa đồng bào, các Tướng phải yêu cầu Mặt Trận làm truy điệu đúng lễ nghi quân cách của vị Tướng đã hy sinh vì Đất Nước, thì cái UY của Tướng sẽ có. Giá như khi thấy ông cựu Đại tướng Quốc trưởng Nguyễn Khánh “bị” chính phủ lưu vong Nguyễn Hữu Chánh phong cho cái hàm Quốc trưởng mang hia đội mão, các ông Tướng đứng ra khuyên ông Đại tướng đừng làm trò hề khiến anh em binh sĩ bị nhục lây, thì cái UY của Tướng sẽ có. Giá như các ông Tướng tham gia vào công tác cựu trợ thuyền nhân chìm nổi ngoài Biển Đông, thì cái UY của Tướng sẽ có.

Tôi tin chắc rằng có nhiều cựu chiến sĩ như tôi không biết Hội Đồng Tướng Lãnh gồm những vị nào và ai là người đứng đầu Hội Đồng đó. Mới đây, ở San Jose, Hội Đồng Tướng Lãnh cử Đại tá Trần thanh Điền đến đọc diễn văn trong dịp cử hành Ngày Quân Lực 19 Tháng 6 do một bên tổ chức là sai nguyên tắc đoàn kết. Theo thiển ý, vai trò Hội Đồng Tướng Lãnh là “hòa hợp, hòa giải” sự xung đột giữa các hội đoàn quân nhân, chứ không thể cử người đại diện của mình đi đọc diễn văn cho một phía. Nếu tôi nói các Tướng Lãnh trong Hội Đồng đã không ý thức giá trị thực của mình sau khi mất nước, lại hành xử kém cỏi không đủ tầm cỡ làm Tướng, thì sẽ có người cho tôi ngạo mạn? Nhưng thực tế là thực tế! Trong quá khứ, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, các Tướng đua nhau chỉnh lý, đảo chánh đã làm xấu đi hình ảnh Tướng trong lòng nhân dân và ngay cả trong lòng quân nhân. Đó là chưa kể có Tướng tham nhũng, lính ma lính kiểng, chứa bạc và Tướng Tư lệnh Tiền phương bỏ chạy trước quân lính.

Về vai trò báo chí, truyền thông

Hơn ai hết, người làm công tác truyền thông có lương tâm mang một trọng trách, một sứ mạng lớn hơn tất cả các ngành nghề khác. Bác sĩ lầm lỗi chỉ có thể giết chết một con bệnh. Người làm công tác truyền thông loan tin với dụng ý xuyên tạc ảnh hưởng dư luận đám đông, có thể giết chết nhiều người. Dám mang trên mình cái “sứ mạng” thì dám đối diện SỰ THẬT dù có thể nguy hại đến bản thân. Ở nước tự do, quyền tự do ngôn luận được tôn trọng thì không lý do gì để sợ hãi SỰ THẬT như sống dưới chế độ độc tài toàn trị. Nhà văn Đào Vũ Anh Hùng, một cựu thành viên của Mặt Trận, nhìn thấy sự lừa đảo, bịp bợm của Mặt Trận, can đảm viết bài “Vàng Rơi Không Tiếc” gửi các báo, không báo nào dám đăng, ngoại trừ giai phầm Lý Tưởng của Không Quân. Khi một thành viên trong ban biên tập Lý Tưởng bị Mặt Trận chụp mũ cộng sản, gây nên cái chết oan ức cho người chiến sĩ từng chinh Nam phạt Bắc Phạm Đăng Cường, thì không một báo nào lên tiếng hài tội Mặt Trận. Phải chăng cái chết của ký giả Đạm Phong, của vợ chồng Lê Triết, của nhà văn Duyên Anh vì dám tố cáo sự gian trá, lừa đảo, bịp bợm của Mặt Trận đã khiến cho báo chí hải ngoại sợ hãi mà đành câm nín? Thế thì báo chí hải ngoại ồn ào lên án CSVN bịt mồm Cha Lý, bỏ tù người bất đồng chính kíến có chút giá trị nào không? Hay chỉ dám “chửi” cộng sản, vì đang sống ở hải ngoại? Một điều tệ hại hơn hết là nhiều vị chủ báo cho đăng bài không cần kiểm chứng để hạ uy tín, thanh danh người khác và khi nạn nhân gửi lời yêu cầu đòi cải chính thì tảng lờ làm như không nhận được sự khiếu nại. Hành động ấy có khác gì CSVN không cần cứu xét đơn khiếu kiện của dân oan? Nhận định của tôi là báo chí hải ngoại đã không làm tròn chức năng của truyền thông. Báo chỉ đăng bài hợp với thị hiếu quần chúng để câu độc giả. Người làm báo có quyền khai thác thông tin từ mọi phía. Việc gì ông chủ báo Người Việt Đỗ Ngọc Yến phải bí mật tiếp xúc với Nguyễn Tấn Dũng để ngày nay bị biểu tình đả đảo?

Về chiến dịch cờ vàng

Bất luận ai đã chiến đấu dưới ngọn Cờ Vàng đều yêu qúy và tôn trọng Cờ Vàng. Chỉ có bọn con buôn chính trị mới dùng Cờ Vàng dán trên Thùng Tiền Chính Nghĩa như trong vụ Hồ Anh Tuấn chống Trần Trường hoặc Cờ Vàng dán lên Lon Lạc Quyên như Mặt Trận Kháng Chiến của HCM để làm tiền một cách bẩn thỉu. Nếu thực lòng yêu quý ngọn Cờ Vàng, chúng ta phải có nghĩa vụ cấm ngăn, triệt hạ bọn lợi dụng Cờ Vàng vì mục tiêu bất chính. Khi còn nước Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta chiến đấu dưới ngọn Cờ Vàng để bảo vệ sự Tự Do – Dân Chủ của Miền Nam. Bây giờ hai miền Nam Bắc đã thống nhất làm một, bất kể thống nhất theo kiểu nào, sự đấu tranh vì Tự Do – Dân Chủ của chúng ta là cho cả nước Việt Nam, chứ không phải chỉ riêng cho Miền Nam. Nhân dân Miền Bắc cũng có nhu cầu Tự Do – Dân Chủ, nếu chúng ta bắt buộc phải hát Quốc ca VNCH và chào lá Cờ Vàng trong các cuộc hội thảo về tiến trình dân chủ là vô tình chúng ta đã loại một nửa thành phần Dân Tộc ra khỏi công cuộc đấu tranh chung. Về vấn đề này, tôi mong mỏi các nhà tranh đấu vì Tự Do – Dân Chủ thực sự cho Việt Nam phải suy nghĩ sâu sắc để tầm nhìn không bị giới hạn. Cờ Vàng đã bị lạm dụng một cách quá đáng.

Thời gian qua, chiến dịch Cờ Vàng được phát động rầm rộ, người Việt chống Cộng cảm thấy hân hoan, tự ái được vuốt ve. Nhưng đừng quên rằng dẫu cho ngọn Cờ Vàng được tất cả những quận hạt trên nước Mỹ thừa nhận, thì số phận của đồng bào mình trong nước vẫn không thay đổi. Vậy thì không nên nhọc công, phí sức vì cảm tính được thỏa mãn, mà quên mục tiêu của công cuộc đấu tranh cho một Việt Nam Tự Do, Dân Chủ, Phú Cường là chủ yếu. Động cơ đấu tranh của người cộng sản là căm thù, động cơ đấu tranh của người Việt hải ngoài là do lòng thương yêu số phận cơ cực, nhục nhằn của đồng bào trong nước. Nơi nào có đàn áp, nơi đó có nổi dậy. Ở đây, chúng ta không bị ai đàn áp, không có lý do nổi dậy thì cuộc đấu tranh của ta phải sáng ngời chính nghĩa, nhất định không phạm vào tội ác hay đồng lõa với tội ác. Chụp mũ cộng sản bừa bãi là hành vi của tội ác.

* * *

Nêu lên những khuyết tật của hàng ngũ Chống Cộng, tôi không hề có chủ đích vạch áo cho kẻ thù xem lưng, mà nhằm mục đích đề nghị mỗi người hãy nhìn lại bản thân để công cuộc đấu tranh cho Tự Do – Dân Chủ ở quê nhà có kết quả. Kẻ thù nhìn thấy rõ lưng chúng ta hơn chính chúng ta, họ quá biết bản chất háo danh, chuộng hình thức, ưa mặc áo thụng vái nhau của lớp người tị nạn, nên họ đã thành công trong việc khai thác các khuyết tật của chúng ta để biến chúng ta thành những diễn viên phường chèo, làm trò giễu dở, vô duyên. Nhân dân Việt Nam đã khốn khổ lắm rồi, xin những ai còn có chút lương tri, có tấm lòng thì đừng khiêu vũ trên thân xác còm cõi của đồng bào. Mượn đầu heo để nấu cháo là hành động bất nhân, bất nghĩa.

Trong bài viết tới, tôi sẽ trình bày quan điểm của tôi về công cuộc đấu tranh cho tương lai Việt Nam mà tôi chủ quan tin rằng những ai chân thành muốn dấn thân vào sự nghiệp dân chủ hóa Đất Nước sẽ chấp nhận.

Viết xong ngày 1 tháng 7 năm 2009, ngày kỷ niệm thành lập KQVNCH.

Những suy nghĩ về đất nước (phần 2)

danluan

Bằng Phong Đặng Văn Âu
Theo Thông Luận

Lời mở đầu: Trăn trở theo vận nước điêu linh, người viết nghiêm chỉnh trình bày những suy nghĩ riêng tư với tinh thần trách nhiệm, chấp nhận những phản biện của bất cứ ai thực sự quan tâm đến vấn đề Đất Nước và sẵn sang thảo luận để mưu tìm một đường lối khả thi, hiệu quả trong công cuộc tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ ở quê nhà. Trang mạng, báo chí, cá nhân toàn quyền sử dụng bài viết.

… Liệu người Việt Nam chúng ta có đủ lòng yêu nước, có đủ dũng cảm, có đủ trí tuệ để vượt lên trên ý thức hệ, trên tham vọng của cải, tiền bạc để cứu lấy giang sơn này hay không? …

Khi lưu lại địa chỉ email của mình trong bài viết, tôi có ý muốn lắng nghe những tiếng dội từ phía độc giả còn “ưu thời mẫn thế” vọng lại để thăm dò tâm tư của khối đa số thầm lặng nghĩ gì về Đất Nước. Qua lời mở đầu bài viết, tôi dùng chữ “thảo luận” là để bàn bạc một cách thân tình giữa những người còn quyến luyến, yêu thương nòi giống Việt với ý hướng xây dựng, mà không dùng chữ “tranh luận” để giành phần thắng, lẽ phải một chiều về phía mình. Từ khi bài viết được phát tán đến độc giả bốn phương, được các trang mạng đứng đắn phổ biến, tôi chưa nhận một thư nặc danh nào có lời lẽ bất xứng. Đó là triệu chứng đáng mừng. Tôi coi đó là dấu hiệu trưởng thành, chấp nhận đối thoại.

Chưa bao giờ tôi cảm thấy khích lệ vì nhận được rất nhiều lời động viên, cổ võ chân tình như mới đây. Nhiều độc giả tỏ ra hài lòng vì tôi đã nói giùm cho họ những điều mà từ lâu họ muốn nói. Một vài độc giả trách tôi tại sao chỉ nói lên những điều tiêu cực, mà không thấy đưa ra một lời giải nào cho bài toán Đất Nước. Sở dĩ phê bình như vậy, có lẽ độc giả không đọc hết bài viết, vì ở cuối bài tôi đã nói rõ rằng tôi sẽ trình bày đề nghị của tôi vào bài viết tới. Cũng có một vài người nghi ngờ tôi có ý đồ gì đó cho một chủ đích nào đó mà hãy còn giấu cái đuôi (!).

Tôi cho rằng sự ngờ vực, sự thắc mắc của độc giả là chính đáng. Bởi vì chúng ta đang sống trong một thời đại của “nhân danh”, mà khi nhìn thấy kết quả của “nhân danh” đó mang lại là những điều dối trá. Cộng Sản nhân danh giải phóng dân tộc thoát ra khỏi cảnh đời nô lệ bằng chiêu bài “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” thì nay không ai nhìn thấy độc lập, tự do, hạnh phúc đâu cả. Quốc Gia nhân danh chống Cộng bằng chiêu bài “Chính Nghĩa Dân Tộc” thì nay dân tộc đang lưu lạc, tứ tán khắp quả địa cầu. Nếu tin tưởng một cách mãnh liệt Chính Nghĩa Dân Tộc thì tại sao không nhìn thấy hiểm hoạ Cộng Sản để đoàn kết với nhau cho có sức mạnh nhằm bảo vệ phần đất Miền Nam? Phật Giáo chiếm 80% dân số, được xem là lực lượng đông đảo thì phân ra ít nhất làm hai: Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự, gây rối liên tục. Thiên Chúa Giáo cũng có thành phần linh mục đi với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Hai đảng chính trị Đại Việt và Quốc Dân Đảng có thành tích chống Cộng lâu đời nhất thì mỗi đảng đều có nhiều hệ phái khác nhau, chống đối lẫn nhau còn hơn chống Cộng. Tướng lãnh cầm đầu một lực lượng quân sự thiện chiến nhất thì chia bè, chia cánh để đảo chính, chỉnh lý nhau liên tục. Tha thiết vói chính nghĩa dân tộc, tại sao lại mua quan bán chức, nhận hối lộ? Lẽ ra, sau cuộc thất trận Tháng Tư 1975, nếu ai còn yêu quý cái “Chính Nghĩa Dân Tộc” thì phải biết quay mặt vào tường, cúi đầu tạ lỗi với Tổ Tiên để sám hối và nguyện từ bỏ thói hư tật xấu (nạn chia rẽ) là nguyên nhân Miền Nam sụp đổ. Khi nói như vậy, tôi cũng nhìn nhận mình có tội với Tổ Tiên vì đã không chiến đấu 100 phần 100 cho Tổ Quốc; chứ không có nghĩa là tôi chỉ biết lên án người khác.

Đa số thư do bạn đọc gửi tới, khen tôi can đảm, dám nói ra Sự Thật. Xin nói rõ, không phải làm bộ nhún nhường đâu nhé, tôi chẳng cảm thấy can đảm chút nào khi nói lên Sự Thật ở tại xứ sở Tự Do. Nếu tôi ở trong nước, dưới chế độ độc tài toàn trị cộng sản, có thể tôi không dám nói Sự Thật vì sợ nguy hiểm cho bản thân, cho gia đình. Vì không chấp nhận sống hèn, tôi phải lìa Đất Nước để phiêu giạt đến phương trời vô định. Do đó, khi đã đến được xứ sở tự do rồi, tại sao tôi phải sống hèn mà không dám nói lên Sự Thật? Chính vì quan niệm như thế, tôi đã quyết định đăng bài “Vàng Rơi Không Tiếc” của phi công Đào Vũ Anh Hùng vạch trần sự lừa đảo, gian dối của Mật Trận HCM nhân danh “Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam”. Dù bị những cú điện thoại không tên gọi đến nhà hăm doạ, khủng bố vợ con, tôi vẫn không lùi bước. Tôi đã thực hiện một số báo Thần Phong để tố giác những việc làm sai trái của Mặt Trận HCM, mặc dầu trước đó nhà văn, nhà báo nào động đến Mặt Trận đều bị giết chết hoặc bị hành hung. Đó là trường hợp ký giả Đạm Phong, Lê Triết, nhà văn Duyên Anh, nhà tranh đấu Nguyễn Gia Kiểng. Vì không có đủ chứng cớ, tôi không nói Mặt Trận HCM là thủ phạm giết người, hành hung.

Vì không ở vào hoàn cảnh của tôi, quý độc giả không thể tưởng tượng ra nổi sự khủng bố của Mặt Trận HCM kinh khiếp đến múc nào. Sự khủng bố không bằng vũ khí, nhưng bằng những cú điện thoại vô danh liên tục ngày đêm đe doạ tinh thần đến nỗi phi công Phạm Đăng Cường, người từng lao mình vào lửa đạn phòng không địch phải tuẫn tiết vì bị chụp mũ cộng sản; đến nỗi toàn thể chiến sĩ Không Quân tại thành phố Houston đều im lặng và để mặc một mình tôi đương đầu, dù tất cả hội viên KQ đều đồng ý câu “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè” làm tiêu chí trên giai phẩm Lý Tưởng.

Tôi có thể nói: “Nếu Hoa Kỳ ném tất cả những người Việt tị nạn cộng sản vào một hoang đảo, cung cấp cho thức ăn, nước uống và phương tiện sinh sống, tự cai quản lấy thì người Việt tị nạn sẽ bị Mặt Trận HCM thống trị không khác gì bọn cầm quyền cộng sản trong nước”. May mà chúng ta được luật pháp và cơ quan an ninh của Hoa Kỳ bảo vệ. Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng trên sự lừa đảo, dối trá, khủng bố, đàn áp đưa đến một đất nước tan hoang, đạo đức suy đồi, nô lệ ngoại bang. Việt Tân là một tên mới của Mặt Trận HCM, một tổ chức đấu tranh mang danh nghĩa “Quốc Gia” cũng xây dựng trên sự lừa đảo, dối trá, khủng bố thì chắc chắn Việt Nam cũng sẽ lãnh hậu quả không khác gì hiện nay, nếu Việt Tân có cơ hội cầm quyền. Điều tôi nói là sự cảnh báo cho người nào có lòng yêu nước, nhưng nhẹ dạ, hãy thức tỉnh. Đối với người nào có “ăn chịu” với Mặt Trận HCM để giành miếng đỉnh chung, hy vọng trở thành “đại gia” như cộng sản ngày nay thì sẽ tìm cách “đánh” tôi bằng cách bôi nhọ, chụp mũ hay bạo hành. Tôi chấp nhận, vì đó là cái giá phải trả để đối diện với Sự Thật. Một lần nữa tôi kêu gọi ai đã toa rập với Mặt Trận trong sự ăn gian, nói dối hãy bước ra ánh sáng để tố cáo hành vi của Mặt Trận mà nay Việt Tân đang kế tục. Cựu Trung tá Phi công Nguyễn Kim Huờn còn nợ Đào Vũ Anh Hùng và anh em Không Quân một thư phúc đáp về những câu hỏi trong “Vàng Rơi Không Tiếc” và về cái chết của phi công Phạm Đăng Cường. Anh có thấy im lặng là hèn nhát không?

Độc giả thắc mắc tại sao tôi dám động chạm đến những vấn đề “nhạy cảm” như Mặt Trận HCM, Cờ Vàng, Tập Thể Chiến Sĩ, Hội Đồng Tướng Lãnh ư? Xin trả lời: Tại vì tôi có hoàn cảnh và điều kiện:

1/ Khi nghe tin hai người bác và một người chú bị nhục mạ, đánh đập và bỏ đói cho tới chết trong Cải Cách Ruộng Đất vào năm 1953, tôi thề sẽ không bao giờ đội trời chung với cộng sản. Giá như bác, chú tôi là những tham quan ô lại, hà hiếp dân lành, tay sai Thực dân mà bị giết cho cam. Hai bác tôi, một người – Tham tri Đặng Văn Oánh – được Việt Minh mời làm Chủ tịch Mặt Trận Liên Việt ở Liên Khu Tư; một người – Thượng thư Đặng Văn Hướng – được Hồ Chí Minh mời làm Bộ trưởng trong chính phủ Liên Hiệp. Vì cần tạo uy tín, Hồ Chí Minh chọn những khoa bảng được nhân dân yêu quý, có tinh thần yêu nước như cụ Huỳnh Thúc Kháng vào Mặt Trận hay Chính Phủ. Lúc kháng chiến chưa thành, Hồ đã vâng lệnh Mao Trạch Đông thi hành một chủ trương bất nhân, vô đạo tru diệt người hiền tài. Vì vậy, tôi đã nhìn thấy bộ mặt thật của cộng sản rất sớm sủa. Lúc nào có dịp, tôi đều nhắc nhớ đến bác tôi để phục hồi danh dự của bác với lịch sử, để con cháu đừng bao giờ quên tai hoạ cộng sản.

2/ Khi đang học Đệ Nhị trường Quốc Học Huế, tôi được ba tổ chức Đảng muốn kết nạp. Có lẽ tại vì họ thấy tôi thường tỏ thái độ căm ghét cộng sản chăng? Tôi không gia nhập Cần Lao vì nghe người cán bộ đảng này hứa hẹn nếu vào Đảng thì sẽ được Đảng cho đi học ngoại quốc. Chưa gì đã đem miếng mồi “đặc quyền” để dụ, khiến tôi khinh. Tôi tham gia Đảng Đại Việt vì nhận thấy người cán bộ tổ chức này “có dáng” hơn anh cán bộ của Quốc Dân Đảng; chứ không phải vì tôi có đủ trình độ hiểu biết để đánh giá chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn của Trương Tử Anh hay hơn chủ thuyết của Nguyễn Thái Học. Ngày tuyên thệ vào Đảng, sau phần nghi thức, anh cán bộ phụ trách kỷ luật đưa cao khẩu súng Colt trước mặt tôi và nói: “Kể từ giờ phút này đồng chí là đảng viên của Đảng Đại Việt. Đồng chí có nghĩa vụ tuân hành nghiêm chỉnh kỷ luật Đảng. Nếu đồng chí phản Đảng thì khẩu súng này sẽ trừng trị đồng chí”. Tôi nhìn thẳng vào mặt người bí thư chi bộ và nói: “Tôi xin cam kết tuyệt đối trung thành với Đảng, nhưng một ngày nào đó Đảng phản lại quyền lợi của Tổ Quốc, tôi sẽ là người trừng trị Đảng”. Có lẽ chưa bao giờ nghe lời nói “ngỗ nghịch” của một tân đảng viên như tôi, anh bí thư chi bộ vỗ vai tôi trấn an: “Đồng chí yên tâm, Đại Việt không bao giờ phản lại quyền lợi Tổ Quốc”. Tôi coi Đảng chỉ là phương tiện để chống độc tài cộng sản. Tổ Quóc mới là đối tượng phục vụ.

Lénine nói: “Tổ chức, tổ chức, tổ chức. Không có tổ chức là không có gì cả”, tôi cho rằng đó là câu nói đúng. Đấu tranh mà không có tổ chức thì sẽ không có sức mạnh. Nhưng khi vào Quân Đội, tôi không sinh hoạt Đảng, vì Quân Đội đã là tổ chức và tôi nghĩ rằng quân nhân không nên làm chính trị. Tôi đâm đơn vào Không Quân, chẳng phải do lòng yêu nước, mà vì cái thói lãng mạn, ưa giang hồ vặt. Gia nhập đảng chính trị mà không làm chính trị, có lẽ độc giả khó tin. Ý tôi muốn nói, tôi không “vịn” vào chính trị để tiến thân.

Sau cuộc Cách mạng 1 tháng 11 năm 1963, Chủ tịch Hà Thúc Ký ra khỏi tù. Tôi đến thăm ông không phải vì danh nghĩa đồng chí, mà vì ông là người thân trong gia đình. Ông là bạn hoạt động chống Pháp thời sinh viên với các anh tôi ở trường Cao đẳng Hà Nội và năm 1963 tôi mới biết mặt vị Chủ tịch Đảng của mình. Tôi cho ông biết tôi là đảng viên Đại Việt, được kết nạp ở Huế, nhưng từ khi gia nhập Quân Đội thì tôi không còn sinh hoạt chi bộ. Cụ Ký thương tôi như một cậu em trong gia đình, bảo tôi đến làm việc trực tiếp với Cụ. Nhiệm vụ chủ yếu của tôi là thông dịch mỗi khi Cụ tiếp xúc với người Mỹ, tu chỉnh tài liệu học tập cho đảng viên. Một lần Cụ Ký hỏi tôi: “Cậu có muốn ra dân biểu không? Ta sẽ đưa cậu ra”. Được vị Chủ tịch tín cẩn, đưa ra ứng cử ở địa phương có ảnh hưởng mạnh của Đảng thì cơ hội trúng cử sẽ rất cao, nhưng tôi từ chối: “Xin anh hãy chọn người có công với Đảng để anh em khác khỏi phân bì. Em thích lái máy bay hơn. Vả lại, ở lãnh vực nào thì em cũng đều phục vụ Đất Nước”. Người thay thế tôi ở địa phương do Cụ Ký chỉ định đã trúng cử. Từ đó, Cụ Ký vốn có lòng thương mến tôi lại càng nể “thằng em” biết điều. Phải nói tôi thuộc loại C.O.C.C (tức là Con Ông Cháu Cha) vì có mấy người anh bà con làm Thủ tướng, Thượng Nghị sĩ, nhưng không bao giờ đi cửa … hậu để hưởng đặc quyền. Trung tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Quân Đoàn, thường hỏi “chú mày” có cần gì anh giúp không, thì tôi chỉ cười và nói cảm ơn. Tôi từng tham dự các chiến trường ác liệt sôi động nội địa, ngoại biên như Krek, Kongpong Chàm, Kongpong Thom, Kongpong Speu, Bastogne, Daksut, Dakto ... thoát chết nhiều lần. Sợ thì có sợ, nhưng chưa hề nghĩ đến chạy chọt để bảo vệ Chữ Thọ. Chẳng phải anh hùng gì, chỉ ngại bị anh em đồng đội khinh thường. Phần lớn những đồng đội của tôi mới xứng đáng là anh hùng.

3/ Sau khi không đồng ý phương thức tổ chức đấu tranh chống Cộng của Phó Đề độc Hoàng Cơ Minh, chúng tôi ban đầu gồm bốn người – Cụ Hà Thúc Ký, cựu Thương Nghị Sĩ Đoàn Văn Cầu, cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Kim và tôi – bí mật thành lập một tổ chức có danh xưng Mặt Trận Việt Nam Tự Do nhằm đoàn kết tất cả các xu hướng chính trị Quốc gia, chứ không phải chỉ có đảng viên Đại Việt. Cụ Hà Thúc Ký là Chủ tịch, Nghị sĩ Đoàn Văn Cầu là Phó Chủ tịch đặc trách Tuyên huấn, Dân biểu Nguyễn Văn Kim là Phó Chủ tịch đặc trách Tổ chức, còn tôi không giữ một chức vụ nào cả, ngoại trừ phụ tá cho Tuyên huấn và Tổ chức. Tức là vừa góp sức vào viết tài liệu học tập cho cán bộ vừa đi tìm đối tượng có lòng yêu nước, có lý tưởng để phát triển tổ chức. Kể ra như thế để độc giả hiểu rằng tôi chỉ mong làm được việc, không cần phải có danh, có chức vụ. Nhờ tài hùng biện, nhờ dám thoát ly gia đình, dấn thân cho cách mạng toàn thời gian, Dân biểu Nguyễn Văn Kim đã phát triển Mặt Trận Việt Nam Tự Do khắp Hoa Kỳ, một số thành phố có đông người Việt ở Gia-nã-đại và một số quốc gia Âu Châu. Có một vài phần tử mang danh nghĩa chống Cộng, vì quen thói đố kỵ, đã chụp mũ cộng sản lên đầu Nguyễn Văn Kim. Tôi hết sức khinh miệt cái hạng chống Cộng kiểu đó. Thân sinh Dân biểu Nguyễn Văn Kim làm Tri huyện dưới triều Nguyễn – cùng quê Nghệ An với tôi – bị cộng sản đấu tố cho tới chết. Tuy còn là cậu bé, Nguyễn Văn Kim (tên thật là Tú) đã lén mang xác bố về chôn cất một nơi, rồi tìm đường vượt tuyến vào Nam và tham gia một đảng chống Cộng – Đại Việt. Là người được trời phú cho khoa ăn nói lưu loát, lý luận vững vàng, cuộc sống đạm bạc, kham khổ, trong sạch, Nguyễn Văn Kim bị các đối thủ chính trị thù ghét. Bọn này không đủ trí tuệ để tranh luận ở nghị trường, đã chụp cho Nguyễn Văn Kim cái mũ cộng sản. Tiếc thay! Nguyễn Văn Kim vắn số. Anh mất đi khiến cho Mặt Trận Việt Nam Tự Do và hàng ngũ chống Cộng mất đi một chiến sĩ tài ba.

4/ Năm 1985, tôi tháp tùng Cụ Hà Thúc Ký, anh Nguyễn Văn Kim về Thái Lan, tiếp xúc với một số Tướng lãnh Thái để đặt một đầu cầu đưa cán bộ xâm nhập nội địa nhằm xây dựng hạ tầng cơ sở. Chúng tôi đến tận vùng biên giới thanh sát địa điểm, nhưng cuối cùng hủy bỏ dự tính lập đầu cầu vì nhận thấy các Tướng lãnh Thái Lan chỉ muốn biến chúng tôi thành thứ lính đánh thuê canh giữ an ninh vùng biên giới cho họ. Hơn nữa, vào thời điểm ấy, CSVN đã có thái độ hoà hoãn với 6 quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong đó có Thái Lan, cho nên Thái Lan vì quyền lợi có thể bán đứng chúng tôi cho cộng sản. Cuối cùng, Mặt Trận Việt Nam Tự Do (VNTD) quay về đường hướng cũ, nghĩa là tiếp tục kết nạp đoàn viên, xây dựng cơ sở kinh tài, phát triển ngoại vi. Khi Việt Nam mở cửa, chúng tôi gửi cán bộ về nước bằng đường du lịch để móc nối với đảng viên Đại Việt cũ đều bị Công An cộng sản bắt trọn, đã khiến cho Mặt Trận khựng lại. Cứ chừng ấy công tác, không có công tác nào cụ thể gây niềm hào hứng, khiến cho đoàn viên càng ngày càng nản chí, tự ý nghỉ sinh hoạt khá nhiều. Có thể nói sự bế tắc đường lối của MTVNTD cũng là bế tắc chung của những đoàn thể đấu tranh cách mạng ở hải ngoại. Kể từ đó, tôi không còn nghĩ tới bạo lực cách mạng nữa, mà phải đi vào con đường đấu tranh chính trị công khai với kẻ thù. Tôi đề nghị với cụ Ký và anh Kim thành lập cơ sở ngoại vi quy tụ tầng lớp trí thức trẻ, có lòng yêu nước để xây dựng “đội ngũ chất xám” cho công cuộc đấu tranh chính trị trong tương lai khi tình thế cho phép. Thí điểm đầu tiên là Hội Văn Hoá Khoa Học tại thành phố Houston. Hội vẫn còn hoạt động rất tốt cho tới hôm nay và đã tạo được tiếng tốt trong cộng đồng.

5/ Năm 1989 bức tường Bá Linh sụp đổ; năm 1991 Xô-Viết tan rã, một số cựu đảng viên Đại Việt trong nước được sang Hoa Kỳ theo diện H.O. Cụ Hà Thúc Ký bắt liên lạc với các đồng chí cũ, bí mật tái lập Đại Việt Cách Mạng mà không cho Ban Chấp hành Trung Ương của Mặt Trận VNTD biết, đã làm cho các thành viên không có gốc Đại Việt bất mãn, bắt đầu sinh hoạt nội bộ lơ là. Cựu Đại sứ Bùi Diễm, đảng viên Đại Việt lão thành, nhưng từ sau 1975 không sinh hoạt trong MTVNTD của cụ Hà Thúc Ký cũng như trong Liên Minh Dân Chủ của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, nhận thấy tình hình thế giới thay đổi, đã đem hết tài ngoại giao để thuyết phục các đảng viên cao cấp Đại Việt thuộc tất cả các hệ phái kết hợp với nhau để tạo sức mạnh khi có hoàn cảnh thương thuyết với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Một cuộc họp thống nhất Đại Việt hết sức cảm động đã diễn ra ở vùng Vịnh San Francisco, Bắc California vào ngày 28 tháng 5 năm 1988 tại nhà đồng chí Nguyễn Quang Vĩnh, người bạn cùng khoá Không Quân của tôi, gồm có các đồng chí (theo thứ tự ABC): Nguyễn Văn Ánh, Nguyễn Văn Canh, Bùi Diễm, Đặng Văn Đệ, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Ngọc Huy, Hà Thúc Ký, Cung Đình Quỳ, Đặng Văn Sung, Đào Nhật Tiến, Lê Tấn Trạng và tôi. Sau phần nghi thức khai mạc trước bàn thờ Tổ Quốc có trưng bày di ảnh cố Đảng trưởng Trương Tử Anh, mọi người trở về bàn an vị. Cụ Cung Đình Quỳ mặc dầu cấp bộ trong Đảng thấp hơn các đồng chí Nguyễn Tôn Hoàn, Đặng văn Sung, Hà Thúc Ký, Nguyễn Ngọc Huy…, nhưng là đồng chí cao niên nhất (92 tuổi) được phát biểu đầu tiên. Đó là một lão trượng quắc thước, Cụ Quỳ dõng dạc hùng hồn, lên án sự mất đoàn kết giữa những đảng viên cao cấp. Nghe Cụ Quỳ nói mà tôi tưởng chừng như Đảng trưởng Trương Tử Anh hiện hồn về hài tội mấy đồng chí từng tuyên thệ dưới lá cờ Đảng năm xưa. Các anh Sung, Diễm, Hoàn, Huy, Ký, Đệ, Tiến đều rưng rưng nước mắt tỏ ra cực kỳ thống hối vì đã chia rẽ nhau để cho Miền Nam rơi vào tay cộng sản. Nói lời cuối cùng, Cụ Quỳ kết luận: “Kể từ nay, tôi mong các đồng chí phải nhất tâm đoàn kết để phất ngọn “Cờ Đại Việt” giải phóng quê hương!”. Tuy không có tiếng vỗ tay rào rạt tán thưởng, mỗi đồng chí cao cấp đều bắt tay nhau cam kết sẽ dốc lòng tận tụy đến hơi thở cuối cùng để không hổ thẹn với vong linh Đảng trưởng dưới suối vàng. Sau đó, mỗi đồng chí phát biểu cảm tưởng của mình theo thâm niên trong đảng. Các đồng chí ở vị trí lãnh đạo hệ phái đều bày tỏ niềm ăn năn, hối hận vì đã chia rẽ nhau, vì thiếu cảm thông nhau. Đến lượt tôi phát biểu (trước đồng chí Lê Tấn Trạng, Nguyễn Văn Ánh vì thâm niên tuổi đảng hơn) đại ý như sau: “Tôi hết sức sung sướng được chứng kiến những cái bắt tay đoàn kết của các đồng chí niên trưởng. Thế hệ chúng tôi giống như một đàn con có cha mẹ ly dị nhau, theo cha thì mẹ buồn, theo mẹ thì cha không vui. Cùng mang danh đảng viên Đại Việt mà tôi thì thuộc cánh anh Hà Thúc Ký, còn anh Nguyễn Quang Vĩnh – gia chủ ngôi nhà này – cùng khoá Không Quân với tôi thì thuộc cánh anh Huy cũng đâm ra không thoải mái, thường có thái độ như cảnh giác, đề phòng nhau. Giọng nói của đồng chí niên trưởng Cung Đình Quỳ nghe như hồn thiêng sông núi vọng về, tuy nhiên có một điểm mà tôi không tán đồng…” Nói đến đó, tôi ngưng khoảng 30 giây, những đồng chí cao niên lo lắng đợi chờ tôi sắp sửa nói không tán đồng điều gì. Tôi tiếp: “Tại sao đồng chí niên trưởng không yêu cầu tất cả đảng viên Đại Việt quyết tâm phất ngọn “Cờ Dân Tộc” để cùng các đảng phái bạn như Quốc Dân Đảng, Duy Dân, Dân Xã … và ngay cả với Cần Lao là đảng đã từng cầm tù đồng chí của ta, mà chỉ nói đến ngọn “Cờ Đại Việt?”. Lời phát biểu chí tình của tôi gây ngạc nhiên cho các đồng chí hiện diện không ít, nhưng ai có thể phản bác điều tôi nói? Tôi luôn luôn nghĩ công cuộc cứu quốc là trách nhiệm của mọi người, mọi đảng. Vì thế tôi kính trọng và ủng hộ những ai thực lòng tranh đấu cho tự do xứ sở (dù ở đảng nào), chứ không một chút vị kỷ, tị hiềm vì họ không thuộc tổ chức mình. Tôi còn nêu ra nhiều khuyết tật trong sinh hoạt đảng, như vấn đề đảng viên của anh Huy thì đa số là người Nam; đảng viên của anh Ký thì đa số là người Trung, điều đó chứng tỏ chúng ta đã không thi hành đúng với tinh thần chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn do Đảng trưởng đề ra. Có phải Đảng mình chống Pháp mà đầu óc vẫn còn bị Pháp gieo mầm chia rẽ Nam Bắc?

Tới giờ giải lao, đồng chí Đặng Văn Sung với tư cách là ông anh thúc bá, quở trách tôi: “Chú mày đúng là dân nhà binh, chú mày nói vậy làm buồn lòng Cụ Quỳ, anh Ký, anh Huy lắm đấy!”. Không dám vô lễ phản đối sự khiển trách của anh mình, nhưng tôi nhận thấy cái tinh thần cục bộ “vì đảng, cho đảng” là không đúng; mà phải là “vì dân, cho dân”. Tuy im lặng nhưng thâm tâm tôi thầm nghĩ rằng nếu mai này đảng Đại Việt giành được thắng lợi thì kịch bản đảng tranh không thể tránh khỏi. Có thể vì lời phát biểu của tôi mà sau cuộc họp “kết hợp” sơ bộ đó, các đồng chí cao niên trong đảng họp hành gì với nhau không cho tôi biết nữa. Thẳng mực tầu thì đau lòng gỗ, nói năng khẳng khái thì khó làm vừa lòng người nghe! Cho nên, tôi thích cuộc đời bay bổng hơn là nhảy ra làm chính trị, không phù hợp với cái bản chất “nhà binh” của mình.

6/ Trong buổi họp hành quân thi hành chiến dịch cầu không vận tiếp tế Ban Mê Thuột, sau phần thuyết trình khí tượng, quân báo, kỹ thuật hợp đoàn, Trung tá Tư Lệnh Không Đoàn hất hàm hỏi ai có ý kiến gì không. Một Trung uý hoa tiêu trẻ tuổi, đưa tay xin phép phát biểu: “Tôi không thấy có ý kiến gì về đặc lệnh hành quân, tuy nhiên tôi muốn hỏi tại sao không lấy tên chiến dịch là một vị anh hùng trong lịch sử, mà lại lấy tên chiến dịch là “Kỳ Duyên Mai”, tên của Tướng Kỳ, con gái và vợ ghép lại? Cuộc chiến đấu của ta không thuần là quân sự, mà còn cả tâm lý nữa. Kẻ thù sẽ lợi dụng phản tuyên truyền mà cho rằng chúng ta đang phục vụ cho một cá nhân, chứ không phục vụ cho quyền lợi dân tộc!”. Gương mặt vị chỉ huy đanh lại, cả phòng họp bỗng nhiên im lặng. Tôi có cảm giác như bị một quả đấm thoi vào người khi Trung tá Tư Lệnh quát: “Anh ngồi xuống đi!”. Từ đó anh em trong đơn vị đặt cho tôi cái hỗn danh Đặng Văn Ẩu (Âu thêm dấu hỏi), vì dám đặt câu hỏi với vị chỉ huy mà ai ai cũng sợ. Nói lên điều công ích có thể chối tai người nghe, dễ bị trù yểm, nhưng tôi vẫn nói, vì từ thuở đi học tôi đã mê và thuộc lòng bài thơ “Lời Mẹ Dặn” của Phùng Quán.

7/ Khi đọc tin trên báo, tôi mới biết đảng Đại Việt đã kết hợp xong và hai đồng chí Hà Thúc Ký, Nguyễn Tôn Hoàn chia nhau nắm giữ chức vụ “Đồng Chủ Tịch”. Bỏ tờ báo xuống mặt bàn, lòng tôi ngao ngán. Những người như anh Ký, anh Hoàn tham gia sinh hoạt đảng từ thời chống thực dân Pháp, từng vào tù dưới chế độ độc tài, tôi tưởng các anh coi nhẹ đường công danh, xem hạnh phúc đồng bào là trọng. Một câu hỏi thoáng qua trong đầu: “Tại sao hai anh không thể nhường nhau để một người làm Chủ Tịch và một người làm Phó Chủ Tịch, có phải đẹp hơn không?”. Đồng chí Lê Quang Lưỡng, cựu Tướng Tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, đảng viên Đại Việt thuộc cánh giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, gọi điện thoại cho tôi và nói như khóc trong máy, cùng có chung một nỗi buồn như tôi. Thế là hai chúng tôi đồng lòng âm thầm ly khai khỏi đảng mà không một ai biết chúng tôi ra khỏi đảng, trừ trong nội bộ. Anh Lưỡng cũng từng về Thái Lan, tìm địa bàn để lập đầu cầu xâm nhập nội địa.

Trong cuộc đời binh nghiệp và hoạt động cách mạng, tôi đã nếm trải những vui buồn với đồng đội, với đồng chí. Bây giờ ở tuổi thất thập, không còn mơ chuyện lấp bể vá trời, vì sức tàn lực kiệt, trí tuệ cùn mòn. Cố gắng nói lên điều gì chỉ là phản ảnh tâm tư còn trăn trở với vận nước, không nhằm xúc phạm ai hoặc tâng bốc ai. Và chẳng ai có thể cám dỗ tôi bằng tiền bạc hay mỹ nhân kế, bởi vì tôi không có nhu cầu vật chất và chưa hề đặt chân về Việt Nam để bị Nhà Nước Việt Cộng cấy “sinh tử phù”.

* * *

Dù sang dù hèn, dù trí thức hay thất phu, ai ai cũng có một lý lịch. Tôi trình bày lý lịch của tôi để chứng minh điều tôi nói ở trên: “Tại vì tôi có hoàn cảnh và điều kiện”.

Là một Phật tử và lại là cựu đảng viên Đại Việt – đảng chống chế độ Ngô Đình Diệm – tôi lên án bọn Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đội lốt Phật giáo làm loạn gây nên cuộc biến động Miền Trung, thì họ không thể quy cho tôi là Cần Lao Công Giáo. Đó là hoàn cảnh.

Là người lính từng đem mạng sống của mình để bảo vệ Lá Cờ Vàng, tôi không mang mặc cảm của kẻ trốn quân dịch, phản chiến, đào ngũ để sợ ai nghi ngờ sự tôn trọng của mình đối với Lá Cờ Vàng. Tôi thẳng thắn nói lên chính kiến của mình để ngăn bọn con buôn chính trị lạm dụng Lá Cờ Vàng vì mục đích làm tiền bẩn thỉu hay núp bóng. Đó là điều kiện.

Lá Cờ Vàng là bảo vật thiêng liêng vì đã khiến cho vô số chiến sĩ Quốc Gia đã không tiếc máu xương để bảo vệ. Hãnh diện biết bao khi thấy Lá Cờ Vàng tung bay trở lại trên kỳ đài Cố Đô Huế sau khi Quân Đội của ta tái chiếm! Tự hào đến ứa nước mắt khi thấy Lá Cờ Vàng tung bay trên Cổ Thành Quảng Trị bằng máu xương của những chiến sĩ hào hùng Thủy Quân Lục Chiến VNCH! Càng hãnh diện, tự hào về Lá Cờ Vàng bao nhiêu thì càng căm ghét bọn “Xôi Thịt”, bọn con buôn chính trị lạm dụng Lá Cờ Vàng bấy nhiêu! Ngày nay, bảo vật thiêng liêng đó không còn được Quốc Tế công nhận thì đau lòng lắm, chỉ còn biết hành xử như bậc quân vương than thở: “Đập cổ kính ra tìm thấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi” và tâm niệm với lòng sẽ tận lực góp sức đấu tranh vì Tự Do, Dân Chủ cho Việt Nam để không phụ vong linh những chiến sĩ đã bỏ mình vì Lá Cờ Vàng.

Chính trị gia Hoa Kỳ rất thực tiễn. Họ không tiếc gì một chữ ký thừa nhận Lá Cờ Vàng để đổi lại lá phiếu cử tri người Mỹ gốc Việt. Do đó, dù Lá Cờ Vàng tung bay khắp nước Mỹ thì chỉ có tính trình diễn, còn số phận đồng bào trong nước vẫn không thay đổi.

Theo tôi, cha mẹ đã khuất, con cái hoà thuận, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, sống lương thiện là cách để báo hiếu công đức sinh thành dưỡng dục. Tương tự, Lá Cờ Vàng không còn được quốc tế nhìn nhận, kẻ nào đã phụng sự Lá Cờ Vàng, coi Lá Cờ Vàng là biểu tượng Tự Do thì hãy thương yêu, đùm bọc, nâng đỡ, dìu dắt nhau, làm rạng danh nòi giống Việt trên thế giới là cách bày tỏ sự tôn kính Lá Cờ Vàng. Bao lâu Lá Cờ Vàng phất lên ra hiệu lệnh mà tất cả người Việt tị nạn cộng sản bốn phương răm rắp tuân thủ thì Cờ Vàng là vũ khi. Bao lâu chúng ta có thể đòi hỏi thay lá Cờ Đỏ Sao Vàng trước tiền đình Liên Hiệp Quốc bằng Lá Cờ Vàng thì mới coi đó là thắng lợi. Chính trị gia Hoa Kỳ rất thực tiễn. Họ không tiếc gì một chữ ký thừa nhận Lá Cờ Vàng để đổi lại lá phiếu cử tri người Mỹ gốc Việt. Do đó, dù Lá Cờ Vàng tung bay khắp nước Mỹ thì chỉ có tính trình diễn, còn số phận đồng bào trong nước vẫn không thay đổi.

Bỏ nước ra đi tìm tự do, không phải ai ai cũng tâm niệm làm một điều gì để cứu nguy đồng bào mình. Thậm chí hưởng lạc, du hí, quay lưng trước nỗi khổ của đồng bào đi nữa thì cũng chẳng ai được quyền phê phán. Nhưng về Việt Nam dùng tiến mua thân xác gái trẻ nghèo khổ vào hàng con cháu, lừa đảo, khai man lý lịch thì đừng làm bộ chống Cộng ồn ào khi trở ra hải ngoại. Ít ra cũng cần có sự lương thiện tối thiểu để làm người tử tế. Phải chăng có những nhóm người chống Cộng nham nhở hiện nay vì tuân theo sự chỉ đạo của Công An trong nước để làm rối loạn Cộng Đồng? Có những phần tử suốt ngày ở trong bốn bức tường, có máy điều hoà không khí, ngồi trước màn hình máy vi tính, viết những bài chống Cộng rất nẩy lửa thể theo thị hiếu quần chúng để được đánh giá là người có tinh thần chống Cộng cao, làm bộ như mình là người thực sự yêu nước thương nòi! Bao lâu trong xã hội người Việt tị nạn cộng sản còn những hạng người như thế, Cộng Đồng còn bị chia rẽ trầm trọng. Nói thế này thì nghe ra có vẻ phũ phàng, nhưng trong thực tế có một hạng người chống Cộng ở hải ngoại rất lo sợ chế độ cộng sản sụp đổ, vì như thế thì họ sẽ không có chỗ đứng trong cộng đồng.

Tôi quan niệm rằng người Việt hải ngoại đấu tranh là để thay đổi số phận đồng bào cơ cực trong nước, chứ không phải là để tạo một phòng tuyến phi Cộng sản ở cái xứ sở mà Hiến pháp tại quốc gia sở tại không đặt chủ nghĩa cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Nếu cứ nhất thiết lập phòng tuyến phi cộng sản thì cái phòng tuyến đó đang bị vỡ. Tôi biết có những “đại gia” trong nước ra ngoài này mua nhà cửa, cơ sở thương mại và được những nhà địa ốc nổi tiếng chống Cộng phục vụ khách hàng hết sức cần mẫn. Tại sao lại vừa giả bộ chống Cộng, vừa ra sức hản mã phục vụ như thế? Có phải vì hèn không?

Vậy ai là người có thể làm chuyện thay đổi chế độ trong nước? Năm 1995, trong phiên họp Ban Chấp hành Hội Ái Hữu Không Quân tại Houston, với tư cách Hội trưởng tôi đề nghị như sau: “Mặc dầu Hội ta chỉ là Hội Ái Hữu, nhưng vẫn có thể đóng góp vào sự thay đổi Đất Nước được. Nhận thấy hiện nay có nhiều du sinh trong nước sang học ở các Đại học tại thành phố này, chúng ta nên khuyên con cái chúng ta tiếp cận đám du sinh ấy, mời họ đến tham dự các buổi sinh hoạt ngoài trời (picnic) hoặc các buổi họp mặt văn nghệ để dần dà chuyển hướng tư duy của họ. Đó là cách để cho cho họ thấy các bác, các chú trong Quân Lực VNCH không phải là những phần tử ác ôn, có nợ máu với nhân dân như họ thường bị nhồi sọ, tuyên truyền. Tôi tin rằng những du sinh đó sẽ là những người thay đổi chế độ trong nước”. Anh em Hội viên cho rằng cái đề nghị của tôi quá táo bạo, thế nào những phần tử chống Cộng trong Cộng Đồng sẽ lên án chúng ta làm lợi cho Cộng Sản. Một tiếng nói cảnh giác tôi: “Anh nên nhớ du sinh là con ông cháu cha của chế độ. Ta đâu có thể giúp cho chúng lại tiếp tục ngồi trên đầu trên cổ đồng bào ta?”. Tôi lập luận: “Mặc dầu tôi thường xuyên đem những bài học về quê hương, dân tộc ra giảng dạy con cái, nhưng tôi thấy khó lòng mà chúng sẽ trở về giúp xứ sở, bởi vì sau khi ra trường chúng mắc nhiều thứ nợ, nào nợ xe, nợ nhà, nào nợ vay tiền học, rồi lập gia đình. Chúng sẽ biến thành tù nhân những tài sản thủ đắc, mà tôi nghĩ con cái của các anh chị cũng thế. Khi xưa, các anh em trong họ hàng của tôi đều học trường Pháp do Thực dân đào tạo, nhưng khi phong trào giành độc lập nổi lên, các anh em trong họ hàng tôi đều lên đường đánh Pháp. Tôi đã đọc những bài viết của con cái cán bộ cao cấp Cộng Sản. Họ cũng muốn Đất Nước thay đổi”. Dù dẫn chứng bằng những sự kiện lịch sử, tôi vẫn không thuyết phục được, vì anh em hội viên ngại bị chụp mũ tiếp tay cộng sản.

Đã gọi là đấu tranh chính trị thì phải tiếp cận (approach, engage) đối thủ, bởi vì nguyên tắc cơ bản của chính trị là thương thuyết để đi đến thỏa hiệp. Nếu nói ta chưa thể thương thuyết với đối thủ được vì ta quá yếu thì còn nghe được. Phải ý thức như vậy để tự lo vun bồi nội lực, gạt bỏ những hình thức phù phiếm hời hợt vinh danh, xưng tụng lẫn nhau để thỏa mãn về cái hào quang của dĩ vãng. Một dân tộc chỉ hồi tưởng quá khứ thi dân tộc đó không có tương lai.

Nhân đây tôi xin kể hầu bạn đọc một kinh nghiệm bản thân. Năm 1973, tôi được lệnh bay ra Lộc Ninh để đón phái đoàn Uỷ ban Liên Hợp Quân Sự về Trại David trong Tân Sơn Nhất. Di chuyển phi cơ vào bến đậu cạnh Phi đoàn, các cán bộ cộng sản bước ra khỏi máy bay. Nhìn thấy một dọc xe gắn máy Honda, xe hơi đậu trước Phi đoàn, anh cán bộ trưởng toán cất tiếng: “Chà! Khéo trình diễn nhẩy!”. Tôi hỏi: “Anh nói cái gì? Khéo trình diễn cái gì?” Anh cán bộ hất hàm về phía dẫy xe, nói: “Các anh đem các xe gắn máy, xe hơi ra đậu trước Phi đoàn là để hoa mắt chúng tôi, chứ gì nữa!” Nghe giọng nói anh cán bộ cộng sản, tôi hơi cáu: “Xin lỗi anh à! Dãy xe đó là của nhân viên Phi đoàn chúng tôi đậu hàng ngày. Các anh là cái thá gì mà chúng tôi phải trình diễn?”. Anh cán bộ cười nửa miệng: “Chúng tôi chả là cái thá gì, nhưng chúng tôi không phải là tay sai Đế Quốc, chúng tôi đi lính là để giải phóng dân tộc, chứ không phải đi lính cho Thiệu Kỳ như các anh!”. Tôi nghĩ thầm, à cái giọng của anh cán bộ này nghe trịch tượng, mình phải dạy cho anh ta một bài học: “Được rồi! Anh bảo chúng tôi là tay sai Đế quốc thì hãy mở tai ra mà nghe tôi hô to nhé. Đả đảo Đế quốc Mỹ! Đả đảo Johnson, Nixon! Rồi, anh hãy đả đảo Liên Xô, Trung Cộng, Mao Trạch Đông, Brezhnev thử nghe xem nào!”. Mặt anh cán bộ nghệt ra, không ngờ bữa nay gặp đối thủ sừng sỏ. Tôi nói tiếp: “Bây giờ hãy lắng tai nghe tôi hô để biết ai cần giải phóng ai nghe chưa. Đả đảo Nguyễn Văn Thiệu, đả đảo Nguyễn Cao Kỳ. Rồi! Bây giờ tới lượt anh, anh thử hô Đả đảo Hồ Chí Minh, Đả đảo Lê Duẩn cho tôi nghe xem nào”. Mặt anh cán bộ Việt Cộng tái mét, bỏ đi. Tôi nắm cánh tay anh, giữ anh ta lại: “Các anh bị Đảng nhồi sọ, nói như con vẹt chẳng biết gì. Nói thật với các anh, tôi thương, tội cho các anh lắm. Các anh có thấy thằng Uỷ viên Bộ Chính Trị nào, thẳng Uỷ viên Ban Chấp Hành Trung Ương nào cho con nó vào chiến trường không? Các anh bị chúng nó tuyên truyền, đem xương máu giết hại anh em một nhà”. Anh cán bộ gỡ tay tôi ra và nói: “Đồng chí phải nói năng lịch sự, tôi không thèm nói chuyện với đồng chí nữa đâu!”. Tôi phì cười vì anh cán bộ quýnh quáng, mất bình tĩnh gọi tôi là đồng chí. Người hoa tiêu phụ nghe tôi “đấu khẩu” với cán bộ Việt Cộng thì thích lắm, nhưng ghé vai tôi nói nhỏ: “Anh hô đả đảo Nguyễn Văn Thiệu mà an ninh nghe được, dám bắt nhốt anh lắm đó!”. Tôi nói: “Ông Thiệu mà nghe cuộc đấu khẩu của tôi vừa rồi, có lẽ ông dám ra lệnh đưa tôi làm Trưởng phái đoàn đại diện Việt Nam Cộng Hoà trong Uỷ Ban Liên Hợp Quân Sự lắm chứ! Hỏi anh, có ai chứng tỏ được sự tự do của Miền Nam bằng cách dám hô to đả đảo Nguyễn Văn Thiệu trước mặt đối phương? Tôi tin chắc toán cán bộ quân sự Việt Cộng ở Lộc Ninh mà anh em mình vừa mới chở về sẽ hoang mang lắm, vì không ngờ Miền Nam mình tự do đến thế”. May mắn tôi thoát khỏi Việt Nam vào giờ chót năm 1975! Không thì tù rục xương!

Tôi thuật lại câu chuyện này để bạn đọc thấy rằng cộng sản chỉ cậy có Công An, Bộ Đội, Đầu Gấu bắt nạt nhân dân trong nước thôi. Dù không phải là nhà lý luận chủ nghĩa, tôi dám thách thức bất cứ cán bộ nào trong Ban Văn Hoá Tư Tưởng ra ngoài này “đấu khẩu” với tôi. Chỉ cần đem các mặt tiêu cực xã hội trong nước ra để chứng minh thì họ không cách chi tranh luận với mình được. Mấy ông bà chống Cộng ở hải ngoại cứ đem con ngáo ộp cộng sản để hù doạ người yếu bóng vía.

Tôi tin ở thuyết Nhị Nguyên: Trong âm có dương, trong xấu có tốt, trong hoạ có phúc. Ba mươi Tháng Tư năm 1975 là biến cố đau buồn, bất hạnh, nhưng đồng thời cũng là dịp may vì chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có tầng lớp trẻ Việt Nam được tiếp thu nền văn minh khoa học, mỹ thuật, công nghệ thông tin tân tiến của nhân loại như ngày nay? Làm sao chúng ta được trở thành công dân của một đại cường bậc nhất thế giới ? Làm sao Đinh Việt có thể là Thứ trưởng Tư Pháp trong Nội các Hoa Kỳ? Làm sao bà Dương Nguyệt Ánh có thể là nhà khoa học lãnh đạo công trình phát minh vũ khí tối mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ? Và làm sao có hàng ngàn nhân tài Việt Nam khác ở mọi lãnh vực? Nhà cầm quyền cộng sản không có lòng yêu nước để biết trân trọng nguồn tài nguyên quý báu đó thôi!

Theo tôi, lằn ranh Quốc – Cộng không còn nữa. Bởi vì cơ bản chủ nghĩa cộng sản là vô sản, mà bây giờ đảng viên cộng sản thì rất giầu có. Họ được dân gian phong là các nhà Tư bản Đỏ. Giả thử ông Hồ Chí Minh sống dậy, kêu gọi nhân dân làm cuộc cách mạng vô sản, đấu tranh giai cấp thì tức khắc ông ta sẽ bị nhà cầm quyền này áp dụng Điều luật 88 để còng tay ông ta ngay. Người cầm quyền Đảng Cộng Sản Việt Nam không chịu bỏ Điều 4 Hiến Pháp vì sợ mất mặt với nhân dân, chứ trong thực tế họ không còn coi chủ nghĩa cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4). Thật vậy, chủ nghĩa cộng sản đã chết, đã thành bóng ma. Người sống như chúng ta mà đánh nhau với ma thì cũng giống như đấm vào không khí, không bao giờ có thể thắng được. Nếu chúng ta cứ hùng hổ chống Cộng như từ trước đến nay là chúng ta mắc mưu nhà đương quyền. Chúng ta sẽ tự biến mình thành những Don Quichotte đấu kiếm với những cánh quạt của cái máy xay gió.

Sau khi minh định rõ mục tiêu cứu nước của người Việt Hải ngoại là thay đổi số phận đồng bào quốc nội, chứ không phải là thiết lập một “Phòng Tuyến Phi Cộng” bền vững ở xứ người, tôi xin trình bày một số nguyên tắc đấu tranh với điều kiện ai có lòng yêu nước, dũng cảm, trí tuệ đều thực hiện được:

Động cơ đấu tranh của người dân trong nước do lòng căm thù vì bị nhà cầm quyền độc tài đè nén, áp bức, bóc lột. Ở hải ngoại được sống trong tự do, no đủ, chúng ta đấu tranh vì tình máu mủ, ruột thịt thì động cơ đó là tình thương yêu đồng bào. Lằn ranh Quốc – Cộng không còn, lý tưởng tranh đấu là Tự Do chống lại Độc Tài, là Sự Thật chống lại sự Dối Trá, Minh Bạch chống lại Mờ Ám, Thương Yêu chống lại Thù Hận. Động cơ đấu tranh được thúc đẩy do tình thương yêu thì lớn lao hơn, nhân bản hơn do lòng căm thù, bởi vì đó là cuộc đấu tranh cho tha nhân chứ không phải là vị kỷ để mà tranh danh đoạt lợi. Và một khi đã ý thức rõ ràng như thế thì chúng ta sẽ vượt lên trên tất cả sự đố kỵ thấp hèn, nghi kỵ lẫn nhau. Không còn ai dùng thủ đoạn chụp mũ cộng sản khi quan điểm đấu tranh chưa đồng nhất. Chúng ta sẽ thi đua nhau vì mục đích cao cả cứu dân, cứu nước để bắt buộc nhà cầm quyền phải có nghĩa vụ đoàn kết toàn dân từ trong ra ngoài hầu có sức mạnh chống ngoại xâm.

Bạn đọc sẽ cho rằng tôi quá lý tưởng chăng? Không! Chẳng có gì là lý tưởng ghê gớm cả, bởi vì cuộc đấu tranh này tự nguyện, không ai bắt buộc mình phải thương yêu đồng bào cả! Chỉ khác mỗi một điều là không lợi dụng tình yêu thương đồng bào để làm chiêu bài cho sự tranh đấu bịp bợm mà thôi.

Là người có tín ngưỡng Phật Giáo, tôi lấy phương châm “Bi, Trí, Dũng” làm tiêu chí. Bi để biết yêu thương, Trí để biết nhìn xa trông rộng, Dũng để dám đối diện Sự Thật và vượt qua tham vọng thấp hèn trục Lợi, kiếm Danh. Là người có tín ngưỡng Thiên Chúa Giáo, anh lấy phương châm “Công Bằng, Bình Đẳng, Bác Ái” làm tiêu chí để định hướng. Người không có tín ngưỡng thì lấy đạo đức do tổ tiên lưu truyền để làm tiêu chí. Tôi tin rằng nếu chúng ta sớm ý thức đường hướng đấu tranh theo phương châm tôi đề nghị thì chúng ta sẽ sử dụng hữu hiệu lợi khí “Chất Xám” và “Chất Xanh” để thương lượng, áp lực nhà cầm quyền trong nước nhằm thay đổi bộ mặt của chế độ.

“Chất Xám” là tài năng và trí tuệ của những người trẻ tuổi. “Chất Xanh” là đồng đô-la (Hàng năm người Việt khắp nơi trên thế giới gửi về nước từ 5 đến 7 tỉ đô la). Có trong tay hai lợi khí đó, nếu chúng ta không biết sử dụng để làm vũ khí đấu tranh thì chẳng khác gì nằm cạnh thùng gạo, lu nước mà bị chết đói, chết khát. Muốn sử dụng hay lợi khí đó, tôi đề nghị chúng ta cần phải thiết lập một định chế có uy tín thông qua sự trong sáng, có viễn kiến và đởm lược. Tôi cho rằng Mặt Trận Hoàng Cơ Minh lừa bịp đồng bào, các đảng phái chính trị, tôn giáo, hội đoàn phân hoá chống phá lẫn nhau, năm ba người họp nhau cũng thành lập Hội… đã khiến cho quần chúng mất niềm tin. Hoạt động mà không tôn trọng lẫn nhau, không có ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm, cá mè một lứa, đồng sàng dị mộng, chỉ chuộng hình thức để kiếm danh hão thì rất dễ dàng bị đối thủ khai thác nhược điểm để lũng đoạn. Bao lâu các nhà tranh đấu chế ngự, kìm hãm được các khuyết tật bản thân thì mới mong đóng góp chút gì cho Quê Mẹ. Nhược bằng cứ như tình trạng hiện nay thì không bao giờ đi tới đích. Biết rằng có nhiều con đường dẫn tới La Mã, nhưng người lữ hành phải có tấm lòng trong sáng, thành khẩn yêu nước và có trí tuệ để chọn con đường hợp với khả năng, hợp với sở trường.

Hy sinh xương máu đánh đuổi được Thực dân đô hộ để thay vào đó một chế độ tàn khốc chưa từng thấy trong dòng lịch sử nước nhà. Lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà bằng cái gọi là “Cách Mạng 1 Tháng 11” để thay vào đó sự hỗn loạn, chia rẽ, chống phá lẫn nhau gây nên hậu quả mất nước. Tôi cho rằng đó là lý do khiến cho nhân dân thờ ơ, lãnh đạm trước những lời kêu gọi thiết tha vì Tổ Quốc, vì Dân Tộc. Cái nguy lớn lao nhất cho một Đất Nước mà người dân sống với triết lý “qua ngày đoạn tháng”, phó mặc định mệnh đời mình ra sao thì ra, chắc chắn đưa đến diệt vong

Tuần trước, anh Hà Sĩ Phu gửi cho tôi bài viết “Mất Dân Tộc Còn Tệ Hơn Mất Nước”. Tôi hồi âm bằng mấy dòng chữ đại khái như sau: “Năm 2006, tôi viết bài có nhan đề “Khí Phách Còn, Dân Tộc Còn” dựa theo câu nói của học giả Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều Còn, Tiếng Ta Còn. Tiếng Ta Còn, Nước Ta Còn” là tôi đã dự báo dân tộc Việt Nam đang trên đà diệt chủng bởi vì chính sách cai trị của cộng sản dùng sự đàn áp, khủng bố, bỏ đói để bắt buộc nhân dân luôn luôn nơm nớp sợ hãi thì mọi người trở nên hèn. Nhưng người cầm quyền không ý thức rằng họ cũng bị “Chất Hèn” ngấm vào người, vì họ chỉ là loài “ký sinh của chủ nghĩa yêu nước” (chữ của Hà Sĩ Phu). Lừa đảo, lưu manh, dối trá là hèn. Dùng súng đạn, tù đày, ngồi trên luật pháp để nói lấy được là hèn. Không dám lắng nghe những tiếng nói đối lập xây dựng là hèn. Sở dĩ dân ta không bị Hán hoá sau một ngàn năm Bắc thuộc là nhờ có những nhân vật như Chu An, Trần Bình Trọng và các bậc anh hùng khác. Tiếng nói, gương mặt, mầu da vẫn là Việt Nam, nhưng mất đi cái khí phách là mất bản sắc dân tộc, là diệt chủng.

Nhạc sĩ Tô Hải tự thú mình là Thằng Hèn mới chỉ là cái tát vào mặt chế độ, chưa thể gây ảnh hưởng lớn lao vào xã hội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một trong những sáng lập viên Đảng Cộng Sản, được thế giới khen tặng là bậc anh hùng, nhưng đã bị “Chất Hèn” thấm vào người. Phàm một người ở địa vị nào thì phải ứng xử, hành động cho xứng đáng với địa vị đó. Thí dụ, tôi là phi công vận tải nắm trong tay sinh mạng nhiều hành khách. Nếu con tầu trục trặc kỹ thuật, tôi phải có nghĩa vụ lèo lái con tầu hạ cánh an toàn. Nếu tôi bất lực thì tôi phải chịu chết với hành khách; chứ không thể ôm dù mở cửa nhảy ra ngoài để thoát thân. Nếu ở địa vị Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi sẽ không làm kiến nghị để xin Nguyễn Tấn Dũng ngưng tiến hành dự án khai thác Bauxite ở Tây Nguyện. Là hàng cha chú, là một trong những người khai sinh Đảng Cộng Sản, tôi sẽ nói như Nguyễn Hộ: “Bác Hồ và chúng tôi đã đưa dân tộc vào con đường sai lầm. Các chú đang lãnh đạo Đất Nước, phải quay đầu lại để khỏi lao xuống vực thẳm”. Nói như thế, Võ Nguyên Giáp có thể mất hết đặc quyền, đặc lợi, không được chôn cất ở nghĩa trang Mai Dịch, nhưng ít nhất cũng chuộc được tội lỗi của mình với lịch sử. Hơn thế nữa, lời nói khẳng khái của vị Đại tướng rât có khả năng đánh thức niềm tự hào dân tộc để các Tướng lãnh trẻ và nhân dân đứng lên chấm dứt chế độ bạo tàn đối với nhân dân, nhưng hèn hạ đối với ngoại bang.

Người trong nước, người hải ngoại muốn cứu Đất Nước khỏi rơi vào sự thống trị của dân tộc khác thì chỉ còn có một cách duy nhất là tự cứu. Trời, Phật, Thánh Thần không thể nào ra tay tế độ, cứu rỗi một dân tộc hèn. Cho nên, Khí Phách là vũ khí mà mỗi nhà tranh đấu phải tự trang bị lấy, không ai có thể phát cho ai được. Khí phách giúp ta vượt lên trên chính mình để nén xuống tham vọng vị kỷ thì sự đoàn kết ắt phải là điều thực hiện được.

Là một người viết có suy nghĩ độc lập, đem tâm huyết “kiến nghị” với những người yêu nước, tôi thiết tưởng nếu người yêu nước nhận thấy những lời trần tình này hữu ích, đem áp dụng vào cuộc đấu tranh cho xứ sở thì người viết đội ơn vô cùng. Đừng làm dáng chính trị “salon” như kiểu ông Nguyễn Bá Cẩn viết kiến nghị gửi Liên Hiệp Quốc từ “Văn Phòng Thủ Tướng” (!) phản đối nhà cầm quyền Trung Cộng chiếm đất, chiếm đảo. Hình thức đó chỉ để lấy tiêng cho vui thôi. Điều quan trọng là tất cả các tổ chức chính trị, tôn giáo, văn hoá … kể cả các hội đoàn ái hữu quân nhân phải hợp nhất với nhau để mở ra một Hội Nghị Diên Hồng ở Hải Ngoại hầu đòi hỏi nhà cầm quyền trong nước phải thật tâm đoàn kết với các tầng lớp nhân dân chống lại ý đồ của Trung Quốc thống trị Việt Nam. Đó là đề nghị thiết thực của tôi để buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Liệu người Việt Nam chúng ta có đủ lòng yêu nước, có đủ dũng cảm, có đủ trí tuệ để vượt lên trên ý thức hệ, trên tham vọng của cải, tiền bạc để cứu lấy giang sơn này hay không?

*

Thời gian qua, nhận được khá nhiều thư khích lệ, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Duy có một email của bà Đỗ thị Thuấn hiệu Bút Vàng – có lẽ là thành viên Đảng Việt Tân – đã gửi email cho tôi nguyên văn như sau: “Làm đối lập cuội còn đỡ hơn là về điếu đóm VC rồi nó lại sai sang Mỹ để đón Nguyễn Minh Triết/NTD làm bộ xưng ta là "đại diện người Việt tại Mỹ", cái đó mới là nhục!”.

Có lẽ bà Đỗ chưa hiểu mấy chữ “Đối Lập Cuội” có nghĩa là gia nô, là đầy tớ nên mới cam tâm “thà làm đối lập cuội còn đỡ hơn”. Bà Bút Vàng Đỗ Thị Thuấn thường tâng bốc giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, người mở đầu cuộc tấn công Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ năm 2004 bằng những ngôn từ tồi tệ. Câu phát biểu trên có lẽ bà Đỗ ám chỉ nhân vật bị sai sang Mỹ đón Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng là Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ? Vậy thì, trong bài viết Phần Ba tới đây, tôi sẽ nói rõ Tướng Nguyễn Cao Kỳ là ai và vì sao tôi ủng hộ Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Một người viết độc lập, lấy khí phách làm phương châm, không mưu đồ bất cứ điều gì cho bản thân, tôi tin rằng tôi đủ vô tư và sáng suốt để dẫn chứng bằng sự kiện cụ thể khả tín. Mời độc giả đón đọc bài viết tới đây.

Viết xong ngày 14 tháng 7 năm 2009
Bằng Phong Đặng Văn Âu
© Thông Luận 2009

Những suy nghĩ về đất nước (phần 3)

danluan

Bằng Phong Đặng Văn Âu
Theo Thông Luận

Phạm Đỉnh: Đây là bài thứ ba trong loạt bài “Những suy nghĩ về đất nước” của Bằng Phong Đặng Văn Âu. Bài này cần một vài lời bình luận để tránh hiểu lầm.

Tác giả đã đề cập đến ông Nguyễn Cao Kỳ với lời lẽ trân trọng nhiệt tình. Người đọc có thể nhận xét là tác giả chỉ nhìn thấy hoặc chỉ chọn đưa ra những điều tốt và những nét đẹp về nhân vật này. Còn những điều không tốt và những nét không đẹp thì sao? Chắc chắn so với các tướng lãnh khác của quân lực Việt Nam Cộng Hoà và đa số những người đã cầm quyền ở Miền Nam, đặc biệt là so với các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm, ông Kỳ thộng minh, hoạt bát và quả quyết hơn và ông đã làm được những việc mà những người khác không muốn, không dám hoặc không thể làm, như tác giả Đặng Văn Âu đã kể.

Tuy nhiên ngay cả những điều mà ông Đặng Văn Âu coi là tốt của ông Kỳ cũng cần được nhìn lại. Thí dụ như việc ông trấn áp không cho các nhà sư làm loạn bằng cách hăm doạ: "Các Thầy đừng tưởng giết được ông Diệm là có thể giết được tôi. Trước khi tôi chết, tôi sẽ đem từng Thầy ra tôi bắn. Các Thầy nghe rõ chưa?”; việc ông giao cho bác sĩ Tài săn sóc ông Thích Trí Quang và doạ "Trí Quang phải được lên cân, da dẻ phải hồng hào. Nếu bác sĩ không làm được chuyên đó, tôi sẽ đem bác sĩ ra bắn”; hay việc ông khoe rất nhiều lần là đã giết Tạ Vinh sau khi đã xổ số chọn một doanh nhân Hoa Kiều để đem bắn khi vật giá leo thang, v.v. Đó là những việc ngay cả nếu có tác dụng tốt cũng vẫn có thể làm một cách có văn hoá hơn. Riêng trong trường hợp Tạ Vinh, việc làm của ông Kỳ là một tội ác. Ông Kỳ đồng hoá sự quả quyết với thái độ côn đồ, và ông làm thủ tướng với phong cách của một tay anh chị, cao bồi. Ông có hơn thì cũng chỉ hơn những kẻ chẳng ra gì. Ông không tham nhũng nhưng cũng là tay ăn chơi cờ bạc. Hình ảnh những sĩ quan ôm gà chọi theo hầu ông trong những buổi đá gà cá độ là một sỉ nhục cho quân đội Miền Nam. Đá gà cá độ và đánh bạc thực ra cũng là những hình thức hối lộ trá hình. Thời gian ông cầm quyền cũng là thời gian tham nhũng phát triển mạnh nhất và đời sống khó khăn cho dân chúng mặc dù nó cũng là thời gian mà viện trợ Mỹ dồi dào nhất.

Tác giả thắc mắc tại sao trước năm 1975, Miền Bắc xua quân xâm lăng Miền Nam, họ là kẻ gây chiến, nhưng dư luận quốc tế lại nhìn Miền Nam như kẻ hiếu chiến, làm mất chính nghĩa bảo vệ tự do? Ông Kỳ chính là một phần cho câu trả lời đó: hình ảnh ông và bà vợ hung hăng đeo súng và lựu đạn trên báo chí như một cặp tài tử trong một phim mafia và những lời tuyên bố sặc mùi anh chị của ông đã khiến Miền Nam thay vì là nạn nhân đã bị nhìn như kẻ hiếu chiến. Không những hiếu chiến mà xa hoa, thụ hưởng. Ngay khi tới Paris bà Kỳ để báo chí chụp một loạt hình ảnh uốn éo phô trương nhan sắc trong những áo dài đắt tiền, vào giữa lúc chiến tranh và tang tóc đang rất khốc liệt, số tử vong lên tới hàng chục ngàn mỗi tháng. Sự thiếu văn hoá còn khiến ông Kỳ tuyên bố thần tượng của ông là Hitler. Chỉ một lời tuyên bố này cũng đủ để triệt tiêu mọi cố gắng ngoại giao và làm sụp đổ thế giá của chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Ông Kỳ quá ít học để biết rằng thế giới kinh tởm Hitler tới mức độ nào và ảnh hưởng Do Thái mạnh tới mức nào tại Mỹ, nước quyết định vận mệnh của chế độ miền Nam. Khi một người lãnh đạo hành động như một tay anh chị thì các cộng sự viên cũng khó có thể khác. Hình ảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn một tù binh ngay trước ống kính của nhà báo được truyền đi khắp thế giới đã là một đòn ơn huệ cho chế độ VNCH trong dư luận thế giới. Ngay cả nếu tù binh đó là một tên khủng bố ghê rợn, như sự thực sau này chứng tỏ, và phải xử bắn ngay tại hiện trường thì cũng không thể hành động như tướng Loan. Trong bất cứ một chế đô nào tướng Loan phải bị cách chức và tống giam, dầu vậy tướng Loan đã không hề bị khiển trách bởi vì lúc đó thế lực ông Kỳ còn rất lớn và ông Kỳ bao che cho tướng Loan. Có thể ở địa vị ông Loan chính ông Kỳ cũng hành động như thế. Ông Kỳ có khẩu khí và đôi khi có những đối đáp cứng cỏi tạo cảm giác nhất thời tốt, nhưng tác phong và nhiều lời tuyên bố khác của ông đã gây những thiệt hại kinh khủng và không thể đảo ngược được cho chế độ Miền Nam.

Trong chuyến về Việt Nam gần đây ông không hề đả động đến nhân quyền, tự do, dân chủ mà tuyên bố "Chế độ độc đảng chưa chắc đã là xấu nếu người lãnh đạo biết hành động vì nước, vì dân". Câu nói này một lần nữa phơi bày sự thiếu học thức cố hữu của ông Kỳ. Đặc tính của ông Kỳ là ít học nhưng lại nói nhiều. Ông huênh hoang nói là về nước vì đất nước, nhưng chuyến về nước này của ông có lợi gì cho đất nước? Và có lợi gì cho ai?

Dĩ nhiên sự khác biệt quan điểm không ngăn cản chúng tôi quý trọng ông Đặng Văn Âu. Vả lại, đây chỉ là bất đồng ý kiến về một chi tiết không quan trọng. Điều chính yếu là tấm lòng, sự trăn trở về tương lai, về đất nước. Trong một thời kì có quá nhiều hàng giả, bạn đọc Thông Luận hẳn sẽ dành ưu ái cho những suy nghĩ chân thành của Bằng Phong về đất nước.

Lời mở đầu: Trăn trở theo vận nước điêu linh, người viết nghiêm chỉnh trình bày những suy nghĩ riêng tư với tinh thần trách nhiệm, chấp nhận những phản biện của bất cứ ai thực sự quan tâm đến vấn đề Đất Nước và sẵn sang thảo luận để mưu tìm một đường lối khả thi, hiệu quả trong công cuộc tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ ở quê nhà. Trang mạng, báo chí, cá nhân toàn quyền sử dụng bài viết.

Sau hai bài viết bày tỏ nỗi niềm trăn trở của tôi, nhiều độc giả phản hồi bằng cách gọi điện thoại, gửi email chia sẻ tâm tư, gồm: Những độc giả từng suy nghĩ như tôi từ lâu nhưng không có hoàn cảnh và điều kiện để nói ra; những độc giả từng chống tôi thì nay tỏ ra lấy làm tiếc vì đã hiểu nhầm. Đặc biệt, những nhà hoạt động tên tuổi ở hải ngoại và những nhà tranh đấu trong nước cũng liên lạc với tôi để chia sẻ cảm nghĩ về bài viết. Xin thưa rõ với quý độc giả: Những gì tôi nói không phải nói cho tôi hoặc cho Đảng nào, đoàn thể nào, cá nhân nào. Tôi nói vì Đất Nước. Tôi nói cho Đất Nước. Bằng suy nghĩ nung nấu. Có thể đúng hoặc có thể sai, nhưng bằng tất cả sự nhiệt thành do lương tri sai bảo. Nếu vì lời nói chân thật này mà danh dự bản thân bị bôi nhọ, thể xác bị hãm hại thì, tôi nghĩ, đó là cái giá phải trả cho tiếng nói vì Sự Thật. Xin ghi nhận những lời động viên, khuyến khích và xin cảm tạ sự quan tâm của tất cả quý bằng hữu (cho phép tôi được xem quý vị là bằng hữu kể cả các bậc trưởng thượng) đã bày tỏ với tôi qua điện thoại hoặc thư từ.

* * *

Người lãnh đạo quốc gia phải hiểu rằng mối bang giao giữa nước này và nước kia là vì quyền lợi song phương; chứ không bao giờ vì lý tưởng của bất cứ chủ nghĩa nào. Cho nên không bao giờ có bạn hữu muôn đời hoặc kẻ thù truyền kiếp. Đồng Minh chỉ có tính cách giai đoạn. Bao lâu quyền lợi song phương còn thì quan hệ đồng minh còn; bao lâu quyền lợi song phương không còn thì tình nghĩa đồng minh chấm dứt. Đồng minh Hoa Kỳ – Liên Xô trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến là thí dụ điển hình nhất. Hai quốc gia này đã chung sức nhau đánh bại Đức Quốc Xã, Phát Xít Ý, Quân Phiệt Nhật. Chiến tranh chấm dứt, họ trở thành kẻ thù.

Là quốc gia nhược tiểu, người lãnh đạo phải khôn ngoan, nhất định không đứng hẳn về một phe nào, bởi vì đứng về phe xã hội chủ nghĩa thì sẽ bị hứng trọn mũi dùi tấn công của phe tư bản hoặc ngược lại. Vị trí địa lý Việt Nam giống như cô gái đẹp, chàng sở khanh nào cũng muôn ve vãn, nhòm ngó, người lãnh đạo càng phải khôn ngoan hơn. Đối nội thì phải chân thành thi hành chính sách đại đoàn kết toàn dân để có sức mạnh tự vệ. Đối ngoại thì chủ trương “Liên Lập” làm bạn với tất cả các quốc gia để không bị làm “đầy tớ” duy nhất cho bất cứ một quốc gia nào. Nếu vì hoàn cảnh phải cam chịu làm đầy tớ thì cũng phải khôn ngoan lựa chọn ông chủ nào tử tế hơn, chứ không thể chọn ông chủ hơi bất bình một tí là đòi dạy cho bài học.

Giương cao ngọn cờ “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc”, Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) giành được chiến thắng là nhờ biết lợi dụng lòng yêu nước (chủ nghĩa quốc gia) của dân tộc; chứ không phải nhờ vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Giương cao ngọn cờ “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc”, Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) giành được chiến thắng là nhờ biết lợi dụng lòng yêu nước (chủ nghĩa quốc gia) của dân tộc; chứ không phải nhờ vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Bởi thế, nhà lý luận Hà Sĩ Phu gọi đảng CSVN là loài ký sinh của lòng yêu nước quả không sai. Đảng CSVN tình nguyện làm nô lệ Trung Quốc khi họ nhắm mắt thi hành chính sách cai trị bạo tàn, bất nhân, bất nghĩa qua các phong trào Cải Cách Ruộng Đất đào tận gốc trốc tận rễ, chỉnh phong, nhân văn giai phẩm, xét lại chống Đảng … gây nên thảm hoạ kinh hoàng chưa từng thấy trong lịch sử. Tình đoàn kết “môi hở răng lạnh” là sự dối trá. Hàng chục sư đoàn của Nga – Hoa dàn ra tại mỗi bên bờ Hắc Long Giang (biên giới Nga – Hoa) sẵn sàng xơi tái nhau là sự kiện minh chứng rõ ràng nhất.

Giưong cao ngọn cờ “Giải Phóng Dân Tộc”, Đảng CSVN thôn tính Miền Nam giống như bọn thổ phỉ đi xâm lăng nước khác. Không những chủ trương đầy đoạ nhân dân Miền Nam trong các trại tù khổ sai nơi vùng ma thiêng nước độc, lùa dân lên vùng kinh tế mới giữa rừng sâu, đánh tư sản mại bản để cào bằng, đảng viên cộng sản còn đấu đá lẫn nhau để tranh giành của cải, địa vị còn kinh khiếp hơn. Đã có lúc tưởng chừng như cuộc chiến tranh Bắc Nam giữa người cộng sản nổ ra. Cả nước biến thành địa ngục, khiến cho những người đi theo cộng sản như Trương Như Tảng cũng phải vượt biên đi tìm tự do. Các nhà cách mạng lão thành tỉnh giấc như Nguyễn Hộ đòi đổi hướng quay trở lại chủ nghĩa tư bản thì đều bị cầm tù hay quản chế tại gia. Một đảng cầm quyền không có đức khoan dung với kẻ thù đã đành, mà còn sát hại lẫn nhau chẳng nương tay. Thật khủng khiếp!

Năm 1979, trước khi rời Hoa Kỳ sau chuyến công du, Đặng Tiểu Bình tuyên bố sẽ về dạy cho Cộng sản Việt Nam một bài học, tôi hết sức căm phẫn và buồn cho thân phận nhược tiểu của Việt Nam mình. Ai muốn dày xéo cũng được. Ai muốn dạy bảo cũng được. Thật là một sự hỗn láo không thể dung thứ. Chẳng qua tại dân mình ưa chém giết lẫn nhau? Cho nên trong lịch sử nước mình mới có những nhân vật đi cầu viện nước ngoài để thanh toán đối thủ hầu chiếm đoạt ngai vàng? Đảng CSVN thành công là nhờ Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch, chứ không phải do tài lãnh đạo của Đảng. Giá như phe Quốc Dân Đảng chiến thắng thì nước mình tránh được tai hoạ cộng sản. Tôi cho rằng đó là định mệnh oan nghiệt của dân mình.

Lẽ ra, người lãnh đạo Đảng CSVN phải tỉnh ngộ, vì bị Trung Cộng trừng phạt bằng súng đạn chết người, mà Liên Xô thì thản nhiên đứng ngoài, mặc dầu trước đó thoả ước an ninh hỗ tương giữa Việt Nam – Liên Xô đã ký kết. Một lần nữa tình nghĩa quốc tế anh em xã hội chủ nghĩa chỉ là thứ đểu mà thôi. Trong thời gian đó, Tổng thống Hoa Kỳ – Jimmy Carter – thò bàn tay ra cứu vớt thì lãnh đạo Đảng CSVN làm cao, nhất định đòi món tiền bồi thường chiến tranh như lời Nixon đã hứa, mới nói chuyện. Nguyễn Văn Trấn, tác giả cuốn sách Viết Cho Mẹ và Quốc Hội đã phát cáu, la to lên giữa đám đông: “Bồi thường cái con c… nó đấy!”

Năm 1985, Tổng Bí thư Xô Viết – Mikhail Gorbachev – đề ra chính sách Glasnost & Perestroika (Cởi mở và Tái cấu trúc) để chỉnh đốn sự suy thoái về mọi mặt của Đảng thì tư tưởng trong Đảng CSVN có biến chuyển. Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách – Trưởng ban Tổ chức Đảng – được mô tả là người có triển vọng làm Tổng Bí thư Đảng, manh nha theo gót Gorbachev thì liền bị hạ bệ. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đọc một bài diễn văn tại Liên Hiệp Quốc hứa hẹn đổi mới, khi trở về nước ông ta bị thất sủng. Tuy nhiên, vì sự sống còn của Đảng, CSVN phải đề ra khẩu hiệu trong Đại Hội VI: “Đổi Mới hay là Chết”. Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh thi hành chính sách “cởi trói” văn nghệ sĩ, kinh tế nhiều thành phần, nhưng vẫn xiết chặt chính trị. Nhờ chính sách “cởi trói”, các văn nghệ sĩ như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Mạnh Hảo, Bùi Ngọc Tấn, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự … cho ra đời những tác phẩm mà các văn nghệ sĩ thời Nhân Văn-Giai Phẩm không dám viết. Đồng thời những nhà cách mạng lão thành như Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ … cũng mạnh dạn lên tiếng. Nhưng đặc biệt hơn hết, nhà lý luận Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ “nhẹ nhàng” đánh vào tận gốc rễ chủ nghĩa: “Không phải như Cộng Sản thường nói rằng chủ nghĩa luôn luôn đúng, chỉ có người thi hành sai. Ý thức hệ Cộng Sản sai lầm ngay từ căn bản. Phải từ bỏ ý thức hệ đó thì mới xây dựng được Đất Nước”. Ông Hồ phạm nhiều sai lầm chết người trong các chiến dịch, vẫn làm Chủ tịch Nước cho tới chết. Ý thức hệ Cộng Sản sai lầm, người cầm quyền cũng ôm cứng lấy cái bộ máy cai trị (chứ không chủ nghĩa) cho tới chết. Lời nói của cố Tổng Bí thư Trường Chinh: “Đảng Cộng Sản cướp chính quyền bằng bạo lực thì Đảng Cộng Sản phải giữ chính quyền bằng bạo lực” nhằm bảo vệ độc quyền cai trị, được đàn em tuân thủ triệt để.

Đối với bọn cầm quyền không thèm đếm xỉa đến nguyện vọng quần chúng, những đóng góp trí tuệ của chính người cộng sản không lay chuyển họ nổi, những đểu cáng tình nghĩa quốc tế không thức tỉnh họ, những đổi thay của thế giới không mở mắt họ. Vậy chỉ còn con đường duy nhất để lật đổ bọn cầm quyền này thì phải tiến hành một cuộc cách mạng bạo lực vũ trang. Đó là câu kết luận của đoàn thể chúng tôi, của anh Hoàng Cơ Minh, của anh Lê Quốc Tuý. Nhưng sau khi cuộc xâm nhập nội địa của chiến sĩ Trần văn Bá, Lê Quốc Quân thất bại, Mặt Trận HCM tan vỡ, chúng tôi – Mặt Trận Việt Nam Tự Do – nhận thấy Thái Lan không còn là nơi có thể làm bàn đạp để xâm nhập nội địa thì tôi đề nghị chí hữu Chủ tịch Hà Thúc Ký và Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Kim chuyển sang đấu tranh chính trị. Giã từ phương thức đấu tranh cách mạng bí mật sang đấu tranh chính trị công khai trong hoàn cảnh ở hải ngoại càng khó khăn hơn, vì dễ bị chính phe gọi là Quốc Gia đánh phá bằng sự chụp mũ hết sức dơ bẩn. Chụp mũ do sự đố kỵ, do đầu óc chia rẽ mà ra.

So với các nhà cách mạng tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trình, Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và nhiều nhà ái quốc khác xuất dương tìm đường cứu nước ra khỏi bàn tay đô hộ của Thực dân Pháp, tập thể người tị nạn chúng ta có quá nhiều ưu thế: trở thành công dân của nước tạm dung có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ như dân bản xứ. Từ hơn ba mươi năm qua, nếu ý thức vì sự chia rẽ mà chúng ta đánh mất quê hương, tất cả mọi người biết ăn năn, nhẫn nhịn ngồi lại với nhau một cách êm thắm để mưu cầu việc lớn thì chắc chắn đã có một Cộng Đồng hài hoà tạo nên uy tín xứng đáng cho người bản xứ kính nể biết bao.

Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới. Người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ đông đảo nhất. Nếu chúng ta biết tôn trọng nhau, tin cậy nhau thì chúng ta ngầm thoả thuận chia ra làm hai phe: Gạt qua một bên triết lý chính trị hay cương lĩnh của mỗi đảng, anh bỏ phiếu cho Đảng Cộng Hoà, tôi bỏ phiếu cho Đảng Dân Chủ, nhưng hai ta là một. Làm như thế, Đảng nào thắng cử, chúng ta đều có tiếng nói trong chính quyền. Nếu người Việt Nam nào ra ứng cử bất cứ thuộc đảng nào, hai phe ấy đều dồn phiếu cho ứng cử viên Việt Nam. Cái sai lầm của người Việt Nam tị nạn chúng ta là kêu gọi nhau bỏ phiếu cho Đảng Cộng Hoà vì cứ nghĩ Đảng Cộng Hoà chống Cộng. Nên nhớ rằng Dân chủ hay Cộng Hoà, người Mỹ đều nghĩ đến quyền lợi Đất Nước họ trước tiên.

Nếu ngay sau khi Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh và chiến hữu tử trận trên vùng biên giới Thái Lào, Mặt Trận công khai tuyên bố sự thật, chấm dứt lừa đồng bào bằng những lá thư của chiến hữu Chủ tịch từ chiến khu quốc nội gửi ra thăm đồng bào hải ngoại, chấm dứt những bài phóng sự trên tờ Kháng Chiến về các cuộc chạm súng giả tạo đánh đồn công an Cộng sản và công bố số tiền còn lại đã trót quyên góp của đồng bào sẽ sung vào công tác từ thiện hay hoạt động văn hoá thì niềm tin của quần chúng sẽ lên cao. Cho nên dù ngày nay Đảng Việt Tân, hậu thân của Mặt Trận, thể hiện điều gì tốt lành đi nữa, chẳng ai còn ngây thơ tin cậy. Mặt Trận HCM đã hủy hoại hoàn toàn niềm tin của những người thực tâm yêu nước chống chủ nghĩa cộng sản. Những cán bộ nhiệt thành của Mặt Trận quý giá biết bao nhiêu, bây giờ trở nên chán nản buông xuôi.

Cựu Đại sứ Bùi Diễm thành lập Nghị Hội Toàn Quốc quy tụ những cựu chuyên viên VNCH, kết nạp hàng ngũ trí thức trẻ nhiệt huyết là một dự án rất thông minh để sửa soạn cho các cuộc thương lượng với nhà cầm quyền trong nước khi hoàn cảnh cho phép. Tức thời Đại sứ Bùi Diễm bị đánh phá bằng những lập luận vô căn cứ. Sự đánh phá đó được phụ hoạ bởi những người muốn thiết lập một phòng tuyến phi cộng sản ở hải ngoại với câu khẩu hiệu “không hoà hợp, không hoà giải” với cộng sản. Những kẻ đánh phá đó chỉ vì đố kỵ, ghen ghét, chứ không phải nhằm cảnh báo điều gì Nghị Hội sẽ gây nguy hại cho công cuộc đấu tranh.

Nếu các đoàn thể chính trị thực sự có sức mạnh, có niềm tự tin thì việc gì mà không dám đối đầu với chiêu bài “hoà giải hoà hợp dân tộc” của chính quyền trong nước rêu rao. Tại sao các đoàn thể chính trị không phản công bằng cách mời các đại diện cộng sản để mặt đối mặt đặt vần đề: “Nào, các ông kêu gọi hoà giải hoà hợp dân tộc, các ông đang nắm quyền trong tay, vậy các ông hãy có một vài động thái để chứng tỏ thiện chí của các ông. Ví dụ thả linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Lê Thị Công Nhân … cho chúng tôi thấy trước, thì chúng tôi sẽ tiếp tay với chính quyền” để xem phản ứng của cộng sản như thế nào? Tôi nghĩ rằng sở dĩ không có tổ chức chính trị nào có đởm lược đề làm điều đó vì sợ đoàn thể khác chụp cho cái mũ “đi đêm với Việt Cộng”. “Trust but verify” là khí cụ để phản công. Từ chối “hoà giải, hoà hợp” là thụ động, né tránh. Dồn nhà cầm quyền vào chính cái khẩu hiệu họ đưa ra, tức là chứng tỏ ta có chính nghĩa trước con mắt thế giới. Trong đấu trang quân sự hay đấu tranh chính trị mà chỉ biết “thủ thế” thì kết qua là từ hoà đến thua thôi!

Trước năm 1975, Miền Bắc xua quân xâm lăng Miền Nam, họ là kẻ gây chiến, nhưng họ dựng lên những phong trào phản chiến, phong trào đòi hoà bình để biến Miền Nam thành kẻ hiếu chiến, làm mất chính nghĩa bảo vệ tự do của Miền Nam trong dư luận quốc tế. Ngày nay chính quyền cộng sản vẫn còn chủ trương phân biệt đối xử bằng chủ nghĩa lý lịch, bỏ tù người bất đồng chính kiến, vận động các chính quyền lân bang đập bỏ tượng thuyền nhân, nhưng họ lại trương ra cái hư chiêu bằng biểu ngữ “hoà giải hoà hợp dân tộc”. Nên nhớ, cái mà đảng cầm quyền đang lo sợ là “diễn biến hoà bình”, nay họ được người chống Cộng ở hải ngoại cũng chống diễn biến hoà bình, thì còn gì thích hợp với họ cho bằng. Nói tóm lại, trước kia Miền Nam có chính nghĩa nhưng bị kẻ thù biến thành phi nghĩa (hiếu chiến). Một lần nữa, những thành phần mệnh danh chống Cộng không khoan nhượng cản bước bất cứ đoàn thể nào, cá nhân nào chủ trương diễn biến hoà bình. Chúng ta lại thua thêm một phen nữa!

Đôi khi tôi tử hỏi: “Phải chăng những người chống Cộng không khoan nhượng này kém đầu óc thông minh hay vì họ sợ CSVN sụp đổ thì mất mục tiêu đấu tranh hoặc tồi tệ hơn họ là công cụ của người cầm quyền trong nước?”. Tôi từng gặp nhiều ông sĩ quan cấp Tá về Việt Nam du hí, làm ăn, nhưng khi trở lại Hoa Kỳ thì cũng phất Cờ Vàng trong các cuộc biểu tình hăng hái lắm. Chẳng ai còn lên án người Việt tị nạn về Việt Nam thăm nhà hay làm ăn như hồi đầu, mà sao hạng người này lại phải đóng kịch khả ố như vậy? Dưới chế độ hà khắc của cộng sản, người dân chịu phận hèn thì hiểu được. Ở xứ sở tự do, tại sao lại phải hèn?

* * *

Khi Hoàng văn Hoan đào thoát khỏi Việt Nam sang Bắc Kinh, Trương Như Tảng vượt biển tìm tự do, có một số nhà làm chính trị chống Cộng bèn nghĩ đến giải pháp Hoan – Tảng. Biết tôi có mối liên hệ với Tướng Nguyễn Cao Kỳ, một đoàn thể chống Cộng cử hai cán bộ đến gặp tôi để nhờ tôi giới thiệu họ với Tướng Kỳ. Mục đích của tổ chức này là nhờ Tướng Kỳ đại diện họ sang Bắc Kinh gặp gỡ Hoàng Văn Hoan để bàn bạc thành lập một Liên minh chống Cộng sản Hà Nội. Mọi phí tổn di chuyển, ẩm thực, tiêu dùng đều do Tổ Chức đài thọ. Sau khi nghe hai anh cán bộ trình bày chủ trương của Tổ Chức, Tướng Kỳ đã trả lời như sau: “Trong vài trường hợp, kẻ thù của kẻ thù là bạn mình. Nhưng trong trường hợp này, tôi nghĩ rằng cái ý tưởng đó không đúng, bởi vì liên minh với Cộng sản Trung Quốc để hạ bệ Cộng Sản Hà Nội thì sự tác hại còn nguy hiểm hơn. Đừng bao giờ quên Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân ta cả ngàn năm”. Sau lời khuyến cáo của Tướng Kỳ, cái ý tưởng thành lập Liên Minh Hoan – Tảng dần dần xẹp đi, không còn nghe ai nói đến nữa. Tướng Kỳ thường bày tỏ với tôi mối quan tâm của ông ta đối với hiểm hoạ Bắc Phương.

Thuật lại mẩu chuyện này, tôi muốn cho người cầm quyền trong nước hiểu rằng Tướng Kỳ là người luôn luôn lo ngại Việt Nam biến thành Giao Chỉ Quận. Cho nên, mỗi lần đi nói chuyện ở các trường Đại Học Hoa Kỳ, Tướng Kỳ đều ra sức vận động chính phủ Hoa Kỳ nên trở lại Việt Nam và kêu gọi Nhà Nước Việt Nam thực thi đại đoàn kết dân tộc. Tướng Kỳ tin rằng chỉ Hoa Kỳ mới có khả năng làm lực đối trọng chống lại mưu toan bành trướng của Trung Cộng. Do đó, đối tượng mà tôi nhắm đến trong bài viết này là những nhà lãnh đạo đang có trách nhiệm với Đất Nước cần phải biết đến tinh thần tự chủ của Tướng Kỳ trong quá khứ đã lãnh đạo Miền Nam vào thời điểm khó khăn như thế nào. Bởi vì, tôi nghĩ, chỉ có những người đang thực sự nắm quyền mới có khả năng thay đổi hướng đi của Đất Nước. Hoặc họ không chịu thay đổi thì nhân dân sẽ đứng lên thay đổi họ. Cộng đồng Hải ngoại bênh hay chống không ảnh hưởng, vì chẳng ai có thực lực.

Năm 1994, ông Nguyễn Văn Quý – Cựu sĩ quan cấp Tá Không Quân VNCH – tổ chức một buổi nói chuyện cho Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ với các anh em cựu quân nhân VN và cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam tại thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Nội dung bài nói chuyện có ba điểm: (1) Vinh danh các chiến sĩ trong Quân Lực VNCH và cám ơn những cựu chiến binh Hoa Kỳ đã chiến đấu cho VN, (2) Nêu lên những sai lầm trong chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam thời bấy giờ, (3) Chiến tranh đã chấm dứt, Hoa Kỳ nên thiết lập bang giao với Việt Nam. Phần ba (3) của buổi nói chuyện làm cho một số cư dân địa phương, trong đó có cả cựu quân nhân Quân Lực VNCH, la ó phản đối và hô khẩu hiệu “Nguyễn Cao Kỳ đâm sau lưng chiến sĩ”! “Nguyễn Cao Kỳ đón gió trở cờ” (vì tội cổ suý Hoa Kỳ trở lại Việt Nam). Nghị sĩ Phạm Nam Sách liền chớp cơ hội, viết một bài báo mạt sát Tướng Kỳ là “Chó nhảy bàn độc”. Nghị sĩ Phạm Nam Sách, có tên trong liên danh Bông Lúa của Đại Việt Cách Mạng do cụ Hà Thúc Ký lãnh đạo. Vì thế, ông Sách và tôi có mối liên hệ quen biết. Tôi đã tìm gặp anh Sách sau khi đọc bài báo để nêu thắc mắc:

– Này anh Sách, có phải anh nhiếc Tướng Kỳ là “Chó Nhảy Bàn Độc”, bởi vì anh khinh Tướng Kỳ là kẻ ít học, ngu dốt, nhờ gặp thời mà bước lên địa vị lãnh đạo quốc gia?

Không một chút do dự, anh Sách đáp ngắn gọn:

– Đúng thế!

Trong cách trả lời của anh Sách, tôi nhận thấy cái thái độ tự kiêu của kẻ cả, nên tôi lại hỏi:

– Nếu tôi bảo anh viết bài báo ấy cũng là dốt thì anh nghĩ sao?

– Cậu thử chứng minh cho mình nghe xem! Giọng nói anh Sách không thay đổi, vẫn kẻ cả!

– Thật ra, những gì ông Kỳ nói trong buổi diễn thuyết không có gì gọi là sáng kiến, mà đó chỉ là hành động đẩy một cánh cửa đã hé mở. Nếu anh cẩn thận một chút, nghiên cứu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong tương lai sẽ ra sao thì anh không viết một bài báo nặng lời như thế. Mới đây trên tờ Foreign Affairs đăng lời phát biểu của cựu Ngoại trưởng James Baker (dưới trào Reagan) thảo luận với những học giả chuyên gia về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, có nội dung như sau: “Thế kỷ 21, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sẽ phải đặt trọng tâm vào phần đất Á Châu”. Thế thì chuyện Hoa Kỳ trở lại Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Theo nhận định của tôi, Hoa Kỳ thiết lập bang giao với Việt Nam để ngăn chặn hiểm hoạ Trung Quốc – một lân bang luôn luôn ôm mộng bá quyền – là tốt cho nhân dân mình. Tại sao anh lên tiếng phản đối? Anh là người viết có tên tuổi trong cộng đồng, một bài viết của anh rất có ảnh hưởng đến tư tưởng quần chúng. Lần sau anh nên thận trọng hơn để không lộ ra cái dốt và nên dùng ngôn từ nhã nhặn của người cầm bút lễ độ có trách nhiệm. Nhất là đối với ông Kỳ, là người mà anh đã chịu ơn trước năm 1975.

Biết mình đã hố, nhưng anh Sách vẫn cố bào chữa một cách yếu ớt:

– Chính sách của Mỹ là một chuyện của Mỹ; chủ trương của mình là một chuyện của mình. Cậu cứ tưởng mọi việc Mỹ làm là đúng cả sao?

– Không! Tôi không hề nghĩ mọi việc Hoa Kỳ làm đều đúng cả. Nhưng riêng trong việc Hoa Kỳ trở lại Việt Nam, tôi nghĩ là đúng, vì nước mình cần có một thế lực đối trọng với Phương Bắc để giúp mình bảo vệ lãnh thổ. Hơn nữa, nơi nào có Hoa Kỳ đặt chân đến thì nơi đó dần dần sẽ phải có dân chủ.

– Cậu nói thế sao được? Rồi mai mốt tụi Việt Cộng có toà Đại sứ, toà Tổng Lãnh sự ở đây. Cờ đỏ sao vàng bay phấp phới khắp nơi thì mình sống làm sao nổi?

– Xin hỏi anh câu chót, không cần anh trả lời: Mục đích Chống Cộng của anh là để nhân dân ta trong nước no ấm, có tự do dân chủ hay anh định lập một phòng tuyến “phi Việt cộng” trên cái xứ sở mà quyền lập hội, lập đảng được Hiến pháp bảo vệ và tôn trọng?”. Cờ đỏ sao vàng của Việt Cộng bay thì cũng giống như cờ đỏ năm sao vàng Trung Cộng bay, mặc kệ nó, việc gì mà mình sống không nổi? Chúng ta không quan tâm việc Hoa Kỳ cấm vận Cuba. Nhưng Hoa Kỳ cô lập Việt Nam thì Việt Nam sẽ bám vào Trung Cộng làm khổ dân mình.

Tôi cho rằng nhà trí thức Phạm Nam Sách là người chống Cộng do cảm tính mà ra (vì dị ứng với lá Cờ Đỏ Sao Vàng?), nên không có cái viễn kiến nhìn xa trông rộng để biết rằng sự hiện diện của Hoa Kỳ là có lợi cho tương lai dân Việt Nam. Năm 2003 Nhà Nước Việt Nam cử ông Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin sang mời Tướng Kỳ về Việt Nam để nhìn thấy sự đổi thay của Đất Nước. Tướng Kỳ gọi điện thoại thông báo ý định của ông với Đại sứ Bùi Diễm, Trung tá KQ Vũ Đức Vinh thì hai ông bạn này khuyên Tướng Kỳ không nên về vì không thể tin vào thiện chí của người cộng sản, họ chỉ lợi dụng tên tuổi ông Tướng. Sự hoài nghi của hai người bạn Tướng Kỳ là đúng, vì lo ngại thanh danh của Tướng Kỳ bị đốt cháy. Ông Võ Long Triều không những tán thành, mà còn viết cho Tướng Kỳ một bản tuyên bố để đọc khi đặt chân xuống Sài Gòn. Riêng tôi, khi được hỏi, đã trả lời như sau: “Chính quyền Việt Nam gửi một ông Thứ trưởng sang mời ông Tướng, tất nhiên họ có nhu cầu tìm hiểu đường hướng ngoại giao với Hoa Kỳ qua kinh nghiệm của ông Tướng. Ông là nhà lãnh đạo duy nhất của Miền Nam còn sống sót có thể giúp họ sự hiểu biết chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ tường tận hơn. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm là người “ngậm miệng” từ lâu nay, ai mà cậy miệng ông ta được? Tôi nghĩ ông Tướng chỉ có thể đóng vai trò như một “counselor” (ông Cố vấn), nhưng ông vốn là người quyền biến thì tùy hoàn cảnh mà ứng phó. Ông đâu phải giống như Cựu Hoàng Bảo Đại thuở xưa ngự giá hồi loan mà đọc bản tuyên bố? Cái lo nhất của tôi là lo cho sinh mạng của ông, vì nội tình cộng sản có phe đổi mới, có phe bảo thủ thân Trung Cộng. Nhất là phe thân Trung Cộng biết ông có mối lo Giao Chỉ Quận thì họ không ưa ông lắm đâu. Nghĩa là ông đang sửa soạn đi vào hang cọp đấy!”.

Nghe lời cảnh giác của tôi, Tướng Kỳ mỉm cười: “Câu nói của anh làm tôi nhớ hồi xưa trước khi đi bay những phi vụ thả biệt kích ở ngoài Bắc hoặc sau đó bay Bắc Phạt, anh em cũng lo lắng cho tôi như vậy. Nếu vì Đất Nước mà phải hy sinh tính mạng thì tôi cũng phải làm”. Tôi nói: “Ngày đó ông thi hành phi vụ Bắc Phạt bằng 24 phi cơ được sinh viên, học sinh thành phố Huế tiễn đưa như những chàng Kinh Kha sang Tần, hôm nay ông đơn thương độc mã đi vào lòng địch thì bị những gào thét phản đối. Ông có buồn không? Ông còn nhớ cái câu ông nói ‘bạc như dân, bất nhân như lính’ khi các Tướng lãnh giết anh em ông Diệm sau đảo chánh 1 Tháng 11 năm 1963 không? Liệu ông muốn cứu Việt Nam thoát khỏi nguy cơ Giao Chỉ Quận có được nhân dân cám ơn ông không?” Chẳng trả lời các câu hỏi của tôi, Tướng Kỳ nhún vai như biểu lộ một lời tâm sự: “Chí ta, ta biết; lòng ta, ta hay!”. Ở địa vị một cựu Tướng lãnh hoạt bát, có thành tích chống Cộng lẫy lừng trong quá khứ, nếu Tướng Kỳ thích được Cộng Đồng tung hô, cứ hô hào chống Cộng như người khác để được mời đọc diễn văn trong các dịp lễ như Ngày Quân Lực, Ngày Quốc Hận là việc quá dễ dàng. Nhưng thử hỏi, hành động như thế thì làm sao thay đổi tình trạng Đất Nước? Nếu lý luận rằng đã có biết bao nhiêu nhà tranh đấu trong nước ngoài nước góp ý với Đảng mà chẳng ăn thua, thì Tướng Kỳ làm sao có thể lay chuyển cộng sản? Đừng quên lời dạy của cha ông: “Tận nhân lực, tri thiên mạng”. Thấy việc khó mà khoanh tay thì sao gọi là hào kiệt trên đời? Làm lịch sử không dành cho những ai chọn con đường đấu tranh đã được người ta trải thảm. Nếu đảng CSVN nghe lời nhà trí thức Hà Sĩ Phu từ thế kỷ trước mà “chia tay ý thức hệ” thì Tướng Kỳ đâu phải bôn ba vì chuyện Nước Non? Ông không đòi lật đổ chế độ như những người chẳng có chút thực lực nào, ông chỉ đề nghị với người cầm quyền thay đổi đường lối để tránh hiểm hoạ bành trướng từ Phương Bắc, thì có gì là sai trái? Có gì gọi là nịnh bợ cộng sản? Có gì gọi là đâm sau lưng chiến sĩ?

Trước khi về nước, ông dừng chân tại Bangkok, Thái Lan hai hôm. Ở Sài Gòn có tờ báo Công An cộng sản đăng bài bôi nhọ đời tư ông. Ông gọi điện thoại về cho tôi biết ông đã hỏi Bộ Ngoại Giao Việt Nam có muốn ông về nước hay không. Tại sao lại có trò chơi bẩn như thế? Bộ Ngoại giao trả lời rằng họ cũng đang điên đầu vì bài báo này, Họ hứa sẽ can thiệp để không có chuyện này xảy ra nữa.

Về tới Sài Gòn, Tướng Kỳ trả lời cô ký giả Hồng Nga của đài BBC: “Tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa cộng sản”. Nghe câu trả lời khẳng khái của ông qua máy computer, tôi rất lấy làm hài lòng: “Tướng Kỳ vẫn là con người khí phách của thời trai trẻ”. Đã mấy ai về Việt Nam dám ngang nhiên nói như vậy? Ngày hôm sau, ông mở cuộc họp báo tại khách sạn Sheraton. Ông tự giới thiệu ông nguyên là Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà cho những ký giả trẻ biết, nhưng đồng thời ý ông muốn xác định sự chính thống (legitimacy) là Miền Nam có một chính phủ dân cử hợp Pháp, hợp Hiến, chứ không phải là Ngụy Quyền. Một ký giả hỏi có phải ông xin Nhà Nước để về Việt Nam và Nhà Nước đã cho ông về. Ông đáp: “Nếu vì Đất Nước mà xin thì có gì xấu và nếu vì Đất Nước mà cho thì có thì đáng hãnh diện? Hãy bỏ cái tinh thần Xin – Cho Lý Toét Xã Xệ ấy đi. Nhà Nước này có cái gì cho tôi mà bảo tôi phải xin?” Một ký giả khác hỏi: “Ông nghĩ thế nào người Việt ở nước ngoài la ó, đả đảo sự trở về của ông?”. Tướng Kỳ đáp: “Tôi về vì Đất Nước này, chứ không phải tôi về vì mấy ông Hải ngoại hay vì mấy ông Chính quyền”. Một câu hỏi tiếp theo được đặt ra: “Ông nói ông về vì Đất Nước. Xin hỏi, ông mang gì về Đất Nước?”. Không cần nghĩ ngợi, Tướng Kỳ đáp ngay: “Tôi mang Nguyễn Cao Kỳ về đây”.

Trả lời một cách tự tin như thế, vì ông tự hào về quá trình phụng sự Đất Nước của ông. Tôi đăng lại bài trả lời của Tướng Kỳ với cô ký giả Oriana Fallaci người Ý – một ký giả thân Cộng – vào năm 1967 khi ông đang là Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà, 37 tuổi, để những người lãnh đạo trong nước hiểu tư duy của Tướng Kỳ.

Gặp lại tướng Nguyễn Cao Kỳ năm 1967

Nhà báo, tác giả người Ý Oriana Fallaci là người đã thực hiện các cuộc phỏng vấn với các nhân vật chính trị nổi tiếng như Henry Kissinger, giáo chủ Shah của Iran – Ayatollah Khomeini, Willy Brandt, Nguyễn Cao Kỳ, Yasser Arafat, Indira Gandhi, Golda Meir, Nguyễn Văn Thiệu, Sean Connery, và nhiều người khác.

Fallaci: Tướng Kỳ này, có phải ông đang nói về cách mạng không?

Nguyễn Cao Kỳ: Ðã hẳn. Ðiều người Mỹ không biết là Miền Nam cần một cuộc Cách mạng để ngang hàng với lý tưởng cách mạng ở Miền Bắc, để chứng tỏ không phải chỉ ở Miền Bắc mới cần công chính... Tôi không màng những cuộc bầu cử mà Mỹ đòi hỏi phải có. Hầu hết những người được bầu ra ở Miền Nam không phải là những kẻ dân muốn chọn, họ không đại diện cho ai cả. Những cuộc bầu cử vừa rồi của chúng tôi là một cách phung phí thì giờ và tiền bạc, một trò hề... Tôi cũng đã ra ứng cử, đã đắc cử như một Phó Tổng Thống của một chế độ đã được chọn ra như thế, nghĩa là tôi cũng có trách nhiệm với trò hề đó. Nhưng ít ra thì tôi cũng thấy được cái xấu xa quỷ quái chỗ nào. Và tôi nói luật pháp phải thay đổi, vì những luật lệ hiện hành của chúng tôi là luật bảo vệ nhà giàu. Chúng tôi cần những luật lệ bảo vệ người nghèo.

Fallaci: Tướng Kỳ này, đó chính là điều Hồ chí Minh nói, điều Việt Cộng nói. Ðó là xã hội chủ nghĩa, là Mác-xít.

Nguyễn Cao Kỳ: Thì có ai chối đâu? Tôi đâu có ngán mấy chữ "xã hội chủ nghĩa". Chính người Mỹ đã làm cho mấy chữ đó trở thành xấu xa... Cô bảo tôi là một tay Mác-xít. Ðây không phải là lần đầu tiên một người Âu Tây bảo tôi như thế. Như vậy, có thể tôi là một tay Mác-xít. Thì đã sao? Tôi không hề biết Marx, Engels, hoặc bất cứ một lý thuyết gia nào gốc Âu châu. Họ lập thuyết và tôi không hơi đâu mất thì giờ với lý thuyết. Thành thật mà nói, tôi không đọc sách. Tôi cũng không xấu hổ nhận rằng tôi ít học. Sức học của tôi chưa quá Trung học. Tôi là một phi công, sống chết với máy bay chứ không phải với sách của Marx hay của Engels. Tôi không cần bận tâm chuyện Marx đã khám phá ra rằng nhà nghèo không cần phải nghèo mãi. Tôi không cần khám phá của Marx mới biết điều sơ đẳng đó. Tôi là người da vàng, người Á châu, tôi hiểu đất nước tôi hơn những người da trắng đã viết ra sách vở.

Fallaci: Tướng Kỳ ơi, nói gì thì nói, sự thật là nếu ông đọc những sách đó thì ông sẽ ý thức rằng ông đang nói những điều mà chính những người ông đang đánh nhau với cũng nói y hệt. Ông có thể cho tôi biết tại sao ông chống Cộng Sản không?

Nguyễn Cao Kỳ: Tôi chỉ biết Cộng Sản trong xứ tôi thôi. Và tôi không thích thứ Cộng Sản ấy. Tôi không thích thấy một đứa con nhân danh Đảng đấu tố cha mẹ mình. Tôi không thích một Đảng nhân danh ý thức hệ để đạp đổ gia đình và những tình cảm gia tộc. Tôi không thích một xã hội trong đó mỗi người là một đảng viên. Do đó, dù tôi chống cái tự do đã gây nên hỗn độn và ngăn trở thực hiện công bằng xã hội, nhưng tôi cũng chống độc tài nữa. Tôi không biết phải nói sao về điều ấy. Ðó là lý do tại sao tôi chống Cộng. Nhưng dĩ nhiên tôi không chống Cộng khi họ phân chia tài sản, và tôi đồng ý trăm phần trăm với họ khi họ tước đất của người giàu đem phân phát cho người nghèo. Khi họ trao súng cho nông dân và bảo: “Hãy đấu tranh cho một cuộc đời tốt đẹp hơn. Khi họ tước bỏ những đặc quyền đặc lợi giai cấp, khi họ nói rằng phân chia giai cấp là sai. Như Khổng Tử từng nói, chúng ta phải nâng kẻ nghèo lên và hạ người giàu đến một mức mà mọi người có thể hoàn toàn hoà hợp chung sống. Tôi chống vì họ không làm nhu họ đã nói.

Fallaci: Tướng Kỳ này, có lúc nào ông nghĩ rằng ông đã lựa chọn sai chỗ đứng không? Có bao giờ ông nghĩ rằng ông có thể hợp với Hồ chí Minh không?

Nguyễn Cao Kỳ: Vâng... nếu số phần của tôi khác thì tôi đã đứng về phía ông ấy rồi. Nhưng theo ông ấy thì bây giờ tôi là gì? Tôi có thể chỉ là một cán bộ quèn câm nín trong guồng máy đảng, chẳng làm nên tích sự gì. Còn ở phía bên này, tôi là Nguyễn Cao Kỳ; và tôi có thể làm được việc này việc khác. Dĩ nhiên, một con én không làm nên mùa Xuân nhưng con én ít ra cũng báo hiệu mùa Xuân... Ðôi khi người ta hỏi tôi: anh có muốn biết qua về Hồ Chí Minh không? Thành thật mà nói tôi không muốn, và cô biết tại sao không? Vì ông ấy thuộc thế hệ khác. Dĩ nhiên ông ấy là một lãnh tụ tài ba, nhưng ông ấy già rồi. Ông ấy ngoài bảy mươi còn tôi thì mới 37... Những người như Hồ Chí Minh không thuộc thế kỷ này, hệ thống chính trị của họ cũng đã lỗi thời... (Lời nhận định này là một tiên tri ở thế kỷ trước được nói ra từ một quân nhân trẻ bị chê ít học. Ghi chú của người viết)

Fallaci: Nhưng Tướng Kỳ ơi, nếu ngày nào đây, ông thấy ông không thể thực hiện cuộc cách mạng của ông, rằng ông đã chọn lầm phe, ông có sẵn sàng nhảy qua bên kia không?

Nguyễn Cao Kỳ: Không. Ðã chọn thì phải đi đến cùng. Sớm muộn gì, nếu tôi thấy tôi đã chọn nhầm thế đứng thì tôi thà chết còn hơn là đổi phe... Tôi thà chết hơn là phải thú nhận mình đã chọn lầm đường đi...

Fallaci: Ông thực sự tin ông sẽ thành công, hay ông chỉ mơ ông thành công?

Nguyễn Cao Kỳ: Tôi tin vào vận mạng của tôi, cho nên tôi tin tôi sẽ thành công, trừ trường hợp chúng (không phải là cộng sản) giết tôi. Nếu chúng không giết tôi thì tôi chắc thắng vì tôi không thuộc phe thiểu số. Ðại khối quần chúng – người nghèo, nông dân – ủng hộ tôi.

Cảm tưởng của cô Oriana Fallaci sau cuộc phỏng vấn là: “Nguyễn Cao Kỳ đáng... là lãnh tụ của một vùng đất thiếu lãnh tụ một cách đau đớn”. Quý vị sẽ nhận thấy điều đó khi ngỡ ngàng lắng nghe ông ta khoảng hơn 10 phút. Tướng Kỳ không phải là một anh chàng ngố, ông ta có điều muốn nói, và ông nói huỵch toẹt mà không sợ vạ miệng”. (Dịch sang tiếng Việt do Giới Tử thực hiện).

Câu nhận xét sau cùng của cô Oriana Fallaci phản ảnh đúng cá tính của Tướng Kỳ: Không bao giờ ngại ngùng khi phải nói lên ý nghĩ của mình. Năm 2004, ngồi tại Sài Gòn, Tướng Kỳ nói lên nhận định của ông về Đất Nước với những người cộng sản cao cấp: “Cái khủng hoảng lớn lao nhất của các anh hiện giờ là không có lãnh đạo, vì các anh chủ trương tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Cho nên, cuối cùng chả có cá nhân nào lãnh đạo ”. Nhận xét của Tướng Kỳ rất chính xác, bởi vì chính cựu Thủ tướng Phan Văn Khải từng thú nhận: “Trên bảo dưới không nghe”. Tôi nêu ra đây những đặc tính của Tướng Kỳ để các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện hành thấy tại sao cô ký giả thân Cộng Oriana Fallaci có câu kết luận như trên sau khi phỏng vấn ông ta:

1. Thanh liêm: Liên Phi đoàn Vận tải là đơn vị thực hiện nhiều công tác xuất ngoại hàng tháng: Hongkong, Singapore, Mã Lai, Đài Loan, Nhật Bản… là những nơi tràn ngập hàng hoá mà dân Sài Gòn cần. Không Quân VN cho phép phi hành đoàn mỗi người mua một ít hàng hoá giới hạn để bán kiếm lời. Riêng Tướng Kỳ – không có người thứ hai – chẳng hề mua bất cứ một món gì, ngoại trừ một lần duy nhất mua cho Mẹ một cái radio transitor hiệu Phillips. Dù là cấp chỉ huy, lương lính rất thiếu thốn, nhưng Tướng Kỳ chấp nhận sống thanh bạch. Khi ông làm Tư Lệnh Không Quân, Đại tướng Nguyễn Khánh tặng ông tấm ngân phiếu một triệu đồng (tiền VNCH). Bỗng nhiên trở thành triệu phú, ông cầm tấm ngân phiếu khoe với mọi người chung quanh, giữ trong túi được hai hôm rồi đem tặng một triệu đồng đó vào qũy xã hội KQ. Những phi công trong đơn vị được ông ký giấy cho sang bay Air Vietnam (Hàng không dân sự), chẳng ai phải đút lót cho ông một đồng xu nào. Làm Thủ tướng, ông quyết tâm diệt trừ tham nhũng. Tạ Vinh bị án tử hình, Ba Tàu Chợ Lớn mang vào căn cứ Tân Sơn Nhất tặng ông hai trăm (200) triệu đồng, ông không nhận. Ông Bố Tổng thống Kennedy nói: “Người nào cũng mua được tùy theo cái giá. Một triệu đồng không mua được. Mười triệu đồng không mua được. Nhưng một trăm triệu đồng thì rồi cũng mua được”. Suốt hai năm làm Thủ tướng, quyền hạn tuyệt đối nằm trong tay, không có một cơ chế nào kiểm soát, ông không hề mang tiếng mua quan bán chức, hà lạm công quỹ. Khi thôi làm Thủ tướng, ông ký bàn giao cho người kế nhiệm Nguyễn văn Lộc đầy đủ qũy đen mà ông có quyền tiêu không cần chứng minh. Nghệ thuật hối lộ của gian thương Chợ Lớn rất cao siêu, nếu người cầm quyền không giữ mình trong sạch, rất dễ bị cám dỗ. Chỉ một chữ ký cho phép độc quyền nhập cảng như xe gắn máy Honda, sữa bột Guigoz là có thể bỏ túi hàng trăm triệu đồng. Là Thủ tướng, Phó Tổng thống, Tướng Kỳ không có một căn nhà riêng, không có tài khoản trong ngân hàng là điều độc nhất vô nhị.

2. Dũng cảm: Là quân nhân tác chiến, Tướng Kỳ luôn luôn đi đầu trong các cuộc hành quân nguy hiểm. Không những thế, ông dám vì lợi ích Đất Nước mà nói lên điều công chính. Trong cuộc họp đơn vị trưởng, ông nói thẳng với ông Đại tá Tư Lệnh KQ: “Tôi không chấp nhận đưa đảng phái vào Quân đội, vì như thế những phần tử bất tài nhưng khéo nịnh hót chạy theo Đảng để thăng quan tiến chức thì Quân đội sẽ bất mãn, không còn tinh thần chiến đấu chống lại kẻ thù”. Kinh nghiệm bản thân cho tôi biết, có rất nhiều quân nhân rất can đảm ngoài chiến trường, nhưng lại rất rụt rè, không dám chống lại điều sai trái của cấp trên, vì sợ bị thiệt thòi cho bản thân. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, sự phản đối của Tướng Kỳ dễ bị đi tù như chơi. May mà ông Cố vấn Ngô Đình Nhu hiểu bản chất Tướng Kỳ là phi chính tri, một cấp chỉ huy giỏi, nên bỏ qua nội vụ. Sau Cách mạng 1 Tháng 11 năm 1963, tu sĩ Phật giáo tranh đấu rất hống hách. Bất cứ chính quyền nào lập lên đều bị họ kết tội “Chính phủ Diệm, không Diệm”. Các Tướng lãnh ưa làm chính trị, các chính khách xôi thịt đều o bế các Thầy. Riêng Tướng Kỳ khi lên làm Thủ tướng, ông ra lệnh trả tự do cho các đảng viên Cần Lao, trả lại tài sản của Cần Lao bị các chính phủ trước tịch thu. Các Thầy chùa tranh đấu gây rối loạn, ông mời vào nhà ông trong căn cứ Tân Sơn Nhất, nhìn thằng vào mặt các Thầy, ông nói: “Về chính trị tôi không bằng Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng tôi can đảm hơn ông Diệm. Các Thầy đừng tưởng giết được ông Diệm là có thể giết được tôi. Trước khi tôi chết, tôi sẽ đem từng Thầy ra tôi bắn. Các Thầy nghe rõ chưa?”. Nghe Tướng Kỳ nghiêm sắc mặt nói như thế, Thượng toạ Thích Tâm Châu nhẹ nhàng trấn an: “Thiếu tướng đừng nóng nảy. Chúng ta là người đồng đạo cả mà!”. Ông đáp: “Tôi là con Phật, các Thầy chỉ là đồ đệ Phật. Tôi đã giúp đỡ các Thầy tiền để xây chùa Vĩnh Nghiêm, không phải vì tôi sợ các Thầy. Tôi muốn các Thầy trở về chùa, làm công tác Phật sự, tu hành chứ không được dính vào chính trị”. Kề từ đó, các Thầy không dám gây rối, bởi vì họ biết ông Kỳ nói là ông Kỳ làm.

3. Bảo vệ chủ quyền Quốc Gia: Khi sang dự hội nghị Thượng đỉnh với Lyndon Jonhson tại Honolulu, đọc một bài diễn văn nói về chính sách quốc gia, Tướng Kỳ được Tổng thống Hoa Kỳ khen nói tiếng Anh thạo như một chú Mỹ con. Nếu là nhà chính trị khéo ngoại giao, Tướng Kỳ sẽ trả lời: “Cám ơn Ngài đã quá khen”. Nhưng không, Tướng Kỳ đã nhìn thẳng vào Tổng thống Johnson mà đáp lại rằng: “tôi sẽ không bao giờ là đứa Mỹ con”. Tổng thống Johnson kể từ phút đó tỏ ra rất trọng vọng Tướng Kỳ. Năm 1966, khi mang quân ra dẹp loạn ở Miền Trung, viên Cố vấn Quân Đoàn I là Trung tướng Lewis Walt, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đòi gặp để biết Tướng Kỳ dự định làm gì. Ông từ chối vì bận hành quân, không tiếp. Tướng Walt ra lệnh cho phi cơ F-4C lên uy hiếp phi cơ của ta, Tướng Kỳ ra lệnh cho pháo binh Việt Nam chĩa đại bác vào căn cứ Chu Lai, hễ thấy chiếc phi cơ F-4C nào di chuyển trên phi đạo là bắn ngay. Tướng Lewis Walt phải nhượng bộ. Khi dẹp loạn xong, Tướng Walt xin gặp, Tướng Kỳ chấp thuận. Tướng Walt bước vào phòng, đứng thế nghiêm, đưa tay lên trán chào. Tướng Kỳ vẫn chăm chú đọc xấp hồ sơ trên bàn một lúc lâu mới ngẩng mặt lên hất hàm hỏi: “Trung tướng muốn gặp tôi có chuyện gì?” Tướng Walt đáp: “Vùng I Chiến thuật là vùng trách nhiệm của tôi. Tôi có quyền biết các hoạt động quân sự trong vùng”. Tướng Kỳ hỏi: “Trung tướng có bao nhiêu năm quân vụ? Trung tướng có hiểu hệ thống quân giai là gì không?” Tướng Walt ngạc nhiên: “Tôi có 23 năm quân vụ, tại sao ông Thủ tướng hỏi tôi câu đó?”. Tướng Kỳ chậm rãi giải thích: “Có bao giờ cấp chỉ huy phải báo cáo cho thuộc cấp biết việc gì mình sắp làm không? Tôi là Thủ tướng của VNCH, ông là Cố vấn Vùng I. Ông có biết tôi chỉ cần nhấc điện thoại gọi Tổng thống Johnson để nói tôi không hài lòng về sự hiện diện của ông ở đây thì ông sẽ phải cuốn gói về nước trong vòng 24 giờ không?” Trung tướng Walt đáp “hiểu”, rồi đưa tay lên chào, quay 180 độ bước ra khỏi phòng hành quân. Đại tá Dương Thiệu Hùng, Trung tá Lưu Kim Cương và các sĩ quan hiện diện thấy chủ Tướng của mình ứng xử với ông Tướng đồng minh như thế, thì hãnh diện lắm. Năm sau, Tướng Walt mãn nhiệm kỳ, Tướng Kỳ bay ra Đà Nẵng gắn huy chương cho Tướng Walt. Ba năm sau gặp nhau lại tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn trong buổi dạ tiệc, Tướng Walt lúc bấy giờ trở thành Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đến bắt tay Tướng Kỳ và nói lớn với tất cả quan khách: “Tôi rất cám ơn Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ vì ông đã dạy cho tôi một bài học quý giá về sự lãnh đạo và chỉ huy”. Người Mỹ rất biết đánh giá lãnh đạo Miền Nam. Tuy là Phó Tổng thống nhưng Nixon đón tiếp Tướng Kỳ tại Toà Bạch Ốc; còn Tướng Thiệu là Tổng thống thì Nixon đón ở San Clemente, tiểu bang California mà thôi. Phó Tổng thống là chức vụ ngồi chơi xơi nước, chỉ lo phần nghi lễ, nhưng Đại sứ Bunker thường xuyên vào căn cứ Tân Sơn Nhất để nhờ Tướng Kỳ thuyết phục Tổng thống Thiệu làm một số dự án mà ông Thiệu đã hứa nhưng không bao giờ thực hiện. Khi phái đoàn thương thuyết VNCH ở Paris gặp trở ngại với ông Đại sứ Averell Harriman, Tổng thống Thiệu yêu cầu Tướng Kỳ sang giải quyết. Đại sứ Harriman là một viên chức ngoại giao lão thành của Hoa Kỳ, từng đại diện Tổng thống Roosevelt tham dự hội nghị Yalta với Staline, Churchill, nên đối với Việt Nam ông ta thường tỏ ra cao ngạo, hách dịch. Mỗi khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà phát biểu, ông ta bỏ máy nghe ra khỏi tai. Biết tin Tướng Kỳ vừa đến Pairs, ông đòi gặp Tướng Kỳ ngay, nhưng Tướng Kỳ từ chối, viện cớ đi xa hãy còn mệt. Thực ra, đó là chủ tâm của Tướng Kỳ. Hôm sau, Harriman đến tận lâu đài Tướng Kỳ đang cư ngụ để thăm xã giao và thảo luận một số vấn đề. Hai người ngồi vào bàn an vị, người hầu cận đặt hai tách trà xuống mặt bàn, vừa bước ra khỏi, Tướng Kỳ bắt đầu: “Thưa ông Đại sứ, tôi nghe nhân viên của tôi phàn nàn ông Đại sứ có xu hướng bênh vực quan điểm của kẻ thù chúng tôi. Tôi không tin điều đó, nay trước mặt tôi, ông Đại sứ hãy xác nhận cho tôi biết ông đứng ở phía nào. Nếu ông Đại sứ đứng về phía bên kia, xin mời ông uống hết tách nước trà này, rồi ra về. Chúng ta không có gì để nói với nhau”. Nghe xong câu hỏi của Tướng Kỳ, Đại sứ Averell Harriman đứng lên bắt tay Tướng Kỳ và nói: “General, you deserve your reputation”. (Thưa Tướng quân, Ngài xứng đáng với uy danh của Ngài). Một lần nữa, Tướng Kỳ đã làm cho một nhà ngoại giao lão thành của Hoa Kỳ phải kính nể.

4. Lòng khoan dung độ lượng: Khi Nội các dân sự Phan Khắc Sửu – Phan Huy Quát trao quyền lại cho Quân Đội, trong cuộc họp của Hội đồng Quân Lực nhằm chọn người ra làm Thủ tướng, Tướng Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, vì ông Thiệu đang giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trường Quốc Phòng trong Nội các dân sự, vừa có kinh nghiệm, vừa cao niên. Ông Thiệu là một người khôn ngoan, biết tình hình Đất Nước quá khó khăn không thể đảm đương nổi, nên nhất mực từ chối dù được nhiều người yêu cầu. Cuối cùng ông Thiệu phát cáu, nói: “Nếu ai còn đề nghị tôi nữa thì tôi sẽ bỏ phòng họp ra về, để anh em tự lo liệu với nhau”. Kế đó, Tướng Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, nhưng cũng giống như Tướng Thiệu, Tướng Thi nhất mực từ chối. Sau giờ giải lao vào họp lại, Tướng Thiệu tuyên bố: “Buổi họp hôm nay quyết định sự sống còn của Quốc Gia, chúng ta không thể lẩn tránh trách nhiệm trước lịch sử, tôi vừa mới bàn với Tướng Nguyễn Chánh Thi và hai chúng tôi đồng ý đề nghị Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ chấp nhận đứng ra thành lập chính phủ”. Tướng Thiệu vừa dứt lời, toàn thể Đại hội vỗ tay hoan hô. Lời nói nghiêm trọng của Tướng Thiệu đã khiến cho Tướng Kỳ không thể khước từ. Ông nói: “Là quân nhân, tôi sẵn sàng tuân lệnh anh em để nhận lãnh trách nhiệm. Kỷ luật là sức mạnh Quân Đội, tôi yêu cầu tất cả anh em hãy hy sinh, đoàn kết để mang lại ổn định và dồn nỗ lực đánh bại kẻ thù”. Mọi người rât cảm động trước những lời nói tâm huyết của Tướng Kỳ. Tuy là một sĩ quan trẻ, mới 35 tuổi, không có kinh nghiệm chính trị, nhưng Tướng Kỳ đã thành lập một chính phủ – Nội các Chiến tranh – được đồng minh đánh giá là một chính phủ quân bình Trung Nam Bắc gồm quân nhân và dân sự đều là những chuyên viên trẻ, có lý tưởng. Quả nhiên, Tướng Kỳ đã đem lại sự ổn định. Từ đó không còn có những cuộc đảo chánh, chỉnh lý như trước nữa. Thấy Tướng Kỳ bình định tình hình không mấy khó khăn, có lẽ Tướng Nguyễn Chánh Thi cảm thấy hối tiếc vì đã từ chối lời đề nghị của Tướng Kỳ đứng ra thành lập chính phủ, nên Tướng Thi cấu kết với thầy chùa Thích Trí Quang manh tâm gây áp lực Chính quyền Trung Ương. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ gửi văn thư yêu cầu Tướng Thi chú tâm lo việc bình định, an ninh lãnh thổ, không nên dính dáng vào chính trị. Tướng Nguyễn Chánh Thi tức giận, dùng bút chì mỡ mầu đỏ phê hai chữ “Con C…” thật lớn trên tờ văn thư, rồi gửi trả về Trung Ương. Tuần sau, Tướng Kỳ hướng dẫn phái đoàn Quốc phòng ra Trung thanh tra. Lẽ ra Tư Lệnh Vùng hay Tỉnh trưởng phải đích thân thuyết trình, Tướng Thi dùng ông Phó Tỉnh trưởng Hành chánh thuyết trình, lại có luận điệu chê bai chính quyền Trung Ương, nhưng Tướng Kỳ vẫn bình thản. Khi tiễn phái đoàn về Sài Gòn, phi cơ vừa lăn bánh, Tướng Thi và ông Phó Tỉnh trưởng đưa hai tay lên cao, đập vào nhau như kiểu Mỹ “Hi Five” để tỏ vè hài lòng vì đã “chơi” ông Thủ tướng một quả đau. Ngồi trong lòng phi cơ nhìn xuyên qua cửa kính, Tướng Kỳ nom thấy hành động đắc chí của ông Tư Lệnh Vùng I, liền ra lệnh cho Trung tướng Nguyễn Hữu Có – Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng – đánh điện về Sài Gòn bãi chức Tướng Thi. Phong trào tranh đấu Phật Giáo nổi lên, áp lực Chính quyền Trung Ương phải trả lại chức Tư Lệnh Vùng I cho Tướng Nguyễn Chánh Thi. Ba ông Tướng Bộ Binh gồm Nguyễn Văn Chuân, Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính lần lượt thay Tướng Thi làm Tư Lệnh Quân đoàn I, nhưng cả ba ông đều không chịu nổi áp lực của Phật Giáo tranh đấu. Cuối cùng, Tướng Kỳ gửi Đại tá Nguyễn Ngọc Loan và Tướng Cao Văn Viên bay trước ra Đà Nẵng và hôm sau Tướng Kỳ ra tận nơi để dẹp loạn. Xong xuôi, Tướng Thi cùng một số quân nhân theo phe tranh đấu bị bắt dẫn độ về Sài Gòn. Nếu gặp phải ông Thủ tướng khác, Tướng Thi có thể bị tội tử hình chiếu theo quân luật vì tội phản nghịch. Các quân nhân tòng phạm cũng được tha, cho giải ngũ. Quân nhân đào ngũ trong thời chiến còn bị tử hình, huống chi là phản nghịch có vũ trang. Tướng Nguyễn Chánh Thi được cho đi Hoa Kỳ sống lưu vong. Trước khi rời Việt Nam, Tướng Thi nói: “Tôi sang Mỹ để chữa bệnh... thối mũi!”. Người ta chê Tướng Kỳ không chính trị. Tướng Kỳ không sử dụng tiểu xảo chính trị bá đạo thì đúng. Tôi thuật chuyện này để độc giả đánh giá Tướng Kỳ cái mưu lược của ông ta. Khi Tướng Loan bắt Trí Quang từ Huế về Sài Gòn. Ông sư này ra trước công viên Thống Nhất tuyệt thực. Tướng Kỳ gọi bác sĩ Nguyễn Duy Tài, chủ bệnh viện Duy Tân vào Tân Sơn Nhất ra lệnh: “Tôi yều cầu bác sĩ chăm lo sức khoẻ cho ông Trí Quang, bằng cách nào đó tôi không cần biết, nhưng Trí Quang phải được lên cân, da dẻ phải hồng hào. Nếu bác sĩ không làm được chuyên đó, tôi sẽ đem bác sĩ ra bắn”. Bác sĩ Tài vâng vâng, dạ dạ lo sức khoẻ cho Trí Quang. Sau hai tháng tuyệt thực, Trí Quang vẫn khoẻ, da dẻ hồng hao hơn trước. Các đệ tự của Thầy không tin Thầy tuyệt thực thật sự. Thế là Thầy lẳng lặng trở về chùa. Từ đó Trí Quang không diễn lại trò tuyệt thực nữa. Tướng Kỳ cũng không bỏ tù Trí Quang.

5. Biệt tài thu phục nhân tâm: Khi thành lập chính phủ, Tướng Kỳ vẫn giữ Bác sĩ Trần Văn Đỗ làm Ngoại trưởng từ chính phủ Phan Huy Quát. Cụ Đỗ là nhà trí thức yêu nước đáng kính trọng, nhưng theo Tướng Kỳ thì Cụ không thích hợp là nhà ngoại giao của giai đoạn này. Tướng Kỳ hẹn với Cụ bao giờ tìm được người thích ứng thì sẽ để Cụ về nghỉ ngơi. Tạm thời, Tướng Kỳ đảm nhiệm chính sách ngoại giao vì ông coi mặt trận ngoại giao cũng quan trọng không kém mặt trận quân sự. Vì thế, dù tình hình quốc nội chưa hoàn toàn ổn định, Tướng Kỳ là vị Thủ tướng công du ngoại quốc nhiều lần nhất. Nào là Tân Tây Lan, Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, và Mã Lai Á … nhưng đáng kể nhất là Úc Châu. Lãnh tụ đối lập Úc là Arthur Calwell, một ông già trạc 70 tuổi, cực lực chống người gốc Châu Á đã gọi Tướng Kỳ bằng những thậm xưng như: một tên đồ tể, một kẻ sát nhi (baby killer), một nhà độc tài. Thủ tướng Holt đón Tướng Kỳ ở phi trường, trên đường đến chỗ họp báo, ông Holt cho Tướng Kỳ biết những cố vấn thân cận và ngay cả bà vợ ông ta cũng chống sự hiện diện của Tướng Kỳ. Người ký giả đầu tiên đặt câu hỏi: “Ông Calwell gọi ông bằng những danh từ nhục mạ, phản ứng của ông ra sao?”. Tướng Kỳ đáp: “Này, các ông cũng biết tôi là một người Á Châu, và một câu châm ngôn xưa của Á châu có nói: ‘Nếu ta kính trọng người già, ta sẽ sống lâu’. Đối với ông Calwell, tôi coi ông như ông bố tôi. Bất cứ điều gì ông nói về tôi, không sao hết, tôi vẫn kính trọng ông bởi vì ông ta là… một ông già!”. Mọi người đều cười. Ngày hôm sau một tờ báo nổi tiếng tại Úc cho in ngay trên trang nhất một bức hí hoạ, Tướng Kỳ với khuôn mặt trẻ thơ, tươi cười đẩy xe lăn cho ông già Calwell đang càu nhàu và nhăn nhó. Hàng ngày, Tướng Kỳ họp báo và để báo chí tự do phỏng vấn. Qua những câu trả lời của Tướng Kỳ rất lưu loát và thành thật, giới truyền thông Úc tỏ ra thấu hỉểu vì sao Miền Nam phải chiến đấu. Có lần một ký giả lớn tiếng: “Ông không đại diện nhân dân Miền Nam, vì ba phần tư đất đai đã nằm trong tay Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”. Tướng Kỳ mời ký giả đó theo ông về Việt Nam và cung cấp phương tiện cho ông ta đi khắp các tỉnh Miền Nam. Sau hai tháng, người ký giả đó trở về Úc, viết những bài đăng trên tờ báo cộng sản Úc lên án Đảng Cộng sản Úc đánh lừa dư luận, vì Miền Nam thật sự có tự do và an ninh. Mỗi lần Tướng Kỳ di chuyển, cả trăm ngàn dân Úc biểu tình phản đối chiến tranh. Nơi nào ông cũng bước ra khỏi xe, tới nói chuyện thẳng với đoàn biểu tình và giải thích cho họ hiểu chính nghĩa của nhân dân Miền Nam là tự vệ. Ngày rời Úc, cũng tờ báo mấy hôm trước lại cho in lên trang nhất một bức hí hoạ khác. Lần này Tướng Kỳ đứng ở giữa võ đài quyền anh. Calwell bị đo ván, nằm ngửa dưới chân, trong khi trọng tài, có tên là “Công Luận”, cầm tay Tướng Kỳ giơ lên cao, biểu dương cho sự chiến thắng. Năm sau, ông Calwell bị Đảng đối lập đẩy ra khỏi vai trò lãnh đạo và sự nghiệp chính trị của Calwell chấm dứt từ đó. Thủ tướng Holt rất hài lòng nói với Tướng Kỳ khi chia tay: “Ngài quả là nhà Ngoại giao có biệt tài hùng biện. Vợ chồng tôi rất hãnh diện vì sự hiện diện của Ngài trên Đất Nước chúng tôi”. Năm 1971, trong chức vụ Phó Tổng thống được Nixon đón tiếp tại Toà Bạch Ốc. Cũng cả trăm ngàn thanh niên sinh viên biểu tình đả đảo, Tướng Kỳ đòi ra gặp họ, nhưng nhân viên mật vụ bảo vệ yếu nhân không chấp thuận. Ông đề nghị mời chừng một trăm đại diện vào phòng khách để ông tiếp. Mở đầu, Tướng Kỳ nói: “Nếu tôi là thanh niên Hoa Kỳ, tôi cũng chống chiến tranh, bởi vì không lý do gì các bạn phải đến một nơi xa xôi để hy sinh mạng sống. Nhưng các bạn đừng quên rằng sự hy sinh của dân tộc tôi cũng là hy sinh cho sự tự do của các bạn, Bởi vì nếu Đất Nước tôi rơi vào tay cộng sản thì các quốc gia lân bang sẽ lần lượt rơi vào tay cộng sản. Các bạn nghĩ thế nào khi toàn quả địa cầu này bị nhuộm đỏ? Sau 45 phút trò chuyện, Tướng Kỳ xin lỗi phải đi vì sắp tới giờ hẹn với Tổng thống Nixon. Toàn thể cử toạ đã nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng. Các nhân viên mật vụ đều nói: Tổng thống Nixon cần có một người giỏi thuyết phục quần chúng như Thiếu Tường Kỳ.

6. Trọng chữ Tín: Vừa lo công tác ngoại giao, vừa dẹp loạn, Tướng Kỳ tổ chức thành công Quốc Hội Lập Hiến để khai sinh nền Đệ Nhị Cộng Hoà. Năm 1967, tổ chức bầu cử Tổng thống. Ban đầu Tướng Thiệu và Tướng Kỳ đứng hai liên danh riêng rẽ. Tướng Kỳ chọn kỹ sư Nguyễn Văn Lộc làm Phó; Tướng Thiệu chọn ông Trình Quốc Khánh làm Phó. Quân Đội sợ rằng hai ông Tướng đứng hai liên danh riêng rẽ thì sẽ thua liên danh Trương Đình Dzu tả khuynh được Phật Giáo và bọn phản chiến ủng hộ. Không thuyết phục được Tướng Thiệu giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, còn để Tướng Kỳ một mình tranh chức Tổng thống, Hội Đồng Quân Lực phải triệu tập phiên họp khoáng đại để đồng thanh quyết nghị loại Tướng Thiệu ra khỏi Quân Đội để mặc ông Thiệu ứng cử trong tư cách dân sự, Tướng Cao văn Viên sẽ tạm thời giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Trong lúc Đại Hội đang diễn tiến, Tướng Thiệu và Tướng Kỳ ngồi ngoài chờ quyết định của Đại hội. Tướng Kỳ bình thản hút thuốc lá vì đã biết trước kết quả; còn Tướng Thiệu tỏ ra lo lắng, mồ hôi lấm tấm trên trán. Sau gần một giờ đồng hồ, cửa phòng họp mở ra. Tướng Thiệu dường như đoán biết số phận của mình, người ông bỗng nhiên rũ xuống như cái cây sắp đổ. Tướng Kỳ chợt cảm thấy thương tâm, đưa tay xua và nói: “Thôi, tôi trở về Không Quân, nhường cho ông Thiệu đại diện Quân Đội ra tranh cử, các anh khỏi cần đọc quyết định”. Lúc bấy giờ gương mặt Tướng Thiệu lộ vẻ hân hoan chưa từng thấy, giống như được hồi sinh. Sau câu tuyên bố của Tướng Kỳ, Tướng Hoàng Xuân Lãm vừa khóc, vừa nói: “Tướng Kỳ vì tình đoàn kết Quân Đội đã hy sinh thì xin hy sinh cho trót. Xin Tướng Kỳ hãy đứng Phó cho Tướng Thiệu thì may ra mới thắng liên danh dân sự. Thiếu tướng Trần Văn Minh – Tư Lệnh Phó KQ lúc bấy giờ – vội vàng yêu cầu Đại Hội vỗ tay hoan nghênh ý kiến của Tướng Hoàng Xuân Lãm. Thế là Tướng Kỳ trở thành Phó Tổng thống cho Tướng Thiệu với kết quả cuộc bầu cử đạt chưa tới 40 phần trăm số phiếu cử tri. Khi nghe tin Tướng Kỳ nhường Tướng Thiệu ra tranh cử Tổng thống, William Colby – Trưởng tình báo CIA tại Việt Nam – lái xe vào Tân Sơn Nhất trách Tướng Kỳ tại sao nhường cho ông Thiệu, trong khi Hoa Kỳ đã có kế hoạch sửa soạn ủng hộ Tướng Kỳ. Colby đề nghị Tướng Kỳ thay đổi quyết định. Không muốn ngoại bang xen vào nội tình Việt Nam, Tướng Kỳ cương quyết không thay đổi quyết định. Sau đó, các dân biểu Quốc Hội Lập Hiến gồm ông Phan Khắc Sửu, Lê Phước Sang và một số dân biểu vào Tân Sơn Nhất cố thuyết phục Tướng Kỳ thay đổi quyết định, vì họ nhận thấy Tướng Thiệu không có khả năng lãnh đạo như Tướng Kỳ. Họ sẽ bỏ phiếu không phê chuẩn kết quả bầu cử và tổ chức bầu cử lại. Tướng Kỳ sẽ đứng liên danh riêng. Tướng Kỳ cũng nhất định không chịu, ông ra lệnh Tướng Loan vào ngồi chuồng cu Quốc Hội, hễ dân biểu nào bỏ phiếu chống thì bắt nhốt. Lúc bấy giờ báo chí Sài Gòn chế diễu bằng hàng chữ: “Cảnh sát đi vào toà nhà Quốc Hội, công lý bỏ đi ra”. Dư luận quần chúng lúc bấy giờ đồn đãi rằng Tướng Kỳ phải nhường Tướng Thiệu đứng đầu liên danh vì Tướng Thiệu được lòng Đại sứ Bunker hơn. Sự thật không phải như vậy. Tôi được biết sự thật như vừa kể trên là do Tướng Nguyễn Ngọc Loan thuật lại, vì Tướng Loan và một số Tướng lãnh khác rất lấy làm bất mãn về quyết định của Tướng Kỳ nhường Tướng Thiệu. Khi đắc cử rồi, Tướng Thiệu phản lại lời cam kết, hủy bỏ Quân Ủy hội (một hình thức như Bộ Chính Trị của cộng sản) do Tướng Kỳ làm Chủ tịch gồm 4 Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn và các Tướng Tư Lệnh Quân Binh Chủng. Chẳng những thế, Tướng Thiệu còn xúc tiến thành lập Đảng Dân Chủ, mặc dầu sau Cách Mạng 1963 Tướng Thiệu và Tướng Khiêm đã tuyên thệ vào Đảng Đại Việt do lãnh tụ Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký chấp nhận lời thề. Nói tóm lại, Tướng Thiệu chỉ lo bảo vệ chiếc ghế của mình, cái thế đoàn kết Quân Đội do Tướng Kỳ tạo dựng không còn, vua tham nhũng là Tướng Đặng văn Quang được Tướng Thiệu cử làm Cố vấn An ninh Quốc gia để điều hành các việc làm ăn phi pháp. Biến cố Tết Mậu Thân, Tướng Thiệu kẹt ở quê vợ tại Mỹ Tho, một mình Tướng Kỳ vừa lên truyền hình trấn an đồng bào vừa điều động quân sĩ bảo vệ thủ đô và các tình. Các sĩ quan thân cận của Tướng Kỳ như Trung tá Phó Quốc Chụ, Trung tá Lê Ngọc Trụ đòi cho Tướng Thiệu “đi nghỉ mát dài hạn” để đưa Tướng Kỳ lên thay, nhưng Tướng Kỳ không muốn dùng đường lối bá đạo. Năm 1967 được Tướng Kỳ nhường cho ra tranh cử Tổng thống, năm 1971 Tướng Thiệu trả ơn bằng cách làm một đạo luật buộc ứng cử viên Tổng thống phải có hàng trăm chữ ký giới thiệu của Tỉnh trưởng hay đại diện dân cử. Theo tiết lộ của ông Nguyễn văn Ngân với báo Ngày Nay ở Houston thì mục đích của đạo luật này nhằm loại Tướng Kỳ. Mặc dầu có đủ chữ ký giới thiệu, Tướng Kỳ thấy Tướng Thiệu trở mặt khi chọn Trần Văn Hương đứng chung liên danh và lại giở trò chơi chính trị bẩn thỉu, ông không ra tranh cử, đồng thời liên danh của Tướng Dương Văn Minh cũng rút tên, để cho ông Thiệu độc cử. Sự “Độc Cử” của Tổng thống Thiệu làm mất Chính Nghĩa của nền Dân Chủ ở Miền Nam kể từ đó. Tình hình Đất Nước càng ngày càng nguy ngập, năm 1974 Tướng Thiệu còn mưu toan dùng các Nghị sĩ, Dân biểu gia nô thay đổi Hiến Pháp để ông có thể ra tranh cử nhiệm kỳ III. Lên truyền hình cam kết trở về Quân Đội chiến đấu bên cạnh anh em đồng đội, hôm sau Tướng Thiệu cùng Tướng Khiêm lặng lẽ lên tàu bay chuồn sang Đài Loan. Dù William Colby hay các dân biểu Lập Hiến cố thuyết phục, Tướng Kỳ vẫn nhường Tướng Thiệu ra tranh chức Tổng thống là vì trọng Chữ Tín. Năm 2004 về nước, Tướng Kỳ thuyết phục nhà cầm quyền Việt Nam nên có mối quan hệ bang giao tốt đẹp và thành thật với Hoa Kỳ để quân bình áp lực từ Phương Bắc, Tướng Kỳ đã cam kết với các nhà lãnh đạo Việt Nam, nếu họ nghe lời khuyên của ông thì khi các lãnh đạo Việt Nam công du tìm hiểu Hoa Kỳ, ông sẽ chào đón họ ở Hoa Kỳ để yểm trợ tinh thần. Dẫu biết trước rằng đồng hương hải ngoại chống đối, Tướng Kỳ vẫn thực thi lời hứa hẹn để cho các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu rằng ông là con người nói và làm đi đôi. Tướng Kỳ không hề tuyên bố ông đại diện Cộng Đồng hải ngoại để đón tiếp lãnh đạo Việt Nam. Tôi đã xem đi xem lại cái DVD của buổi tiếp tân chào đón Nguyễn Minh Triết ở California rất nhiều lần.

7. Một lòng vì Đất Nước: Bị Tướng Thiệu loại ra ngoài vòng chính trị, Tướng Kỳ vay Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam 25 triệu đồng, ra Khánh Dương khai khẩn đất hoang lập đồn điền. Ngày 9 tháng 3, năm 1975 Đại tá Lý Bá Phẩm, Tỉnh trưởng Nha Trang, dùng trực thăng bay đến Khánh Dương cầu cứu Tướng Kỳ giúp ông kêu viện binh để phòng ngự thành phố. Mặc dầu không còn giữ trọng trách gì với Đất Nước, khi nghe tin Ban Mê Thuột mất, Tướng Kỳ bay về Sài Gòn gặp Tướng Cao Văn Viên để yêu cầu Tướng Thiệu cấp phát cho ông một binh đoàn thiết giáp đi giải cứu Ban Mê Thuột. Tướng Thiệu là người đa nghi, sợ Tướng Kỳ âm mưu đảo chánh, nên từ chối. Đáng lý chẳng còn giữ trọng trách gì, Tướng Kỳ nên chuồn ra ngoại quốc với vợ con, tìm một cuộc sống an nhàn sau khi đã phụng sự Đất Nước quá đủ. Nhưng Tướng Kỳ vẫn nuôi hy vọng “còn nước còn tát”. Ông lên trường Chỉ huy Tham mưu Long Bình kêu gọi anh em trở về đơn vị tác chiến. Các sĩ quan cấp Trung đoàn trưởng quá phấn khởi trước lời hô hào của ông, nhưng tình hình càng ngày càng trở nên tồi tệ. Sáng ngày 29 Tháng 4, ông còn bay lên vùng để chỉ điểm cho phi cơ Khu trục oanh kích các dàn hoả tiễn bắn vào căn cứ Tân Sơn Nhất, sau đó bay sang Tổng Tham mưu, cố gắng liên lạc với Tướng Nguyễn Khoa Nam bằng đường điện thoại nóng, nhưng không còn ai trả lời. Nếu lúc bấy giờ có tiếng của Tướng Nam trả lời, ông sẽ bay xuống Vùng IV để bảo vệ cứ điểm cuối cùng. Nhưng nhờ sự hết lòng với Đất Nước cho đến phút cuối, Tướng Kỳ đã cứu được Trung tướng Ngô Quang Trưởng đang bị Tướng Thiệu giam lỏng ở đó vì tội bỏ Vùng I. Đồng thời ông cũng ra lệnh cho phi công bay trở lại Bộ Tư Lệnh Không Quân để đón Đại tá Vũ Văn Ước đưa ra Hạm Đội 7. Thiết tha với tình đoàn kết Quân Đội, coi thường công danh nên Tướng Kỳ mới nhường cho Tướng Thiệu ra tranh cử Tổng thống. Nếu Tướng Kỳ là Tổng thống, là Tổng Tư Lệnh Quân Đội, chẳng bao giờ ông bỏ binh lính để chạy thoát thân, thì có thể ông đã bỏ mạng vào Tháng Tư năm 1975. Cho nên, ông thường tâm tình với anh em quanh ông: “Định mệnh xui tôi nhường cho ông Thiệu là Trời Phật muốn cho tôi sống để làm nghĩa vụ với Đất Nước. Vậy tôi còn ở trên đời ngày nào, tôi còn hiến mình cho Đất Nước ngày đo”. Đối với Tướng Kỳ, công danh là phù vân. Nhà báo Đỗ Văn của Đài BBC có lời nhận xét về Tướng Kỳ rất chính xác: “Ông Kỳ coi cái chức Tổng Thống không bằng bát phở ngon”. Có lẽ nuôi chí nguyện như vậy, Tướng Kỳ cứ dấn thân vì Đất Nước mà ông cho rằng đó là việc làm đúng. Thành hay bại là do Thiên Cơ. Nhưng tối thiểu ở Miền Nam, người Quốc Gia có một vị lãnh đạo nhìn thấy trước nguy cơ Giao Chỉ Quận đã liều thân về trong nước để cảnh báo trực tiếp với những người có trách nhiệm lãnh đạo quốc gia.

* * *

Lịch sử là việc đã qua. Không ai có khả năng thay đổi lịch sử. Nhưng nếu hiểu hoàn cảnh lịch sử đã đưa Đất Nước ta đến tình trạng ngày hôm nay, thì ta phải có nghĩa vụ tháo gỡ những lỗi lầm của các bậc tiền nhân. Nếu chúng ta có đấng Minh Quân như Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản, biết nghe lời điều trần của Nguyễn Trường Tộ để canh tân xứ sở thì nước ta không bị rơi vào sự đô hộ của người Pháp. Nếu nước ta bị Thực dân Anh đô hộ thì nước ta không bị rơi vào tai hoạ cộng sản, vì thực tế cho ta thấy không một thuộc địa nào của Anh bị cộng sản hoá. Nếu những nhà lãnh đạo cộng sản có đủ trí tuệ, có đủ lòng yêu nước và dũng cảm thì phải từ bỏ cái ý thực hệ cộng sản khi thấy đa số nhân loại đã ném chủ nghĩa tàn ác ấy vào thùng rác. Bất cứ người dân Việt nào đều mong muốn lật đổ bọn cầm quyền này. Thậm chí cộng sản Nguyễn Minh Triết, cộng sản Nguyễn Tấn Dũng nếu là người dân thường bị sống dưới ách cai trị của bộ máy bạo quyền này cũng muốn lật đổ, bởi vì họ là những người sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà tự do hơn hẳn Miền Bắc mà họ cũng đã nhúng tay vào việc lật đổ Việt Nam Cộng Hoà. Nghĩa là chỉ có kẻ có chức, có quyền là muốn duy trì chế độ này mà thôi.

Chủ nghĩa cộng sản lấy hận thù giai cấp làm động lực đấu tranh, đã gây nên sự phân hoá khủng khiếp trong lòng dân tộc. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy khi nào nội bộ dân tộc chia rẽ thì ngoại bang lợi dụng để xâm lăng. Nhà Minh của Trung Hoa lấy danh nghĩa “Phù Trần Diệt Hồ” xâm lăng nước ta. Nhà Thanh lấy danh nghĩa “Phù Lê Diệt Trịnh” xâm lăng nước ta. Sự kiện ấy đã trở thành quy luật. Chủ trương chia rẽ dân tộc của người Cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ không thoát hậu quả bị xâm lăng, vì bị sống bên cạnh một kẻ không ngừng nuôi tham vọng bành trướng. Vấn đề đặt ra là làm cách nào để ngăn hiểm hoạ đó. Những phần tử chống Cộng triệt để, quyết liệt đòi giải thể chế độ cộng sản khiến cho tôi nghi ngờ, vì trước năm 1975 họ không có quyết tâm đó và bây giờ họ chẳng có thực lực gì. Hoặc những người có thành tích chống Cộng trước năm 75, nhưng nay lại có những hành động chống Cộng nặng phần trình diễn, cố biến hải ngoại thành một phòng tuyến phi cộng sản thì cũng không làm thay đổi số phận đồng bào trong nước. Chính vì suy nghĩ như thế, tôi ủng hộ bất cứ ai – không nhất thiết phải là ông Nguyễn Cao Kỳ – tìm cách thay đổi chế độ hiện hành, bất luận bằng đường lối nào. Đã có nhiều nhà trí thức dấn thân về giúp chế độ trong các lãnh vực ngân hàng, luật pháp, quản trị, giáo dục … trước cả Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, vì họ nghĩ đó là đường lối khả thi, hợp khả năng để thay đổi chế độ. Nhưng họ chỉ làm trong âm thầm vì không muốn bị các phần tử chống Cộng tố giác họ là tay sai cộng sản.

Tướng Kỳ không phải là chuyên viên như các nhà trí thức, ông là nhà lãnh đạo có kinh nghiệm giải quyết các vấn đề tham nhũng, tôn giáo, người Thượng Tây Nguyên, đoàn kết, cơ chế là những vấn đề Nhà Nước Viết Nam hiện nay đang phải đối diện mà ở hải ngoại này không một ai có thể hơn ông được. Ông ra đi giữa thanh thiên bạch nhật, không đòi hỏi một ai yểm trợ tinh thần hay tài chánh. Và ông đã nói ông chỉ là người bắc nhịp cầu đầu tiên, rồi thế hệ sau tiếp nối, chứ không hề nuôi tham vọng nào khác. Lời nói của ông khả tín vì ông đã từng coi chức Tổng thống không hơn bát phở ngon.

1. Về tham nhũng: là người từng ra tay diệt tham nhũng và có quá khứ trong sạch, Tướng Kỳ có đủ tư thế để nói với nhà cầm quyền phải diệt trừ tham nhũng. Ý thức lực lượng tham nhũng sẽ phản ứng vì động đến quyền lợi sinh tử của họ, ông đề nghị ân xá cho những ai đã phạm vào tham nhũng, nhưng kể từ sau ngày N. trở đi, bất cứ ai tham nhũng dù ở địa vị nào đều phải bị luật pháp trừng trị. Muốn hành động đó có hiệu quả, Nhà Nước phải thi hành chính sách cai trị trong sáng (transparency), nhà báo có quyền phanh phui các vụ nhũng lạm.

2. Về Tôn giáo: Ông nói, không nên có chính sách hà khắc đối với tôn giáo. Quản chế Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ là việc làm không cần thiết, chỉ tạo nên hình ảnh xấu đối với thế giới, vì các Ngài ra ngoài phố Sài Gòn nóng nực, bụi bậm như thế này thì chỉ chừng một giờ đồng hồ là các Ngài phải trở về chùa thôi. Khi nào tôn giáo thực sự nguy hại đến nền an ninh quốc gia thì hãy đối phó. Tôi (Tướng Kỳ) từng thẳng tay đàn áp Phật Giáo tranh đấu Miền Trung, mà tôi chưa bao giờ bị mang tiếng đàn áp tôn giáo.

3. Về người Thượng Tây Nguyên: Từng đối phó với phong trào Fulro đòi tự trị, tôi (Tướng Kỳ) đích thân bay lên Tây Nguyên để gặp gỡ họ và nói với họ rằng chính phủ sẵn sàng giúp đỡ họ, nhưng chính phủ không thể thoả mãn đòi hỏi tự trị vì không muốn có một quốc gia trong một quốc gia. Lần đầu tiên trong chính phủ của tôi có Bộ Sắc Tộc, ông Paul Nur làm Tổng trưởng. Tinh thần hoà giải dân tộc, đoàn kết của Tướng Kỳ đã đem lại cuộc sống hài hoà giữa Kinh – Thượng.

4. Đoàn kết dân tộc: Tôi (Tướng Kỳ) cho rằng chủ trương đoàn kết dân tộc là một chủ trương đúng, vì đó là nền tảng của sức mạnh quốc gia. Nếu vì còn có những vướng mắc giữa những người sống chưa thể giải quyết ngay được thì hãy hoà giải với người chết trước, bằng cách trùng tu Nghĩa trang Quân đội VNCH ở Biên Hoà, dựng lễ đài tưởng niệm tất cả chiến sĩ của mọi quốc tịch đã bỏ mình trong cuộc chiến này. Hằng năm sẽ có những nhà lãnh đạo của các quốc gia liên hệ đến phúng viếng thì sẽ tạo cho nước Việt Nam một bộ mặt văn minh. Tại sao lại cứ phải phản đối người ta can thiệp vào nội bộ nước mình, nếu mình thương dân?

5. Cải tổ bộ máy cai trị: Sở dĩ có tình trạng giằng co không thể giải quyết kịp thời những vấn đề cấp bách là tại vì bộ máy cai trị quá phức tạp, chồng chéo. Người dân phải chịu cảnh “một cổ ba tròng” của Ủy ban Nhân Dân, Nhà Nước, Mặt Trận Tổ Quốc là phi lý. Tinh giản cơ cấu để có người trách nhiệm vấn đề, chứ không thể đồng đổ cho bóng, bóng đổ cho đồng. Thời Việt Nam Cộng Hoà cũng có những trì trệ do đầu óc thư lại của công chức (bureaucracy). Viện trợ Hoa Kỳ xây cho Việt Nam Cộng Hoà một trường Đại học Y khoa mới, khang trang nhưng chưa chịu mở cửa cho sinh viên vào học, bởi vì giữa ông Khoa trưởng và ông Tổng trưởng Y Tế chưa thể đồng ý với nhau về chương trình giảng dạy theo Mỹ hay theo Pháp. Tướng Kỳ nói: “Tôi không biết gì về Y khoa, dạy theo phương pháp Mỹ hay Pháp gì thì tùy các ông, tuần sau tôi sẽ đên cắt băng khánh thành, trường phải mở cửa. Nếu không, tôi sẽ bãi chức cả hai ông”. Tướng Kỳ đã đem kinh nghiệm bản thân đó nói cho người cầm quyền biết để giải quyết sự trì trệ.

Tôi quan niệm rằng nếu người Việt hải ngoại còn thương xót số phận đồng bào mình nơi quê nhà thì phải làm điều gì đó để thay đổi đường lối cai trị của nhà cầm quyền trong nước, chứ không phải cứ ở nước ngoài, rồi hằng tuần phô trương bằng những hành động có tính cách trình diễn, mặc áo thụng vái nhau mà có thể giải thể Đảng Cộng Sản. Nhưng nếu quý vị vì háo danh, thèm xưng tụng lẫn nhau, đọc diễn văn này nọ cũng không sao cả, miễn là đừng tự cho mình làm như thế mới là chống Cộng để rồi lên án người khác làm khác mình là tay sai cộng sản. Hành động cả vú lấp miệng em như thế là hèn.

Khác với những trí thức ngồi ở hải ngoại viết bài kêu gọi dân chủ nhân quyền, Tướng Kỳ về hẳn trong nước để nói trực tiếp với người đang có trách nhiệm điều hành quốc gia bằng kinh nghiệm của mình. Ông không hề bảo đảm những sự đóng góp của ông với nhà cầm quyền sẽ có kết quả. Ông nói: “Nếu vận nước hưng thì nhà cầm quyền nghe lời tôi để mang lại cho nhân dân một đời sống xứng đáng hơn”. Đúng thế! Tướng Kỳ đâu có quyền lực gì để bắt buộc họ thay đổi? Ông chỉ làm cái công việc như xưa kia Nguyễn Trường Tộ đem sự hiểu biết của mình thu thập được từ nước ngoài để dâng bản điều trần lên vua quan Nhà Nguyễn vậy thôi. Một nhà lãnh đạo như Tướng Kỳ, coi thường công danh phú quý, trong sạch từ lúc trẻ đến lúc ở địa cao nhất nước, đâu có động cơ nào khác thúc đẩy ông phải về Việt Nam để ông bị hứng chịu nhiều điều thị phi, tai tiếng ngoài động cơ của lòng ái quốc? Suốt cả cuộc đời, ông không hề cấu kết, âm mưu với bất cứ ai để đá người này hất người kia nhằm dành giật địa vị hoặc nịnh hót thượng cấp để thăng quan tiến chức. Việc gì tới tay, nhận thấy đó là trách nhiệm của mình, thì ông làm. Giống như khi Hội Đồng Quân Lực yêu cầu đứng ra thành lập chính phủ giữa lúc tình hình cực kỳ khó khăn không ai dám nhận thì ông nhận mà không cần so đo toan tính lợi hại thiệt hơn cho bản thân. Thiết nghĩ bất cứ người Việt Nam nào yêu nước, có kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo, nếu được Nhà Nước mời về thì phải nên về để chuyển hoá xứ sở. Người nào chỉ ngồi ở hải ngoại nói thánh nói tướng đòi giải thế chế độ thì e rằng người ấy mắc chứng bệnh hoang tưởng chăng? Có tổ chức nào, đoàn thể nào chủ trương chống Cộng triệt để đã ngăn cản được làn sóng người tị nạn về du lịch Việt Nam càng ngày càng nhiều? Người Mỹ nói: “If you can not beat them, you better join them”. “Join them” đâu có nghĩa là làm đầy tớ? “Join them” ở đây có nghĩa là dấn thân theo phong cách kẻ sĩ, chứ không phải ở vào thế qụy lụy đi xin việc. “Join them” với tư cách là công dân Mỹ theo chiều hướng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ hiện nay mà chúng ta không thể đi ngược lại được. “Join them” là để tiếp tay với những phần tử trong Đảng có xu hướng cải cách xã hội, chứ không có nghĩa tiếp tay với bộ máy Công An đàn áp nhân dân. Tướng Kỳ đã nói với Thiếu tướng Phạm Chuyên – Xếp Công An Hà Nội – rằng “khi ông cầm quyền, ông cũng muốn có một hệ thống Công An như họ để bảo vệ an ninh cho người dân, chứ không phải để bắt nạt, đàn áp dân. Các anh hãy làm tốt cho dân thì chẳng ai chống các anh cả”. Khi có hai nhà báo trẻ cộng sản đến thăm ông và nói rằng dù sao cũng phải cám ơn Đảng, vì nhờ sự “đổi mới” của Đảng mà đời sống nhân dân càng ngày càng khá hơn. Tướng Kỳ mắng ngay: “Các anh bảo ai phải cám ơn ai? Đảng của các anh đổi cũ, chứ đổi mới cái gì? Lần sau đến gặp tôi, các anh đừng mang cái luận điệu ấy ra nói nữa, nghe rõ chưa?” Giáo sư Nguyễn Tô – người sĩ quan cùng Khoá I Nam Định với Tướng Kỳ không di cư vào Nam năm 1954 – đã phải bấm tay Tướng Kỳ để nhắc ông biết rằng ông đang ở giữa thành phố Hà Nội, chứ không phải là đang ngồi ở hải ngoại. Bất cứ phát biểu nào của Tướng Kỳ với bất cứ ai trong nước đều đến tai người cầm quyền. Có nhiều điều Tướng Kỳ nói quá đúng với hiện tình Đất Nước, người nghe hết sức tán đồng, nhưng chỉ biết lắc đầu cười: “Biết thế, nhưng khó quá ông Tướng ơi!” Tình trạng Đất Nước là như thế đấy. Ai cũng thấy sự phi lý. Ai cũng thấy cần thay đổi. Nhưng không ai có cái dũng để làm.

Có những phần tử chống Cộng chỉ dựa theo thông tin của báo chí cộng sản để công kích Tướng Kỳ, bất phân phải trái, đúng sai. Tướng Kỳ phát biểu: “Trong một giai đoạn nào đó, cần thi hành chính sách độc tài để xây dựng một giai cấp trung lưu, khi người dân không còn vì miếng ăn mà lệ thuộc vào chính quyền nữa, thì tự khắc họ đòi hỏi quyền tự do, dân chủ”. Rồi ông tiếp: “Đài Loan, Singapore, Đại Hàn, Thái Lan là những thí dụ điển hình. Chế độ độc đảng chưa chắc đã là xấu nếu người lãnh đạo biết hành động vì nước, vì dân”. Báo chí cộng sản cắt xén toàn bộ câu phát biểu của Tướng Kỳ, họ chỉ đăng “Tướng Kỳ ủng hộ độc đảng” là cái phần có lợi cho họ. Thế là hải ngoại rộ lên làn sóng chống đối. Điều lạ lùng là người chống Cộng đều coi nhà báo cộng sản là bồi bút của chế độ, lại dựa vào thông tin của bồi bút để chống Tướng Kỳ. Nên nhớ khi Tướng Kỳ được (hay bị?) Hội Đồng Quân Lực trao trách nhiệm thành lập chính phủ, ông cũng đã một mình quyết định mọi việc như một nhà độc tài, nhưng ông đã mang lại sự ổn định và tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để khai sinh nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà. Ông là người lãnh đạo Quân Đội VNCH làm nên Ngày Quân Lực 19 Tháng 6. Nếu ông thiếu nghị lực và khả năng để dẹp yên Biến Động Miền Trung năm 1966 thì Miền Nam không có nền Đệ Nhị Cộng Hoà, không có Thượng Nghị viện, Quốc Hội để có các ông Nghị sĩ, dân biểu chống đối ông ngày hôm nay. Nói tóm lại, Tướng Kỳ là cha đẻ Nền Đệ Nhị Cộng Hoà. Thiếu tá Liên Thành chỉ nói đến Tướng Nguyễn Ngọc Loan trong sách Biến Động Miền Trung, nhưng không có Tướng Nguyễn Cao Kỳ lãnh đạo đất nước lúc bấy giờ thì ai biết dùng Tướng Nguyễn Ngọc Loan? Nguyên cái việc dẹp bàn thờ Phật do bọn tranh đấu sách động, Tướng Loan cũng phải hỏi chỉ thị và phương cách hành động của Tướng Kỳ, Thiếu tá Liên Thành đâu có biết điều đó! Hay biết mà không tiện nói ra vì không khí chính trị chống Cộng ở California quá căng thẳng?

Sau khi nghe Phạm Thế Duyệt – Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc – thuyết trình dự án xoá đói giảm nghèo, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Tướng Kỳ đã đáp lời: “Nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam làm được như lời ông Chủ tịch nói, tôi sẵn sàng đứng lên hoan hô Đảng Cộng Sản”. Nguyên văn câu nói được thâu vào DVD là như thế, nhưng báo chí hải ngoại bỏ chữ “NẾU” để kích động sự chống đối của quần chúng. Tôi cho rằng người làm công tác truyền thông ở hải ngoại thiếu lương thiện. Năm 37 tuổi, trả lời nhà báo Oriana Fallaci, Tướng Kỳ đã nói ông không thèm quan tâm đến cái chủ nghĩa Mác-xít, nếu đảng nào mà làm cho dân giàu, nước mạnh, hạnh phúc thì ông đều ủng hộ. Tư tưởng của Tướng Kỳ đều nhất quán từ lúc trẻ đến lúc già minh bạch như thế thì sao dám bảo đón gió, trở cờ, đâm sau lưng chiến sĩ?

Người ta thường nói: “Hãy để lịch sử phán xét”. Sau hơn bốn thập niên, lịch sử đã mách bảo cho ta biết Tổng thống Ngô Đình Diệm – Cha đẻ Nền Đệ Nhất Cộng Hoà – vì lòng yêu nước cương quyết bảo vệ chủ quyền Quốc Gia, không đồng ý để cho quân lính Hoa Kỳ vào Việt Nam mà bị bọn Tướng lãnh tôi tớ do Hoa Kỳ mua chuộc giết chết. Tôi không phải là nhà sử học, nhưng tôi biết được một số dữ kiện của Tướng Nguyễn Cao Kỳ – Cha đẻ Nền Đệ Nhị Cộng Hoà – vì lòng yêu nước mà phải về Việt Nam để cảnh giác với đảng cầm quyền về nguy cơ Giao Chỉ Quận. Những dữ kiện tôi nêu ra trong bài viết này là Sự Thật, vì những nhân chứng của từng vụ việc hãy còn tại thế. Các DVD thu hình họp báo, phỏng vấn Tướng Kỳ tôi còn lưu trữ.

Cựu Thủ tướng Cộng sản Võ Văn Kiệt nói: “Nhắc đến ngày 30 Tháng 4 có một triệu người vui, một triệu người buồn”. Cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Cao Kỳ nói rõ hơn: “Đất Nước Việt Nam bị chia cắt không phải do ý muốn của nhân dân Việt Nam, mà do sự quyết định của thế lực quốc tế. Một bên được Đế quốc Đỏ trao cho khí giới bắt làm người lính Tiền Phong; một bên được Đế quốc Trắng trao cho khí giới bảo làm người lính Tiền Đồn. Tiền phong hay Tiền Đồn đều là quân cờ. Khi đã ý thức rõ thân phận nhược tiểu của mình, kẻ chiến thắng chẳng nên lấy đó làm vinh và kẻ chiến bại đừng nên lấy đó làm nhục, vì thắng hay bại gì thì cũng do sự quyết định của thế lực quốc tế”. Tướng Kỳ từng là người lãnh đạo quốc gia, từng xông pha ngoài mặt trận có đủ tư thế nói ra sự thật đó. Dụng ý của ông là ngầm nói với người cầm quyền nên chấm dứt sự huyênh hoang cái gọi là sự nghiệp “Chống Mỹ Cứu Nước”. Tiếng súng im rồi, đừng “ăn mày dĩ vãng” nữa, hãy thi hành chính sách đại đoàn kết dân tộc để có sức mạnh hầu có thể gìn giữ cõi bờ của cha ông để lại.

Đôi khi anh em hỏi ông có bao giờ ông cảm thấy bị tổn thương bởi những kẻ từng được ông ban ơn, nay họ dùng những lời nói bạc nghĩa để hỗn láo với ông? Tướng Kỳ chỉ cười đáp: “Đừng trách móc họ, bởi vì họ không thể hiểu việc tôi làm, họ không ý thức điều họ đang nói và nói với ai”. Tôi hỏi: “Ông có bao giờ đọc Kinh Thánh của Cơ Đốc giáo không”. Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, ông hỏi ngược lại: “Không! Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”. Tôi đáp: “Vì câu ông nói vừa rồi cũng tương tự như câu Chúa Jesus đã nói với tông đồ của Ngài”. Tướng Kỳ biết và nhớ những ai đã vô lễ với ông, gieo tiếng ác cho ông, nhưng ông tha thứ tất cả. Bởi thế, suốt năm năm qua, từ ngày ông về Việt Nam, có nhiều dư luận xấu đối với ông mà ông không cải chính, không phân trần. Ai muốn hiểu biết, đến gặp gỡ ông, ông đều giảng cho nghe thì đều vỡ lẽ. Người có bằng cấp cao thường chê Tướng Kỳ ít học và ông không phủ nhận điều đó. Ít học, nhưng có cái nhìn xa và đã điều khiển việc nước được như ông thì khó có người thứ hai. Nguyễn Huệ thuở nhỏ theo hai anh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ đi thâu thuế chợ ở Quy Nhơn, chưa hề tốt nghiệp một trường quân sự nào, nhưng tài đánh giặc bách chiến bách thắng như Ngài thì chỉ có một trong lịch sử Việt Nam. Tướng Kỳ là con Phật, nhưng hành động của ông lại phản ảnh bài Kinh Hoà Bình của Thánh Phăngxicô, dòng tu khổ hạnh mà có thể Tướng Kỳ chưa từng biết đến:

“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phung sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.
Để con đem thương vào nơi oán thù,
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
Đem an bình vào nơi tranh chấp,
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,
Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
Đem niềm vui đến chốn u sầu.”

Tấm lòng yêu nước, thương dân của Tướng Kỳ chưa thể xoay chuyển tư duy của các nhà lãnh đạo vì họ còn vướng mắc nào Quyền nào Lợi, nhưng ông đã làm cho những người lính bên kia chiến tuyến một thời chống lại Miền Nam đã san sẻ tấm lòng của ông, vì chính trong lòng họ cũng muốn vượt qua sự thù hận. Dù sao thì ông cũng đã “tận nhân lực” để “tri thiên mệnh”, lịch sử sẽ nhớ đến ông như một Nguyễn Trường Tộ thứ hai.

Nhân dịp ra Hà Nội thăm bạn bè, Thiếu tướng Kỳ đã nhờ Thiếu tướng Phạm Chuyên đưa chai rượu đến tặng những anh em văn nghệ sĩ để nhâm nhi. Nhà thơ Bằng Việt đã sáng tác những dòng dưới đây và bài thơ đã được đưa lên trang báo trong nước.

Rượu của Nguyễn Cao Kỳ

Vị thiếu tướng công an cầm chai rượu ra bàn: / "Ông Nguyễn Cao Kỳ mới về gửi tặng" /Mọi người đang vui, gật gù bảo uống

Nhưng một người bảo "Không!"

Vì sao không? Rượu cứ ngon là rượu! / Whisky Mỹ hay Vodka Nga, giờ có mặc cảm gì, / Chiến tranh lạnh qua rồi, ba mươi năm sau chống Mỹ / Đây là chén rượu thăm quê của tướng Nguyễn Cao Kỳ!

Nhưng vẫn có một người không chịu uống!

Vì sao không? Chẳng cố chấp quá ư? / Cậu là lính phòng không, chúng tớ đều cựu chiến binh cả chứ! / Cũng bom đạn, cũng Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử, / Sống đến hôm nay, đâu phải để hận thù!

Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm? / Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa, / Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ, / Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa...

Đám đông ồn ào của chúng tôi cứ uống / Anh bạn chỉ ngồi im, cũng chẳng nói thêm gì, / Và bữa rượu bỗng dưng thành đắng đót / Chẳng phải tại vì ai, kể cả Nguyễn Cao Kỳ!

2007
Bằng Việt

Cuộc chiến thảm khốc đã để lại trong lòng mỗi người Việt Nam vết thương khó lành. Tôi xin chia sẻ với những đồng đội đã không kịp thoát thân trong ngày mất nước, nên phải chịu đoạ đầy, lăng nhục trong các trại tập trung. Nhưng đó là cái giá phải trả của người thua cuộc. Nếu tôi không nhanh chân như quý vị, tôi cũng phải bị trả giá. Người thua cuộc trả giá đã đành, nhưng kẻ nằm sương gối đất làm người thắng cuộc cũng bị trả giá. Cho nên cảnh tượng: “Đầu đường Đại tá vá xe, cuối đường Trung tá bán chè đậu đen” cũng đau đớn, nhức nhối lắm chứ! Vậy thì tại sao hai bên không hoá giải (hoa dấu sắc, không phải hoa dấu huyền) mối oan cừu? Trời hay Phật dù có phép thần thông cũng không thể giúp chúng ta vượt qua nỗi đau dai dẳng đó. Chỉ có mỗi một người Việt Nam tự hàn gắn lấy vết thương thì nhà cầm quyền này sẽ bị cô lập mà phải đổi thay.

* * *

HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG

Nếu mười mấy năm trước Đảng Cộng Sản Việt Nam nghe lời khuyên của nhà trí thức Hà Sĩ Phu để “Chia Tay Ý Thức Hệ” thì Tướng Nguyễn Cao Kỳ không phải nhọc công về nước để cảnh báo Đảng Cầm Quyền về nguy cơ Giao Chỉ Quận. Bây giờ sự lấn lướt của Trung Cộng đã quá rõ và người cầm quyền lại quá nhu nhược. Chưa lúc nào trong lịch sử nước nhà mà lại có người cầm quyền xua Công An, Đầu Gấu đánh đập người dân biểu lộ sự bất bình vì sự hống hách của Phương Bắc như những người cầm quyền hôm nay. Vị Cha Già của Quân Đội Nhân Dân Cộng Sản – Đại tướng Võ Nguyên Giáp – lên tiếng can ngăn về vụ Bauxite Tây Nguyên, họ bỏ ngoài tai. Kiến nghị của giáo sư Nguyễn Huệ Chi cùng phụ hoạ với Tướng Giáp đã được hàng trăm nhà trí thức, cựu chiến binh cao cấp ký tên ủng hộ, họ cũng bỏ ngoài tai. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa để nói rằng “Giao Chỉ Quận” không còn là mối nguy cơ nữa, mà nướcViệt Nam mình đã lệ thuộc vào Trung Quốc thực sự rồi. Với nền khoa học tiến bộ ngày nay, Trung Quốc không cần phải phái có quan Thái Thú sang cai trị. Họ chỉ cần ngồi ở Trung Nam Hải ở Bắc Kinh dùng dụng cụ viễn khiển (remote control) là có thể điều hành mọi việc như ý muốn.

Hơn ba mươi bốn năm qua, người Việt Quốc Gia bị Cộng Sản đánh bật ra khỏi nước Việt Nam Cộng Hoà mà vẫn không tỉnh ngộ, vẫn cái thói chia rẽ nhau càng tệ hại hơn. Chưa bao giờ nền “văn hoá chửi” thô bỉ được phát triển tột độ như thời gian qua, mà lại được khởi xướng bởi kẻ có địa vị, có bằng cấp Đại học! Đến nay, không phải chỉ có Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản Việt Nam; toàn bộ cả nước đã thực sự rơi vào tay Cộng Sản Trung Quốc rồi! Vậy xin hỏi người Việt Nam đã tỉnh ngộ chưa? Liệu có đủ lòng yêu nước, đủ trí tuệ và đủ dũng cảm để xoá bỏ được tị hiềm, ganh ghét, thù hận, ý thức hệ mà hội tụ nhau lại thành một khối duy nhất nhằm làm tấm gương soi gây hứng khởi cho đồng bào trong nước? Tại sao người Việt Nam ở khắp bốn bể năm châu phất lên ngọn cờ Quang Trung Đại Đế từng đánh tan quân Minh hồi thế kỷ thứ 18?

Thông tin cho biết đa số nhân dân Việt Nam bây giờ tôn thờ chủ nghĩa “mackenoism´(tức là mặc-kệ-nó) vì bị đánh lừa quá nhiều lần. Tưởng rằng hy sinh xương máu, tài sản để đánh đuổi Thực dân Pháp, mang lại “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” thì bị thống trị bởi một chủ nghĩa tàn ác, lưu manh nhất nhân loại. Tưởng rằng lật đổ chế độ độc tài gia đình trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm để dồn nỗ lực chống lại làn sóng Đỏ thì bị một tập đoàn Tướng lãnh cấu kết với tôn giáo phá tan hoang từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Phải chăng tâm lý quần chúng ngày nay không còn quan tậm đến vận mệnh đất nước là vì không tin ở tương lai tươi sáng hơn? Những đại gia giàu của cải đang tìm đường đưa con cái chạy sang các nước tư bản, còn dân nghèo đành phải chấp nhận Hán hoá.

Những người trong nước còn quan tâm đến tương lai dân tộc, chắc chắn rất muốn tạo một Hội Nghị Diên Hồng, nhưng chính quyền này sẽ giải tán hoặc bỏ tù. Tại sao ở hải ngoại, những nhà tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ có phương tiện, có hoàn cảnh lại không liên lạc nhau để tiến hành một Hội Nghị Diên Hồng ở hải ngoại?

Người viết chỉ nêu lên để gợi ý cho các đoàn thể, tổ chức, đảng phái suy nghĩ và bàn bạc với nhau. Phương thức tổ chức như thế nào là do quyết định của mọi người. Nếu thành đại sự cứu nước thì điều đáng mừng, nhược bằng thất bại thì đời sau những đứa con mang dòng máu Việt lưu lạc khắp hoàn cầu còn chút hãnh diện vì cha ông họ ít nhất đã có một nỗ lực đối với sự diệt chủng. Hy vọng xin đặt vào tay những kẻ đại tài, đại trí, đại dũng.

Tháng trước, tôi có nói với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ: “Ông đã tận lực với đất nước đến như thế là đã đủ, nợ tang bồng ông đã trả cho non sông. Bài thơ của thi sĩ Bằng Việt đã nói trọn vẹn tấm lòng của ông”.

Bài viết đã quá dài. Xin hẹn với độc giả bài viết phần 4, với chủ đề: “Nhân Dân Nào, Chính Quyền Đó”.

Bằng Phong Đặng Văn Âu
Houston, viết xong ngày ngày 26 tháng 7 năm 2009
© Thông Luận 2009

Đầu trang