Bài đã đăng:
Bài liên quan:
Phan Châu Trinh sinh năm Nhâm Tuất (1872) niên hiệu Tự Ðức 26, tự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, quê ở xã Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ ông là Phan Văn Bình, theo nghề võ và đã tích cực chiến đấu trong hàng ngũ Cần Vương. Thân mẫu là Lê Thị Chung, con một nhà thế gia vọng tộc tại làng Phủ Lâm rất tinh thông Hán học và có nhiều đức hạnh. Thuở thiếu thời Phan Châu Trinh được hiền mẫu ân cần chăm sóc, trong khi phụ thân mãi lo công việc võ biền. Chẳng may mẹ mất sớm, vì cha phải bận với võ nghiệp, ít săn sóc đến việc học hành hành nên mãi đến năm lên 10, Phan Châu Trinh mới được vào trường học tập. Vì mối tình yêu nước sớm nẩy nở trong trí của Phan Châu Trinh nên trong lúc các bạn đồng học chăm chỉ ngốn những lời giảng dạy của thầy để nhồi vào óc đạo lý và chữ nghĩa của Thánh hiền, ông tỏ ra rất xao lãng, thờ ơ. Do đó, trong suốt ba năm liền học tập, Phan Châu Trinh chỉ học lấy lệ. Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi phải chạy trốn ra Quảng Trị. Các đạo Cần Vương kháng Pháp nổi lên khắp các nơi. Ðể cho Phan Châu Trinh có một nghề hợp khả năng và cũng đồng thời được đắc dụng trong buổi non sông nghiêng ngửa, thân phụ ông cho ông theo học nghề võ. Lúc bấy giờ thân phụ ông được cử làm Chuyển vận sứ đồn A Bá thuộc hạt Tam Kỳ.
Năm 1887, vì nghi kỵ, thân phụ Phan Châu Trinh bị hại, việc học tập võ nghệ của ông bị gián đoạn. Nhờ người anh cả rước thầy về cho ông tiếp tục học nghề văn. Vì nhận thấy muốn có uy tín để thực hiện chí lớn trong việc cách mạng để giành lại chủ quyền của đất nước, nên ông đổi sang học nghề nghiên bút, chớ thực ra ông không bao giờ thích cái lối học hư văn. Theo học bốn năm ở nhà, Phan Châu Trinh tỏ ra thông minh tuyệt vời, ông thường có những lý luận sâu sắc, những nhận xét tinh vi.
Năm 1889, theo thụ nghiệp với vị Ðốc học Trần Mã Sơn, Phan Châu Trinh được bổ vào ngạch học sinh.
Năm 1900, trong kỳ thi Hương, Phan Châu Trinh thi đỗ Cử Nhân, và qua năm sau 1901, ông đỗ Phó Bảng (nhằm niên hiệu Thành Thái thứ 13).
Ông được bổ làm Thừa Biện ở Huế, ít lâu sau, người anh cả của ông mất, ông xin về quê dạy học. Năm 1903, ông được bổ làm Thừa Biện ở Bộ Lễ. Trong thời gian từ 1902 đế 1905, Phan Châu Trinh có dịp học những tác phẩm có tư tưởng cách mạng của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu, Voltaire… Càng tiếp xúc nhiều với các quan trường, Phan Châu Trinh càng thấy rõ cảnh thối nát, hủ bại trên đường cử nghiệp.
Lúc bấy giờ lực lượng Cần Vương lần lần tan rã, thực dân Pháp bắt đầu đặt nền thống trị trên đất nước Việt Nam. Trước cảnh non sông nghiêng ngửa, nhận thấy sự bất lực và thối nát của triều đình Huế, Phan Châu Trinh xin từ quan và bắt đầu hoạt động chính trị với các ông Phan Bội Châu, Lương Ngọc Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp. Sau khi từ quan về hoạt động chính trị, Phan Châu Trinh đã cùng với hai bạn đồng khoa là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau vào Nam vận động đồng bào các giới.
Vào đến Bình Ðịnh gặp lúc quan tỉnh mở một kỳ thi cho học trò, đầu bài là “Chí thành thông thánh và Lưỡng Ngọc danh sơn” ba ông mạo tên là Ðào Mộng Giác nộp quyển làm bài, Phan Châu Trinh làm bài thơ và hai ông Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài phú. Những bài này không theo quy tắc thông thường mà cốt để thức tỉnh nhóm sĩ phu. Quan tỉnh không dám quả quyết phải dịch sang chữ Pháp để trình viên Khâm sứ đồng thời truy tầm tác giả của hai bài văn cách mạng kia, nhưng không có kết quả. Việc này đã có ảnh hưởng lớn đến đám sĩ phu thời bấy giờ. Tới Phan Thiết, Phan Châu Trinh bị bệnh phải quay trở về Huế. Sau mấy tháng dưỡng bệnh, ông ra Bắc tìm cách lên Yên Thế để gặp Hoàng Hoa Thám, nhưng chính sách bạo động của Hoàng Hoa Thám không thích hợp với chủ trương của ông, nên ông lại xuống Trung Châu Bắc Việt vận động với nhóm nho sĩ Bắc Hà. Ðâu đâu ông cũng đề xướng chủ trương tân học, cực lực đả kích các quan trường tham lam và những nhà hủ nho. Trong thời gian này ông kết nạp được một số đồng chí đáng kể. Phan Châu Trinh tán thành phong trào xuất dương du học do Phan Bội Châu khởi xướng. Lời kêu gọi của Phan Bội Châu, với sự hưởng ứng của Phan Châu Trinh gây được một phong trào xuất dương rất rầm rộ. Ðể được quan sát tại chỗ sự tiến triển của các nước, Phan Châu Trinh liền trốn sang Trung Hoa. Ông gặp Phan Bội Châu tại Hương Cảng rồi hai ông cùng sang Nhật. Ở đó được 10 tháng, ông lên đường về nước (năm 1906). Phan Châu Trinh quyết đứng ra tranh đấu công khai với chính quyền bảo hộ Pháp. Ngày 15 tháng 8 năm Bính Ngọ (1906), ông gởi lên Toàn Quyền Pháp ở Ðông Dương một bức thư dài 12 trang gồm mấy điểm sau đây :
- Do sự dung túng của chính quyền Bảo Hộ mà những bọn tham quan ô lại lộng hành khiến cho người Việt Nam bạc nhược suy yếu.
- Chính quyền Bảo Hộ đã dùng một chính sách bạo ngược, tàn ác đối với dânViệt Nam, không tôn trọng sinh mạng con người, muốn chém giết ai tùyý.
- Do những cách đối xử tàn ác này, mà bọn quan lại lợi dụng quyền thế bắt nạt dân chúng, tìm cách vơ vét cho đầy túi tham, gây nên một tình trạng bi đát trong dân chúng.
Bức thơ của Phan Châu Trinh đã có ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng. Ông bắt đầu hoạt động mạnh, hô hào tổ chức nhiều buổi diễn thuyết tại trường Ðông Kinh Nghĩa Thục. Thực dân Pháp để ý căm thù và triều đình Huế cũng rất bực tức quyết tìm cách hãm hại ông. Nhưng Phan Châu Trinh vẫn không màng đến, ông đứng ra lãnh đạo phong trào duy tân, khuyến khích đồng bào mở trường dạy học, lập các hội buôn như Ðông Kinh Nghĩa Thục, Hồng Hưng Tân, công ty Minh Tân, ông cảm hóa được rất nhiều nhân sĩ. Phan Châu Trinh lại hô hào thanh niên vận Âu phục, cắt tóc ngắn, ủng hộ các sản phẩm và hàng nội hóa để giúp cho nền kinh tế trong nước được dồi dào. Ða số thanh niên trong toàn quốc đã nhiệt liệt hưởng ứng phong trào Duy tân này.
Năm 1908, tại tỉnh Quảng Nam phong trào kháng thuế nổi lên mạnh mẽ lan rộng các tỉnh miền Trung Việt. Ðầu mùa Xuân năm 1908, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa Ðông Kinh Nghĩa Thục. Nhân việc kháng thuế ở Quảng Nam, vốn đã không ưa Phan Châu Trinh vì ông đã nhiều lần đả kích và nguyền rủa thậm tệ chúng, nên bọn quan lại Nam triều và thực dân Pháp đổ cho ông “xui dân làm loạn” và “phá rối” liền bị hạ lệnh bắt ông… Rất nhiều nhân sĩ bị bắt, và trong dịp này, ông nghè Trần Quý Cáp bị Nam Triều lên án xử chém tại Nha Trang. Riêng Phan Châu Trinh bị bắt đem về giam tại tòa Khâm Sứ. Ðể phản đối hành động khủng bố của thực dân, Phan Châu Trinh tuyệt thực trong bảy ngày. Nhận thấy tình thế khó xử, viên Khâm Sứ Pháp phải giao trả ông về Cơ Mật Viện của tòa án Nam Triều, ông bị bọn quan lại kết án tử hình. Nhờ có hội Nhân Quyền can thiệp với chánh phủ Pháp. Chính quyền Bảo Hộ phải điều đình với Nam Triều đổi bản án “tử hình” ra “Côn lôn ngộ xá bất nguyên” (bị đày ra Côn đảo mãn kiếp không được ân xá). Bỏ giam ở nhà lao Phủ Thừa được it’ lâu, Phan Châu Trinh bị đày đi Côn đảo. Lúc đi ngang qua cửa Thượng Tứ (Huế), ông đã ngâm bốn câu thơ bằng chữ Hán mà ông Phan Khôi đã dịch như sau:
Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn,
Hăng hái hò reo lưỡi vẫn còn
Ðất nước hãm chìm dân tộc héo
Làm trai đâu xá thứ Côn-lôn
Trong cảnh tù đày, nhưng Phan Châu Trinh rất được chính phủ Pháp trọng đãi và kính nể. Chính viên Thống Ðốc Nam Kỳ đã ra tận Côn đảo để tìm hiểu lập trường tranh đấu của ông. Năm 1910, nhờ có hội Nhân Quyền Pháp (do sự vận động của ông Ernest Babut trong 3 năm trời) can thiệp ráo riết với chính phủ Pháp, thủ tướng Pháp lúc bấy giờ là Klobulowsky và Tổng trưởng Bộ Thuộc địa là Trouillet lập Hội đồng để xét án Phan Châu Trinh. Chánh Tham Biện tỉnh Mỹ Tho là Cousineau được cử làm chánh án. Mặc dù đã được ân xá, nhưng ông cũng bị thực dân Pháp tìm cách giữ mãi tại Mỹ Tho. Ông phản kháng và cương quyết đòi trở về Côn Ðảo. Chính phủ Pháp đành phải để ông tự do. Vì muốn tranh đấu có hiệu quả trong việc cải cách nền chính trị nước nhà và đồng thời để được học hỏi thêm, năm 1911, Phan Châu Trinh đã sang Pháp với Toàn Quyền Klobulowsky, cùng theo ông có người con trai tên là Phan Châu Dật.
Tại Ba Lê, ông gởi con vào trường học còn ông thì lại làm nghề rửa ảnh để sinh sống. Dù cho phải sống xa quê hương, ông vẫn không ngừng hoạt động tranh đấu cho đất nước. Ông viết báo Pháp phản đối việc đào lăng Tự Ðức, yêu cầu chính phủ Pháp nên cấp tốc thay đổi chính sách thuộc địa, giáo dục tinh thần tranh đấu của Việt kiều tại Pháp. Ông tìm cách liên kết với các lãnh tụ thuộc đảng cấp tiến ở Pháp. Ông không tiếc lời đả kích những nạn tham nhũng thối nát của thực dân Pháp ở Ðông Dương và chỉ trích chính sách cai trị của họ. Phái khuynh tả ở Pháp rất tán thành việc làm của Phan Châu Trinh, nhưng các quan lại ở các thuộc địa Pháp rất căm thù và oán ghét. Tiền trợ cấp của ông và tiền học bổng của con ông là Phan Châu Dật đều bị truất, đó là kết quả sự trả thù của thực dân. Hai cha con ông phải sống kham khổ và vất vả với số lương rửa ảnh của ông hàng tháng là 50 quan. Dù phải sống trong cảnh đói rét, khốn khổ đủ mọi bề, Phan Châu Trinh vẫn cương quyết tranh đấu cho lý tưởng cao cả.
Năm 1914, chiến tranh Pháp Ðức bộc phát, tại quê nhà vua Duy Tân nhân cơ hội đó gây biến, nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên bị xử chém. Vua Thành Thái và Duy Tân bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion. Vì không chịu đi lính cho Pháp để đánh Ðức, Phan Châu Trinh bị vu cáo là làm gián điệp cho Ðức, nên ông bị bắt giam vào ngục SANTE. Nơi đây ông bị hăm dọa đủ điều, nhưng tấm kiên trung vẫn không bao giờ thay đổi. Dùng võ lực không được, người ta đã đem tiền bạc, quyền tước để mua chuộc ông, nhưng cũng vô hiệu quả. Nhờ sự can thiệp của Ðảng Xã Hội và Hội Nhân Quyền Pháp, năm 1915 chính phủ Poinceré phải ký giấy phóng thích ông. Vừa thoát khỏi cảnh giam cầm, Phan Châu Trinh lại phải khóc con. Phan Châu Dật sau 6 năm học tập đã thi đỗ bằng Tú Tài Vật Lý Học, được cha ủy thác sứ mạng về nước để hoạt động. Vì bao năm sống thiếu thốn đói lạnh, Chu Dật mang phải bệnh lao phổi. Về đến quê nhà chưa đầy một năm, Chu Dật mất.
Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc đấu xảo quốc tế ở Ba Lê, Phan Châu Trinh gởi cho nhà vua một bức thư lời lẽ nghiêm khắc buộc Khải Ðịnh phải thoái vị nhường quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà vua đã làm và đáng tội chém đầu. Có đoạn ông đã viết : “…Một là vì Trinh này đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ đứng vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức thư này không phải dâng lên cho bệ hạ mà chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn đó mà thôi… ngày nay Trinh này đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo là cái tên húy của bệ hạ, để tỏ ý phản đối.” Bức thư của ông, sau khi được công bố, khích động được tinh thần tranh đấu của đồng bào trong và ngoài nước.
Năm 1925, chính phủ Pháp nhận thấy Phan Châu Trinh là một người ái quốc chân chính có chính sách ôn hòa, nên có ý muốn giúp đỡ ông. Phái tả đảng bên Pháp từ lâu đã có cảm tình với ông được thắng phiếu trong cuộc bầu cử Nghị Viện và lên nắm chính quyền. Thấy cơ hội thuận tiện cho mình đem tài trí ra giúp dân giúp nước, ông xin trở về quê nhà và được chính phủ Pháp chấp nhận.
Về đến Saigon, Phan Châu Trinh có ý định ở lại trong Nam ít lâu rồi sẽ ra Trung Bắc để hoạt động. Dù tuổi già sức yếu, bệnh hoạn vì bao năm sống vất vả thiếu thốn ở Pháp, Phan Châu Trinh vẫn hăng hái tranh đấu. Ông vận động với nhà cầm quyền Pháp để xin ân xá cho Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải và sửa soạn hai bài diễn văn để đọc trước công chúng:
Hai bài diễn văn trên đây đã bày tỏ được chính kiến của một nhà cách mạng chân chính, với lòng yêu nước nhiệt thành. Ngày 24-12-1925, sau khi hay tin việc vận động xin ân xá của quốc dân đã có kết quả và Toàn Quyền Varenne đã ký giấy ân xá Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh định ra Huế để được gặp người bạn đồng chí để cùng nhau tâm sự, nhưng ông bị đau không đi được. Các sinh viên trường Ðại học Hà Nội đánh điện văn mời ông ra Bắc để diễn thuyết. Chưa kịp đi thì ông được biết tin vua Khải Ðịnh mất. Phan Châu Trinh đánh điện tín cho Pasquier Khâm sứ Trung Kỳ hay ông sẽ ra để lo việc cải tổ triều chính và lập dân đảng.
Tiếc thay đại cuộc chưa thành, bệnh tình của Phan Châu Trinh mỗi ngày một thêm trầm trọng. Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm ngày 12 tháng 2 năm Bính Dần) nhà cách mạng ái quốc Phan Châu Trinh đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ được 55 tuổi. Một Hội đồng trị sự được thành lập ngay đêm đó để lo việc an táng cho ông ngày 4-4-1926 khắp từ Nam chí Bắc đều tự động làm lễ bãi khóa và làm lễ quốc táng nhà chí sĩ Phan Châu Trinh rất trọng thể để chứng tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và mến tiếc nhà cách mạng đã suốt đời vì dân vì nước.
Đầu mùa thu năm 2016, vào một buổi chiều cuối tuần, vô tình tôi đọc được một bài thơ trong cuốn sách của người bạn cho mượn. Bài thơ mang tên “Chí thành thông thánh” nói lên tấm lòng chí thành đối với đất nước đã thấu đến trời xanh (dịch sát nghĩa „Lòng chí thành cảm đến cả thần thánh“). Chỉ cần đọc hai câu đầu của bài thơ:
Nếu tính đến năm 2016, Phan Châu Trinh đã mất được 90 năm, nhưng tư tưởng của ông để lại cho hậu thế vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay. |
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng. [1]
Ta sẽ cảm nhận được cái tận cùng của đau, của đớn mà một dân tộc đang phải chịu đựng khi bị ngoại xâm dày xéo và đã phải lên tiếng than thân trách phận về sự khổ nhục đến độ không còn dư nước mắt để khóc cho các bậc anh hùng. Phan Châu Trinh đã sáng tác bài thơ này trên đường đi vào Nam, năm 1905. Khi đi ngang qua Bình Định, nhân ở đó tổ chức kỳ khảo hạch thường niên của tỉnh, Phan Châu Trinh cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp giả làm học trò vào dự thi. Tương truyền là Phan Châu Trinh tự thảo bài thơ “Chí thành thông thánh”, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp làm bài phú „Danh sơn lương ngọc”. Cả ba ông, người đương thời gọi là „Quảng Nam Tam Kiệt”, cùng ký chung tên Đào Mộng Giác nộp bài lên quan trường. Lời lẽ thơ rất thống thiết kêu gọi sĩ phu hãy thức tỉnh đừng ngủ mê, đừng chìm đắm trong văn chương thi phú, đừng xa vào công danh, phú quý mà quên đi đất nước còn trong vòng nô lệ, nhục nhằng. Bài thơ và bài phú đã mang lại tiếng vang lớn trong dân chúng nhất là các giới sĩ phu thời đó.
Phan Châu Trinh còn gọi là Phan Chu Trinh, lý do đổi từ chữ „chu” ra chữ „châu” là vì kỵ húy với tên của chúa Nguyễn Phúc Chu đàng trong. Ông hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, tự là Tử Cán, sinh ở Quảng Nam sinh ngày 9.9.1872 và mất ngày 24.3.1926 tại Saigon, thọ được 54 tuổi. Mẹ chết sớm, cha ông là Phan Văn Bình một võ quan của triều Nguyễn, sau này theo phong trào Cần vương chống Pháp. Phan Châu Trinh theo cha từ nhỏ và học võ nghệ. Khi cha ông mất năm 1887, ông về quê bỏ học võ theo học văn. Ngay từ trẻ,ông đã ý thức được nhiệm vụ của mình, muốn hoạt động để giành lại tự do, độc lập cho dân tộc, thì phải có uy tín. Mà muốn tạo uy tín thời đó không gì hơn là khoa bảng, nên ông quyết theo nghề bút nghiên, mặc dù ông vốn không ưa lối học từ chương trích cú. Năm 1900, Phan Châu Trinh đỗ Cử Nhân trong kỳ thi hội, năm sau ông đỗ Phó Bảng. Năm 1903, ông được bổ làm Thừa biện bộ Lễ. Năm 1905, chán cảnh quan trường ông từ quan và cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp vào Nam xem xét tình hình.
Bối cảnh lịch sử
Năm 1802, sau khi thắng được nhà Tây Sơn, vua Gia Long thống nhất nước Việt Nam và lập nên triều đại nhà Nguyễn. Đây là thứ triều đình đầy nghi kỵ và cổ hủ, rập khuông nhà Thanh bên Trung Hoa. Giai đoạn độc lập từ năm 1802 đến năm 1858, trải qua 4 đời vua, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều dồn tất cả mọi nỗ lực để xây dựng nước Việt Nam trên nền tản Nho Học, nặng về từ chương, không thực tiễn và áp dụng chính sách „bế quan tỏa cảng” đóng cửa không tiếp xúc với bên ngoài. Dưới thời nhà Nguyễn, Việt Nam là một nước phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, dân trí rất thấp (95-99% mù chữ) trong khi đó, ở các nước Âu châu đang có những cuộc cách mạng lớn lao về khoa học, kỹ thuật. Phan Châu Trinh nhận xét về xã hội Việt Nam thời đó: „Than ôi! Nước Nam bây giờ dân khí yếu hèn, dân trí thì mờ tối, ví với các nước châu Âu châu Á, cách xa không biết bao nhiêu dặm đường” [2].
Một số trí thức Việt Nam đã nhận ra điều đó, nhìn thấy cái sức mạnh to lớn của kỹ thuật, lo lắng cho tồn vong của đất nước trước sự phát triển không ngừng của phương Tây. Trong đó có Nguyễn Trường Tộ (1828-1871), Phạm Phú Thứ (1820-1883), Nguyễn Lộ Trạch (1853-1895),… Họ đều nhận ra được đất nước cần phải thay đổi, cần phải chuyển hóa, nhưng họ lại tự cột mình vào bốn chữ „Trung quân ái quốc”. Họ chỉ dám viết những bản điều trần dâng lên vua, lên triều đình Huế, để xin cái triều đình già nua, thủ cự, đầy đố kỵ đó tự thay đổi, tự biến hóa. Nhưng chuyện đó không bao giờ xẩy ra, tất cả những bản điều trần viết ra từ tâm huyết của sĩ phu yêu nước đều bị vùi dập, bị bỏ quên. Điều đáng tiếc nữa là những bản điều trần này dâng lên triều đình Huế, nên đại đa số dân chúng không được biết đến.
Đất nước càng ngày càng trở nên u mê và tăm tối, biến thành miếng mồi ngon cho ngoại bang xâm chiếm. Ngày 1.9.1858 quân Pháp nổ súng đầu tiên vào Việt Nam, bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng. Năm 1862 Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông của miền Nam Việt Nam và năm 1867 lấy nốt 3 tỉnh miền Tây. Bất lực và phẫn nộ trước nghịch cảnh, Nguyễn Trường Tộ, một con người luôn luôn ưu tư về đất nước, trước khi nhắm mắt đã uất ức để lại cho con cháu hai câu thơ:
Nhất thất túc thành thiên cổ hận
Tái hồi đầu thị bách niên cơ(Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận
Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm)
Nguyễn Trường Tộ mất năm 1871 lúc mới 41 tuổi, ông ra đi sớm nên không phải nhìn cảnh đau lòng, Pháp đem quân đánh chiếm Bắc Kỳ. Năm 1873, chỉ với 300 quân Pháp đã đánh tan 7.000 quân của Nguyễn Tri Phương ở Hà Nội và bắt được 2.000 tù binh Việt. Dũng tướng Nguyễn Tri Phương tử trận. Năm 1885, với một số quân khoảng 1.000 người, Pháp đã chiếm được kinh thành Huế, trong khi triều đình Huế do phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết cầm đầu dốc hết toàn lực ra đánh quân Pháp mà vẫn bị vỡ trận. Hơn 1.000 lính Việt tử thương, trong khi đó quân Pháp bị chết có 16 người. Từ đây đã mở ra một trang sử đen tối của Việt Nam: một trăm năm Pháp thuộc.
Trước sự xâm lăng của thực dân Pháp, trí thức Việt Nam thưở ấy chỉ nhìn thấy hai con đường để lựa chọn, hoặc theo Pháp hoặc là chống lại Pháp bằng vũ lực. Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi đề xướng, đáp ứng được lòng yêu nước của giới sĩ phu và được họ nhiệt liệt hưởng ứng như cuộc khởi nghĩa Hương Khuê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1889) do Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) do Đinh Công Tráng,… Rồi đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1884-1908) do người anh hùng Hoàng Hoa Thám hay còn gọi là Đề Thám khởi xướng mặc dù gây được tiếng vang lớn nhưng cũng như các cuộc khởi nghĩa khác đều bị Pháp đàn áp tàn nhẫn và đập tan. Quân Pháp không tiếc tay tàn sát nghĩa quân và dân lành, đốt phá làng mạc theo Cần Vương. Các phong trào khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt. Các thủ lãnh nghĩa quân như Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, … đều bị Pháp sát hại.
Thừa hưởng được những bài học thất bại của người đi trước để lại, cộng thêm kinh nghiệm đã từng theo sát người cha chiến đấu trong hàng ngũ phong trào Cần Vương, Phan Châu Trinh đã nhìn thấy cái thế «tất thua» của đất nước mình, do sự tương quan lực lượng giữa Việt Pháp quá chênh lệch. Rồi nếu cứ tiếp tục theo đuổi bạo lực như thế, thì «dân tộc sẽ không còn nước mắt để khóc cho những anh hùng». Trong bối cảnh đó, Phan Châu Trinh là người duy nhất nhận ra «Bạo động tất chết» và đưa ra đường lối đấu tranh ôn hòa.
Từ Tân Thư đến Duy Tân
Ngay từ hồi còn trẻ Phan Châu Trinh đã được đào tạo theo tinh thần Nho giáo, tinh thần trọng khoa bảng, nhưng ông lại có đầu óc rất duy tân. Ông cổ vũ cho Phong trào Duy Tân nhằm khai hóa dân tộc, cải cách đất nước. Ông có cái nhìn đi trước thời đại của mình, không hạn hẹp vào vấn đề nhất thời. Muốn cứu đất nước, trước tiên phải nâng trình độ của dân tộc lên ngang hàng với kẻ thù, phải khắc phục được khoảng cách khác biệt giữa ta và thù, giữa lạc hậu và văn minh, giữa yếu hèn và hùng mạnh, giữa đói khổ và no ấm. Một đất nước nghèo hèn và lạc hậu thì không thể nào đứng vững, trước sau gì cũng bị đô hộ, không bị cường quốc này thì bị cường quốc khác đè bẹp. Ông đặt lên hàng đầu những vấn đề như cải cách xã hội, nâng cao dân trí, sau rồi mới đến những vấn đề khác.
Phan Châu Trinh tìm tòi đọc “tân thư” là những sách do các nhà duy tân của Nhật, của Trung Hoa viết như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi hay những kinh điển về dân chủ, dân quyền của Pháp như Montesquieu và Jean Jacques Rousseau được dịch ra chữ Hán. Tân thư đã đóng một vai trò quan trọng vì nó đã thổi vào giới sĩ phu một luồn gió với những tư tưởng mới. «Thiên Hạ Đại Thế Luận» (Bàn về thế lớn trong thiên hạ) là một loại tân thư do Nguyễn Lộ Trạch viết năm 1892 đã tác động rất nhiều đến ông. Tác phẩm bàn về tình thế của các nước Á đông đứng trước nguy cơ bị phương Tây thôn tính, chỉ ra những lỗi lầm mà triều đình Huế mắc phải và những canh tân cần thiết để cứu vãn đất nước trước dã tâm xâm lược của Pháp. Đây là một bài viết rất sâu sắc, chính xác và có cái nhìn rất xa. Cái đặc sắc của Nguyễn Lộ Trạch không chỉ viết bản điều trần để dâng lên vua mà ông còn viết những bài như Thời vụ sách, Thiên hạ đại thế luận,... để truyền bá trong giới sĩ phu đọc.
Năm 1906, Phan Châu Trinh phát động Phong trào Duy Tân. Ông cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi đến các tỉnh miền Trung Việt Nam vận động cho phong trào và đưa ra khẩu hiệu: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh [3].
Tư tưởng „khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh“ mang một ý nghĩa sâu xa là nhắm xây dựng một con người tự lực, tự cường để tiến đến một tập thể tự lực, tự cường mà trong đó người dân từ thân phận nô lệ trở thành công dân một đất nước tự chủ. Nói đúng hơn Phan Châu Trinh tìm thấy sức mạnh trong sự nâng cao dân trí để đẩy dân tộc ra khỏi vòng nô lệ mà không cần phải dùng đến bạo lực.
Phong trào Duy Tân phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở Trung Kỳ mà còn ra Hà Nội vào đến Sài Gòn. Nhắm mục đích mở mang dân trí, đến năm 1906 phong trào đã khai trương được 40 trường ở Quảng Nam. Trường dạy theo lối mới: chữ Quốc Ngữ, khoa học thưởng thức, sử địa và cả tiếng Pháp nữa. Về dân sinh, nhiều thư xã, thương hội, hội nghề nghiệp,…lần lượt được lập ra. Để làm gương cho mọi người, „nhà nho đi buôn” Phan Châu Trinh đã mở ở Đà Nẵng một hội buôn mang tên là „Quảng Nam thương hội” để dệt vải và bán quế. Ông khuyền khích dùng đồ nội hóa và đặc biệt rất quan tâm về vấn đề học nghề, ông viết trong tập thơ „Tỉnh quốc hồn ca” :
Mau mau đi học lấy nghề,
Học rồi, ta sẽ đem về dạy nhau
Năm 1907, ông tham gia vào ban giảng huấn của trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Phong trào Duy Tân đang trên đà phát triển, thì tháng 3 năm 1908 phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ bùng nổ. Thực dân Pháp lợi dung cơ hội này, đàn áp thẳng tay, họ ra lệnh đóng cửa các trường học, giải tán các hội buôn. Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, Trần Quý Cáp bị lãnh án chém ngang lưng, Huỳnh Thúc Kháng bị đầy ra Côn Đảo. Phong trào Duy Tân coi như bị bức tử vào năm 1908.
Những ngày tháng bôn ba
Năm 1906, ông bí mật sang Nhật để gặp Phan Bội Châu bàn bạc tìm đường cứu đất nước và tiện thể xem xét công cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân ở xứ này. Mặc dù hai người đều mang nặng tình yêu đất nước thiết tha nhưng lại có hai tư tưởng khác biệt. Phan Bội Châu chủ trương dựa vào thế lực bên ngoài (Nhật Bản), dùng bạo lực đánh Pháp, chấp nhận chế độ quân chủ, ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Phan Bội Châu lập Duy Tân hội một tổ chức dùng vũ lực để kháng Pháp và phát động phong trào Đông Du để đưa thanh niên xuất dương du học. Trong khi đó Phan Châu Trinh chủ trương đấu tranh ôn hòa, không chấp nhận quân chủ và đưa ra phương châm „tự lực khai hóa”, lấy sức mình làm chính để tự lực, tự cường. Ông cho rằng „Vọng ngoại ắt ngu” vì dựa vào bất cứ thế lực bên ngoài nào cũng là làm công việc cõng rắn cắn gà nhà. Phan Bội Châu sau này cũng nhận ra cái sai lầm „Vọng Nhật” của mình. Năm 1908 sau khi ký thương ước với Pháp, chính phủ Nhật trục xuất Phan Bội Châu và 200 du học sinh Việt Nam ra khỏi nước họ. Phong trào Đông Du từ đó coi như hoàn toàn bị tan rã.
Sau 10 tháng ở Nhật Bản nhận thấy không đồng quan điểm với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh trở về Việt Nam. Về đến quê nhà, ông gởi môt bức “Đầu Pháp chính phủ thư” (Bức Thư gởi cho người đứng đầu chính phủ Pháp) cho Toàn quyền Paul Beau vạch trần chế độ thối nát của quan lại triều đình Huế, chế độ cai trị hà khắc của Pháp đã làm cho dân tộc Việt Nam yếu hèn, u mê và yêu cầu chính phủ Pháp phải sửa đổi lại đường lối cai trị. Năm 1908 phong trào chống đi phu, đòi giảm sưu thuế bùng nổ ở Trung Kỳ, thực dân Pháp buộc ông tội “xúi dân làm loạn” và bắt ông ở Hà Nội, rồi giải về Huế để triều đình trị tội, sau đó đầy ra Côn Đảo. Trên đường đi đầy, khi qua cửa Thượng Tứ ông cảm khái ngâm câu thơ :
…
Quốc thổ trầm luân dân tộc lụy
Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn
Bản dịch của Phan Khôi:
Đất nước hãm chìm dân tộc héo,
Làm trai đâu xá thứ Côn Lôn.
Trong thời gian phải xách búa đập đá ở đảo, ông đã làm bài thơ „Đập đá Côn Lôn” nói lên cái khí phách hiên ngang của những kẻ vá trời khi lỡ bước:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hònTháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con !
Năm 1910 nhờ sự vận động của hội Nhân Quyền Pháp, ông được thả tự do và bị quản thúc ở Mỹ Tho. Một năm sau, Phan Châu Trinh cùng với người con trai tên là Phan Châu Dật qua Pháp. Tới Pháp, ông viết một bản điều trần “Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký” để đưa cho hội Nhân Quyền Pháp nói lên việc đàn áp người dân chống sưu cao thuế nặng ở Trung kỳ. Sống ở Pháp, ông làm nghề rửa ảnh để nuôi thân, tuy rất khó khăn về tài chánh, nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động qua những bài viết trên báo chí vạch các tội ác của thực dân Pháp ở Viêt Nam. Thế chiến thứ nhất bùng nổ, Pháp bắt ông đi lính để đánh Đức, ông phản đối, bị chính phủ Pháp quy cho tội gián điệp và bắt giam từ năm 1914 đến 1915. Trong thời gian ở tù, vợ ông là bà Lê Thị Ty mất ở quê nhà. Con trai ông là Phan Châu Dật vì sức khỏe không ở được Pháp trở về Việt Nam và mấy năm sau thì mất (năm 1921). Đó là hai cái tang đau đớn nhất cho ông.
Năm 1922, nhân vua Khải Định sang dự cuộc đấu xảo quốc tế ở Marseille, ông viết một bức thư kể 7 tội của vua Khải Định gọi là “Thư Thất Điều”
Nhận thấy tình hình thuận tiện, Phan Châu Trinh lên tàu trở về nước vào tháng 5 năm 1925.
Đến Việt Nam, việc đầu tiên là ông đi vận động để thực dân Pháp thả Phan Bội Châu, khi nghe tin Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải tháng 6 năm 1925. Trước các cao trào đấu tranh của dân chúng, Pháp đã buộc lòng phải trả tự do cho Phan Bội Châu vào tháng 12 năm 1925.
Mặc dù bị bệnh, nhưng ông vẫn cố gắng đi diễn thuyết về hai đề tài để mọi người hiểu rõ chính kiến của ông:
- Đạo đức và luân lý đông tây: Phan Châu Trinh phân tích đạo đức và luân lý giữa đông và tây. Ông cho rằng đạo đức, luân lý, giáo dục ảnh hưởng rất nhiều đến sự sống còn của dân tộc.
- Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa: Phan Châu Trinh giải thích về cái hại của chủ nghĩa quân chủ và cái lợi của chủ nghĩa dân chủ.
Bệnh tình càng ngày càng nặng, Phan Châu Trinh trút hơi thở cuối cùng lúc 21 giờ 30 vào ngày 24.3.1926 tại Sài Gòn. Đám tang của Phan Châu Trinh được tổ chức rất long trọng, một ủy ban được thành lập để lo tang chay cho ông. Dân chúng xếp hàng đông nghẹt, nghiêm trang ở các ngã đường đề tiễn đưa ông lần cuối. Toàn quốc thọ tang Phan Châu Trinh, đám tang của ông đã trở thành Quốc táng [4]. Điều này nói lên niềm tiếc thương lớn lao của dân chúng đối với Phan Châu Trinh, một người suốt đời tận tụy cho đất nước.
Đám tang của Phan Châu Trinh năm 1926 tại Sài Gòn
Vẫn còn giữ nguyên giá trị
Phan Châu Trinh không đơn thuần chỉ là một nhà đấu tranh bất bạo động, một nhà cải cách đòi đổi thay xã hội mà ông còn là một nhà tư tưởng lớn. Nếu tính đến năm 2016, Phan Châu Trinh đã mất được 90 năm, nhưng tư tưởng của ông để lại cho hậu thế vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.
Hoàn cảnh của đất nước Việt Nam ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thật là bi đát, dân trí thì mờ tối, dân khí thì yến hèn, dân sinh thì lầm than. Phan Châu Trinh đã đưa ra một con đường tranh đấu ôn hòa để thay đổi xã hội, thay đổi số phận của con người trong xã hội đó. Ông chủ trương muốn canh tân đất nước phải dựa vào dân trí và dân khí là hai cái nền tảng sức mạnh của một dân tộc. Muốn khai thông dân trí để khỏi mờ tối thì phải đổi mới xứ sở, bỏ cái cũ học cái mới, bỏ từ chương học khoa học kỹ thuật, muốn chấn hưng dân khí để khỏi yến hèn thì phải nâng cao ý thức dân tộc về tự lực, tự cường. Ông đi thêm một bước nữa là đem dân sinh vào để bổ túc cho hai cái kia vì nếu dân sinh mà còn lầm than thì dân khí cũng khó mà vững vàng, dân trí khó phát triển. Tư tưởng „Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh ” biến thành sức bẩy để đưa một dân tộc từ yến hèn, u mê trở lên mạnh mẽ, ấm no. Và chỉ khi nào một dân tộc có đủ sức mạnh thì họ có quyền đòi bình đẳng với dân tộc khác. Tư tưởng của Phan Châu Trinh đã làm nền tảng cho đường lối hoạt động của các Phong Trào Duy Tân, Phong Trào Đông Du, Phong Trào Đông Kinh Nghĩa Thục,…. vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và cũng là kim chỉ nam cho hậu thế sau này trong công cuộc đi xây dựng và gìn giữ đất nước mình.
Lương Nguyên Hiền
Tài Liệu tham khảo:
1) Bài thơ “Chí thành thông thánh” : thivien.net
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng.
Vạn gia nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ văn chương thuỵ mộng trung.
Trường thử bách niên cam thoá mạ,
Cánh tri hà nhật xuất lao lung?
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
Thí hướng tư văn khán nhất thông.
Dịch nghĩa:
Việc đời nhìn lại thấy chẳng còn gì,
Sông núi không còn nước mắt để khóc các bậc anh hùng.
Muôn nhà làm tôi tớ dưới ách cường quyền,
Nhiều người đang ngủ mê trong giấc mộng văn chương bát cổ.
Suốt cả trăm năm chịu người mắng nhiếc,
Lại biết ngày nào mới thoát cũi sổ lồng?
Các anh chưa hẳn là người không tâm huyết,
Thử lấy thơ này mà xem từ đầu đến cuối.
2) Phan Châu Trinh viết „Đầu Pháp chính phủ thư” (Bức Thư gởi cho người đứng đầu chính phủ Pháp) gởi cho Toàn quyền Paul Beau vào năm 1906. Trong đó có một đoạn: „Than ôi! Nước Nam bây giờ dân khí yếu hèn, dân trí thì mờ tối, ví với các nước châu Âu châu Á, cách xa không biết bao nhiêu dặm đường”.
3) Wikipedia: Phong trào Duy Tân
4) Sách “Phan Chu Trinh (1872-1926)” : Thế Nguyên, Tân Viết xuất bản 1956
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) không chỉ là nhà văn hóa lớn mà còn là một trong những nhà Dân chủ đầu tiên của nước ta giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tư tưởng Dân chủ của Phan Châu Trinh với những quan niệm về dân chủ, về xác định vai trò của người dân trong phong trào chấn hưng đất nước... đã làm thức tỉnh dân tộc ta trong giai đoạn này, góp phần quan trọng trong việc tạo nên những chuyển biến tích cực của xã hội ta lúc bấy giờ. Bài viết đi vào phân tích những nội dung, đặc điểm, ý nghĩa cơ bản của tư tưởng Dân chủ của Phan Châu, từ đó rút ra ý nghĩa lịch sử và những bài học cần thiết cho ngày hôm nay.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tương ứng với điều kiện hoàn cảnh mới, nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc cũng mang tính chất khác trước. Cắt nghĩa thực tiễn, một bộ phận nhà Nho tiến bộ, trong đó có Phan Châu Trinh đã “khai phá” những phương pháp khả dĩ cứu nước, cứu dân theo những khuynh hướng khác nhau. Một trong những khuynh hướng nổi bật trong giai đoạn này đó là các nhà trí thức khởi xướng phong trào Duy tân. Hoạt động cơ bản của phong trào là nhằm cổ vũ ý thức tự cường dân tộc, thúc đẩy những cải cách văn hóa và xã hội trước hết là cải cách giáo dục và thi cử. Trọng tâm của phong trào đặt vào sự đổi mới đầu óc của mọi người, đổi mới tri thức, từ bỏ cái học cũ và những tri thức lỗi thời cổ xưa để hướng tới nền học vấn Âu Tây trong khoa học kỹ thuật. Phan Châu Trinh là một trong những nhân vật tiêu biểu cho phong trào này đã đề cao nâng cao dân trí, dân khí và kêu gọi các tầng lớp nhân dân cải cách phong tục hăng hái tham gia vào những hoạt động kinh doanh nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, Phan Châu Trinh là nhân vật tích cực của phong trào đổi mới và cải cách. Ông đề xướng cải cách hệ thống chính trị với tất cả tính nghiêm trọng và cấp bách của vấn đề này. Ông đả kích hệ thống quan lại mục nát, tham nhũng, hủ lậu và bất lực. Ông nêu ra vấn đề chức trách, phẩm giá và cơ chế hoạt động của cả tập đoàn quan liêu từ triều đình đến những tên nha lại hào lý hằng ngày sách nhiễu đè nén những người dân lương thiện. Nhưng ông không dừng lại ở sự phê phán tầng lớp quan liêu hào lý mà còn phê phán cả quyền chuyên chế của nhà vua, nhất là "tám mươi năm trở lại đây, vua thì dốt nát ở trên, bầy tôi thì nịnh hót ở dưới; hình pháp dữ dội, luật lệ rối loạn, làm cho dân không còn biết sống theo cách nào".
Ông còn chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đồi bại của bộ máy quan liêu là sự "dung túng của chính phủ Bảo hộ". Duy ở đây có điều là ông không thấy chính sách sử dụng bộ máy quan liêu sâu mọt như vậy để nô dịch nhân dân là bản chất của thực dân Pháp. Vì thế ông đã cố gắng thuyết phục chính phủ Bảo hộ thay đổi chính sách và tiếp thu những đề nghị của ông về cải cách hệ thống quan lại và mở rộng dân chủ cho nhân dân. Nhưng sự thuyết phục đó không thể thành công. Khi đề xuất những yêu cầu cải cách chính trị đối với xã hội Việt Nam lúc đương thời, Phan Châu Trinh đã nêu ra tư tưởng dân chủ như một định hướng cho cuộc cải cách này. Có thể nói rằng, từ sự phê phán hệ tư tưởng phong kiến, Phan Châu Trinh đã đề xuất tư tưởng canh tân vào cuối thế kỷ XIX và sau đó, khởi xướng tư tưởng dân chủ tư sản vào đầu thế kỷ XX, điều này tạo nên “dấu ấn” lớn đối với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, góp phần chuyển tiếp hình thành nên khâu trung gian để chuyển từ hệ tư tưởng phong kiến sang hệ tư tưởng vô sản.
Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được thể hiện thông qua con đường là nâng cao dân quyền, là xây dựng thể chế chính trị và hệ thống pháp luật để bảo đảm cho dân quyền mà Cụ Phan là người khởi xướng cho đến nay ngẫm lại, vẫn còn nguyên giá trị.
Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh khá đa dạng, phức tạp và có nét đặc sắc riêng. Ông tiếp thu đồng thời luồng tư tưởng dân chủ sơ khai, tính tự do ngôn luận của Nho giáo thời Xuân Thu – Chiến Quốc, lẫn tư tưởng dân chủ tư sản, mà chưa nhận thức được tính giai cấp của mỗi hệ tư tưởng dẫn đến việc khẳng định nền dân chủ tư sản Tây phương ngày nay chính là đạo Khổng Mạnh Đông phương ngày trước. Phan Châu Trinh cho rằng, nếu bây giờ chúng ta muốn đi tìm lại đạo Khổng Mạnh thì phải ở văn minh Âu châu chứ không phải ở đâu khác. Điều này thể hiện Phan Châu Trinh không chấp nhận những mặt lạc hậu của nền giáo dục Nho giáo truyền thống đương thời, kiên quyết phê phán độc tôn Tống Nho, phê phán những đạo lý cương thường đã bóp nghẹt mọi sáng tạo của tư tưởng và quay về phục hồi cái gốc của Nho giáo trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Phan Châu Trinh cố gắng kết nối những tư tưởng dân chủ của những thời đại, những giai tầng khác nhau lại cũng nhằm mục đích cứu nước, cứu dân, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế lúc bấy giờ. Vì vậy, tuy có những hạn chế nhất định, nhưng tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh mang đậm tính nhân văn, nhân đạo.
Quan niệm về dân chủ và chủ nghĩa dân chủ được Phan Châu Trinh trình bày trong bài diễn thuyết Quân trị chủ nghĩa (tức nhân trị chủ nghĩa) và dân trị chủ nghĩa (tức là pháp trị chủ nghĩa), một trong hai bài viết cuối cùng của ông, đồng thời cũng là một trong hai bài viết được ông phát biểu chính thức với quốc dân đồng bào sau mười bốn năm lăn lộn trên đất Pháp. Qua bài diễn thuyết, Phan Châu Trinh muốn giải thích cho mọi người hiểu rõ thế nào là chủ nghĩa quân chủ, chủ nghĩa dân chủ, cũng như lợi hại của mỗi chủ nghĩa.
Tuy được gọi là người đề xướng tư tưởng dân quyền sớm nhất nước ta, nhưng đối với vấn đề này, thật ra Phan Châu Trinh chưa có dịp để trình bày một cách thấu đáo, sâu sắc. Chính tác giả cũng đã nói đến chỗ hạn chế trong ấy trong phần đầu bài diễn thuyết của mình: “cái đề mục đó thật là lớn lao quá, không phải sức tôi có thể giải thuyết ra cho minh bạch được. Muốn giải thuyết ra cho minh bạch, thì phải tính về Âu Á lịch sử chính trị học và chính trị triết học mới có thể nói ra cho tinh tường được. Các anh em cô bác có lạ gì tôi, cái học về đường lịch sử Tàu thì tôi cũng hiểu được chút đỉnh, còn về đường Tây học thì thực là kém lắm”.
Trong phần nói về dân chủ, Phan Châu Trinh trình bày ba nội dung: tình hình dân trí nước ta đối với vấn đề quân chủ, dân chủ; lược sử chế độ dân chủ; và thế nào là chính thể dân chủ. Ở nội dung thứ nhất, đánh giá tình hình dân trí nước ta đối với vấn đề quân chủ, dân chủ, Phan Châu Trinh đã so sánh trong khi các nước bên Âu châu, nước nào cũng có đảng dân chủ ở trong thượng, hạ nghị viện cả, duy nước ta, ngay những người có ăn học thì cái chữ “republique” (cộng hòa) luôn ở trên miệng, nhưng không hiểu nghĩa lý ra thế nào huống chi người dân quê, đã không biết dân chủ là gì đối với vua thì thờ ơ như thần thánh. Từ đó ông phân tích rằng, vì cái độc quân chủ dân chỉ biết vua mà không biết nước nên phải “đem cái tụi bù nhìn ở Huế đó vứt hết cả đi”. Trong phần lược sử chế độ dân chủ, Phan Châu Trinh đã nêu lên một cách khái quát hai hình thức dân chủ trong lịch sử, đó là nền dân chủ chủ nô thời Hy Lạp cổ đại và dân chủ tư sản Anh quốc. Ở đây, ông chưa phân tích bản chất, đặc tính và những nguyên tắc của từng hình thức dân chủ đó, mà chỉ mới giới thiệu về sự tồn tại những “cái hội” mà “phàm những luật vua quí tộc đã đặt ra thì phải giao hội ấy xem xét, có bằng lòng thì mới được làm”.
Để trình bày một chính thể dân chủ, trước hết Phan Châu Trinh đi vào giới thiệu về cách bầu Hạ nghị viện, Nguyên lão viện, Tổng thống và “chánh phủ”, rồi quyền của “chánh phủ” có hạn định, tất cả “đều chịu theo pháp luật như nhau” dưới quyền “xử đoán” của Viện tư pháp. Viện tư pháp cùng hai viện kia “có quyền độc lập như nhau. Đó là theo cái lẽ ba quyền… đều riêng ra, không hiệp lại trong tay một người nào” và ông tóm lại “dân trị tức là pháp trị”.
Như vậy, tuy phần nói về dân chủ trong bài diễn thuyết không có gì là mới lạ, lại có nhiều thiếu sót vì chỉ giới thiệu một trong mấy thể chế của chủ nghĩa dân chủ tư sản, lại không phê phán những nhược điểm của nền dân chủ ấy, nhưng Phan Châu Trinh là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam bàn về vấn đề dân chủ và chủ nghĩa dân chủ, giới thiệu cho một bộ phận tri thức nước nhà sự tiến bộ tư tưởng ở Âu châu, trong đó ông đã cho mọi người thấy sự cần thiết của một nhà nước cai trị bằng pháp luật.
So với các nhà tư tưởng canh tân, Phan Châu Trinh tiến bộ hơn, ông đã nhìn thấy được vai trò của người dân trong phong trào chấn hưng đất nước. Vì vây, một trong những nội dung quan trọng nhất của tư tưởng dân chủ Phan Châu Trinh là: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Có thể nói rằng, đây là cống hiến xuất sắc của Phan Châu Trinh trong quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị của dân tộc. Có thể thấy, trong tư tưởng và hành động của Phan Châu Trinh bao giờ cũng hướng đến nhân dân.
Theo Phan Châu Trinh, khai dân trí của Phan Châu Trinh là: một mặt, chống lối học tầm chương trích cú cũng như khoa cử Nho giáo, nay mạnh truyền bá quốc ngữ, mở trường dạy học những kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa và qua văn thơ báo chí, tuyên truyền… phổ biến trong đại chúng tư tưởng tư sản dân chủ. Muốn khai thông dân trí, giành độc lập cho dân tộc, ông chủ trương cải cách bằng việc mở các trường học, đem thực tài mà giảng dạy, dùng các hình thức thơ ca, sách vở, báo chí diễn thuyết để mở mang trí khôn và thức tỉnh lòng người.
Về mặt nhân sinh, Phan Châu Trinh cho rằng hạnh phúc của con người là sự thắng được người khác, thống khổ nhất là thua người khác, do đó phải có tư tưởng cạnh tranh. Đối với những người ra đảm đương việc nước thì phải chịu khổ và liều mạng. Ông lên án gắt gao những người xướng nghĩa tôn quân và không biết đến nghĩa ái quốc. Về mặt xã hội, ông nghiêm khắc chỉ trích chủ nghĩa gia đình và những phong tục cổ hủ. Ông cho rằng chủ nghĩa gia đình là cái động lực ngăn trở sự tiến hóa, bao nhiêu thói hư tật xấu là do trong gia đình mà ra, vì thế muốn chấn chỉnh xã hội thì trước hết phải phá bỏ mọi sự ràng buộc con người bởi những quyền uy của gia trưởng. Đường lối ấy đượm mùi của chủ nghĩa cá nhân tư sản, nhưng đồng thời cũng xuất phát từ quan điểm “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của học thuyết Nho giáo.
Vốn là người nổi tiếng thông minh, ông muốn dùng tài trí của mình để cứu vớt giang sơn đang chìm đắm trong cảnh nô lệ. Nhưng sau khi được bổ nhiệm làm quan, ông thấy rằng, việc khoa cử cũng chỉ là kiếm chức quan nhằm “vinh thân phì gia” mà thôi, chứ không thể thực hiện được mục đích. Đối với chế độ phong kiến, sau khi trực tiếp nhìn nhận, Phan Châu Trinh kiệt liệt lên án sự thối nát, mục ruỗng, nhu nhược, quyền lực chính trị rơi vào thực dân Pháp, bộ máy của chế độ phong kiến là bù nhìn, ông ví như quân trên bàn cờ tường:
“Một ông tướng lác đứng trong cung,
Sĩ tượng khoanh tay chẳng vẫy vùng”
Trong lúc đó thì xã hội Việt Nam rên xiết dưới sự bạo tàn của thực dân, phải cam chịu nô lệ, bộ phận Nho sỹ vẫn chìm đắm trong hư văn, chưa kịp chuyển biến theo thời thế. Phan Châu Trinh nhận ra rằng, chính tình cảnh ấy sẽ làm cho đất nước nhanh chóng đi vào con đường suy tàn. Chí hướng Phan Châu Trinh là không muốn “cam hóa mã” mà muốn “xuất lao lung” nghĩa là muốn đuổi giặc ngoại xâm mà giải phóng dân tộc. Điều đó là cái ý nguyện chung cho tất cả nhân dân lúc bấy giờ và đặc biệt là của những người có học, là hạng người thống trị về tư tưởng lúc đó. Còn nền giáo dục Nho học, tư tưởng “trọng xưa, hơn nay”, “trọng quan, khinh dân”, coi trọng văn chương phù phiếm mà coi nhẹ lao động chân tay đã tạo ra không ít những con người thích phẩm hàm, quan tước để mong một chốn nương thân trong chế độ thực dân phong kiến thối nát. Đến lúc mất nước, chế độ phong kiến và nền khoa cử ấy vẫn mặc nhiên không kịp thay đổi cách nhìn để cứu dân tộc khỏi cảnh nô lệ. Kiến thức Nho học không còn phù hợp, không có khả năng lý giải những hiện tượng mới nảy sinh của đời sống xã hội.
Mặt khác, phải nâng cao quyền dân, dân đã có quyền, lúc đó mới có thể làm việc lớn được. Nhưng hiện nay quyền bính trong nước là còn nợ vua quan. Mà vua quan là đồ thối nát không thể làm gì được. Thế thì phải đánh đổ vua quan đi. Nhưng làm thế nào để đánh đổ vua quan? Vì hoàn cảnh nước ta là không thể tự làm được cho nên phải dựa vào bọn Pháp là bọn thống trị vua quan ta, mà làm việc cải cách ấy. Đã muốn dựa vào Pháp thì không cổ động đánh Pháp. Bên cạnh đó còn phải bài trừ tư tưởng Tống Nho, nay mạnh cải cách phong tục tập quán, bài trừ mê tín dị đoan, cải thiện lối sống (Cắt tóc ngắn, cải cách tục lệ ma chay, cưới xin) xây dựng thuần phong mỹ tục. Công việc này được tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt mở những trường dạy học làm cách tuyên truyền hữu hiệu nhất. Chính vì thế, mà hàng loạt những ngôi trường lớn mở ra từ Nam chí Bắc. Nội dung học gồm những môn lịch sử, địa lý, vệ sinh và tất cả đều dạy bằng chữ quốc ngữ, đôi khi có kèm theo tiếng Pháp. Trường còn tổ chức biên soạn, dịch thuật một số sách báo thấm đượm tinh thần duy tân.
Ngoài việc giảng dạy là chính trường còn tổ chức những buổi diễn thuyết, bình thơ văn, cổ động học chữ quốc ngữ, lập ra các “Hội bun” gọi là “Quốc thương” để kiếm tiềm nuôi thầy giáo mở thêm trường học, cung cấp sách vở cho học sinh. Sau một thời gian ngắn, nhiều trường học, cơ sở văn hóa đã tổ chức rải rác ở khắp các vùng quê tỉnh Quảng Nam, nhằm tạo ra một mẫu người toàn vẹn vời bộ óc sáng suốt trong một thân thể tráng kiệt. Một số trường học nổi bật được hình thành trong thời kỳ này như trường Dục Thanh (Phan Thiết), do các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng. Nhà yêu nước Nguyễn Tất Thành cũng đã có thời gian giảng dạy ở trường này. Chỉ trong năm 1906, riêng tỉnh Quảng Nam đã có tới 40 trường lớn nhỏ được thành lập. Đặc biệt, trường Diên Phong là tiêu biểu nhất về tổ chức cũng như về nội dung giảng dạy trong phong trào Duy Tân, cải cách ở vùng đất Quảng. Bên cạnh đó là trường Phú Lâm, thuộc huyện Tiên Phước. Trường do ông Lê Cơ là bà con của Phan Châu Trinh chỉ đạo. Trong trường có lớp riêng của nữ sinh. Ông đã đào tạo hai cô giáo phụ trách lớp này. Đó là lớp nữ đầu tiên ở khu vực này, một việc làm rất có ý nghĩa trong phong trào cải cách, tân tiến. Ngoài việc mở trường học, thì quan trọng nhất của phong trào là đổi mới nội dung giảng dạy.
Khác với những nhà cách mạng khác, ông Phan Châu Trinh đã nhận thức được nguyên nhân căn bản tại sao Việt Nam bị thực dân xâm lược. Đó là do dân tộc chúng ta đã tụt hậu về mặt tri thức so với các dân tộc khác hàng thế kỷ, hay nói cách khác, Việt Nam đã đi sau các dân tộc phương Tây khác một thời đại: Khi Việt Nam còn ở nền kinh tế nông nghiệp thì các nước phương Tây đã làm kinh tế công nghiệp và đang tiến nhanh lên kinh tế tri thức.
Châu Trinh nhận ra rằng công cuộc toàn cầu hóa lần thứ nhất đang làm rung chuyển dữ dội thế giới, thế nhưng người dân Việt Nam vẫn ở trong ốc đảo và hoàn toàn mù thông tin về thế giới xung quanh, chúng ta thua là điều tất yếu. Muốn cứu dân tộc, không còn con đường nào khác là phải đuổi kịp về mặt tri thức đối với các dân tộc khác, đưa dân tộc lên ngang tầm thời đại với các dân tộc khác. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể cùng sinh tồn và cạnh tranh với họ.
Phan Châu Trinh đã thấy được rất xa là phát triển dân tộc quan trọng không kém độc lập dân tộc. Nếu có độc lập dân tộc mà người dân bị bưng bít thông tin, ngu muội so với các dân tộc khác thì sớm hay muộn, chúng ta sẽ lại bị phụ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang. Từ quan điểm đó, Phan Châu Trinh đã cùng với hai người bạn tâm huyết nhất của mình là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng, còn được gọi là “bộ ba Quảng Nam” phát động phong trào Duy tân vào năm 1906. Cả ba ông đã đi khắp mọi miền đất nước, mở trường dạy những môn khoa học mới của phương Tây. Đến đâu các ông cũng gióng trống mời gọi người dân trong làng ra nghe những tư tưởng mới, những giá trị mới của phương Tây. Phong trào nhanh chóng lan rộng từ Trung Kỳ ra cả nước. Và chỉ hai năm sau, sự kiện “Trung Kỳ biến” long trời nổ đất đã nổ ra, chấn động tớ tận nước Pháp. Nhìn lại phong trào Duy tân, chúng ta thấy đây là một cuộc khai hóa tư tưởng thuần túy để nâng cao nhận thức người dân chứ không phải là một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Mục đích của phong trào là truyền bá cho người dân Việt Nam những kiến thức và tư tưởng mới, giúp người dân ý thức được công cuộc toàn cầu hóa đang diễn ra và mình phải vươn tới để hòa nhập vào thế giới ấy.
Phong trào Duy Tân chủ trương chấn hưng cổ học, tăng cường việc học thực nghiệm, nhất là đề cao chữ quốc ngữ.
“Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tỉnh trước dân ta
Sách Âu Mỹ, sách China
Chữ kia chữ nọ dịch ra tỏ tường”.
Mọi người, mọi giới phải học, học mọi nền văn minh của các dân tộc khác. Được như vậy thì xã hội mới tiến bộ và có quyền sống ngang nhau. Chủ trương của hội thật mới và cách mạng. Vì vậy khi chủ trương triển khai và vận dụng vào việc học, chỉ sau một thời gian thì đã có kết quả như ý. Đó là cách học có tính thực dụng, hướng nghiệp nó không chỉ có ý nghĩa lúc đó mà còn có ý nghĩa đến tận sau này.
Để mở mang dân trí, phải tiến hành học thực dụng cốt để phục vụ cuộc sống dân sinh chứ không phải là học thơ văn, phù phiếm của người xưa. Bản thân Phan Châu Trinh là người rất ham học hỏi và biết nhiều nghề, đi đến đâu ông đều kêu gọi mọi người phát triển hội nghề nghiệp nhằm phát triển kinh tế. Còn học thuật, ông quan niệm cần phải đổi mới về nội dung, phương pháp, đặc biệt là chú trọng phát triển khoa học, kỹ thuật. Ông viết:
“Ước học hành mở cho xứng đáng,
Đừng vẽ hình vẽ dạng cho qua;
Công thương, kỹ nghệ chuyên khoa,
Trí tri, cách vật cho ta theo cùng”.
Đối với nền văn minh phương Tây, ông rất ngưỡng mộ, theo ông cần phải học hỏi cái hay, biết cái dở của họ để vận dụng vào phát triển và mở mang dân trí. Đây cũng là một trong những tư tưởng rất tiến bộ, ông cũng giống như Nguyễn Trường Tộ đã nhận thấy những giá trị văn minh của phương Tây, đi ngược lại tư duy truyền thống “trọng Đông, khinh Tây”. Ông viết:”…đem cái sự học Âu tây để so sánh lại với cái học cũ của ta, để xem điều gì hay, điều gì dở, cho người ta xét đoán mà tìm lấy đàng tấn tới về sau ”. Trong bối cảnh đất nước bế tắc về con đường cách mạng, Phan Châu Trinh không như một số Nhà nho thanh liêm về quê ở ẩn mà ông luôn trăn trở đi tìm con đường cách mạng cho dân tộc. Tư tưởng khai dân trí thực sự làm cho dân tộc thay đổi tư duy cũ kỹ để vươn lên tầm nhận thức mới cao hơn, phù hợp hơn với sự phát triển của thời đại.
Những việc làm trên đã khiến cho xã hội Việt Nam mang một khuôn mặt mới, một dòng suy nghĩ mới. Ở đâu người ta cũng nghe nói đến tân thơ, tân học, hội nông, hội thương, cắt tóc, âu trang… và đặc biệt là văn học, giáo dục, bước sang một ngã rẽ tràn đầy sinh khí. Do vậy, tư tưởng khai dân trí thực sự làm cho dân tộc thay đổi tư duy cũ kỹ để vươn lên tầm nhận thức mới cao hơn, phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Cùng với khai dân trí, Phan Châu Trinh còn chủ trương chấn dân khí tức là làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, giác ngộ được quyền lợi của mình giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ quân chủ chuyên chế. Sự trì trệ, suy vong của dân tộc không phải từ bản chất của dân tộc ta kém cỏi, từ buổi đầu lịch sử, dân tộc ta đã có mấy trăm năm dựng nước trở thành một quốc gia có độc lập, có chủ quyền, có nền văn hóa ổn định và bền vững. Sự kém cỏi của dân tộc ta chính là do một phần chúng ta không tự lực, tự cường, không chịu học hỏi, làm mất đi cái hào khí, cái sức mạnh truyền thống mấy ngàn năm của dân tộc. Phan Châu Trinh khảo cứu lịch sử nước nhà và đi đến kết luận: “Lấy lịch sử mà nói thì dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc hèn hạ, mà cũng không phải là một dân tộc không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay mà vẫn còn mê mê muội muội, bịt mắt vít tai không chịu xem xét, không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người”.
Ở đây, chúng ta thấy có sự đồng điệu của các tư tưởng lớn, Phan Bội Châu cho rằng giáo dục là “sinh mệnh của quốc dân”, Hồ Chí Minh cho rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Tư tưởng chấn dân khí của Phan Châu Trinh thể hiện tính cách mạng nhằm phục hưng truyền thống hào hùng của dân tộc. Chế độ thực dân phong kiến đã làm cho dân mê muội trong sự an phận, xa lánh chính trị. Phan Châu Trinh viết: “Còn nó sợ dân biết chính trị nhiều thì nó lại sinh ra cách mạng, cho nên nó cấm học trò và dân không được nói đến chính trị”. Vì thế nhiệm vụ của cách mạng dân chủ tư sản mà Phan Châu Trinh đề xướng phải khơi dậy tinh thần dân tộc, nên ông đã viết Tỉnh quốc hồn ca I và Tỉnh quốc hồn ca II nhằm khích lệ nhân dân trong nước mau tỉnh ngộ, học tập những giá trị văn minh phương Tây để chấn hưng đất nước.
Theo như sự phát triển hợp quy luật thì, một xã hội muốn phát triển thì phải có nền kinh tế mạnh. Dường như biểu hiện quy luật ấy cho nên bên cạnh việc nâng cao dân trí Phan Châu Trinh còn đưa ra nhiều đường lối phát triển kinh tế. Trước kia công việc làm ăn, làm kinh tế không được coi trọng, người ta cho rằng ở đời “Nhất sĩ, nhì nông, công thương mạt nghệ”. Xã hội xem buôn bán, làm kinh tế là những ngành nghề thấp hèn nhất trong xã hội. Người ta trọng kẻ làm việc bằng trí óc mà khinh kẻ làm việc bằng chân tay. Người ta cho rằng người lao tâm là trị người ta mà người lao lực thì người khác trị (lao tâm dã tự nhân, lao lực dã trị ư nhân). Trước kia sĩ phu mở miệng ra là nói nhân nghĩa đạo đức chứ không nói đến quyền lợi. Quyền lợi kinh tế không được bàn bạc hoặc thường trực trong suy nghĩ của người quân tử.
Trở lại tình hình nước ta lúc bấy giờ. Dân khí đang suy nhược vì áp bức bóc lột nặng nề, phải làm cho dân khí cường thịnh lên mà cơ sở của sự cường thình đó trước hết là phải nhờ ở tăng trưởng kinh tế, phải phát triển lực lượng sản xuất. Phan Châu Trinh đã cổ vũ cho việc phát triển, công (thủ công), thương nghiệp… cổ vũ cho việc phát triển các ngành nghề truyền thống phục vụ nhân sinh và xuất khẩu. Đặc biệt, thương nghiệp cổ vũ cho việc buôn bán lớn và dùng hàng nội hóa, mở rộng thương trường trong nước, đẩy mạnh ngoại thương, nhất là lập các hội buôn. Theo lời hô hào của các sĩ phu cải cách, tại Quảng Nam trung tâm của phong trào Duy Tân-xuất hiện nhiều hiệu buôn như, Quảng Nam hiệp thương công ty do Nguyễn Quyền quản lí với cổ phần hơn 20 vạn đồng. Ở Nghệ An, Ngô Đức Kế lập ra Triệu Dương thương quán, công ty Liên Thành ở Phan Thiết chuyên kinh doanh nước mắm.
Việc thành lập những hội buôn như vậy đã gây sự chú ý đến thực dân Pháp, chúng đặc biệt theo dõi từng hành động nhỏ nhất của những hiệu buôn này và đã có những báo cáo hết sức chi tiết gửi về “nước mẹ”. Những báo cáo đó rõ ràng cho thấy một điều là thực dân Pháp không những đã can thiệp vào nước ta về mặt chính quyền mà còn can thiệp vào cả công việc làm ăn kinh tế của người dân bản xứ. Theo báo cáo chính trị của đại lý Pháp tại Tam Kì: “Tuy nhiên tôi phải báo cáo hành động của một nhóm nhà Nho đã lợi dụng danh nghĩa buôn bán để theo đuổi một mục đích còn chưa xác định rõ ràng nhưng thấy sẽ đến lúc nào đó tạo ra cho chúng ta những khó khăn lớn nếu chúng ta không chú ý đề phòng”, “Sau một thời gian hoạt động riêng rẽ, đến nay các thành viên hội đó muốn xen vào công việc nội bộ đất nước” (báo cáo số 4, ngày 31 tháng 12 năm 1906).
Tai mắt của thực dân Pháp tại Việt Nam cũng thông qua việc theo dõi, quan sát và đã đưa ra những đánh giá nhận xét tình hình những hội buôn này để gửi về Pháp: “Trước đây tôi đã báo cáo về sự thành lập một hội gọi là “hội luôn” ở Quảng Nam gồm các Nho Sĩ và các quan lại hưu trí hay đã nghỉ việc”, “Họ thu thập khá nhiều chữ kí nhưng rất ít tiền, tài sản của hội chủ yếu gồm những số tiền hứa hẹn sẽ góp. Chắc chắn những người này đang theo đuổi một mục đích chính trị”. “Vì họ thiếu vốn nên không chắc sẽ nguy hiểm lắm. Nhưng hội này được thành lập, phản ánh một tâm trạng đáng để chúng ta lo ngại trong một bộ phận dân chúng…” (Số 99 ngày 7 tháng 9 năm 1906). “Hội buôn Quảng Nam mà các thành viên thường tự xưng là “những người cắt tóc” theo cách họ nhận biết nhau. Hội này tập hợp tất cả những phần tử đối lập với ảnh hưởng của Pháp, những việc quan trọng trong đảng “Cần Vương”, “An Nam” cũ, các nhà yêu nước theo xu hướng quốc gia theo kiểu Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu. Lúc này hội ấy hoạt động ráo riết. Các thành viên đi khắp các làng đề nghị dân chúng cắt tóc ngắn, mặc Âu phục(!) và khuyên họ tự giải quyết những việc mâu thuẫn, không cần đến cửa quan hoặc các toa công xứ”… Hoạt động của hội này thực hiện nhiều nhất ở hai phủ Thăng Bình và Tam Kì và đặc biệt ở vùng giáp giới giữa hai phủ này. Chính nay là vùng Phan Châu Trinh ở. Các buổi họp công khai được tổ chức để các diễn giải dạy bọn nhà quê thật thà nhưng cách thức mới để đưa đất nước An Nam đến tiến bộ bằng con đường chắc nhắn”.(Trích báo cáo của công sứ Quảng nam Charles về phong trào Duy Tân và về Phan Bội Châu).
Muốn “chấn dân khí” còn phải nâng cao dân quyền. Phan Châu Trinh là tiêu biểu nhất cho việc đòi hỏi dân quyền ở Việt nam đầu thế kỷ XX. Hiệu quả đạt được về mặt này không phải là nhỏ. Có một cao trào đấu tranh của hàng vạn người tham gia xin xâu chống thuế, mở rộng nhân quyền, cải thiên dân sinh. Bên cạnh việc nâng cao dân quyền thì cần phải giáo dục cho quần chúng nhân dân ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của chính họ, làm cho họ xác định được vị trí của bản thân và của dân tộc trong thời đại mới. Việc giáo dục ý thức dân quyền phải được tổ chức qua những bước như sau:
Thứ nhất, đó là người dân ý thức được mình trong tương quan với đất nước, với sự phục hưng dân tộc, ý thức được mình phải có tư cách quốc dân, phải tự lực, tự cường, tự miễn.
Thứ hai, tư tưởng dân quyền được đưa ra phải khiến cho dân ý thức được trách nhiệm của họ trong việc đứng ra gánh vác việc chung, ý thức được quyền cử ra những đại diện cho quyền lợi của mình. Người được dân bầu ra phải ý thức được mình là đại diện cho dân cho nước.
Thứ ba, người dân phải được tự do lập hội làm ăn, buôn bán dệt vải nuôi tằm trồng cây, làm ruộng và về phía nhà cầm quyền phải bỏ áp bức bóc lột bất công, bỏ sưu cao thuế nặng.
Thứ tư, Phan Châu Trinh đã đưa đến cho nhân dân ý thức về quyền dân được mở mang trí tuệ như tự do học tập, tự do đọc sách báo tiến bộ, xóa bỏ tập quán, phong tục lạc hậu, xây dựng lối sống văn hóa, văn minh.
Thứ năm, ông đưa ra hình mẫu người dân thời đại mới (Tân dân). Đó là những người dám từ bỏ nhân sinh quan lạc hậu, có ý thức và biết cách thực hiện quyền được học tập, suy nghĩ, mưu sinh và muốn vậy trước hết dân phải được giáo dục, nâng cao “dân trí”, từ đó “chấn dân khí” và “hậu dân sinh”. Nội dung dân quyền dân chủ mới mới chỉ đặt ra ở mức đó. Những vấn đề về thể chế chính trị, chủ quyền còn chưa được đặt ra. Sở dĩ như vậy là do lúc đó thực dân Pháp đã thống trị hoàn toàn đất nước, chưa thể có điều kiện để đặt vấn đề đấu tranh quyết liệt để giành lại chính quyền theo kiểu cách mạng tư sản. Các nước láng giềng chúng ta như Philipin, Inđônêxia, Trung Quốc, Triều Tiên… cũng có hiện tượng chủ trương đấu tranh bằng con đường cải cách ôn hòa, công khai hợp pháp như vậy. Ở các nước này cũng có hiện tượng thiếu một giai cấp tư sản lớn mạnh để đảm nhận sứ mạng phát triển chủ nghĩa tư bản ở nước họ. Lúc này về cơ bản đó là những nước Phương Đông có chế độ chuyên chế. Từ trước tới nay với sức ỳ của nó, việc đặt ra chính thể kiểu Phương Tây chưa thể nào thực hiện được.
Từ nội dung đến hình thức, phong trào nhân quyền và dân quyền thể hiện rõ ảnh hưởng của cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ. Có thể nói Phan Châu Trinh và các sĩ phu tiến bộ đã châm ngòi cho phong trào. Nhưng khi phong trào đã đi vào quần chúng nông dân đang phải chịu cảnh lầm than, cơ cực dưới chế độ thực dân phong kiến thì phong trào quần chúng vượt qua những hạn chế các sĩ phu. Công cuộc đấu tranh đã gây được tiếng vang quốc tế, có ảnh hưởng sâu rộng, góp phần tác động tới những người có tinh thần tiến bộ vì quyền con người trên thế giới. Chính Phan Chu Trinh thoát nạn tử hình cũng nhờ hội nhân quyền Pháp đấu tranh để giải thoát.
Hai yêu cầu trên tất yếu khách quan sẽ dẫn tới yêu cầu thứ ba là hậu dân sinh, đó chính là cải thiện đời sống cho nhân dân, nâng cao toàn diện cuộc sống vật chất và tinh thần cũng như về các mặt khác như kinh tế, văn hóa, xã hội ở hiện tại cũng như cho những thế hệ sau này. Muốn làm được điều đó trước hết phải xóa sạch mọi tàn dư, chướng ngại của chế độ phong kiến, từng bước một cố gắng dành cho được độc lập dân tộc, xây dựng được một nhà nước tư sản dân chủ vững mạnh, một xã hội công bằng, phồn vinh, thực hiện bình đẳng xã hội, đất nước phải có pháp luật kỉ cương… Và muốn làm được như vậy thì phải làm cho dân đổi mới từ trong dân. Bằng các hình thức tuyên truyền cổ động bài bác “hủ Nho” vốn đã ăn sâu vào tiềm thức dân ta, những lễ giáo đạo đức phong kiến dùng để cũng cố địa vị của mình. Họ đã gầy dựng vào phẩm chất của mỗi người lòng trung thành tuyệt đối, nhưng trung thành ở đây là trung thành với vua, trung thành với vương triều hiện hành chứ không phải trung thành với tổ quốc, với đất nước con người mình. Làm cho dân thoát khỏi tư tưởng “ngu trung” thật không phải dễ. Bên cạnh đó cần phải thực hiện các phong tục “thái Tây”, dùng chữ quốc ngữ tuyên truyền cổ động yêu nước nghĩa đồng bào và các tiêu chuẩn đạo đức (mà thực chất là tư sản) của người công dân. Một mặt làm cho dân nhận rõ những “hủ tục” của Nho giáo. Mặt khác, làm cho dân hiểu được xu thế của thời đại, làm cho dân hiểu được Việt Nam cũng vốn là một nước văn minh, ở vào một vị trí địa lí thuận lợi, giàu tài nguyên. Thế mà, nhân dân Việt Nam không được hưởng các tài nguyên ấy, đất nước thì: “vẫn như cũ”, trong khi các nước khác thì đã văn minh. Ở Việt Nam lúc này, còn có người hoặc là “để trí khôn vào cho vô dụng”, như ham mê đàn sáo, cờ bạc bói toán … hoặc là chỉ lo gọt giũa văn chương, “khư khư ngồi giữ những thuế thu lậu”, hoặc là luồn cuối dưới công danh “tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ”. Đặc biệt dân Việt Nam cần phải xóa bỏ những tư tưởng: một là, “nội hạ ngoại di” không thèm hỏi đến chính thuật và kỹ năng của nước khác. Hai là, cần phải xóa bỏ tư tưởng quý đạo vương. Ba là, cần xóa bỏ quan điểm cho là xưa là phải, nay là quấy. Bốn là, xóa bỏ quan niệm trọng quan khinh dân, không thèm để ý đến tình hình hay dỡ chốn lương thôn.
Cũng như mọi thức giả đương thời, Phan Châu Trinh cho rằng “ai nắm việc thương mại thì nắm được thế giới”(Qui tient le commerce tienl le monde), do đó ông chủ trương phát triển kinh doanh, lập các hiệu buôn, mở mang thương nghiệp, dạy cho dân có nghề nghiệp sinh nhai, lập các hội khai hoang, mở mang đồn điền cho hết địa lợi. Nếu mối lợi làm không đủ sức thì xin chính phủ trợ cấp. Ông đặc biệt lên án bọn tham quan ô lại, gọi chúng là những bọn “ăn cướp có giấy phép”, đối với những người có đầu óc thực nghiệp thì ông lại đề cao. Ông cho rằng, ở trên đời ai muốn phú quý phong lưu không tủi với lương tâm thì chỉ ra đi buôn bán, làm ruộng sinh nhai là được sang trọng và được nhiều lời mà không phạm đến tội ăn tiền hối lộ của quốc dân. Trong nhiều bài nói chuyện, ông căn dặn mọi người: “nếu muốn làm giàu cho được vẻ vang thì chỉ làm ông chủ hiệu, ông chủ đồn điền là ai trông thấy cũng có cảm tình, trong dạ người ta ai cũng yên trí rằng là người này đã làm ăn khó nhọc, đổi bát máu mà lấy được bát cơm đây. Chứ làm quan làm lại dẫu cho ngực mề đay, thân áo gấm, đường bệ oai phong gặp ai không những người ta cho mình là quân mọt dân, quân ăn cướp, chẳng thế sao lương chú ít ỏi mà chú giàu sang? rồi tự mình cũng bẽn lẽn với người ta”.
Theo Phan Châu Trinh, một dân tộc muốn phát triển kinh tế phải tiến hành phát triển ngành nghề nhằm tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ đời sống xã hội. Đặc biệt, trong quá trình giao lưu với văn minh phương Tây, cũng như khi đọc những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh rất tâm đắc đề nghị của Nguyễn Trường Tộ với nhà vua là cần phải nhanh chóng cho người sang phương Tây học nghề. Trong bài diễn thuyết tại Sài Gòn (1925) có đoạn ông nói: “Cũng có người học hành như Nguyễn Trường Tộ xem vua dạo qua bên Tây xem xét cái văn minh của họ, rồi cho người qua học…”. Cho nên, khi sự giao lưu với các phong trào văn minh phương Tây phát triển, có cơ hội học tập, ông kêu gọi mọi người tích cực tham gia, phục vụ cho phát triển đất nước. Ông viết:
“Mau mau đi học lấy nghề,
Học rồi, ta sẽ đem về dạy nhau”
Việc mở mang ngành nghề với mục đích phát triển kinh tế là một trong những nội dung Phan Châu Trinh rất quan tâm. Tính chất nền kinh tế mà Phan Châu Trinh quan niệm không phải là kinh tế tự cung, tự cấp mà là nền kinh tế hàng hóa. Nền sản xuất ấy phải giao lưu với nước ngoài, phải đảm bảo nhiều hàng hóa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu để tạo ra sự tích lũy cho nền kinh tế. Ông viết:
“Nghề càng ngày càng đua càng tới,
Vật càng ngày càng mới dễ coi.
Chở chuyên đi bán nước người,
Lợi trong đã được, lợi ngoài lại thêm.
Được nhiều lời càng thêm tư bổn,
Rộng bán buôn khắp bốn phương trời”
Phan Châu Trinh đã nhận thức được vai trò của việc phát triển nghề nghiệp cho phát triển kinh tế xã hội nói chung. Ông đặt ra chương trình tự lập các hội trồng cây, dệt vải, hội buôn, các cơ sở sản xuất hàng hóa, buôn bán hàng nội trú nhằm phục vụ và chấn hưng nền sản xuất của đất nước. Đây có thể nói là một phát hiện mới góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong xã hội. Theo ông, muốn phát triển kinh tế đất nước phải chú trọng đẩy mạnh phát triển các ngành công thương, đồng thời cải tạo nông nghiệp, khai khẩn đất đai đưa vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước láng giềng. Bản thân Phan Châu Trinh cũng rất chú trọng trong hoạt động thực tiễn trong phong trào sản xuất, phát triển nghề nghiệp, ông là người đã trực tiếp tự học nghề làm đồi mồi khi bị đày ở Côn Đảo (1908-1910), tự học làm nghề rửa ảnh khi ở Pari… Như vậy, ở Phan Châu Trinh tư tưởng và hành động có sự thống nhất, đó là sự coi trọng phát triển nghề nghiệp. Ông đã nhận thấy được sức mạnh phục hưng độc lập dân tộc là phụ thuộc vào sức mạnh chấn hưng nghề nghiệp, nâng cao tiềm lực kinh tế, tài chính của đất nước. Bên cạnh đó, Phan Châu Trinh còn kêu gọi mọi người phải thay đổi các phong tục, lối sống sinh hoạt cho phù hợp với lối sống mới, từ đó đã tạo ra sự đổi thay trong lề lối, nếp sống của xã hội ta lúc bấy giờ. Như vậy, ông đã vượt lên, phá bỏ những khuôn mẫu của đời sống cũ, lạc hậu, chuẩn bị mở đường cho lối sống mới tiến bộ hơn. Do đó, tư tưởng và những hoạt động của Phan Châu Trinh có ý nghĩa phê phán lề thói, tập tục cổ hủ, đi đến xác lập một phong cách mới mang màu sắc của văn minh, tiến bộ và nhân đạo.
Qua quan điểm của Phan Châu Trinh, chúng ta thấy, ông là người có tầm nhìn mang tính chất hiện đại, các nhà tư tưởng canh tân, kể cả cụ Phan Bội Châu chỉ nhìn sự phát triển kinh tế đất nước một cách chung chung với mục đích nâng cao đời sống nhân dân. Còn Phan Châu Trinh quan niệm kinh tế nước nhà phải là nền kinh tế hàng hóa. Bên cạnh đó, để phát triển, nâng cao đời sống nhân dân, ông đề cập hàng loạt vấn đề như phải đoàn kết, lập hội buôn bán, học nghề, xây dựng lối sống giản dị, lành mạnh, chống mê tín, dị đoan, cải tiến kỹ thuật, tổ chức y tế, giáo dục… phục vụ đời sống nhân dân.
Lịch sử Việt Nam, giai đoạn cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một giai đoạn đặc biệt, đó là giai đoạn chuyển đổi từ xã hội này sang xã hội khác, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, biến một nước phong kiến thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Việc tìm hiểu, nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ cơ bản của Phan Châu Trinh trong giai đoạn này, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị từ tư tưởng quân chủ sang dân chủ tư sản của Phan Châu Trinh không phải là quá trình chuyển biến giản đơn mà là một quá trình tiệm tiến dần dần, khó khăn, trăn trở và phức tạp.
Sự chuyển biến tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh diễn ra trong điều kiện nước ta là chế độ phong kiến đã tồn tại mấy trăm năm, chỉ có các cuộc đổi mới, cải cách trong phạm vi của chế độ phong kiến chứ chưa hề có sự khai phá con đường cách mạng mới. Những cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở bên ngoài xuất hiện, nhưng nó chỉ tác động trực tiếp ở các nước thực hiện cuộc cách mạng chứ không phải là cuộc cách mạng với tư cách phong trào tổ chức qui mô thế giới. Trong quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị của mình, Phan Châu Trinh còn chịu sự chi phối của hệ tư tưởng phong kiến, của quan điểm giai cấp và trình độ nhận thức còn hạn chế. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, nước ta chuyển sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến là do tác động của thực dân xâm lược chứ không phải do bên trong xã hội có nhu cầu phát triển. Chính sự chuyển biến nhanh chóng về xã hội đã làm cho Phan Châu Trinh phải trải qua thời kỳ mày mò, suy tư, trăn trở, một quá trình lâu dài để chuyển biến tư tưởng. Do vậy, quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh thể hiện sự tìm tòi, khám phá, đồng thời đó cũng chính là sự bứt phá rất mới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Thứ hai, nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh hướng đến vấn đề quan trọng là tự cường dân tộc, nâng cao dân trí, bồi dưỡng sức dân, truyền bá tư tưởng dân chủ và dân quyền.
Là người đã đặt nền móng cho tư tưởng dân chủ tư sản ở nước ta. Ông cũng là người đã áp dụng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam một cách linh hoạt và sáng tạo, phù họp với tình hình thực tế của đất nước. Tư tưởng dân chủ của ông so với Phan Bội Châu có sự phát triển cao hơn về trình độ, tính chất. Phạm trù dân chủ tư sản không chỉ dừng lại ở phạm trù chung chung, trừu tượng đem đối lập với quân chủ truyền thống mà mang tính phổ biến, gắn liền với những lợi ích thiết thân của con người và của xã hội. Có thể nói rằng, những chủ trương thực hiện quyền dân sinh, dân chủ mà Phan Châu Trinh đề xướng xét về mặt thực tế là rất phù hợp với tình hình chung của đất nước lúc bấy giờ. Có thể nhìn ở khía cạnh cách mạng đánh đổ thực dân phong kiến thì tư tưởng của Phan Châu Trinh như là “cải lương”, nhưng nếu chúng ta nhìn nhận ở trong bối cảnh ấy, thì cách mạng Việt Nam chưa hội tụ đủ những yếu tố căn bản về sức mạnh vật chất để tiến hành cuộc cách mạng bằng bạo lực để giải phóng dân tộc. Vì vậy, dưới nhãn quan chính trị sắc bén, sát thời cuộc của mình đã dẫn Phan Châu Trinh đi đến những quyết sách phù hợp với thực tế hơn là làm cho dân có cái ăn, cái mặc. Theo tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản của Phan Châu Trinh, vấn đề quan trọng nhất lúc bấy giờ là thực hiện mục đích làm cho dân có cuộc sống với các quyền cơ bản của con người. Để thực hiện được mục đích đó, theo ông, trước hết cuộc cách mạng dân chủ tư sản phải tuyên truyền cho nhân dân hiểu được quyền công dân của mình, đấu tranh công khai, hợp pháp đòi thực dân Pháp phải thực hiện đảm bảo quyền lợi của nhân dân.Mặc dù còn có nhiều hạn chế về mặt lịch sử, nhưng điều quan trọng là Phan Châu Trinh đã đề xuất được những tư tưởng mang tính chất phát hiện mới, có ý nghĩa chiến lược, thiết thực với dân tộc.
Thứ ba, trong nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh còn có sự tiếp thu những giá trị của văn hóa nhân loại. Theo quan điểm của Phan Châu Trinh, muốn phát triển đất nước, dân tộc ta phải tiếp thu những giá trị văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông, kết hợp hài hòa truyền thống và hiện đại, đặc biệt là về tư tưởng dân chủ, về chính trị, về phát triển ngành nghề, về khoa học kỹ thuật…. Phan Châu Trinh đã triển khai tư tưởng dân chủ trong thực tế, cổ vũ, động viên mở mang nhiều ngành nghề, xây dựng nhiều hội nghề, buôn bán nhằm phát triển đời sống dân sinh. Đây là những tư tưởng mới, xóa bỏ những quan niệm cũ của xã hội phong kiến, và từ tư tưởng triển khai ra hiện thực một cách sáng tạo và thiết thực, phù hợp với yêu cầu của lịch sử dân tộc và thời đại.
Thứ tư, trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh đã xuất hiện quan điểm pháp quyền. Phan Châu Trinh cho rằng, phải xây dựng một xã hội quản lý bằng pháp luật. Phải dựa vào pháp luật để tiến hành mọi hoạt động đấu tranh cách mạng. Bản thân Phan Châu Trinh đã nhận thấy vai trò tích cực của quản lý xã hội bằng pháp luật, chống lại tư tưởng chuyên quyền, độc quyền chính trị. Có thể nói rằng, những quan điểm pháp quyền đã đánh dấu một bước chuyển từ tư duy chính trị truyền thống sang tư duy chính trị hiện đại, từ vương quyền sang pháp quyền, từ quân chủ sang dân chủ của nước ta trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Thứ năm, tìm hiểu về nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh, chúng ta nhận thấy rằng, mặc dù có những nội dung mới, cách mạng và tiến bộ thể hiện tinh thần yêu nước nhiệt tình, tinh thần căm thù giặc cao độ. Nhưng, trong chừng mực, hoàn cảnh, điều kiện nhất định vẫn còn thể hiện tư tưởng dao động, mơ hồ về chính trị, thậm chí có lúc đi đến thỏa hiệp với thực dân (tư tưởng “ỷ Pháp” để thực hiện dân chủ của Phan Châu Trinh) Đây cũng là một trong những hạn chế lớn nhất của các nhà tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nói chung, trong đó có Phan Châu Trinh nói riêng. Tuy nhiên, những chủ trương đó của Phan Châu Trinh cũng chỉ mang tính nhất thời, nhưng nó cũng gây ra những ảnh hưởng không tốt đến tinh thần cách mạng của dân tộc. Nguyên nhân của những sai lầm này chính là chưa có một lý luận khoa học soi đường, nên chưa nhận thức đầy đủ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Mặt khác, trong những điều kiện khó khăn của cách mạng, thực dân Pháp có những hành động đàn áp dã man, cũng như sự đe dọa của các thế lực thực dân khác, nên việc tạm thời “cộng tác” với thực dân cũng chỉ là một “kế hoãn binh”, một thủ đoạn chính trị mang tính “động”, linh hoạt và mềm dẻo của Phan Châu Trinh mà thôi.
Có thể nói rằng, lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một giai đoạn có nhiều biến động. Giai đoạn lịch sử này, đất nước ta rơi vào cảnh áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến. Phan Châu Trinh đã nhận ra được mục đích tối cao của cách mạng Việt Nam là: khôi phục độc lập dân tộc, khôi phục lại chủ quyền đất nước. Nhằm đạt được mục đích này, trước hết và cơ bản là thức tỉnh dân tộc ta ra khỏi sự mê muội của nọc độc chuyên chế của thực dân, phong kiến.Theo ông, muốn đánh đuổi thực dân Pháp, trước hết phải nâng cao dân trí, nâng cao sức dân và phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Cho nên, Phan Châu Trinh đã đưa ra chủ trương: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Đối lập với chủ trương của thực dân Pháp là “khai hoá văn minh” cho An Nam, ông cho rằng dân tộc ta có khả năng “tự lực khai hoá”. Thực chất thì thực dân Pháp đang ra sức để bóc lột và vơ vét của cải của nhân dân ta, chúng đang thực hiện các cuộc khai thác thuộc địa và tiếp tục sử dụng chính sách ngu dân để trị của chế độ phong kiến.
Quan điểm của Phan Châu Trinh đã đánh thức cơn ngủ mê của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Trước hết, ông phê phán Nho học ở bình diện hệ tư tưởng và lối khoa cử lạc hậu. Với trí tuệ thông minh, nhạy cảm với sự biến đổi của thời cuộc ông đã nhận thức được Nho giáo đã hết vai trò lịch sử, trở thành lực cản cho sự tồn vong và phát triển của dân tộc, nó không còn là hệ tư tưởng phù hợp với sự phát triển của thời đại bấy giờ.
Phan Châu Trinh đã cống hiến trọn đời mình cho việc truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam và cuối đời đã gửi gắm hy vọng vào một thế hệ trẻ nối tiếp sẽ đưa tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa đến cho dân tộc Việt Nam. Phan Châu Trinh là chí sĩ yêu nước, nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông đã có những đóng góp nổi bật trong việc đem nội dung tư tưởng dân quyền kết hợp vào các chương trình canh tân đất nước, đạt được những thành quả nhất định trong phong trào Duy tân. Nhưng ông là một nhà nho nên ngay trong lập luận, suy nghĩ của ông vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng cái nhìn nhà nho nặng phần đạo lý mà nhẹ phần kiến thức lý luận, phương pháp tổ chức. Phan Châu Trinh cho rằng, chỗ dựa lớn nhất của ông là các nguyên lý công bằng – công lý – tự do – bình đẳng – dân chủ của phương Tây, đó là các nguyên lý thiêng liêng mà phương Tây phải thực hiện cho các nước thuộc địa. Ông nhận thấy mình phải có bổn phận giải thích về sự gắn bó giữa quyền lợi của chính phủ Pháp với quyền lợi của nhân dân Việt Nam, hy vọng nhà cầm quyền nhận thức ra lẽ phải đó mà thay đổi cải cách chính trị cho nhân dân Việt Nam.
Phan Châu Trinh chủ trương dựa vào sự thức tỉnh nhân dân để thực hiện những chương trình đổi mới đất nước theo hướng dân chủ tư sản, chứ không ỷ lại ở một thế lực bên ngoài nào. Ông chủ trương “bất vọng ngoại”, nhưng ông chưa nhận thức được toàn diện với điều kiện nước ta lúc đó phải tranh thủ mọi sự đồng tình giúp đỡ bên ngoài để hỗ trợ cho phong trào cách mạng trong nước tiến lên. Và một trong những đóng góp cho tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là nội dung tố cáo chế độ vua quan bù nhìn phản dân hại nước, yêu cầu chính phủ Pháp phải cải cách thế chế này.
Giai đoạn hiện nay, đất nước Việt Nam không những cần có độc lập dân tộc, mà phải giàu mạnh, có dân chủ và văn minh. Chính yêu cầu đó của lịch sử đã khẳng định vai trò quan trọng của phong trào duy tân đổi mới và cải cách. Phan Châu Trinh là người phát biểu một cách dõng dạc và rõ ràng nhất những sự hủ bại của hệ thống quan lại và đưa ra những yêu cầu cải cách hệ thống quan lại và những quan hệ chính trị lúc đương thời. Không những thế, ông còn làm sáng tỏ vấn đề dân quyền về mặt lý thuyết và ra sức cổ vũ tuyên truyền cho sự thực hiện dân chủ và dân quyền trong thực tiễn. Những nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là một đóng góp to lớn không những cho phong trào đổi mới và cải cách mà cả cho sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt nam đầu thế kỷ XX.
Tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất phát từ các tiền đề đó là: hoàn cảnh lịch sử thế giới đã có sự tác động và ảnh hưởng đến Việt Nam, những điều kiện kinh tế-xã hội và những tiền đề lý luận, trong đó, điều kiện về kinh tế-xã hội Việt Nam giữ vị trí quan trọng nhất. Có thể nói rằng, tư tưởng giai đoạn này phản ánh rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên các trào lưu dù trực tiếp hay gian tiếp đều tập trung xoay quanh một trục chính là chủ nghĩa yêu nước, mục tiêu cao cả nhất mà các nhà yêu nước hướng đến là độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, các nhà tư tưởng đã thực hiện quá trình chuyển tiếp tư tưởng, dù đó là một quá trình hết sức khó khăn từng bước gắn kết chủ nghĩa yêu nước truyền thống với các giá trị dân chủ, nhân văn từ phương Tây, hay hướng đi mới cứu nước cứu dân. Sự nhận thức này tạo nên quá trình chuyển tiếp tư tưởng, đưa đến các phong trào yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, … của những trí thức “Tây học” như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, của các tổ chức xã hội như Đông Kinh nghĩa thục, Công hội đỏ, trước khi có Đảng Cộng sản ra đời. Đó chính là tính đa dạng hướng đến mục tiêu thống nhất của phong trào yêu nước Việt Nam.
Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh để lại dấu ấn sâu sắc nhất trong lịch sử tư tưởng Việt Nam chính là thức tỉnh dân tộc ta nhận thức vấn đề dân quyền, dân chủ, với phương pháp đấu tranh hòa bình, công khai, dựa trên nền dân chủ của nước Pháp. Nhìn chung, tư tưởng của Phan Châu Trinh nói riêng và của các nhà tư tưởng khác nói chung trong giai đoạn này đã sơ thảo những vấn đề rất cơ bản cho cách mạng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những năm đầu của thế kỷ XX. Đó là việc đề ra nhiệm vụ cách mạng, vấn đề dân quyền, dân chủ, dân sinh, vai trò của nhân dân trong phong trào cách mạng… Hạn chế lớn nhất trong tư tưởng của Phan Châu Trinh chính là vẫn bế tắc về con đường cách mạng, chưa nhận thức đầy đủ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chưa phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, mặc dù các ông đã ít nhiều đề cập đến vai trò cách mạng của giai cấp công nhân.
Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng rõ ràng tư tưởng và hoạt động của Phan Châu Trinh đã góp phần quan trọng tạo nên bước chuyển trong tư duy của dân tộc Việt Nam, đó là làm cuộc vận động từng bước về tư tưởng từ chế độ quân chủ sang chế độ dân chủ, từ tư duy phong kiến sang tư duy thời cận-hiện đại. Tư tưởng dân chủ tư sản mặc dầu không chứng tỏ được sức sống của mình nhưng nó là khâu trung gian, là bước chuyển rất quan trọng. Bởi vì hệ tư tưởng tư sản đã bị thời đại vượt qua và cũng không còn đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh về hai phương diện thành công và thất bại, ưu điểm và nhược điểm, … đã để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học qúi giá trong tiến trình cách mạng.
Phan Châu Trinh là một nhà trí thức có lý giải thực tiễn một cách độc lập, ông nhận thức và khẳng định con đường hành động nhận thức, lý giải để biện luận cho hành động. Chính vì vậy, chỗ đứng, lịch sử và thời đại đã định vị tư tưởng và hành động của ông. Những nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là ngọn đèn soi sáng, là sự thức tỉnh cho dân tộc ta bước ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế hàng ngàn năm. Nó có một vị trí xứng đáng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đặc biệt trong những năm đầu của thế kỷ XX.
Thạc sĩ Trần Mai Ước - Phó trưởng khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM