(Nguyễn Ái Quốc)
Marseille, ngày 18 tháng 2 năm 1922
Tôi với anh mấy năm ròng cùng sống nơi đất khách quê người nhưng mà lòng bọn mình chẳng khi nào quên cái cảnh tượng bên nhà. Chánh phủ bảo hộ thường nói: cái việc dẹp loạn là để an dân, làm mấy con đường hỏa xa, mấy cái học đường, mấy cái nhà thương là để khai hóa xứ An Nam mình. Cái công lao ấy thì báo Ba Lê [1] nhan nhản đăng lên, còn cái sưu cao thuế nặng, cái tham quan lại nhũng, cái sĩ khí dân tình bị chém giết, bị bỏ tù, bị đày ải kia thì họ im phăng phắc. Bởi cái cảnh thất quốc vong gia, lòng dân đồ thán, nên cánh giang hồ chúng mình làm sao mà nguôi dạ được, hồn Tổ quốc nặng trĩu trên vai, xót vì quốc dân đồng bào đương rên xiết bởi cường quyền áp chế.
Thực trạng dân tình thế thái bên nhà, bọn mình biết rõ, bấy lâu nay, bọn mình ở bên này có đăng báo chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng mà kết quả chẳng được là bao, cái khát vọng tự do, bình đẳng, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu, ông Lư Thoa [2] khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào trên cái đất An Nam mình.
Xem thế thì ngẫm ngay được rằng: một chủng tộc muốn như chủng tộc văn minh chỉ có tự lập tự cường. Nhưng khốn nỗi ở nước An Nam ta từ ngày quan quân nước Pháp đem binh thuyền đến mà chinh phục mãi tới ngày nay, sĩ khí dân tình khởi sự chống lại chính phủ bảo hộ tiếp diễn liên miên hết cuộc này đến cuộc khác, rốt cuộc đâu hoàn đó, chẳng nhúc nhích được chút nào. Ngày nay, việc khởi sự lần hồi giảm đi bởi cái dã tâm của hạng người dạ thú, của kẻ đầu trâu mặt ngựa, bởi thiếu người hướng đạo.
Bấy lâu nay tôi cùng anh và anh Phan [3] đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu.
Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói đọ gì với anh Phan. Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [4], thực tình từ trước tới nay tôi chẳng khinh thị anh mà tôi còn phục anh nữa là khác. Tôi thực tình có sao nói nấy, không ton hót anh chút nào.
Mấy cái việc nói qua trên kia để bọn mình ôn cố một chút, còn lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hi vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự. Phàm thử muốn thức tỉnh quốc dân đồng bào đánh đổ cường quyền áp chế, thì từ xưa đến nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh: anh lấy cái lẽ nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính phủ cường quyền nên sự hấp thu lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” [5]. Cứ như cái phương pháp ấy thì anh viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần và nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi vì quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ Quốc ngữ cầm tờ báo mà đọc nổi.
Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh khác gì công dã tràng. Bởi cái lẽ đó mà tôi khuyên anh thu xếp mà về, đem cái tài năng của mình khích động nhân tâm, hô hào đồng bào ba kỳ đồng tâm hiệp lực, để mà đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công.
Tôi biết anh hấp thu được cái chủ nghĩa của ông Mã Khắc Tư, ông Lý Ninh [6] nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh rõ. Ông Mã vốn sinh trường trên đất Đức Ý Chí, ông bị chánh phủ tầm nã vì cái tội cách mệnh, đành lánh nạn sang nước Anh Cát Lợi. Ông ta học cái hay, cái tốt ở trên đất nước người, sau lại về Đức Ý Chí mà làm việc và lại còn nói cách mệnh dân quyền của cả thế gian là cái rốn chính ở ngay trên đất Đức Ý Chí, nên ông về đó mà làm việc.
Ông Lý cũng bị cái chánh phủ cường quyền Nga la tư truy nã, ông phải lánh nạn sang xứ Phất La Tây [7], Đức Ý Chí và Lang Sa, rồi ông lại trở về nước hô hào dân thợ, dân cày, lính tráng kết đoàn mới làm nổi cách mệnh mà dân Âu Mỹ đều bàng hoàng.
Cứ xem hai ông Mã, Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa có ông nào dùng cái lối nương náu đất người mà làm quốc sự cho nước mình như anh đâu? Bởi vậy. giá như anh tôn thờ lý thuyết hai ông ấy, mà anh nghe lời tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết, có phải là phương pháp hay biết chừng nào?
Lại còn cái điều ngộ bất trắc sa cơ, đương nhiên là sự phòng xa thì ắt lợi hơn thiển cận; song le từ xưa đến nay, biết bao nhân nhân chí sĩ nước mình hoặc khởi sự hay ôn hòa đương đầu với cường quyền áp chế, mấy ai khỏi vòng lao lung tù tội, đày ải chém giết. Ông Đề Thám bị bêu đầu giữa chợ, ông Phan Đình Phùng bị đào mả ném xương xuống sông, ông Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ khoa Huân bị đày biệt xứ và nhiều không kể xiết bị đầu rơi máu chảy. Ngại vì sa cơ thì e rằng bỏ mất cái tài của mình, cơ hội chảy qua như dòng nước. Bởi thế cái phương pháp quy sào giác thế [8] mà anh làm được thì may mắn cho quốc dân đồng bào ta biết dường nào. Giả như không làm được như thế thì tài năng của anh ắt là mai một.
Anh cứ xem ông Phan Sào Nam hồi trước chẳng nghe lời tôi, mang người mang của đến đất Phù Tang, cầu cứu nghĩa cử đồng văn đồng củng, chạy đông chạy tây, dĩ ngoại đột nội, rốt cuộc chỉ làm được mấy lần khởi sự. Vả lại cái chủ trương của ông Phan mới xem qua thì hay lắm, song ngẫm kĩ lưỡng thì chẳng khác gì cái phương pháp họ Lê cầu Thanh đánh Tây Sơn, họ Nguyễn cầu viện Lang Sa đánh Tây Sơn. Cổ lai thế sự còn rành rành ra đó, ấy thế mà ông Phan cứ tôn thờ cái bài vị đồng văn đồng chủng. Thảng như phương pháp của ông Phan mà thành công thì quốc dân đồng bào chung quy vẫn nguyên cái lưng con ngựa, chỉ thay người cưỡi mà thôi. Hồi đó ông mới mưu đồ quốc sự, tôi có nói với ông ông hãy ở nhà cùng với nhân nhân chí sĩ ba kỳ mà thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền, đông tay sao mà chẳng vỗ nên tiếng? Ấy thế mà ông Phan chẳng thèm nghe mà mãi cho tới nay ông vẫn còn cho cái phương pháp của ông là hay. Tôi biết anh chẳng tán đồng cái phương pháp của ông Phan, vả lại tôi cũng còn tin răng không sớm thì chầy anh cũng lấy cái phương pháp khẩu xướng đối nhân, dụng nội triệt ngoại [9] cùng với sĩ phu dân chúng ba kỳ mà mưu đồ đại sự.
Từ xưa tới nay tôi cứ cho cái phương pháp của tôi có nhiều sự hay hơn nhiều cái dở, vì rằng nước mình trên có chánh phủ bảo hộ trông, dưới là một bầy tham quan lại nhũng, học thức trong đám dân chúng kém cỏi, thì còn gì tốt lành bằng cái tôi dựa vào lý thuyết nhân quyền để cổ động sĩ khí dân tình, tôi thực hành cái phương pháp ấy thì tôi làm cái lối khẩu thuyết vô bằng mà hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực, kết đoàn hợp xã, dân tình thức tỉnh, kháng thuế cự sưu, tố giác tham quan lại nhũng, lại bất hợp tác từ cái này đến cái nọ, đến chừng đông tay vỗ nên tiếng mà đoạt lại lợi quyền.
Cái lối khẩu thuyết vô bằng [10], mình có thể phơi bày hết điều hơn lẽ thiệt, ngộ mà có ai phản nghịch tố giác, cũng chẳng có chứng cớ minh bạch mà làm tù làm tội nặng mình được. Đương nhiên cái lối đó khó bề kéo dài, họ ắt vin cớ này, cớ nọ để mà làm tội làm tình; thế nhưng cái lúc đó vị tất không có người tiếp tục cái lối của mình hay sao? Cứ như cái hồi cự sưu, có anh Châu Thơ Đồng [11] há chẳng dùng lối ấy mà hô hào dân chúng cho đến khi không còn nói ra tiếng rồi chết, ấy là sự thật đã qua.
Còn ngày nay, cũng cứ làm cái lối ấy, chẳng may bị sa cơ, thế tất chẳng có người nối tiếp mình thức tỉnh nhân quần; bằng cái lối đó, chắc là cuồn cuộn dâng lên, rồi một ngày kia khác nào như ngọn thủy triều lôi cuốn mất cường quyền áp chế. Bởi vậy, anh coi cái lối đó của tôi mà tốt, thì anh cứ thể nghiệm, Anh mà làm theo lối đó, tôi tin không bao lâu cái chủ nghĩa của anh tôn thờ sẽ thâm căn cố đế trong đám dân tình chí sĩ, chớ anh mà khư khư cái lối của anh, cứ ở bên này viết báo chương, hô hào lý thuyết thì tôi e rằng công dày mưu cao của anh cứ lần hồi mai một.
Tôi là người có án tích, lại cư trú bên này, chân tay bị bó rọ, thế mà tôi cứ có nguyện vọng sẽ xin chánh phủ và Bộ Lang sa hải ngoại cho tôi về Tàu làm cái nghề viết báo chữ Hán mà kiếm sống, rồi may ra có cơ hội tôi lại về. Một khi mà tôi đặt chân lên quê hương xứ sở, tôi nguyện đem hết chí lực bình sanh mà thức tỉnh dân khí ba kỳ đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền áp chế.
Anh Nguyễn, tôi tường tâm với anh đã rõ nguồn cơn. Bây giờ, thân tôi tựa cá chậu chim lồng. Vả lại, cây già thì gió dễ lay, người già thì trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong mà hơi tàn cũng gào cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn anh như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông, nhưng mà anh chẳng nghe lời tôi anh cứ quanh quẩn bên này thì làm sao tài năng anh thi thố được. Bởi vậy tôi thành tâm khuyên anh, mong mỏi anh thay đổi cái phương pháp cũ kỹ đi để mà mưu đồ đại sự.
Tôi cầu chúc anh thành công và hy vọng bọn mình cùng thấy mặt nhau ở quê hương xứ sở.
Phan Tây Hồ
(Trích Phan Châu Trinh toàn tập, tập 3)
________________________
Chú thích:
[1] Ba Lê: Paris
[2] Mạnh Đức Tư Cưu: Montesquieu, Lư Thoa: Rousseau
[3] Phan Văn Trường
[4] Tử mã lục thạch: còn nhiều tranh cãi nhưng theo Hoàng Xuân Hãn có thể dịch là ngựa non háu đá.
[5] Ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội: ngồi ở nước ngoài kêu gọi người tài giỏi, đợi thời để xông vào trong nước.
[6] Mã Khắc Tư, Lý Ninh: Marx – Lenin
[7] Phất La Tây: Phần Lan
[8] Quy sào giác thế: trở về nước giác ngộ đồng bào
[9] Khẩu xướng đối nhân, dụng nội triệt ngoại: dùng miệng mà nói với người, dùng người trong nước mà đánh đuổi ngoại xâm.
[10] Khẩu thuyết vô bằng: nói mà không có bằng chứng
[11] Châu Thơ Đồng: tên thật là Châu Thượng Văn. Người Minh hương, Hội An, Quảng Nam. Nhà chí sĩ duy tân, có quan hệ khắng khít với Duy Tân Hội và phong trào Đông Du. Mãi đến năm 1908, nhân vụ xin sưu giảm thuế bùng nổ tại Đại Lộc nhằm ngày 9 -2-1908, ngày càng lan rộng ra các tỉnh miền Trung, ảnh hưởng cả trong Nam, nài Bắc khiến thực dân Pháp và Nam triều ra tay đàn áp quyết liệt. Kết quả, những thành viên nòng cốt của phong trào Duy Tân và Duy Tân Hội cùng với những người liên đới tham gia đều bị bắt, bị xử tội…trong số đó, có cụ Châu Thơ Đồng bị bắt tại Hội An. Khi tra hỏi cụ đã khảng khái nhận chủ mưu đưa người trong nước sang Nhật du học và xui dân kháng thuế, ngoài ra không có ai can dự. Tòa án Nam triều kết tội chung thân, đày lên Lao Bảo. Từ lúc bị bắt đến khi có án đày lên Lao Bảo là 20 ngày, cụ tuyệt thực hoàn toàn, chỉ uống chút nước do người nhà đưa vào đến Huế thì cụ mất trong lao Thừa Phủ
Phan Chu Trinh (1872-1926) là người Việt Nam đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) nhìn thấy trước cảnh “dịch chủ tái nô” (đổi chủ nhưng dân vẫn là nô lệ)… Để tránh điều này, Cụ đã chỉ ra con đường giành độc lập – tự do cho dân tộc là phải bắt đầu từ “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
Cụ chọn con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động, xuất phát từ 10 nhận xét chính xác về đặc điểm con người Việt Nam mà đối chiếu thực tế ngày nay vẫn còn nguyên vẹn.
Năm 1906, Phan Chu Trinh đi Nhật Bản trở về, sau đó ông viết Tỉnh quốc hồn ca I. Năm 1907, tác phẩm được phổ biến lần đầu tiên trong các trường kiểu mới ở Quảng Nam và trong trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội, sau đó lan truyền ra nhiều nơi khác.
Bấy giờ, có một số nhà yêu nước cho rằng nhân dân Việt đang ở trong mê mộng: mộng khoa cử, mộng quan trường, mộng xôi thịt,…hoặc nói một cách tượng trưng là hồn nước đã mê, đã lạc…cho nên phải gọi dậy để đi theo con đường tự lập, tự cường… Vì lẽ đó, Tỉnh quốc hồn ca I và các tác phẩm đồng thời của các nhà chí sĩ khác, như Đề tỉnh quốc dân ca, Hải ngoại huyết thư, Á Tế Á ca, Chiêu hồn nước, Hợp quần doanh sinh thuyết, v.v…đã ra đời nhằm mục đích ấy.
Tỉnh quốc hồn ca I gồm 472 câu thơ song thất lục bát, xếp vào 12 đoạn. Trong đoạn đầu, sau khi nêu quá khứ vẻ vang oanh liệt của dân tộc Việt, tiếp đến là chỉ trích lỗi lầm của người trên kẻ dưới đã làm cho nước nhà lụn bại. Từ đó, tác giả đặt vấn đề: phải học tập theo người Âu, người Mỹ (nội dung của 11 đoạn sau). Theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tác giả đã so sánh nhiều phương diện về dân khí dân trí của các nước văn minh trên thế giới với dân tình của nước Việt đại để như sau:
Có thể thấy 10 nhận xét chính xác về đặc điểm con người Việt Nam mà cụ Phan Chu Trinh nêu ra và đối chiếu thực tế ngày nay vẫn còn nguyên vẹn.
Nguyễn Tuấn Hùng
1-Thế giới và khu vực
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh,đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc.
Cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản (năm 1868) đã khiến Nhật Bản trở thành một nước tư bản phát triển.
Ở Trung Quốc: Từ cuối XIX, các nước tư bản phương Tây đã đổ xô sang Viễn Đông tìm kiếm thị trường thuộc địa. Đối tượng chính của chúng ở đây là Trung Quốc, ngay cả Nhật Bản cũng tham gia vào cuộc sâu xé này.
+Cuộc vận động biến pháp do phái Duy Tân đề xướng, được Quang Tự Đế cho thi hành kể từ ngày 11 tháng 6 năm 1898 ở Trung Quốc. Thế nhưng, công cuộc này chỉ tồn tại trăm ngày thì bị Từ Hi Thái hậu ra lệnh bãi bỏ (ngày 21 tháng 9 cùng năm), và những người chủ trì đều bị nghiêm trị (Quang Tự bị truất bỏ ngôi vua và bị bắt bỏ ngục, Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi bị truy nã trốn sang Nhật,…).
+Cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 ở Trung Quốc thành công dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn. Nảy sinh khuynh hướng cứu nước mới: dân chủ tư sản.
2-Trong nước
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm cho cơ cấu kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi:
+Kinh tế: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa du nhập vào Việt Nam tồn tại cùng với quan hệ sản xuất phong kiến.
+Xã hội: bên cạnh các giai cấp cũ, các lực lượng xã hội mới ra dời như công nhân, tư sản, tiểu tư sản với những hệ tư tưởng mới.
Một bộ phận ưu tú trong hàng ngũ trí thức phong kiến sớm tiếp xúc với tư tưởng mới bên ngoài đã nhận ra những hạn chế của hệ tư tưởng phong kiến. Tân thư, tân báo được đưa vào Việt Nam, truyền bá, cổ vũ tư tưởng dân chủ tư sản.
1-Tiểu sử
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San .Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu.Hai chữ “bội châu” trong tên của ông lấy từ câu:[Thành trung nga mi nữ châu bội hà san san].
Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam. Tên gọi Sào Nam được lấy từ câu [Việt điểu sào nam chi nghĩa là Chim Việt làm tổ cành Nam]. Phan Bội Châu còn có nhiều biệt hiệu và bút danh khác như Thị Hán, Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán …
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Cha ông là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn. Ông nổi tiếng thông minh từ bé, năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện.
Thuở thiếu thời ông đã sớm có lòng yêu nước. Năm 17 tuổi, ông viết bài “Hịch Bình Tây Thu Bắc” đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi nghĩa kháng Pháp. Năm 19 tuổi (1885), ông cùng bạn là Trần Văn Lương lập đội “Sĩ tử Cần Vương” (hơn 60 người) chống Pháp, nhưng bị đối phương kéo tới khủng bố nên phải giải tán.
Gia cảnh khó khăn, ông đi dạy học kiếm sống và học thi. Khoa thi năm Đinh Dậu (1897) ông đã lọt vào trường nhì nhưng bạn ông là Trần Văn Lương đã cho vào tráp mấy cuốn sách nhưng ông không hề biết nên ông bị khép tội hoài hiệp văn tự (mang văn tự trong áo) nên bị kết án chung thân bất đắc ứng thí (suốt đời không được dự thi).
Sau cái án này, Phan Bội Châu vào Huế dạy học, do mến tài ông nên các quan đã xin vua Thành Thái xóa án. Nhờ vậy, ngay khoa thi hương tiếp theo, năm Canh Tý (1900), ông đã đậu đầu (Giải nguyên) ở trường thi Nghệ An. Cùng năm đó, thân sinh của cụ qua đời, nhờ đó cụ mới có thời gian rãnh để lo đến việc cứu nước.
Đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lâp một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Phan Bội Châu đã nêu rõ nhiệm vụ đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Con đường cứu nước của Phan Bội Châu là “cứu nước để cứu dân”. Ở đây ta thấy điểm tích cực trong khuynh hướng cứu nước của Phan Bội Châu là ông đã xác định được đúng mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, vì vậy ông nêu rõ mục tiêu là đánh đuổi Pháp thì mới có thể giành được độc lập tự do cho nhân dân. Phan Bôi Châu đã chọn Kì Ngoại Hào Cường Để (cháu 6 đời của Vua Gia Long) làm hội chủ nghĩa là Phan Bội Châu muốn quay lại chế độ quân chủ. Vì lúc này tư tưởng trung quân ái quốc vẫn còn tồn tại trong nhận thức của Phan Bội Châu và nhân dân nên để thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân, Phan Bội Châu đã lợi dụng tư tưởng trung quân ái quốc để tập hợp lực lượng. Rõ ràng ta thấy lúc này ở Việt Nam vẫn còn vua Thành Thái nhưng Phan Bội Châu đã chọn cho mình một Cường Để có tinh thần chống Pháp chứ không phải một ông vua chính danh nhưng bù nhìn như Thành Thái.
Phan Bội Châu đã xác định phương pháp cách mạng là bạo đông vũ trang cần thiết là đúng vì bản chất của các thế lực thù địch là chúng chống phá ta bằng quân sự vì vậy phải bạo động quân sự.
Phan Bội Châu đã thành lập các tổ chức cách mạng bao gồm hội Duy Tân, hội Cống Hiến được thành lập ở Tokyo, cơ quan liên lạc và Công hội Thương đoàn được thành lập ở Hồng Kông tiếp đó ông tổ chức phong trào Đông Du (1905- 1908) đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập. Phan Bội Châu đã gửi học sinh sang trường Học hiệu Chấn Võ tại Tokyo cùng với trường Thư viện Đồng Văn Tokyo. Tuy nhiên đến tháng 8/1908 chính phủ Nhật cấu kết với Pháp trục xuất lưu học sinh kể cả Phan Bội Châu về nước. Giữa lúc cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911), ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang Phục Hội (1912) với mục đích tập hợp lực lượng đánh đuổi Pháp khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam. Sự ra đời của Việt Nam Quang Phục Hội đánh dấu sự phát triển trong tư tưởng của Phan Bội Châu từ quân chủ lập hiến lên dân chủ tư sản.
Khuynh hướng cải cách của Phan Bội Châu đã khoáy động lòng yêu nước, cổ vũ tinh thần dân tộc, tập hợp lực lượng kháng Pháp hùng mạnh. Tuy nhiên nó cũng có một số hạn chết nhất định ở chỗ cầu viện Nhật Bản. Lúc bấy giờ Nhật Bản đã trở thành một nước tư bản do nhu cầu tìm kiếm thuộc địa nên Việt Nam dã trở thành miếng mồi ngon của Nhật Bản vì thế họ nhanh chóng trở mặt khi đụng đến quyền lợi của họ
2.Hoạt động của mình
Năm 1901, Phan cùng một số đồng chí vạch ra 3 kế hoạch sau đây:
+Liên kết với dư đảng Cần Vương và các tráng kiện ở chốn sơn lâm, xướng khởi nghĩa binh, mục đích là đánh giặc phục thù với với thủ đoạn bạo động.
+Tìm người dòng họ nhà vua lập làm minh chủ, rồi ngầm liên kết với những người có thể lực, tập hợp những người trung nghĩa ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ cùng nhau khởi sự.
+ Khi cần thiết sẽ phái người xuất dương cầu ngoại viện.
Mục đích: “Cốt sao khôi phục được nước Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác cả.”
Ba kế hoạch này có thể coi là sự khởi đầu một cương lĩnh hoạt động của Duy Tân hội sau này.
a-Thành lập Duy Tân hội
Phan Bội Châu đả kích việc thực dân Pháp cấm giảng dạy lịch sử Việt Nam mà thay vào đó là lịch sử Pháp. ào tạo ra một tầng lớp công chức và chuyên viên phục vụ cho nền cai trị và công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp. Phan Bội Châu chỉ trích nền giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa là “chỉ dạy người Việt viết văn Pháp, nói tiếng Pháp, tạm thời làm nô lệ cho Pháp”
Năm 1904, ông cùng Nguyễn Hàm và khoảng 20 đồng chí khác thành lập Duy Tân hội ở Quảng Nam để đánh đuổi Pháp, chọn Kỳ Ngoại hầu Cường Để – một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn – làm hội chủ.
Mục đích của hội là đánh Pháp, giành lại độc lập cho tổ quốc, thành lâp thiết chế quân chủ lập hiến- theo đó vua có danh mà không có quyền. Hội nghị thành lập Hội đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt như sau:
+Phát triển thế lực hội về người cũng như về tài chính
+Xúc tiến việc chuẩn bị bạo động và các công việc sau đó
+Chuẩn bị xuất dương cầu viện, xác định phươn châm và thủ đoạn xuất dương
Trong ba nhiệm vụ trên, thì nhiệm vụ thứ ba hết sức quan trọng và bí mật, nên Duy Tân hội đã cử Phan Bội Châu và Nguyễn Hàm tự định liệu. Theo đó, đây là tiền đề cho phong trào Đông Du sau này.
Năm 1905, ông cùng Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản, để cầu viện Nhật giúp Duy Tân hội đánh đuổi Pháp. Tại Nhật, ông gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người Trung Quốc, và được khuyên là nên dùng thơ văn (nghe lời Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử) để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Lại nghe hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, là Bá tước Ôi Trọng Tín và Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị khuyên là nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước.
b-Phong trào Đông Du
Tháng 6 năm 1905, Phan Bội Châu cùng Đặng Tử Kính mang theo một số sách Việt Nam vong quốc sử về nước. Tháng 8 năm 1905 tại Hà Tĩnh, ông và các đồng chí nồng cốt trong Duy Tân hội bàn bạc rồi đưa ra kế hoạch hành động đó là:
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với ba thanh niên, sau đó lại có thêm 45 người nữa. Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học trường Chấn Võ. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật Bản du học lên tới khoảng 200 người, sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội…
Chương trình nhằm đào tạo những người có trình đọ văn hóa và quân sự cần thiết cho công cuộc đánh Pháp cứu nước về sau. Đến giữa năm 1903, việc học tâp của các học sinh Việt Nam ở Nhật đã ổn định và phát triển thuận lợi.
Năm 1908, phong trào “cự sưu khất thuế” (tức phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ) nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên bị bắt, trong số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội. Tiếp đó, Hoàng Quang Thanh và Đặng Bỉnh Thành lại bị Pháp đón bắt được khi từ Nhật về Nam Kỳ nhận tiền quyên góp cho phong trào Đông Du. Cũng trong năm đó, Pháp và Nhật vừa ký với nhau một hiệp ước, theo đó chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất các du học sinh người Việt ra khỏi đất Nhật. Năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và các thành viên khác đã dày công xây dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.
Cuối năm 1910, Phan Bội Châu chuyển một đại bộ phận hội viên (trong đó có khoảng 50 thanh niên) ở Quảng Đông về xây dựng căn cứ địa ở Bạn Thầm (Xiêm La). Tại đây, họ cùng nhau cày cấy, học tập và luyện tập võ nghệ để chuẩn bị cho một kế hoạch phục quốc sau này.
Năm 1912, trong cuộc “Đại hội nghị” tại từ đường nhà Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông (Trung Quốc), có đông đủ đại biểu khắp ba kỳ đã quyết định giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang phục Hội, tức thay đổi tôn chỉ từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ để đánh đuổi quân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc kiến lập Việt Nam, đáp ứng tình hình chuyển biến mới trên trường quốc tế.
1-Tiểu sử
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, tự là Tử Cán.
Mẹ ông mất sớm vào năm ông lên 6 tuổi. Quê nhà bị quân Pháp đốt cháy trong cuộc trấn áp phong trào Cần vương, nên ông phải theo cha, được cha dạy chữ và dạy võ. Sau khi cha mất, ông trở về quê sống với anh là Phan Văn Cừ và tiếp tục đi học. Ông học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang, và Phạm Liệu.
Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường Thừa Thiên. Năm sau (1901), triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng thời gian này, người anh cả mất nên ông về để tang, ở nhà dạy học đến năm Quý Mão (1903) thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.
Năm 1906, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này.
Phan Châu Trinh chủ trương tiến hành một phong trào Duy Tân nhằm vận động cải cách kinh tế, văn hoá, xã hội và gắn liền với việc động viên lòng yêu nước, căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại xâm.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phản đối việc dùng vũ lực để giành độc lập dân tộc quốc như cầu viện bên ngoài “Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu”.
Theo Phan Châu Trinh, nhiệm vụ cấp bách của dân tộc ta là:
– Chấn dân khí: Thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, làm cho mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, xoá bỏ nọc độc chuyên chế. Vì vậy, ông chủ trương: “Không cần hô hào đánh Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã giác ngộ quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến việc khác.
– Khai dân trí: Bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thiết khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục, xa hoa, tuyên truyền lối sống tiết kiệm, văn minh.
– Hậu dân sinh: Chăm lo đời sống cho nhân dân bằng việc phát triển kinh tế, chỉ con đường làm ăn cho dân, như khẩn hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hoá.
Năm 1906, Phan Châu Trinh cùng một số sĩ phu yêu nước tiến bộ khởi xướng cuộc vận động Duy tân ở Trung Kì.
– Kinh tế: cổ động việc chấn hưng thực nghiệp, lập hộ kinh doanh phát triển các nghề thủ công nghiệp (mở lò rèn, xưởng mộc), làm vườn.
– Giáo dục: mở các trường học theo lối mới, dạy chữ Quốc ngữ, môn học mới.
– Văn hoá: tổ chức những buổi diễn thuyết kêu gọi sự thay đổi để tiến bộ hơn, phù hợp trong giao lưu buôn bán, ngăn chặn các tệ nạn rượu chè, thuốc phiện… thành lập các trường duy tân lan rộng ra nhiều tỉnh thành khác như Đông Kinh Nghĩa Thục với nội dung và phương pháp mới.
Năm 1908, diễn ra phong trào chống sưu thuế ở các tỉnh miền Trung huy động được hàng vạn người tham gia đấu tranh chống thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai.
Khuynh hướng vận động cải cách của Phan Châu Trinh đã cỗ vũ tinh thần học tập, tự cường, chống các hủ tục phong kiến
2-Hoạt động của Phan Châu Trinh mà tiêu biểu là cuộc vận động Duy Tân
Sau khi cáo quan về quê, Phan Châu Trinh dốc lòng vào công việc cứu nước. Mặc dù rất đau xót trước cảnh thực dân Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (tức đánh đuổi Pháp), mà nhiệm vụ cấp bách là phải:
Cho nên sau khi ông vào Nam ra Bắc, sang Nhật, để trao đổi và tìm hiểu, cuối cùng ông nhất quyết làm cuộc cải cách duy tân cho quốc dân trong nước. Ngoài ra, ông gửi thư cho Toàn quyền Beau ngày 15 tháng 8 năm 1906, chỉ trích chính phủ Pháp không lo mở mang khai hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị. Bức thư đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước.
Với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Phong trào thực hiện mục tiêu cải tạo con người và xã hội Việt Nam bằng cách khuyến khích cải cách giáo dục (bỏ lối học từ chương, xóa mù chữ bằng cách phát động phong trào học Quốc ngữ), mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, thay đổi tập quán (cắt tóc ngắn, cắt ngắn móng tay)….
Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra, và bị triều Nguyễn và chính phủ bảo hộ Pháp đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều thành viên trong phong trào Duy Tân bị nhà cầm quyền buộc tội đã khởi xướng phong trào chống thuế nên đều bị bắt.
Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Nhờ sự can thiệp của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội, họ buộc lòng phải kết ông án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên” (nghĩa là tội chém nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), rồi đày đi Côn Đảo ngày 4 tháng 4 năm 1908.
Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Vì đó, nhà cầm quyền Pháp tại Paris đã gọi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường (một luật sư, nhà báo người Việt chống thực dân) phải đi lính, nhưng hai ông phản đối với lý do không phải là công dân Pháp. Mấy tháng sau, chính quyền khép tội hai ông là gián điệp của Đức để bắt giam Phan Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ở Paris, kể từ tháng 9 năm 1914. Năm 1915, vì không đủ bằng chứng buộc tội, chính quyền Pháp phải trả tự do cho hai ông sau nhiều tháng giam giữ.
Ngày 29 tháng 5 năm 1925, Phan Châu Trinh cùng nhà cách mạng trẻ Nguyễn An Ninh xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26 tháng 6cùng năm thì về tới Sài Gòn. Khi bệnh tình trở nặng (tháng 12/1925), túc trực thường xuyên cạnh Phan Châu Trinh là Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Sinh Sắc, Huỳnh Thúc Kháng.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn Hưởng dương 54 tuổi. Lời trăn trối cuối cùng của Phan Châu Trinh, được thuật lại là, “Độc lập của dân tộc ta sau này sở cậy có Nguyễn Ái Quốc.”
1-Điểm tương đồng trong hai con đường cứu nước của hai cụ Phan
-Cả hai cụ Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đều là đại diện cho phong trào dân tộc dân chủ của tầng lớp sỹ phu yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX, đều xác định được kẻ thù của dân tộc là thực dân Pháp.
-Tính chất: Đều đi theo con đường dân chủ tư sản, đều sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đang nằm trong tay đế quốc Pháp, Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm xã hội Việt Nam biến chuyển và phân hóa cùng với đó là sự du nhập cuả trào lưu.Chủ trương cứu nước của các cụ vừa giống nhau vừa thống nhất với nhau ở khái niệm “ Dân nước và nước dân”.
-Kết quả: Đều bị đàn áp và đi đến con đường thất bại.
-Ý nghĩa: Thúc dục lòng yêu nước của nhân dân đương thời, tạo nên trong lòng xã hội những mầm móng, tư tưởng thúc đẩy sự phát triển của những con đường cứu nước theo những khuynh hướng khác, đã sử dụng được sức mạnh của nhân dân làm gốc, tiếp thu được những kết quả của cách mạng thể giới, cả hai cụ đều hoạt động ở cả trong và ngoài nước
2-Điểm khác nhau giữa hai con đường cứu nước
a-Con đường bạo động của cụ Phan Bội Châu
-Nhiệm vụ :Đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục lại chế đội phong kiến ( Thành lập Duy Tân Hội, tổ chức phong trào Đông du…)
-Chủ trương:vận động quần chúng tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài ( Nhật bản), tổ chức bạo động đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Xây dựng chế độ chính trị Quân chủ lập hiến.
-Con đường cứu nước: “cứu nước để cứu dân”
-Xu hướng: Bạo động vũ trang
-Hoạt động tiêu biểu: Thành lập các hội, cùng với việc đưa học sinh sang Nhật Bản học tập, phát động phong trào Đông Du,…
Con đường cứu nước của Phan Bội Châu mặc dù được phần đông quần chúng nhân dân ủng hộ nhưng kết quả cuối cùng là đi đến sự thất bại. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là sai lầm trong chủ trương của cụ.
Điểm mạnh ở đây chính là cụ đã biết tiếp thu những kết quả trong công cuộc đổi mới của Nhật Bản nhưng cũng chính vì lẽ này mà cụ đã xác định sai con đường cứu của mình, cụ chủ trương dựa vào Nhật Bản để đánh đuổi thực dân Pháp. Nhưng thực tế cho thấy một điều khá rõ ràng rằng, Đế quốc Nhật Bản là một nước đi theo “chủ nghĩa đế quốc quân phiệt”, cũng tích cực bành trướng thuộc địa như thực dân châu Âu. Đến thời điểm đó, Nhật Bản đã xâm chiếm và đô hộ Triều Tiên, và chuẩn bị xâm chiếm Trung Quốc.
Do vậy chủ trương của Phan Bội Châu là rất khó thành công, và dù có thành công thì Việt Nam sẽ lại phải đối diện với mối nguy mới từ Nhật Bản. Vì lẽ ấy, Nguyễn Ái Quốc dù khâm phục lòng yêu nước của Phan Bội Châu nhưng nhận xét đường lối của ông giống như “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
b-Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh
-Nhiệm vụ: Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội “ Khai thông dân trí, mở mang dân quyền”
-Chủ trương: Giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa, mở mang công thương nghiệp và tự cường.
-Con đường cứu nước: “cứu dân để cứu nước”
-Xu hướng: Cải cách dân chủ .
Nhưng trên hết, phong trào cứu nước của cụ cũng góp phần cổ vũ tinh thần tự lập, tự cường, tư tưởng giáo dục, tư tưởng chống lạc hậu của nhân dân ta. Tuy vậy, không thể không nói đến nguyên nhân chủ yếu làm khuynh hướng này cuối cùng cũng đi vào con đường của sự thất bại như phong trào của cụ Phan Bội Châu chính là sự ảo tưởng trong mục đích muốn ôn hòa và yêu cầu Pháp có thể thay đổi phương thức bóc lột nhân dân ta mà sau này Nguyễn Ái Quốc đã có câu nhận xét như sau: “Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, đó là sai lầm chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”
Hoặc Tôn Quang Phiệt nhận xét về chủ trương của Phan Châu Trinh như sau:
Phan Chu trinh hô hào: Không bạo động, bạo động là chết… Phan Chu Trinh đã muốn thực hiện chương trình khai dân trí, xướng dân quyền của dân mình; dân đã khôn ngoan tiến bộ về mọi mặt, đã biết dùng quyền của mình thì mới có thể độc lập được. Tuy nhiên, cứ lấy tư cách một người thân sĩ chân không mà hô hào cải lương thì làm sao mà được toàn dân hưởng ứng, toàn dân thực hiện được; mà toàn dân không hưởng ứng, không thực hiện, thì cải lương với ai?
Cả hai phái bạo động và cải lương đều thất bại, vì lúc đó nước ta chưa đủ điều kiện chủ quan và khách quan để đuổi được ngoại xâm giành được độc lập. Tuy nhiên, cách mạng võ trang của Phan Bội Châu được người sau noi theo và đã thành công. Các nhà hoạt động cách mạng thường nói “thất bại là mẹ thành công”, trường hợp này rất đúng. Còn chủ trương cải lương của Phan Chu Trinh thì bị thất bại và bị phá sản luôn, sau Phan Chu Trinh những nhà chân chính ái quốc của nước ta không ai đi theo con đường ấy nữa.
Phan Bội Châu | Phan Châu Trinh | |
---|---|---|
Nhiệm vụ | Đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nước Việt Nam. | Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội “khai thông dân trí, chấn hưng dân trí, phát triển dân sinh” |
Chủ trương cứu nước | Vận động quần chúng tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài (Nhật Bản), tổ chức bạo động đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, xây dựng chế độ Quân chủ lập hiến | Gương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần chế độ phong kiến thối nát, đòi Pháp sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa |
Phương pháp | Bạo động vũ trang | Cải cách ôn hòa (thông qua cải cách kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội) |
Mục tiêu | “Cứu nước để cứu dân” | “Cứu dân để cứu nước” |
Hoạt động tiêu biểu | – Tháng 5 – 1904, Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội tại Quảng Nam với chủ trương đánh Pháp, giành độc lập và thành lập chính thể quân chủ lập hiến. – 1905 – 1908: tổ chức phong trào Đông Du, đưa thanh niên Việt Nam sang học tập tại Nhật Bản. Chủ trương dựa vào Nhật Bản để chống Pháp nhưng không thành Phan Bội Châu về Xiêm chờ thời cơ. – Năm 1911: Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc bùng nổ. Phan Bội Châu về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) chủ trương đánh Pháp, thành lập nước Cộng hoà Dân quốc Việt Nam. Hoạt động: trừ khử, tiêu diệt tên đầu xỏ, tay sai của chúng. Tuy nhiên cũng không thành công – Ngày 24 -12 -1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam ở nhà tù Quảng Đông. |
– Năm 1906, Phan Châu Trinh cùng một số sĩ phu yêu nước tiến bộ khởi xướng cuộc vận động Duy tân ở Trung Kì. + Kinh tế: cổ động việc chấn hưng thực nghiệp, lập hộ kinh doanh phát triển các nghề thủ công nghiệp (mở lò rèn, xưởng mộc), làm vườn. + Giáo dục: mở các trường học theo lối mới, dạy chữ Quốc ngữ, môn học mới. + Xã hội: tổ chức những buổi diễn thuyết kêu gọi sự thay đổi để tiến bộ hơn, phù hợp trong giao lưu, buôn bán, ngăn chặn các tệ nạn rượu chè, thuốc phiện… thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, nội dung và phương pháp đổi mới – Năm 1908 diễn ra phong trào chống sưu thuế khắp các tỉnh miền Trung huy động hàng vạn người tham gia đấu tranh chống lại thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai + Pháp thẳng tay đàn áp phong trào. Năm 1908, Phan Châu Trinh bị bắt và bị đày ở Côn Đảo. - Năm 1911, Phan Châu Trinh bị đưa sang Pháp. |
Tác dụng | Khuấy động tinh thần yêu nước, cổ vũ tinh thần dân tộc, tập hợp lực lượng kháng Pháp hùng mạnh. | Cổ vũ tinh thần yêu nước, phát động phong trào chống thuế, lập nhiều trường… giáo dục tư tưởng chống lại các hủ tục phong kiến. |
Hạn chế | Cầu viện Nhật để chống Pháp mà không thấy được tham vọng và bản chất của đế quốc Nhật. Do quá tin vào Nhật và sự giúp đỡ của Nhật mà Phan Bội Châu đã quên mất bản chất của một nước đế quốc là họ sẵn sàng trở mặt, thỏa hiệp khi đụng đến quyền lợi của họ. | Biện pháp ôn hòa, xu hướng dựa vào Pháp để “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, để từ đó giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. |
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà?
(Tú Xương, “Đêm dài”, đầu thế kỷ XX)
Khoảng một trăm năm trước, khi tại các quầy rượu, quán cà-phê ở những thành phố tiêu biểu cho văn hóa Tây phương vào cuối thế kỷ XIX như Paris, Vienne, Berlin, khách văn nhân nghệ sĩ gặp nhau đàm luận về những tư trào trong văn học nghệ thuật Tây phương lúc bấy giờ như “nghệ thuật vị nghệ thuật” (l’art pour l’art), chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism) hay trường phái tự chiêm ngưỡng (narcissism), thì ở xứ Đông Dương xa xôi bên kia nửa vòng trái đất, nước ta hãy còn im lìm trong giấc nồng của đêm dài mất nước và ngay cả cái tên Việt Nam vẫn chưa được mấy ai nghe biết đến. Ngọn lửa Cần Vương kháng chiến cuối cùng ở Vũ Quang do Phan Đình Phùng lãnh đạo cũng đã bị dẹp tắt (1896). Dưới chính sách của toàn quyền Paul Doumer là triệt để khai thác nhân lực cùng tài nguyên của xứ thuộc địa này nhằm phục vụ tối đa cho quyền lợi của mẫu quốc, từ 1902 - năm ở Hà Nội người Pháp rầm rộ làm lễ khánh thành cầu Doumer (tức cầu Long Biên sau này) - Đông Dương bắt đầu mang lại những lợi lộc kinh tế và tài chánh cho nước Pháp trong khi tuyệt đại đa số người Việt phải chịu cảnh tôi đòi ngay chính trên quê hương của họ. Về sau, khi viết hồi ký Doumer đã kiêu hãnh ghi lại như sau: “Khi Pháp mới đến Đông Dương, nước An Nam đã chín muồi trong tình cảnh nô lệ”!
Trong hoàn cảnh đất nước bi đát như thế, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai sĩ phu, hai bậc đại hào kiệt đi hàng đầu trong vận động giành lại độc lập dân tộc vào giai đoạn giao thời 25 năm đầu thế kỷ XX. Tuy cùng chung hoài bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan trên một số vấn đề căn bản của đất nước lại rất khác nhau, thậm chí có khi tương phản. Trong nhiều năm gần đây, sau nhiều lần đọc lại các trước tác của hai nhận vật kiệt hiệt này, chúng tôi nhận thấy có nhiều kinh nghiệm của người xưa - thành công cũng như thất bại - vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày nay.
Trong khuôn khổ bài viết này, ta hãy thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản dội sang nước ta qua những "tân thư" (sách mới) và "tân văn" (báo mới" của Lương Khải Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Những trang sách "tân thư" "tân văn" mang đến cho các sĩ phu yêu nước không khí rạo rực của cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản và khí thế sôi sục của Mậu Tuất Chính biến (1898) ở Trung Quốc. Sĩ phu Việt Nam lần đầu tiên nghe đến các học thuyết dân chủ, dân quyền, chủ nghĩa lập hiến và làm quen với các tên nghe lạ tai như Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau), Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire), v.v... Từ chỗ "ếch ngồi đáy giếng thấy bao nhiêu trời", họ bắt đầu có tầm nhìn "doanh hoàn" (toàn cầu) - dĩ nhiên điều này không có nghĩa là ai ai nay cũng có thể nhìn một cách khách quan về đất nước hay về thế giới bên ngoài. Quan điểm cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua (survival of the fittest) qua thuyết tiến hóa xã hội (social Darwinism) của Dật-nhĩ-văn (Darwin) mà ngày đó hãy còn gọi là thuyết "vật cạnh" (vạn vật cạnh tranh để sinh tồn), "thiên diễn luận" (sự tiến hóa tự nhiên của sự vật) hay thuyết "tự do đào thải", khiến họ ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước.
Phan Bội Châu về sau đã ghi lại trong tự truyện: "Tôi vì xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc hơn"[1]. Nỗi lo diệt chủng cũng được nhắc nhở trong bài "Đề tỉnh quốc dân ca" (không rõ tên tác giả) lưu truyền rộng rãi trong nước vào năm 1906:
Nỗi diệt chủng bề thương bề sợ
Nòi giống ta biết có còn không?
Trong hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu có lẽ là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước. Thơ văn Phan Bội Châu có ảnh hưởng sâu rộng đối với người đọc không chỉ vì những dòng thơ Phan mang nhạc điệu trầm hùng thiết tha, khi rạo rực sôi nổi, mà cũng vì những gì Phan nói lên thường khơi dậy nỗi nhục mất nước và kích động những cảm xúc sâu xa của tình tự dân tộc. Những câu sau đây ngày ngay đọc đến ta vẫn thấy xao xuyến trong lòng, huống hồ là đối với độc giả sống trong tình trạng "mất nước" vào đầu thế kỷ XX:
Lời huyết lệ gửi về trong nước,
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ...
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau...("Hải hoại huyết thư" (1906), Lê Đại dịch)
Hoặc giả:
Than ôi! Lục tỉnh Nam Kỳ
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không
Mịt mù một giải non sông
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai...("Ai cáo Nam kỳ phụ lão" (1907), Phan Bội Châu tự dịch)
Trong bài "Sinh văn cụ Phan Sào Nam" (1940), Huỳnh Thúc Kháng đã diễn tả một cách sống động về sức rung cảm lòng người của ngòi bút Phan Bội Châu:
Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một,
giữa từng không mù cuốn mây tan,
Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ [2]
Do ảnh hưởng văn thơ của Phan Bội Châu, mà "hàng nghìn thanh niên đã cắt cụt tóc bím, vất hết sách vở văn chương cử tử cùng cái mộng công danh nhục nhã gắn trên đó, lìa bỏ làng mạc, nhà cửa vợ con, rồi băng ngàn lội suối, bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở, để qua Xiêm, qua Tàu, qua Nhật mà học hỏi và trù tính việc đánh Tây" [3]. Ngoài ra, cũng cần để ý là ảnh hưởng của Phan Bội Châu không chỉ giới hạn trong những thế hệ trưởng thành trong nửa đầu thế kỷ XX, mà ngay cả trong thời gian "đất nước phân kỳ", bất luận Nam Bắc, văn thơ Phan đã khơi dậy lòng yêu nước của không biết bao nhiêu thanh niên.
So với người cùng thời, Phan Bội Châu sớm ý thức về vận mệnh đất nước và cũng là một trong những sĩ phu đầu tiên đối đầu với các vấn đề liên hệ đến Việt Nam như một "quốc gia quốc dân" (nation-state).
Vì từ "quốc gia quốc dân" (hay "nhà nước quốc dân") vẫn chưa được nhắc đến ngay trong các cuốn từ điển tiếng Việt, Anh Việt hay Pháp Việt, v.v... xuất bản gần đây (những năm cuối cùng của thế kỷ XX!), ta thử tạm mượn định nghĩa của từ này trong một cuốn từ điển tiếng Nhật Bản - một ngôn ngữ có nhiều từ vựng hiện đại "xuất cảng" sang chữ Hán và tiếng Việt vào buổi đầu thế kỷ XX.
Trích:
Kokumin kokka ("Quốc-gia quốc-dân", hay "nhà nước quốc dân"): một quốc gia thống nhất được hình thành dựa trên cơ sở của ý thức về sự đồng nhất của quốc dân, hay dân tộc (Nihongo daijiten [Nhật-Bản-ngữ đại-từ-điển], Tokyo: Kôdansha, 1989, trang 691).
Ngay từ hồi chưa xuất dương, Phan đã từng đi chu du nhiều nơi trong nước - miền Nam xứ Nghệ (quê Phan) từ Huế vào Nam Ngãi, Bình Phú, rồi Gia Định, cho đến tận vùng Thất Sơn ở Châu Đốc; miền Bắc từ Nam Định, Hà Nội, lên tận rừng Yên Thế của Đề Thám - nhằm tìm cách kết giao đặng mưu đồ việc nước với những người có nghĩa khí, từ sĩ phu tới các "hảo hán" trong giới "lục lâm giang hồ" sống ngoài vòng pháp luật. Trong thời kỳ Đông Du (1905-1909), hàng ngày tiếp xuvs và lo việc ăn học cho các thành viên từ Nam chí Bắc, Phan ý thức sâu sắc về tình trạng thiếu đồng thuận giữa người Việt với nhau do một lý do khá đơn giản: đây là lần đầu tiên các thanh niên này có dịp tiếp xúc, đối thoại và sinh hoạt với nhau. Trong Việt nam quốc sử khảo (1908), Phan nêu lên 5 điều khiếm khuyết trong dân trí nước ta: hay nghi kỵ lẫn nhau, coi trọng những điều xa hoa vô ích (như trong việc hôn nhân, cúng bái, v.v ...), biết lợi mình chứ không biết hợp quần, tiếc của riêng mà không nghĩ đến lợi chung, biết thân mình mà không nghĩ đến việc nước [4]. Ý thức "quốc gia quốc dân" trong tư tưởng cũng như hành động của Phan phải nói là một sự đề kháng đối với chính sách "chia để trị" của chính quyền đô hộ, khác hẳng với đầu óc địa phương hẹp hòi thường thấy ngay ở các nhân vật tai to mặt lớn trong nước lúc bấy giờ. Bình tình mà nói, bệnh chia rẽ, óc địa phương không chỉ do chính sách cai trị của người nước ngoài, bởi lẽ ngay khi người Việt nắm lấy vận mệnh đất nước, vẫn không thấy những biện pháp tích cực nhằm khắc phục tư tưởng cục bộ "ăn cây nào, rào cây ấy" hay tình trạng "phép vua thua lệ làng". Đóng góp của Phan trên mặt này ngay từ hồi đầu thế kỷ đúng là một điểm son đáng trân trọng, cần được ghi nhớ.
Cũng cần để ý rằng "vong quốc" (mất nước), "đồng bệnh" (cùng bệnh) và "quang phục" (khôi phục vinh quang đã mất) là những từ thông dụng trong thuật ngữ chính trị ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam - ba nước "cùng mang bện mất nước" - vào đầu thế kỷ XX. "Vong quốc" ở đây có nghĩa là mất độc lập, mất chủ quyền. Phan Bội Châu giải thích: "Gọi là một nước thì phải có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách làm một nước" [5]. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mã những nỗ lực khôi phục độc lập ở ba nước Đông Á nói trên thường lấy tên "quang phục": vận động lật đổ triều đình Mãn Thanh ở Trung Quốc do Thái Nguyên Bồi khởi xướng năm 1904 lấy tên là Quang phục Hội (về sau gia nhập Đồng minh Hội của Tôn Dật Tiên); ngày Hàn Quốc lấy lại độc lập, thoát khỏi ách cai trị của người Nhật gọi là ngày Kwangbok (tức Quang Phục, 15/8/1945); và cái tên Việt Nam Quang phục Hội do Phan Bội Châu cùng các đồng chí thành lập ở Quảng Đông (1912) cũng không ngoài nghĩa đó.
Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX? Trả lời câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vô-thưởng-vô-phạt này sẽ giúp ta nhận thức rõ hơn về vai trò của Phan Bội Châu và Quang phục Hội.
Quốc hiệu "Việt Nam" nguyên đã có từ đầu thời vua Gia Long, nhưng trên thực tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép là vua Gia Long lúc đầu khi mới lên ngôi (1802) muốn đặc quốc hiệu là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi lại chuyện Triệu Đà và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày trước. Thanh triều chỉ chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai năm (1804) khi quốc hiệu Nam Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam [6]. Bước sang thế kỷ XX, trong khi người nước ngoài đều dùng tên "An Nam" để chỉ nước ta, theo thiển ý của chúng tôi, Phan Bội Châu là người đầu tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay từ khi mới sang Nhật Bản. Bằng cớ là Phan đã dùng tên Việt Nam trong các trước tác viết trong thời kỳ Đông Du: Việt Nam vong quốc sử (1905), Tân Việt Nam (1906), Việt Nam thảm trạng (1907?), Việt Nam quốc sử khảo (1908). Ngoài ra, sau khi giải tán Duy Tân Hội, như đã nói ở trên, Phan cùng đồng chí cũng đã dùng tên Việt Nam (thay vì An Nam hay các tên khác) khi đặt tên Việt Nam Quang phục Hội vào năm 1912.
Tuy Quang phục Hội có một lịch sử đáng chú ý, nhưng điều ngạc nhiên là trước đây ít người nói tới. Những điều giới thiệu sau đây có thể tìm thấy ngay trong "Phan Bội Châu niên biểu" (hay "Tự phán") chứ không phải tìm đâu xa xôi. Trước hết, Quang phục Hội không chỉ là hội đoàn theo nghĩa thông thường mà trên hết thực tế là một "chính phủ lâm thời" (lưu vong), có quy định cả quốc kỳ, quân đội (Việt Nam Quang phục Quân), quân kỳ, và phát hành cả giấy bạc (dưới dạng "quân dụng phiếu") "in bằng điện, tinh xảo như giấy bạc Tàu". Quang phục Hội cũng đã quy định lá quốc kỳ đầu tiên của Việt Nam. Theo lời kể lại của Phan Bội Châu, "một sự quái lại" là trước đó "nước ta chỉ có cờ hoàng đế mà không có quốc kỳ". Bởi vậy, Quang phục Hội mới "chế định cờ ngũ tinh" (năm ngôi sao) làm lá quốc kỳ đầu tiên. Năm ngôi sao trên lá cờ này có hình liên kết với nhau (ngũ tinh liên châu), tiêu biểu cho ba kỳ của Việt Nam, cộng thêm Lào và Cămpuchia (!). Quốc kỳ Quang phục Hội có nền vàng, tượng trưng cho nhân chủng da vàng của người Việt, màu hồng của năm ngôi sao biểu tượng cho vị trí phương Nam của nước Việt ("Nam phương thuộc hỏa, hỏa sắc hồng"). Hình dạng quân kỳ cũng giống như quốc kỳ, điểm khác nhau là thay vì hồng tinh (sao hồng), quân kỳ dùng bạch tinh (sao trắng), nhằm "tỏ rõ mục đích" của Việt Nam Quang phục Quân là "cốt đánh đổ chính phủ người da trắng".
Tôn chỉ "độc nhất" của Quang phục Hội là "khôi phục nền độc lập của Việt Nam" và thành lập một nước "cộng hòa dân quốc". Nói một cách khác, với sự thành lập của Quang phục Hội, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chủ nghĩa quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ "được xác định". Dĩ nhiên Phan Bội Châu đã đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng đường lối của Quang phục Hội [7]. Cho dù việc thay đổi "ngọn cờ quân chủ" (mà Phan Bội Châu đã đề cao để chống Pháp lúc xuất dương) thành lá cờ dân chủ phần nhiều là do ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh lịch sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa như một khúc nhạc dạo đầu báo hiệu sự cáo chung của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực tế sẽ xảy ra trong quá trình ba, bốn mươi năm sau đó.
Khác hẳn với chủ trương ôn hòa của Phan Châu Trinh là duy tân để tự cường rồi mới dành độc lập; Phan Bội Châu chủ trương bạo động, một phần vì bản tính ("sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích" [8]) và một phần do áp lực của "bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh... hối thúc tôi trong việc quân giới" [9].
Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước "đồng văn đồng chủng" mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan chuyển hướng, muốn liên kết với các nước "đồng bệnh" - trước hết là Trung Quốc - chống lại "cường quyền". Tuy nhiên, suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên Á (Asianism), tin rằng nếu không có sự giúp đỡ của các nước "đồng văn đồng chủng" như Trung Quốc, Nhật Bản... thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.
Ông là nhà cách mạng xã hội, có tư tưởng dân chủ đầu tiên, là nhà văn hóa, một nhân cách lớn.
Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ.
Đặc biệt hơn nữa, ông chọn con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Ông coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng luật pháp, cai trị quy củ có thể quét sạch hủ bại phong kiến.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khó và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ, noi theo ngày hôm nay...
Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa rất chủ quan. Có thể nói một trong những lý do khiến Phan thất bại là vì mặc dầu đứng trong tư thế người lãnh đạo một phong trào chống Pháp, Phan không bao giờ có ý định tìm hiểu về người Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày xưa "kẻ thù của địch là bạn ta", Phan ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi với các nước mà Phan coi là có quyền lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ: Đức, Nga, và đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Phan cả tin và chủ quan về những "nước bạn", rồi với trạng thái tâm lý được diễn tả và châm biếm qua câu ca dao "Thương thì thương cả đường đi, ghét thì ghét cả tông chi họ hàng" (hoặc "Thương thì trái ấu cũng tròn, không thương trái bồ hòn cũng méo"), Phan tưởng rằng những "nước bạn" sẽ là những đồng minh muôn thuở, bất luận trong tình huống nào và vô hình trung cho rằng "Pháp là nước duy nhất có ý đồ xâm chiếm Việt Nam". Vì Phan hoạt động trong giai đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị chưa chia phối hàng ngũ người Việt trong nước cũng như hải ngoại, nên mặc dầu những thuật ngữ Phan dùng có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ sau, nhưng phải nói trạng thái tâm lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét trong quan niệm đối ngoại của Việt Nam ít ra mãi cho đến gần đây.
Chủ trương bạo động của Phan Bội Châu tùy thời điểm có mức độ khác nhau. Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ quân sự chống lại Pháp, Phan gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời khuyên chí tình của họ Lương, Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên sang Nhật du học. Qua bút đàm, Lương khuyên Phan: "Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập... Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài". Mặc dầu thời kỳ Đông Du là khoảng thời gian mà chính Phan xem là "đắc ý" nhất trong đời, Phan vẫn còn vương vấn với khuynh hướng "bạo động" nên cũng không hết lòng tin tưởng vào vai trò của giáo dục. Phan mượn câu nói của Mã-Chí-Nê (Mazzini) làm chủ thuyết của mình: "Giáo dục dữ bạo động đồng thời tịnh hành" (Giáo dục và bạo động cùng tiến hành song song) [10]. Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật (1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng trở về Quảng Đông thành lập Quang phục Hội (1912), Phan chủ trương "bạo động kịch liệt" nhằm "tìm cái sống trong muôn vạn cái chết" và những mong bạo động sẽ là "môi giới để cải lương giáo dục"!
Trái hẳn với Phan Bội Châu, châm ngôn của Phan Châu Trinh là "Vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử" (Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào nước ngoài là ngu; không nên bạo động, bạo động là chết) và "ỷ Pháp cầu tiến bộ" mà trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền thuộc địa nhằm mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của người Pháp, rồi từng bước phục hồi nền độc lập quốc gia. Khi bị tù ở Côn Đảo, Phan Châu Trinh đã từng nói: "Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài chỉ diễn cái trò 'đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai', không ích gì... mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình, Triều Tiên, Đài Loan là cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp" [11].
Phan Châu Trinh là nhà sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền ở nước ta [12]. Ông chống bạo động, dấy phong trào duy tân "chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh" và chủ trương "tự lực khai hóa" không phải vì ươn hèn sợ hãi, mà bở vì ông thấy dân trí nước ta còn quá thấp. Theo ông, trong tình trạng như vậy thì dầu có giành được độc lập "cũng không phải là điều hành phúc cho dân". Ông là người quả cảm, có khí phách, không sợ hiềm nghi hay gièm pha, dám đưa ra một chủ thuyết khác hầu hết mọi người đương thời. Phan Tây Hồ là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa của nó.
Vì Phan Bội Châu theo chủ thuyết bạo động nên không phải ngẫu nhiên mà phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc vào đầu thế kỷ (dưới ảnh hưởng của Phan) đã học những trường quân sự, và đại đa số những người này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động, mưu toan ám sát người Pháp cùng những người Việt cộng tác với chính quyền thuộc địa, hay các binh biến lẻ tẻ. Than tiếc cho sự việc này, Phan Châu Trinh đã viết: "Phải chi dùng số người xuất dương đó phân tán trong nước, đem trí thức, trình độ cao đó khiến cho mười mấy triệu người trong nước cũng có trí thức cao lên để tranh dành với Pháp" [13]. Bởi vậy, trong lời tựa của tập tự truyện "Phan Bội Châu niên biểu" mà tác giả đã viết với sự cân nhắc và phản tỉnh sâu lắng trong tuổi già, Phan Bội Châu ghi: "Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên lụy với tôi mà kẻ chết người tù, họa tràn quận quốc, độc trôi đồng bào... Anh em chúng ta nếu xem cái gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở ra một lối thành công sau...". Phan Bội Châu khuyên đồng bào nên xem cuộc đời họat động của mình như một "chiếc xe đã bị lật đằng trước nhằm cảnh giác" (tiền xa phúc, hậu xa giới) mà mở lối thành công. Những lời này của Phan Bội Châu nên được xem như là những lời phản tính và nhắn nhủ chân thành của một nhà đại hào kiệt "có lòng thương nước" nhưng vô tình đã "không biết cái đạo thương nước". Bình luận về Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã có những nhận xét sắc bén và thẳng thừng như sau: "Ông Phan Bội Châu tư chất thông minh, chí khí rất to lớn, sớm có quan niệm quốc gia. Trong thời đại nước Việt Nam chuộng khoa cử, ông cũng là người có học thức lầm lạc (mậu vọng) những dụng công rất nhiều, lòng tự tin mãnh liệt, cho nên những ưu và khuyết điểm cùng tập quán của dân tộc Việt Nam đều ăn sâu vào não tủy ông ta. Cho nên có thể cho ông là người xứng đáng đại biểu cho tập tánh của người Việt Nam." Hoặc giả: "Ông là người lịch sử dân tộc trên hai ngàn năm, nào ưu điểm, nhược điểm đã hun đúc thành con người đó" [14].
Nền độc lập mà Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cùng các sĩ phu khác vào đầu thế kỷ hằng mơ ước ngày nay đã về trong tay người Việt. Nhưng vấn đề dân chủ, dân trí, dân sinh mà Phan Chu Trinh hằng nhắc nhở từ đầu thế kỷ vẫn là những vấn đề hiện thực nóng bỏng của đất nước sau chiến tranh. Thực tâm giải quyết những vấn đề này sẽ mang lại sinh khí cho dân tộc, đất nước nhờ đó sẽ được hồi sinh.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai nhân vật kiệt hiệt của đất nước, nhưng chỗ đứng của họ trong cuộc hành trình dân tộc trong 100 năm qua lại khác nhau như âm với dương. Mặc dầu chúng ta cần đánh giá vai trò thức tỉnh hồn nước và ý thức quốc gia quốc dân của Phan Bội Châu, nhưng đồng thời cần nhận thức rằng Sào Nam tiên sinh không phải là người đã đề xướng dân chủ, dân trí và dân sinh. Làm việc đó đã có tiếng nói hùng hồn của Phan Chu Trinh. Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây.
Tháng 8-1999
Tham khảo:
[1] "Tự phán" (TP, tức Phan Bội Châu niên biểu) (Huế: Nhà xuất bản Anh Minh, 1956), trang 27. Khi trích dẫn từ sách này, chúng tôi đã tham khảo nguyên văn chữ Hán và đôi khi đã sửa đổi vài chỗ trong bản dịch quốc ngữ cho sát với nguyên văn và nghe thuận tai hơn.
[2] Xem Nguyễn Q. Thắng, "Huỳnh Thúc Kháng - Con người và thơ văn" (Sàigòn: Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách văn hóa, 1972), trang 278
[3] Đặng Thai Mai, "Văn thơ Phan Bội Châu" (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, 1967), trang 105.
[4] Xem "Việt Nam quốc sử khảo", trong "Những tác phẩm của Phan Bội Châu" (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1982), trang 223-237.
[5] Như trên, trang 217
[6] Xem Kawamoto Kunie, "Etsunanjin no ketsuda" (Quyết đoán của người Việt), trong cuốn "Kanji minzoku ketsudan" (Quyết đoán của những dân tộc dùng chữ Hán) do Hashimoto Mantaro, Suzuki Takao và Yamada Hisamu biên soạn. (Tokyo: Taishukan Shoten, 1987), trang 481.
[7] Về các tư liệu trích trong phần này, xem "Tự phán", trang 146-154.
[8] "Tự phán", trang 150.
[9] NTT, trang 51
[10] "Tự phán", trang 53
[11] Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, "Thi tù tùng thoại" (Sàigòn: Nam Cường, 1951), trang 105.
[12] Xem Nguyễn Văn Xuân, "Phong trào Duy Tân" (Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995), trang 107.
[13] Phan Chu Trinh, "Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam" (Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp), bản dịch của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Văn Tường, trong Nguyễn Q. Thắng, "Phan Chu Trinh - Cuộc đời và tác phẩm" (TP Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1987), trang 252.
[14] Như trên, trang 251-254.
Liên quan:
Chuyện ít biết về nơi an nghỉ cụ Phan Châu Trinh(23/03)
Phan Châu Trinh hay Phan Chu Trinh?(23/03)
Thư thất điều gởi vua Khải Định(27/10)
Phan Châu Trinh: từ ý thức hệ phong kiến đến dân chủ tư sản(01/07)
Hội chứng "ít chịu học hỏi" tự mình mê mình ở người Việt (10/05)