Vượt qua Việt
📧   ||  A  A  A  A 
Nước Việt Mới
Dân chủ, Phát triển & Hiện đại nhằm theo kịp đà Tiến hóa của loài người

Nước Việt và di sản (1)

Đọc báo mạng

Bài mới hơn Mục lục Trang chính

2 tháng 5 2021 - BBC

Dân tộc Việt Nam 'còn đang ở tuổi thiếu niên chờ trưởng thành'

Getty Images. Một lễ khai giảng năm học mới ở Hà Nội - hình minh họa

Năm 1916 Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết bài thơ ngắn "Bính Thìn Xuân Cảm," trong đó có hai câu lừng danh:

"Dân hai lăm triệu ai người lớn. Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con"

Hơn 100 năm sau, cho đến ngày hôm nay, 2021, nhìn vào con người, chính thể và văn hóa Việt Nam tổng quan, chúng ta nên tự vấn, Nước và Dân ta đã hết trẻ con chưa?

Theo tôi, câu trả lời là Chưa.

Dân ta, như là một khối nhân loại trên trường tiến hóa tâm thức, vẫn còn mang nặng bản chất trẻ con. Dù có trưởng thành lên chút ít, nhưng tựu chung thì Việt Nam vẫn còn đang ở trong giai thời thiếu niên, và chưa thực sự trưởng thành.

Từ bản sắc Sử tính sợ hãi 'the unknown'

Từ trong chiều dài Sử tính Việt, mặc cảm tự ty của một tâm thức nô lệ của dân tộc nầy đã biến hóa ra thành nhiều dạng thức mà bản chất vẫn là phủ định, tiêu cực. Lòng hận thù và sợ hãi ngoại bang là động cơ chính cho lòng yêu nước, rồi thành chủ nghĩa yêu nước, thứ dừng lại ở ý thức hệ quốc gia - rồi trở thành một tôn giáo, một giáo điều. Những lễ lạt 'về cội nguồn' ngày càng rầm rộ gần đây là một bằng chứng.

Tổ quốc trở thành thần linh - một sự hình thành ý thức dân tộc gần giống như là của dân Do Thái khi họ tự coi nòi giống họ, đất nước họ, là con và của riêng của Chúa Trời.

Có hai hình thái chủ nhân, masters, của dân Việt vốn phát xuất từ tâm thức nô lệ. Về địa lý chính trị thì ông chủ là Trung Hoa; về sinh mệnh và biến cố thì chủ thể là số Trời. Tinh hoa Sử tính Việt là của một năng ý phủ định và vươn thoát hai ông chủ khắc nghiệt đó nhằm kiến tạo cho chính mình một Sử Mệnh mới.

Qua chiều dài Sử tính khắc nghiệt đó, và vì mang tâm thức thuần phủ định trong lòng yêu nước - đối với ngoại bang - Sử tính Việt thiếu hẳn đi một năng ý tích cực và tự tin cần thiết.

Tính tích cực nội tại vốn đòi hỏi mỗi con dân Việt phải tự mình chuyển hóa chính mình, đứng dậy mà trưởng thành và lớn lao lên trên cơ bản cá nhân - để từ đó xây dựng quốc gia trên nền tảng định chế đại thể và giá trị nội tại cho nhu cầu bảo vệ tổ quốc đồng thời đưa đất nước lên đến một tầm mức tiến hoá cao hơn theo nhịp trống thời đại.

Sự khiếm khuyết của một bản sắc tích cực trong năng thức Việt đã tạo ra một lịch sử hiện thân cho khuyết điểm này. Điều nặng nề là tâm ý Việt vừa sợ và vừa thần phục Trung Hoa - và sau này cũng như thế đối với Pháp và các cường quốc Âu Mỹ. Ta luôn đối đãi với Trung Quốc và Âu Mỹ với một tâm thức nô lệ - vừa tự ty mặc cảm đồng thời hãnh diện bất khuất, vừa thần phục nhưng ghét bỏ.

Từ mặc cảm tự ty và bất an, cái Ta của người Việt, khi đặt trước Văn minh Trung Hoa, nhìn ra đại dương ta thấy nó là một giới hạn. Trong khi đó, người Tây Âu cũng nhìn ra đại dương và đã thấy nó là cơ hội. Vì cái Ta dân tộc nầy, nước nhược tiểu, chưa bao giờ có khả năng lớn mạnh đủ để thử thách cơn sóng lớn của biển khơi, để đứng ngang hàng với các cường quốc khác.

Cũng đã có vài lần trong chiến sử, các hạm đội của hải quân Việt Nam đã chứng tỏ một sức mạnh ấn tượng - như thời Nguyễn Ánh - nhưng tất cả cũng chỉ vừa đủ cho nhu cầu chiến tranh ngắn hạn, chứ chưa hề là hiện thân cho một ý chí thử thách đại dương và làm chủ lãnh hải.

Cho đến sau 1975, từ cao trào vượt biển tỵ nạn thì lần đầu dân Việt mới ít nhiều vượt qua tâm lý sợ hãi và tiêu cực đối với đại dương. Nhưng nên nhớ rằng, phần lớn người Việt vượt biển lúc đó đã biết hành trình sẽ đến nơi nào - chứ không như người Tây Âu nhiều thế kỷ trước, khi lên tàu bước ra khơi họ - dân TâyBan Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan...đã không biết là đại dương như thế nào và sẽ đi về đâu. Thử thách cái không biết đến, the unknown, vẫn là sức mạnh của người Tây Âu. Cho ý chí và tinh thần thử thách tương lai thì dân Việt vẫn còn yếu kém.

Thiếu sáng tạo và lười biếng về tư duy

Tiếp theo, từ trong tâm thức tiêu cực và chấp nhận, văn hóa Việt gần như hoàn toàn là một văn hóa trích mượn - a derivative culture. Nó thể hiện tâm chất bất an và thiếu tự tin. Do đó, họ vừa cực đoan và vừa nhu nhược. Như tôi thấy trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rất nhiều vụ việc hễ người khác xúc phạm người Việt thì chúng ta phản ứng mạnh mẽ cao độ. Nhưng chỉ cần một thế hệ, hầu hết con cháu ta đã từ bỏ, hoặc không màng gì đến những bản sắc văn hóa Việt.

Dân Việt nói chung rất thiếu tự tin về nguồn gốc dân tộc mình. Không như dân Ấn Độ hay gốc Hoa ở Mỹ đến mấy thế hệ vẫn còn sử dụng một cách tốt và hãnh diện ngôn ngữ, y phục, phong hóa tập thể trong cộng đồng họ. Trong khi đó, chỉ cần hai thập niên thì người Việt gần như từ bỏ hết bản sắc gốc gác của họ. Từ ngôn ngữ, cách đặt tên cho con, từ cách nhuộm tóc hoe vàng cho đến cung cách văn hóa tập thể, cái Ta của người Việt ở hải ngoại là hiện thân của hai mặt tiêu cực từ một tâm thức bất an và nô lệ đó. Tất cả đều có nguồn gốc từ Sử tính Việt như đã trình bày ở trên.

Hãy nhìn vào thế giới tri thức. Người cầm bút Việt Nam hầu như chỉ có làm được ba chuyện: làm thơ, viết truyện ngắn, và dịch thuật sách ngoại ngữ. Ngay cả về văn chương, văn sĩ Việt vẫn không có khả năng viết chuyện dài, hay trường thiên tiểu thuyết. Trí thức Việt không có ý chí đại thể lớn lao về năng lực tri thức. Họ không có đủ tự tin - dù rất có thể là về khả năng thì họ có đủ - để sáng tạo lý thuyết, triết học cho mình.

Báo Giáo dục & Thời đại. Bệnh bằng cấp dẫn tới nạn thi cử và gian lận thi: Họp báo về 'kết quả thi bất thường' tại tỉnh Hà Giang hồi năm 2018

Hơn nữa, trí thức Việt mang bệnh lười biếng suy nghĩ sáng tạo. Họ nỗ lực cao độ - nhưng phải dựa vào một nội dung có sẵn. Vì vậy, họ chỉ thích dịch sách mà thôi. Vì công việc phiên dịch, chuyển ngữ, họ không cần suy nghĩ về khái niệm, về ý tưởng, về cấu trúc bố cục cho sách. Họ ưa tranh luận về câu văn, cụm từ nào đó có dịch cho đúng với ý nghĩa theo văn bản tiếng ngoại quốc hay không. Họ không bàn đến ý nghĩa của khái niệm hay lý thuyết. Họ chỉ muốn tranh cãi về những tiểu tiết - the trivial facts - vốn chỉ là vay mượn.

Hoang tưởng văn hóa và giấc mơ cường quốc...buôn đất

Tâm ý Việt mang nội dung bất an của một dân tộc, vừa hãnh tiến nhưng đồng thời cũng không đủ tự tin về văn hóa của mình. Từ đó, vì thiếu chiều dày tích lũy giá trị của một nền văn minh có chiều sâu, trí thức Việt mang ý chí huyền thoại hóa lịch sử dân tộc và sáng tác ra những câu chuyện văn hóa Việt cổ đại huyễn hoặc để tự phong cho dân Việt là tác giả của những nguồn mạch văn hóa lớn - chứ không phải của Trung quốc.

Hai vị trí thức đáng kính gần đây, Kim Định và Lê Mạnh Thát, là biểu trưng cho năng ý huyền thoại hóa văn hóa Việt nầy.

Về chính trị địa lý thì giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay, than ôi, vẫn mang điều hoang tưởng về khả thể cường quốc - một "tiểu Trung Hoa" theo mô hình xã hội chủ nghĩa mơ hồ, 'vì lý tưởng XHCN' bền hơn ở quê hương của nó. Họ thực ra bị chi phối bởi tầm nhìn ngắn hạn và thực dụng.

Sự loay hoay giữ hoang tưởng vĩ cuồng cho quốc gia trung thành với ý thức hệ Marx-Lenin đã bị châu Âu đào thải đang gây mâu thuẫn trầm trọng với khả năng kinh tế và chính trị của thể chế cũng như của giới doanh nhân Việt.

Hãy nhìn đến nguồn gốc của sự giàu có của giới đại gia Việt - hầu hết, gần như tuyệt đối, là nhờ kinh doanh bất động sản.

Hãy thử đi ngang qua những khu chung cư cao tầng ở Hà Nội hay Sài Gòn, ta sẽ thấy một quang cảnh phát triển phố thị vô lý - và nhất là phản cảm, thiếu thẩm mỹ. Từ đường Nguyễn Hữu Cảnh ở Sài Gòn, khi nhìn vào khu chung cư cao tầng Central Park, ta sẽ rùng mình bởi một cảnh tượng xây cất mang sắc thái hiếp đáp hồn người. Quang cảnh phố thị với những nhà cao tầng thiếu thẩm mỹ đã triệt tiêu cái đẹp của tâm hồn người phố thị.

Ở Sài Gòn hiện nay, hầu hết các dự án căn hộ cao cấp đều dành cho giới siêu giàu để họ đầu cơ với chính sách thuế khóa vô lý, phản tiến bộ - trong khi giới trung lưu (tương lai của dân chủ) và nghèo khó đang đối mặt với khủng hoảng gia cư trầm trọng.

Mặc cảm quốc tế và nhu cầu trưởng thành

Vậy hôm nay chúng ta đang ở đâu trên Trái Đất này?

Nhìn lại, ý chí Sử tính quốc gia trước Trung Hoa, và sau là đứng trước Âu Mỹ, hệ thống chính trị Việt Nam muốn được coi trọng và công nhận một cách chính thức, nhưng thiếu dũng cảm để tạo vị thế mà không cầu xin.

Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng Hán, Nguyên, Minh, Thanh các vua chúa Việt Nam phải cử sứ thần sang Trung Hoa để triều cống và xin được phong vương vị.

Về chiến thuật, dĩ nhiên, đó là công việc ngoại giao mềm mỏng, ổn định quan hệ quốc tế với đại cường để phục hồi và xây dựng sau chiến tranh.

Nguyễn Trãi là một trường hợp điển hình. Dù là tác giả của Bình Ngô Đại Cáo oai phong, tuyệt vời cả về văn ngữ lẫn tinh thần nội dung, nhưng khi đọc Trung Quân Từ Mệnh Tập mà Nguyễn Trãi đã viết thay mặt Lê Lợi gởi cho nhà Minh, chúng ta cũng không khỏi ngậm ngùi cảm nhận được cái nhục nhã, cái thái độ khom mình cúi đầu thần phục đối với phương Bắc. Thế nhưng dần dần chiến thuật nhún nhường cần thiết với nghi thức phong kiến và ngôn ngữ của kẻ yếu đã trở nên một bản chất cá tính của tầng lớp chính trị Việt.

Bản sắc cá tánh muốn được công nhận ảo này còn thành 'yếu tố di truyền' trong văn hóa bằng cấp, học hàm , học vị của người Việt. Với truyền thống thi đỗ thì được làm quan để cho cả họ được nhờ, học vị khoa bảng đã trở thành chìa khóa cho thực tại tiến thân trong xã hội - cũng như cho tâm ý được coi trọng và công nhận giá trị nhân bản bởi tha nhân và đại thể khách quan.

Ta chỉ là một công dân khi được có bằng cấp, hay chức vị trong triều đình. Ta chỉ hiện hữu khi Ta được công nhận bởi tha nhân. Từ đó, cái Ta được định hình bằng cái không-Ta, mà bản chất là một biện chứng tiêu cực có gốc rễ từ một tâm ý nô lệ. Bệnh cầu cạnh khoa bảng danh vọng còn đang rất thịnh hành trong xã hội Việt Nam hiện nay.

Vì sao cần được công nhận? Vì mang tâm thức học trò, muốn được khen.

Bạn hãy suy nghẫm về kinh nghiệm bản thân khi tiếp xúc, giao tiếp, làm ăn, sinh hoạt với người Việt ta. Không ít người lớn tuổi, bằng cấp học vị, học hàm, chức vụ, nghề nghiệp, kể cả giới tu sĩ các tôn giáo hay lãnh đạo chính trị, nhà nước, trong hay ngoài nước, vẫn mang tính tình niên thiếu.

Nếu có dịp giao tiếp, làm việc với người Âu Mỹ bạn sẽ thấy rằng họ - người phương Tây - chững chạc, trưởng thành, có chính kiến hơn chúng ta nhiều, kể cả khi họ không có bằng cấp cao, hay khi còn rất trẻ tuổi. Dĩ nhiên là cũng có những thành phần quần chúng lao động Mỹ chẳng hạn vẫn còn mang nặng tính tình trẻ con. Thế nhưng tôi dám nói rằng nhìn tổng thể, đại đa số dân Việt khắp thế giới, vẫn là một tập thể chưa chín chắn, rất bồng bột, hơi ngây thơ và nhiều hoang tưởng.

Nhìn vào các cộng đồng mạng xã hội mấy năm nay ta thấy cái tệ hại của sự thiếu trưởng thành và tính trẻ con thích cãi lộn. Có người đã nhận xét rằng hãy lên Facebook để thấy cái bản mặt xấu xí của dân Việt - the truly ugly side of Vietnameseness - với tính tình nặng chất trẻ con của họ là như thế nào.

Từ đó, người Việt, tuy là trẻ con - và cũng vì thế - không thể ngồi chung, làm việc với nhau trên bình diện dân sự. Nguyên do chính là vì dân ta thiếu vắng văn hóa cộng đồng. Người Việt không thể thành lập hội đoàn dân sự vững mạnh, lâu dài, uy tín. Hầu hết các tổ chức tự nguyện người Việt khắp thế giới đều tự tan rã vì không ai chịu ai.

FB Minh Son. Tranh cổ động cố tạo ra hình ảnh toàn XH VN đi theo Đảng CS theo vă hóa tập thể một cách vui mừng, hớn hở nên phi thực

Hệ quả là đến nay, nền văn hóa tập thể của Đảng Cộng Sản Việt Nam - ít nhất là trong nước - hình như là câu trả lời đương nhiên cho sự khiếm khuyết của chất keo văn hóa dân sự và công dân Việt.

Điều cần thiết, theo thiển ý của tôi, là dân Việt ta, nhất là giới trí thức, nay nên tự vấn, nhìn lại chính mình, để can đảm nhận ra những khiếm khuyết - cả về tri thức lẫn tính tình - nhằm tu sửa trên cả bình diện cá nhân lẫn văn hóa, lề lối giao tiếp xã hội.

Nếu không, chẳng lẽ hơn trăm năm sau, nay ta lại phải ngâm tiếp bài thơ đó của Tản Đà, "Cám cảnh khói cây mờ mịt biển. Lo đời sương tuyết bạc đầu non"?

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của luật sư, tiến sĩ triết học Nguyễn Hữu Liêm từ San Jose, California. Trong số các sách của ông đã có cuốn 'Thời tính, Hữu thể và Ý chí: Một luận đề siêu hình học" được xuất bản ở Việt Nam năm 2018.

Bài cùng tác giả:

Đầu trang

17/04/2021 - luatkhoa

Giáo dục Nam – Bắc Việt Nam

Một chuyến hành trình khám phá nền giáo dục của hai đất nước Việt Nam, thời kỳ 1955 – 1975.

17/04/2021 - By HUỲNH CÔNG ĐƯƠNG

Giáo dục Nam – Bắc Việt Nam – Kỳ 1: Nền tảng và khác biệt

Ảnh trái: Một lớp học chính trị tại miền Bắc năm 1958. Ảnh phải: Một lớp học của sinh viên y khoa ở miền Nam trước 1975. Nguồn: hochiminh.vn, LIFE. Đồ họa: Luật Khoa.

Từ năm 1955 đến 1975, hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH – Bắc Việt Nam) và Việt Nam Cộng hòa (VNCH – Nam Việt Nam) song song nắm quyền trên dải đất hình chữ S.

Hai quốc gia này được quốc tế công nhận tồn tại độc lập, với những đặc trưng riêng biệt. Từ kinh tế, chính trị, tôn giáo, đến đời sống văn hóa và tinh thần, hai miền Nam – Bắc Việt Nam lúc ấy đều khác xa nhau. Giáo dục cũng là một trong hằng hà sa số những điểm khác nhau ấy.

Suy nghĩ của người dân Việt Nam trong và ngoài nước về sự khác biệt giữa giáo dục của Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam dường như đã trở thành quán tính, với rất ít thông tin, nhưng vô vàn định kiến.

Nhìn chung, chưa cần phải bàn gì đến tốt hay xấu, đa phần bạn đọc có lẽ cũng mường tượng ra được một hệ thống giáo dục thống nhất và có mục tiêu chính trị tại miền Bắc Việt Nam. Trường học là không gian để nuôi dưỡng và vận động những công dân mới khao khát xây dựng chủ nghĩa xã hội, những người sẵn sàng sống và hy sinh vì lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam.

Các nhà giáo dục miền Bắc được giao trách nhiệm thống nhất từ tư tưởng đến hành vi của học sinh, những người sẽ tuân thủ chương trình nghị sự cách mạng và mọi mục tiêu kinh tế ngắn hạn, dài hạn mà chủ nghĩa xã hội giao phó, cùng với đó là tinh thần quốc tế vô sản nồng thắm.

Tại miền Nam Việt Nam, hệ thống giáo dục phân mảnh hơn, lộn xộn hơn, song cũng nhờ đó mà tự do và phi chính trị hơn.

Các nhà giáo dục miền Nam Việt Nam ủng hộ một mô hình giáo dục đa dạng nhằm phản ánh sự khác biệt của các bộ phận dân cư. Họ thường nhắm vào việc xây dựng một danh tính công dân Việt Nam với những văn hóa và bản sắc đặc trưng, trong khi né tránh việc giới thiệu những luồng tư tưởng có phần quá Tây hóa, kể cả chủ nghĩa cộng sản.

Điều này nghe có vẻ đại đồng và hòa hợp, nhưng nó lại tạo nên một bức màn ngăn cách lớn giữa các cộng đồng, sự phát triển không đồng điệu trong giáo dục, dẫn đến việc thực hiện các chương trình quốc gia có phần lạc nhịp.

Song, những thông tin trên chỉ là lớp váng phủ mờ trên những khác biệt (và đồng nhất) giữa hai hệ thống giáo dục, mà bài viết dưới đây mong muốn đào sâu hơn. Nội dung trong bài sẽ điểm qua từ chương trình giảng dạy, ngôn ngữ, năng lực khoa học cho đến tâm tư và lý trí của những người tham gia vào hai hệ thống giáo dục.

Luật Khoa đăng bài viết thành hai kỳ. Trong kỳ đầu tiên, mời độc giả cùng quay lại điểm khởi đầu của hệ thống giáo dục hai miền: giáo dục thời Pháp thuộc.

***

Nước Pháp, nước Pháp

Điểm khởi đầu của cả hai nền sư phạm là sự kết thúc của hệ thống giáo dục – đào tạo thuộc địa của người Pháp. Thực tế cho đến nay, hệ thống này tốt xấu ra sao vẫn còn là một điều đáng tranh cãi. Dù thế nào, chúng ta cũng sẽ cần điểm qua một số dấu ấn quan trọng mà hệ thống đó để lại cho giáo dục cả hai miền.

Triển lãm Giáo dục Pháp vào tháng 9 năm 1942 tại Sài Gòn (La Foire Exposition) có lẽ phản ánh đầy đủ niềm tự hào mà những nhà đào tạo Pháp đã “dày công vun đắp” ở xứ Đông Dương, đặc biệt là tại Việt Nam.

Ảnh lưu niệm cuộc triển lãm tại Sài Gòn năm 1942. Nguồn: Flickr/Manhhai.

Ở ngay cổng chào của triển lãm là bức phù điêu tiếng Pháp khắc chữ “Instruction – Ignorance” (Chỉ dẫn – Vô minh), ngụ ý con người được thừa hưởng sự thiếu hiểu biết, và chỉ có giáo dục mới giúp con người thoát khỏi sự mông muội.

Ngay cạnh đó là bức tượng bán thân của Philippe Pétain (còn được gọi là Marshall Pétain), người đứng đầu chính phủ Vichy của Pháp – do quân Đức Quốc xã dựng nên, thời điểm đó đang kiểm soát toàn bộ nước Pháp. Bên dưới là dòng chữ sơn son “La France educatrice” (Giáo dục Pháp).

Điểm tham quan đầu tiên là tượng của Alexandre de Rhodes, một thành viên của nhóm truyền giáo thuộc lãnh thổ Pháp. Ông là một trong những người đầu tiên sáng tạo ra chữ viết tiếng Việt bằng chữ cái Latin và Bồ Đào Nha, với mục đích đơn giản hóa ngôn ngữ nói tiếng Việt theo cách mà các nhà truyền giáo có thể hiểu.

Những dòng chú thích ca ngợi sự tiện ích của hệ thống chữ cái tiếng Việt (giờ đã mang tên Quốc ngữ) khi so sánh với các loại chữ tượng hình đến từ Trung Hoa phương Bắc; vai trò quan trọng của chính quyền thuộc địa trong những nỗ lực phổ biến tiếng Việt và giảm tình trạng mù chữ; giới thiệu đến dân chúng hệ thống kiến thức y – sinh, vật lý, chính trị – pháp luật của xã hội hiện đại.

Sẽ có người cho rằng người Pháp đang vẽ vời quá lên công lao của mình, nhưng nó không hẳn là sai. Dù người Việt Nam thường tự nhận mình là một dân tộc hiếu học và chăm chăm vào khoa bảng; các con số lại kể nên một câu chuyện rất khác.

Theo thống kê của tài liệu Making Two Vietnams của Cambridge Core, con số tham gia các kỳ thi Hội – kỳ thi phổ biến và quan trọng nhất để chọn ra quan chức của triều đình phong kiến Việt Nam tổ chức ba năm một lần – chỉ từ năm ngàn đến sáu ngàn người một đợt (tính đến khoảng cuối thế kỷ 17). Số lượng người biết chữ đến mức thông thạo tiếng Hán, tiếng Nôm, có thể tự mình tham gia vào các hoạt động hành chính, dân sự thông thường, do đó cũng không nhiều hơn con số này là bao nhiêu.

Ngược lại, chỉ tính vào năm 1940, hệ thống giáo dục thuộc địa đã thành công trong việc đưa 576.650 học sinh nhập học vào các cấp bậc học khác nhau, và việc áp dụng chữ Quốc ngữ giúp giảm thiểu tối đa thời gian cần thiết để xóa mù chữ.

Một trường tiểu học ở Gia Lâm, Bắc Ninh, thời Pháp thuộc. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1.

Điều này hiển nhiên không làm giảm đi định hướng chính trị của các lực lượng nhận thấy sự tiện lợi của chữ Quốc ngữ.

Người Pháp cho rằng học tiếng Việt dựa vào hệ thống chữ Latin sẽ cắt bỏ đường nối văn hóa, kiến thức và di sản của thế hệ trẻ Việt Nam, vốn chỉ có thể hiểu văn thơ và sử sách ông cha nếu biết tiếng Hán. Theo họ, chủ nghĩa dân tộc và tinh thần yêu nước – phục quốc có thể được loại bỏ từ đó.

Nhưng ngược lại, các nhóm trí thức dân tộc chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Đông Dương lại nhận thấy cơ hội lan truyền thông tin, tư tưởng chống thực dân dễ dàng hơn nếu họ tiếp thu và phổ biến chữ Quốc ngữ. Trường học, vì vậy, dù đều tiếp nhận chữ Quốc ngữ ban đầu do người Pháp phổ biến và hoàn thiện, lại trở thành chiến trường cho các hoạt động tranh giành ảnh hưởng chính trị của các phe phái.

Một đặc điểm khác cũng cần được lưu ý là người Pháp không để lại một di sản giáo dục có cấu trúc và tổ chức hoàn toàn thống nhất.

Có nhiều cách lý giải về vấn đề này. Nhiều người cho rằng cơ chế giáo dục “chia để trị” giữa Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ là chủ đích mà thực dân Pháp hướng đến. Số khác lại nói nó phản ánh đúng sự khác biệt về văn hóa, tập quán và truyền thống giáo dục các khu vực, vùng miền đất nước.

Theo ghi nhận của quyển Cultural Identity and Educational Policy in Colonial Vietnam (Danh tính văn hóa và Chính sách giáo dục tại Việt Nam thuộc địa), vào năm 1917, Toàn quyền Đông Dương – Tướng Albert Sarraut – đã từng cố gắng tập trung và đồng bộ hóa hệ thống giáo dục tại Việt Nam theo khuôn mẫu của hệ thống mà họ đã xây dựng một cách tương đối hoàn chỉnh tại miền Nam Việt Nam, thường gọi là các trường Pháp – Việt (Franco – Vietnamese schools).

Một lớp học ở Sài Gòn dưới thời Pháp thuộc. Ảnh: Memories of Vietnam.

Nỗ lực này gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của giới trí thức Bắc Kỳ và Trung Kỳ, từ đó nhanh chóng biến thành một cuộc khủng hoảng chính trị – xã hội. Kể từ năm 1926, ngoại trừ một hệ thống trường học công lập tương đối quy chuẩn và thống nhất do người Pháp quản lý tại miền Nam Việt Nam, các khu vực còn lại do hệ thống giáo dục tư nhân chiếm đa số, dù phong phú nhưng rất dễ bị “bật rễ”.

Như vậy, với những phân tích trên, có thể tóm tắt nền tảng của hệ thống giáo dục sư phạm mà người Pháp để lại ở Việt Nam theo những điểm đáng chú ý như sau:

1. Thống nhất được việc sử dụng chữ Quốc ngữ là chữ viết chủ yếu dùng cho hoạt động đào tạo; đồng thời cũng chuẩn bị sẵn một lực lượng trí thức, giáo viên, nhà giáo dục quen thuộc với tư duy và phương pháp giảng dạy, phổ biến chữ Quốc ngữ.

2. Hệ thống đào tạo, tuy nhiên, lại không được thống nhất. Chỉ có miền Nam Việt Nam duy trì được mô hình trường công theo tiêu chuẩn Pháp, trong khi ở miền Bắc thì có sự kết hợp giữa trường công và trường tư, với các trường tư chiếm đa số.

3. Do từng là chiến trường của việc tranh giành ảnh hưởng chính trị, hệ thống đào tạo công lập mà người Pháp xây dựng có xu hướng thúc đẩy tư duy “thách thức thẩm quyền”, dù họ không có chủ đích làm điều này. Từ thẩm quyền của hệ thống phong kiến thủ cựu cho đến thẩm quyền của hệ thống chính trị bản địa nói chung đều bị các sản phẩm của hệ thống giáo dục này thách thức.

Cơ cấu tổ chức, quản lý giáo dục: Sự khác biệt của ý thức hệ 

Các nền tảng trên nhanh chóng biểu hiện vai trò của nó sau năm 1954.

Đối với Bắc Việt Nam, sau khi chính quyền Hồ Chí Minh tiếp quản Hà Nội, tất cả các trường tư thục ngoài vĩ tuyến 17 bị giải tán. Trong khi đó, các trường công lập thì lại lác đác, thiếu gắn kết. Hệ thống này không có gốc rễ chặt chẽ như tại miền Nam Việt Nam, như chúng ta đã kết luận ở trên, nên mô hình giáo dục dành cho sinh viên, học sinh không còn lựa chọn nào khác là đi theo con đường do chính phủ định sẵn, đúng với tư duy quản lý tập trung của một nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Tháng 3 năm 1956, chương trình cải cách giáo dục của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức có hiệu lực qua Nghị định 56/ND, với cấu trúc đào tạo 10 năm liên tục dành cho chương trình giáo dục phổ thông sao chép tương tự như của Liên Xô. Trẻ em bắt đầu nhập học từ độ tuổi 6 hoặc 7 vào lớp 1, trong khi lớp 10 cao nhất có thể nhận thanh niên từ 16 đến 20 tuổi.

Sách Học vần tập 2, xuất bản ở miền Bắc năm 1973. Ảnh: VTC News.

Không chỉ vậy, hệ thống đào tạo “vùng cao” (Schools for Pupils of the Highlands) cũng được đặc biệt quan tâm. Theo báo cáo trực tiếp của VNDCCH, trong giai đoạn từ năm 1960 đến 1964 (trước khi chiến tranh Việt Nam chính thức bùng nổ), đã có đến 300.000 học sinh nhập học. Song trên thực tế, sự việc không đơn giản như vậy.

Ngoại trừ Tày, Nùng, Mường và một số dân tộc thiểu số khác có đóng góp tích cực vào Chiến tranh Đông Dương lần thứ Nhất (tức kháng chiến chống Pháp) và tin tưởng Việt Minh, các nhóm dân tộc thiểu số lớn như Thái và Mèo (hay H’mông) đều thù địch với nhóm lãnh đạo người Kinh này.

Theo ghi nhận của giáo sư Ken Post trong nghiên cứu Revolution, Socialism and Nationalism in Vietnam (Cách mạng, Xã hội chủ nghĩa và Dân tộc chủ nghĩa tại Việt Nam), người Thái và người Mèo đứng cùng chiến tuyến với người Pháp và từng được vũ trang để chống lại Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương. Hai nhóm này vốn đã sẵn có thái độ thù địch truyền kiếp với người Kinh.

Mối quan hệ “cơm lạnh, canh nhạt” này được cụ thể hóa khi chính quyền Bắc Việt Nam thực thi Cải cách ruộng đất 1953 – 1954, can thiệp vào các vùng đất truyền thống của bộ tộc Mèo, trong khi đất đai lại được chia cho cán bộ đảng và người Kinh di cư vào các vùng đất mà người Mèo đang sinh sống (một trong số đó là vùng Tây Thanh Hóa). Căng thẳng đôi khi dẫn đến xung đột vũ trang lại tạo điều kiện cho chính quyền Bắc Việt đàn áp triệt để các xu hướng đòi tự trị, đòi đất của người Mèo, và áp đặt thành công hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa lên các nhóm dân tộc thiểu số chống đối.

Cách làm này không khác mấy với cách mà Liên Xô tiếp cận tính đa dạng cộng đồng trong vấn đề giáo dục – đào tạo: Hệ thống giáo dục phải được quy chuẩn hóa, trải nghiệm lớp học và nội dung kiến thức giảng dạy phải được đồng nhất, và các nhóm dân tộc thiểu số phải được đào tạo chung để trở thành một phần thống nhất của toàn thể xã hội Việt Nam.

Hoàn toàn trái ngược với miền Bắc, hệ thống giáo dục của Việt Nam Cộng hòa – Nam Việt Nam tiếp tục duy trì hệ thống công mà người Pháp đã xây dựng; trong khi chấp nhận sự đa dạng rất lớn của các cộng đồng đang cùng tồn tại.

Hệ thống trường công tiếp nhận từ người Pháp thì tương đối phức tạp. Nó không chỉ có hệ thống trường phổ thông công lập bình thường, mà còn có các trường kỹ thuật, trường đào tạo chăn nuôi – trồng trọt, và thậm chí trường dành riêng cho con em thương – bệnh binh.

Riêng hệ thống trường tư thì phản ánh gần như đầy đủ sự đa dạng của xã hội miền Nam Việt Nam với các trường tư của nhiều nhóm tôn giáo khác nhau gồm Công giáo, Phật giáo, Cao Đài và Hòa Hảo.

Viện Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn (1964-1975), thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ảnh: phaptue.org.

Các trường học đôi khi còn được thành lập dựa trên căn cứ sắc tộc và ngôn ngữ. Tại trung tâm Sài Gòn và các khu vực thành thị đông dân cư, riêng người Hoa thôi đã thành lập hơn 162 trường mẫu giáo và trường tiểu học (với 74 trường nằm tại khu Chợ Lớn). Các trường này có sự tự chủ lớn với quyền đào tạo Hoa văn rất thoải mái, nhiều cấp học sử dụng toàn bộ chương trình bằng tiếng Hoa. Hiển nhiên, chính phủ có quy định số lượng tiết học giảng dạy tiếng Việt song song tối thiểu mới có thể được lên các cấp học cao hơn.

Một số nhóm khác lại khó khăn hơn trong việc hình thành nên hệ thống đào tạo riêng của họ. Ở Tây Nguyên, các nỗ lực Việt hóa người Thượng đều vấp phải các phản ứng dữ dội. Vào năm 1964, chính quyền lâm thời VNCH (sau khi Ngô Đình Diệm bị ám sát) chấp thuận yêu cầu của các lãnh tụ người Thượng, cho phép hoạt động giảng dạy đọc, viết và các môn học cơ bản bằng tiếng Thượng.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Tiến sĩ Gerald C. Hickey hoàn thành cho RAND, một tổ chức nghiên cứu chính sách công, thành tựu của thỏa hiệp này không hẳn là quá khả quan khi chiến tranh Việt Nam leo thang ngay sau đó. Hoạt động của Việt Cộng ở Tây Nguyên ngày càng tăng mức độ bạo lực. Việc nghiên cứu, soạn thảo bộ sách giáo khoa theo tiếng Thượng vì vậy vẫn chưa đạt đến mức hoàn chỉnh như kỳ vọng.

Ngoài ra, các nhóm dân tộc khác như Chăm, người theo đạo Hồi, hay người Khmer ở phía Tây Đồng bằng sông Cửu Long cũng có những trường học tư riêng biệt, dù họ thường hòa nhập tương đối tốt vào cộng đồng người Kinh và hệ thống trường công lập.

Cho đến tận khi chiến tranh Việt Nam gần kết thúc vào khoảng những năm đầu của thập niên 70, chính quyền Việt Nam Cộng hòa gần như không can thiệp gì vào hệ thống trường tư. Hệ thống này cũng có những bước phát triển ấn tượng, từ 55 trường vào năm 1955 đến hơn 500 trường vào năm 1970.

Bìa sách giáo khoa môn Sử và Việt ngữ lớp tư, thời Việt Nam Cộng hòa. Ảnh: thuongmaitruongxua.vn.

Thứ duy nhất mà chính quyền VNCH kiểm soát vào thời điểm này là cấu trúc lớp và cấp bậc, vốn sử dụng lại của người Pháp. Cấp tiểu học bắt đầu với lớp năm (thấp nhất) và kết thúc ở lớp nhất (cuối cấp). Trung học thì được chia làm hai cấp cơ sở (từ đệ thất đến đệ tứ) và phổ thông (từ đệ tam đến đệ nhất). Hoàn tất chương trình, học sinh sẽ nhận được bằng tú tài, có giá trị khá cao và có thể bắt đầu đi xin việc ở nhiều công ty, xí nghiệp… nếu họ không muốn tiếp tục học lên chương trình đại học.

Sự tự do và tự chủ của hệ thống trường tại miền Nam Việt Nam mang đến một bầu không khí học thuật cởi mở và sáng tạo hơn rất nhiều so với miền Bắc, và cũng là lý do nhiều người ca ngợi nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa.

Song, người viết cho rằng hệ thống này xem thường tầm ảnh hưởng của giáo dục đến việc chuẩn bị cho xã hội thời chiến. Không chỉ vậy, việc tự do hóa những trường tư trong điều kiện tình hình chính trị xã hội còn chưa ổn định cũng khiến cho các vấn đề về thù hằn sắc tộc, thù hằn tôn giáo, hay thậm chí là thù hằn giữa một nhóm dân cư với chính phủ không được giải quyết một cách triệt để.

Từ năm 1964, khi chiến tranh Việt Nam bắt đầu leo thang, sự lộn xộn này trở thành điểm yếu chết người của chính trị miền Nam Việt Nam.

Giáo dục Nam – Bắc Việt Nam: Từ “thợ dạy” đến “tự do cá nhân” (Kỳ 2)

Các thợ dạy và nhiệm vụ chuyên chính

Với một mô hình quản lý đào tạo thống nhất và bắt buộc, chính quyền Bắc Việt Nam có nhiều cơ sở để kiểm soát và thao túng mục tiêu giáo dục đào tạo.

Ngay từ năm 1926, Hồ Chí Minh (lúc này dùng tên Lý Thụy) đã viết thư gửi cho Ủy ban Trung ương Đội Thiếu niên Tiền phong Lenin nói rằng rất nhiều trẻ em Việt Nam, khi được kể về Cách mạng Nga, về Lenin và về những dũng sĩ Lenin trẻ tuổi, đều ao ước được ăn cùng, ở cùng, học cùng và trở thành những dũng sĩ như vậy. Câu chuyện tám anh em họ Lý (được đặt lại theo họ Lý Thụy) trở thành những thành viên đầu tiên của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trên đất Liên Xô cũng từ đây mà ra.

Ý tưởng đào tạo ra những đứa trẻ trung thành với mục tiêu và tiếng gọi của cách mạng cộng sản được thể chế hóa nhanh chóng vào hệ thống giáo dục, với lý tưởng Marx – Lenin được cài cắm trực tiếp vào giáo trình đào tạo. Trường học được thừa nhận là công cụ để xây dựng xã hội chủ nghĩa, và nhiệm vụ của các giáo viên được ban hành rõ ràng.

Đăng ký tham gia Phong trào “Ba đảm nhiệm” (sau chuyển thành Phong trào Phụ nữ “Ba đảm đang”) tại trường cấp III Yên Hòa, Hà Nội. Ảnh: Tuổi Trẻ Thủ Đô.

Năm 1963, Lê Duẩn, lúc này đang là Tổng bí thư Đảng Lao Động Việt Nam, khẳng định trước các sinh viên và giáo sư của Đại học Sư phạm Hà Nội rằng giáo viên cũng giống như người thợ dạy, thợ chính trị. Công việc chính trị của họ ở đây là tuyên truyền để giáo dục công dân thực hiện cách mạng vô sản.

Năm học 1964 – 1965, Chỉ thị 39 của Bộ Giáo dục đưa ra mục tiêu cụ thể của giáo dục miền Bắc Việt Nam là tạo ra thế hệ phục vụ sản xuất và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1965, hệ thống giáo dục bắt buộc gắn liền với sản xuất và chiến đấu chống “Mỹ – Ngụy”.

Một hệ thống giáo dục phi chính trị

Trong khi đó, Miền Nam có một hệ thống trường tư thục đông đảo, có tính độc lập và các chương trình học đa dạng. Vì vậy, khác biệt hoàn toàn với miền Bắc, chính quyền Việt Nam Cộng hòa buộc phải xem giáo dục là một hoạt động phi chính trị.

Thực tế này bắt đầu từ năm 1955 cho đến tận những ngày cuối cùng của chế độ. Không một định hướng, một đường lối hay một nền tảng chính trị cụ thể nào được hệ thống giáo dục miền Nam Việt Nam bảo vệ hay nhấn mạnh, và phần lớn đều tin rằng mọi thứ nên như vậy.

Ngay cả khi chiến tranh leo thang và các hoạt động chiến sự đổ máu dần quen thuộc với các khu vực thành thị, nơi phần lớn các cơ sở giáo dục đào tạo quan trọng của hệ thống Việt Nam Cộng hòa tọa lạc, quan chức giáo dục vẫn không chịu thay đổi cách tiếp cận của mình. Các vấn đề liên quan đến đạo đức, nhân cách, phẩm hạnh công dân được đặt lên đầu tiên, trong khi tình hình chính trị căng thẳng và thực tiễn chiến tranh ở Việt Nam bị bỏ qua.

Trong các cuộc phỏng vấn thuộc nghiên cứu Making Two Vietnams đã được đề cập ở kỳ trước, một lượng lớn người tham gia hoạt động giáo dục trong giai đoạn này ở miền Nam Việt Nam thậm chí không biết Hồ Chí Minh là ai, chủ nghĩa cộng sản là gì và vì sao chiến tranh Việt Nam lại diễn ra. Điều này dẫn đến thực trạng là những nhóm dân cư này rất dễ chịu ảnh hưởng của các chương trình tuyên truyền của nhóm Việt Cộng và chính phủ Bắc Việt.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960. Ảnh: trithucvn.org.

Việc chấp thuận sự đa dạng văn hóa, ngôn ngữ và tư tưởng giáo dục ở miền Nam Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc chính quyền ở đây không thể chọn ra một tiếng nói chính trị hay triết lý giáo dục thống nhất nào, có thể khiến tất cả các cộng đồng Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo hay Cao Đài… vốn đã có những mâu thuẫn về kinh tế và chính trị trước đó, đạt được sự đồng thuận.

Trong khi nhóm Công giáo công khai thù địch chủ nghĩa cộng sản, phe Phật giáo và một số đạo giáo khác lại có cảm tình với chủ nghĩa này. Không thể đàn áp tự do tư tưởng cá nhân bằng cách đồng hóa xã hội, chính phủ Việt Nam Cộng hòa chọn con đường không định hướng hay can thiệp vào hệ thống giáo dục.

Một nền giáo dục để chiến đấu

Nói đến đây, có vẻ ai cũng mường tượng được nội dung chương trình học của hai chiến tuyến khác nhau đến như thế nào.

Chương trình đào tạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị chính trị hóa hết mức có thể, đến mức độ ngay từ cấp tiểu học các chương trình đã mang màu sắc phỉ báng và thù hận.

Trẻ em được giới thiệu về sự vượt trội của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản so với chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến.

Kế đó, trẻ được giảng dạy vì sao phải tôn thờ Hồ Chí Minh, vì sao phải kính yêu Đảng Cộng sản và đả phá những kẻ dám chống lại mục tiêu chính nghĩa của chủ nghĩa cộng sản.

Cá biệt hơn, những bài tập đọc, tập làm văn chỉ dành cho trẻ ở độ tuổi 5 đến 10 tuổi đều mang đầy tính kích động với ngôn ngữ bạo lực khó tả. Bạn đọc có lẽ đã từng nghe đến những tác phẩm như “Quân Mỹ – Diệm ăn thịt người”, “Chị du kích bụng mang dạ chửa tay không bắt giặc” hay “Trâu cũng giết giặc Mỹ lập công”… Đó đều là những tác phẩm tuyên truyền được sử dụng thường xuyên trong các sách giáo khoa thời kỳ này tại Bắc Việt.

Không chỉ vậy, để trở thành một người cộng sản chân chính, học sinh – sinh viên cũng được kỳ vọng phải tham gia vào các chương trình vừa học vừa làm do chính phủ sắp xếp.

Ví dụ, chỉ tại Phú Thọ, trong năm học 1964 – 1965, trẻ em và thanh thiếu niên đóng góp 32.717 ngày công lao động, bắt được 2.178 kilograms sâu bọ và 44.078 con chuột, thu thập 417.135 kilograms phân bón gia súc và 90.651 kilograms phân bón xanh, trồng 144.333 m2 ruộng lúa nước .v.v. Những chính sách này được giải thích khá rõ ràng trong mô hình “Học hay, cày giỏi” mà chính Hồ Chí Minh phát động.

Riêng bắt đầu từ năm 1965, các trường học được quân sự hóa cho hoạt động “chống Mỹ, cứu nước”.

Giáo viên và học sinh – sinh viên được yêu cầu phải chuẩn bị sẵn sàng cho mọi hoạt động quân sự nếu cần thiết.

Nhóm học sinh cấp hai được giao nhiệm vụ đào hầm tránh máy bay Mỹ. Ảnh: Báo Lâm Đồng.

Trẻ em từ lớp Ba đến lớp Bốn và các cấp trung học cơ sở thì tham gia sản xuất áo ngụy trang, chuẩn bị lương thực, nước uống cho bộ đội. 

Học sinh cuối cấp trung học cơ sở thì sẽ phải huấn luyện để hình thành các nhóm sơ cứu, nhóm liên lạc, nhóm vận chuyển, nhóm tuyên truyền và các nhóm giữ gìn vệ sinh công trường, doanh trại…

Các học sinh cấp trung học phổ thông thì được đào tạo sơ lược về sử dụng vũ khí quân sự, được giáo dục về tinh thần quả cảm, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc.

Người viết thừa nhận rằng bằng cách làm này, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tận dụng thành công một lực lượng lao động đáng kể (gồm cả trẻ em dưới tuổi) cho các hoạt động kinh tế – chính trị – quân sự, và biến trẻ em, học sinh, sinh viên thành một bộ phận không thể tách rời của hệ thống bộ máy nhà nước từ rất sớm.

Song, chính trị hóa một cách nhất quán toàn bộ hệ thống đào tạo cũng đồng nghĩa với việc “lòng trung thành với Đảng” được đánh giá cao hơn năng lực học thuật. Nó tạo ra các thế hệ có khả năng học thuật, khoa học kém, thiếu tính sáng tạo và độc lập trong tư duy. Ngay sau giải phóng, các khó khăn về quản lý kinh tế và hành chính công mà chính quyền thống nhất gặp phải có lẽ là những minh chứng rõ ràng nhất cho thực tế này.

Một nền sư phạm vị nhân sinh

Trong khi mô hình vừa học – vừa làm / vừa học – vừa cày trở thành tiêu điểm của giáo dục miền Bắc, học sinh miền Nam có phần yếu kém hơn về năng lực chính trị.

Hiển nhiên, nhận định này không hẳn để phê phán chương trình giáo dục của Việt Nam Cộng hòa về mặt nhân văn và phát triển nhân cách. Tuy nhiên, vì quá tập trung vào sách vở và trải nghiệm lớp học, kế đó là các kỳ thi khoa cử, trẻ em ít được tiếp xúc với thực tiễn đời sống của miền Nam Việt Nam.

Trong khi đó, bản thân hệ thống giáo dục cũng phải cạnh tranh với sự lan tràn của văn hóa phương Tây mà người Mỹ mang đến, điều mà chính quyền Hà Nội không gặp phải. Từ lớp năm đến lớp nhất của bậc tiểu học, trẻ em chỉ học về chữ, Việt văn và một số môn khoa học tự nhiên cơ bản.

Học sinh Trần Hưng Đạo (Đà Lạt) cắm trại năm 1967, gần Tết Đinh Mùi. Nguồn: anhxua.net.

Phải đến các bậc học cuối cùng của Đệ tam, Đệ nhị và Đệ nhất (tức các cấp cuối trung học phổ thông hiện nay), học sinh mới bắt đầu được giới thiệu sơ lược các hệ thống chính trị khác nhau, với vài trang nói về chủ nghĩa cộng sản và các quốc gia đi theo chủ nghĩa cộng sản (như Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).

Không thể tìm thấy những nội dung tuyên truyền chính trị rõ ràng và có định hướng như trong sách giáo khoa miền Bắc. Những thảm họa mà chủ nghĩa cộng sản gây ra cho người dân Trung Quốc vào thời kỳ đó (vốn rất tốt cho mục tiêu tuyên truyền chống Cộng) cũng hề không được nhắc đến.

Theo tài liệu Dự-án Chánh sách văn hóa giáo dục (Saigon: Viet-nam Cong-hoa. Hôi-đồng văn-hóa giáo-dục, 1972 – tìm đọc tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – Thành phố Hồ Chí Minh), mục tiêu cuối cùng của chương trình giáo dục là phẩm giá cá nhân và sự thấu hiểu của ba nguyên tắc cơ bản: quyền tự thân, gia đình và xã hội.

Cách tiếp cận này, hiển nhiên, rất nhân văn và rất phù hợp để chuẩn bị cho học sinh bước vào đời, trở thành những thành viên tốt trong gia đình và công dân tốt trong một xã hội dân chủ cấp tiến. Song nó rõ ràng không giúp ích được gì cho một cộng đồng đang bị chiến tranh tàn phá và đứng trước bờ vực hoàn toàn biến mất.

***

Dù có nhiều ưu khuyết điểm trong mô hình quản trị xã hội, cả hai nhà nước Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc Việt Nam) có vẻ rất kiên định trong đường lối và chính sách giáo dục của họ.

Cái tốt hay cái xấu, cố chấp hay hợp thời, chiến thắng hay thất bại, có lẽ cũng chỉ để cho hậu thế bàn luận. Điều quan trọng là chúng ta tôn trọng và lưu giữ sự thật, kinh nghiệm của lịch sử như chúng thật sự diễn ra. Đó là thứ mà bài viết này mong muốn ghi lại để lấp đầy những khoảng trống trong lịch sử Việt Nam.

Đầu trang

22/09/2016 - vietnamnet

"Cháu kiệt sức, chán nản và tuyệt vọng khi nghe chữ HỌC"

Một tân binh cấp 3, là học sinh giỏi từ lớp 1 tới lớp 9 tại TP.HCM, gửi thư thống thiết tới “các bác lãnh đạo, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo”, nói rằng em ghét việc học.

Trao đổi với Vietnamnet, cô bé học sinh này cho biết em có ý định viết thư đã từ lâu. Nhưng phải tới đầu năm học này, ý tưởng đó mới thật sự thôi thúc.

Em viết bức thư này trong vài buổi tối, vừa làm bài tập vừa viết. Em không hy vọng gì nhiều vào sự thay đổi khi gửi bức thư này, nhưng ít ra, việc viết xong bức thư khiến cho em cảm thấy thoải mái hơn vì đã nói được hết những điều mình cảm nhận lâu nay” – nữ sinh này chia sẻ.

Dưới đây là nội dung bức thư.

"Kính thưa các bác lãnh đạo, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo!

Cháu xin được trút hết nỗi lòng đã giấu diếm suốt bấy lâu nay và cháu, cũng như nhiều bạn học sinh khác mong chờ sẽ nhận được những lời chia sẻ, cũng như ý kiến của các bác lãnh đạo, các phụ huynh và các thầy cô.

Đã nhiều năm nay, hầu như cuộc đời của học sinh chúng cháu chỉ là thức dậy, đi học trên trường, đi học thêm, về nhà và lặp lại. Qua nhiều năm, niềm đam mê học tập của cháu dần mất đi. Cháu bắt đầu kiệt sức, chán nản và tuyệt vọng khi nghe đến chữ HỌC.

Không biết tự bao giờ, thời gian chúng cháu đi học còn nhiều hơn khoảng thời gian chúng cháu được ngủ. Đối với cháu, càng học cao hơn, kiến thức càng trở nên vô nghĩa.

Cháu biết nói ra điều này thật vô ơn. Để có được những kiến thức hôm nay là công sức đầy gian lao của những người đi trước. Nhưng cháu tự nghĩ, vì sao giáo viên chỉ có thể dạy một bộ môn nhưng bản thân một học sinh phải học những mười mấy môn?

Không chỉ vậy, chúng cháu còn chịu áp lực nặng nề từ thầy cô, phụ huynh và cả xã hội. Một lớp học phải có từ 40 em được học sinh Giỏi, Khá và không được có học sinh Trung bình. Đã đi học thì các môn tổng kết cả năm phải từ 8 điểm trở lên, thậm chí là cao hơn. Tỉ lệ tốt nghiệp của trường sau một năm phải đạt 90% trở lên, có trường phải giữ vững mục tiêu là 100%.

Cháu đã nhiều lần suy nghĩ về những gì chúng cháu đang được học. Càng nghĩ, cháu càng cảm thấy nản hơn khi cháu nhận ra mình gần như không thể tiếp nhận những kiến thức nhà trường dạy.

Bộ não của một người trưởng thành chỉ nặng gần 1400 gam nhưng những người của thế hệ đi trước lại mong chờ chúng cháu học đều, học tốt lượng kiến thức khổng lồ từ hơn mười môn học khác nhau.

Ảnh minh họa (Đinh Quang Tuấn)

Cháu sợ lắm ! Cháu sợ mỗi khi ông mặt trời lại lên báo hiệu một ngày đi học nữa lại đến. Cháu sợ khi điều đầu tiên thầy cô làm khi bước vào lớp là khảo bài, kiểm tra một núi bài tập họ giao cho chúng cháu. Cháu sợ khi tiếng trống giờ về không đồng nghĩa với việc chúng cháu được về nhà nghỉ ngơi mà nó chỉ đơn thuần là giờ ra chơi giữa giờ học chính khóa và giờ học thêm. Cháu sợ khi nhìn các bạn đồng trang lứa ăn vội vàng cái bánh bao và ánh mắt họ đờ đẫn, xa xăm, vô hồn ngồi trên chiếc xe máy giữa dòng người kẹt xe lúc 5h chiều.

Thưa các bác, các bác phụ huynh, các thầy cô!

Còn biết bao nhiêu câu chuyện chưa được kể về những áp lực vô hình mà mọi người đang vô tình đặt lên vai chúng cháu.

Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” – Đó là điều đầu tiên cháu học được khi bước vào lớp 1. Và cho đến giờ, khi đang ở độ tuổi 15, cháu căm ghét cái câu nói này kinh khủng.

Cháu xin lỗi khi nói ra những điều này, cháu biết việc này sẽ khiến cho những người đi trước khó chịu nhưng cho phép cháu được nói lên nỗi lòng mình: Cháu ghét đi học.

Cháu ghét cái cảm giác bước qua cổng trường, mở cuốn SGK, chép từng trang vở. Cháu cảm giác mình lạc hướng… Từng ngày đi học, chúng cháu quay cuồng với việc học bài, kiểm tra. Những năm tháng dần trôi qua một cách vô nghĩa dưới áp lực của việc học hành, của thầy cô, của gia đình.

Chương trình học hiện tại không cho phép học sinh chúng cháu có quyền sáng tạo. Tất cả bị bó buộc vào những quy luật nhất định và chúng cháu – những người học sinh bắt buộc phải làm theo chứ không được thay đổi.

Chính bản thân chúng cháu còn không hiểu mình đang học vì cái gì, vì ai!

Học vì kì vọng của mọi người xung quanh, học vì điểm số, học để qua được một kì kiểm tra ư? Xong rồi sao nữa?

Cuối cùng sau hơn 20 năm học tập miệt mài, căng thẳng chúng cháu còn phải sống một cuộc đời rất dài và tới lúc đó, chúng cháu sẽ phải áp dụng những kiến thức đã học được vào cuộc sống. Nhưng cháu đã nhiều lần tự hỏi, cháu có thể sử dụng “Chuyển động tròn đều”, “Chiều tăng giảm của hàm số” hay Vecto trong cuộc đời thật như thế nào?

Chúng cháu cứ học rồi lại quên, thầy cô thì cứ lao đầu vào giảng, giao bài tập về nhà nhưng họ chưa bao giờ nói cho chúng cháu nghe ứng dụng của những kiến thức này trong cuộc sống.

Từ một lúc nào đó, mọi người lại đánh giá nhau thông qua những con điểm. Chì vì những con điểm vô giá trị mà đã đẩy biết bao số phận học sinh vào bước đường cùng, đã khiến cho mối quan hệ chữa cha mẹ - con cái và giáo viên – học sinh trở nên căng thẳng, ngột ngạt.

Cuộc sống của những học sinh giờ đây gần như chỉ xoay quanh HỌC. Chúng cháu không biết đến khái niệm nghỉ ngơi, thư giãn. Chúng cháu gần như không còn hiểu được giá trị của những bữa ăn bên gia đình vì gần như suốt một tuần chúng cháu chỉ gần như học thêm đến khi trời tối mịt.

Người bạn ngồi kế cháu, bạn ấy học rất giỏi và các thầy cô đều rất yêu quý bạn ấy. Nhưng bạn ấy khổ lắm. Nhà bạn ấy ở Quận 12 và bạn ấy phải đi xe buýt tới Quận 1 để học thêm mỗi ngày. Từng ngày đi học của bạn ấy bắt đầu từ 5h30 sáng cho tới 11h đêm. Bạn ấy đã kiệt sức rồi, cháu biết điều đấy. Khuôn mặt bạn phờ phạc, ánh mắt bạn bơ phờ, bạn bị thiếu ngủ và đau dạ dày. Những người như bạn cháu không thiếu ngay tại chính TP.HCM này.

Học sinh chúng cháu sống thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm và không có kĩ năng sống. Chúng cháu không biết phải làm gì nếu có động đất, sóng thần hay gặp một người bị đột quỵ ngay giữa đường. Người lớn thất vọng vì cách ứng xử của thế hệ trẻ trong khi thế hệ trẻ chúng cháu lại thất vọng vì đang được giáo dục không có định hướng.

Thưa các bác, là một học sinh, cháu đã vô cùng xúc động khi nghe chủ trương không dạy thêm. Cái cảm giác vui mừng chợt chạy qua người cháu khi nghĩ đến cảnh chúng cháu không còn phải còng lưng ra học bài lúc 11h đêm nữa.

Nhưng hiện thực tàn khốc của việc học đã không cho cháu được vui mừng lâu. Trước cảnh mỗi năm đề thi Đại học lại đổi mới một kiểu, trước cảnh cô giáo viên dạy Toán của chúng cháu quảng cáo về lớp dạy thêm của cô một cách bí mật, cháu nhận ra mọi chuyện sẽ không hề tốt lên được, sẽ không bao giờ tốt lên được.

Rồi sau tất cả, khi chúng cháu rời ghế nhà trường, đối diện với cuộc sống thật, chúng cháu lại lơ ngơ, hoang mang vì hoàn toàn không có những kĩ năng sống cần thiết.

Cháu cầu xin các bác, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo: Xin hãy cho chúng con được SỐNG. Xin cho phép chúng con được sống trong những tháng năm tuổi học trò một cách trọn vẹn nhất có thể. Xin đừng quá kỳ vọng vào tụi con để rồi chính những kì vọng ấy khiến cho mọi người thất vọng. Xin đừng chỉ trích chúng con khi bọn con bị điểm kém. Xin hãy hiểu rằng mỗi người chỉ có những khả năng nhất định và bọn con không phải là thiên tài.

Cuối cùng, con xin mọi người hãy hiểu: HỌC SINH CŨNG CHỈ LÀ CON NGƯỜI, KHÔNG PHẢI MÁY MÓC".

Học sinh lập nhóm kín phản đối trường dạy thêm

Tây Nguyên Thứ năm, 15/9/2016 - zingnews

Học sinh trường THPT Cao Bá Quát (TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk) lập nhóm kín trên Facebook đế phản đối nhà trường dạy thêm ngay từ đầu năm học.

Chiều 15/9, ông Trương Thức - Chánh văn phòng Sở GD&ĐT Đắk Lắk - cho biết đơn vị này đã yêu cầu Thanh tra sở kiểm tra những thông tin phản ánh về việc Trường THPT Cao Bá Quát (TP Buôn Ma Thuột) ép học sinh tăng tiết.

Theo ông Thức, sau khi có kết luận, Sở GD&ĐT Đắk Lắk sẽ thông tin với báo chí, nếu trường sai sẽ xử lý theo quy định.

Trước đó, nhiều phụ huynh có con học Trường THPT Cao Bá Quát bức xúc vì tất cả học sinh phải học phụ đạo tại trường. Khi phụ huynh thắc mắc, đại diện nhà trường lúc bảo phụ đạo, khi thì nói tăng tiết.

Mới đây, chiều 13/9, một số học sinh đã tụ tập trước cổng trường phản đối việc học phụ đạo.

Theo một học sinh, ngoài giờ học chính khóa, mỗi tuần các em phải học tăng tiết ba buổi, mỗi buổi bốn tiết. Giá mỗi tiết 6.000 đồng. “Mỗi lớp gần 30 học sinh, mức thu 6.000 đồng quá cao. Học sinh đông, không tiếp thu được hết kiến thức nên hiệu quả thấp”, em này nói.

Trường THPT Cao Bá Quát, nơi xảy ra sự việc. Ảnh: M. Q.

Một số học sinh đã lập nhóm kín trên Facebook với tên gọi “Phản đối sự ép buộc học phụ đạo THPT Cao Bá Quát - BMT”. Nhóm này có gần 600 thành viên được cho là học sinh và phụ huynh của trường.

Ngày 15/9, trao đổi với Zing.vn, thầy Lê Văn Kiệt - Hiệu trưởng Trường THPT Cao Bá Quát - cho biết nhà trường dạy thêm cho học sinh đã được Sở GD&ĐT Đắk Lắk cấp phép.

Theo ông Kiệt, giấy phép được cấp có thời hạn từ tháng 9/2015 đến hết tháng 9/2016 và việc dạy thêm được triển khai từ năm 2013 đến nay.

Cũng theo thầy hiệu trưởng, việc có nhiều tên gọi như tăng tiết, phụ đạo vì giáo viên và học sinh quen miệng chứ chủ trương của trường là dạy thêm. Việc học thêm có sự đồng thuận của phụ huynh, học sinh và ban giám hiệu. Từ đó, ban lãnh đạo nhà trường mới làm hồ sơ xin sở cấp phép.

Ông Kiệt phủ nhận việc học sinh tụ tập tại trường chiều 13/9 để phản đối học thêm, mà là các em đi học tập trung đông trước cổng trường.

Với 6.000 đồng/tiết học thêm, ông Kiệt cho biết mức thu trên đúng theo nghị quyết của HĐND tỉnh.

“Tính ra mỗi tháng, một học sinh chỉ đóng hơn 150.000 đồng cho 4 môn, thấp hơn học bên ngoài nhiều. Ngoài ra, việc học thêm tại trường là không ép buộc, học sinh không thích có thể học ngoài”, vị hiệu trưởng nói.

Đầu trang

2021-04-16 - RFA

Việt Nam chuẩn bị gì trước tốc độ già hóa dân số tăng nhanh?

Một cụ bà bán rau quả ở Hà Giang hôm 21/2/2021.

Nguyên nhân “già hoá dân số”?

“Việt Nam là quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Khoảng thời gian mà tỷ trọng người già tăng từ 7% lên 14%, được dự báo kéo dài trong hai thập kỷ 2015 đến 2035.”

Đó là thông tin có trong báo cáo quốc gia ‘Việt Nam một xã hội đang già hóa’... được công bố hôm 15/4/2021.

Liên quan vấn đề này, nhà nghiên cứu xã hội học, Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương, hiện công tác tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, hôm 16/4 đưa ra nhận định với RFA:

“Đúng là tốc độ già hóa dân số của Việt Nam tăng khá nhanh. Chính vì nó nhanh như vậy nên việc đáp ứng lại từ phía quản lý nhà nước, các chính sách hỗ trợ của nhà nước thì nó cũng chưa đáp ứng kịp. Còn hỗ trợ từ phía gia đình và xã hội thì lại lỏng lẻo, theo xu hướng Phương Tây hóa, trước đây thì theo truyền thống trọng người già ‘tam đại đồng đường’ ... nhưng ngày nay lại có xu hướng hạt nhân hóa, con cái ra ở riêng, chính vì vậy những hỗ trợ của con cái cho cha mẹ nhiều, thì hiện nay dựa vào những hỗ trợ từ ngoài xã hội như người giúp việc...”

Tuy nhiên theo Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương, đối với những người già sống trong những gia đình có mức thu nhập thấp hoặc theo diện gia đình khó khăn thì việc nhận được phụ giúp từ con cái để thuê người ngoài chăm sóc là rất khó. Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương nêu thực tế về vấn đề chăm sóc y tế cho người già tại Việt Nam:

“Về chăm sóc y tế cho người già thì dù bảo hiểm y tế cũng đã phát triển, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận dịch vụ y tế theo bảo hiểm không được tốt nếu đi theo dịch vụ mà mình tự chi trả. Thành thử những người già theo bảo hiểm y tế chỉ được hưởng dịch vụ cơ bản. Đây là những khó khăn của người thu nhập trung bình thấp, các chuyên gia cũng đã nói rồi, chắc là trong tương lai sẽ có nhiều giải pháp hơn nữa.”

Đúng là tốc độ già hóa dân số của Việt Nam tăng khá nhanh. Chính vì nó nhanh như vậy nên việc đáp ứng lại từ phía quản lý nhà nước, các chính sách hỗ trợ của nhà nước thì nó cũng chưa đáp ứng kịp.
-Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương

Theo Bộ Y tế Việt Nam, nếu như các quốc gia phát triển mất một thế kỷ hoặc hàng thập kỷ để chuyển từ giai đoạn già hóa dân số 7% sang dân số già 14% như Pháp 115 năm, Thụy Điển 85 năm, Australia 73 năm, Mỹ 69 năm… thì Việt Nam chỉ có 20 năm.

Với tốc độc già hóa dân số tăng nhanh như vậy, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần phát triển dịch vụ chăm sóc xã hội, cũng như có cơ chế phối hợp công-tư trong cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi...

Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình, Phó Tổng thư ký Viện Xã hội học, khi trả lời RFA vào tháng 10 năm 2020 đã từng nhận định rằng những giải pháp mà chính phủ Việt Nam đưa ra để đối phó già hóa dân số chưa hoàn toàn tích cực, ông nói:

“Các nhà quản trị đất nước cũng đã thấy rồi, đã chuẩn bị để thích ứng, dù những giải pháp không hẳn là tích cực, chẳng hạn như chuẩn bị cho người cao tuổi không chỉ là lực lượng trí tuệ của cộng đồng mà còn tiếp tục là lực lượng sản xuất. Bằng chứng là đang tìm cách kéo dãn tuổi nghỉ hưu. Chuẩn bị kịch bản tái thiết kinh tế để thích ứng với tình hình đó, phải có những hoạt động cấp tốc, tập trung tối đa, như để giảm dân số già thì tích cực đào tạo cho người lao động, tích cực chuyển đổi cơ cấu việc làm cho toàn xã hội…”

Mặt khác, theo một số chuyên gia nhìn nhận thì ngoài các lý do vừa nêu ở trên ra, một trong những nguyên nhân khác khiến tỷ lệ người già tăng vọt là do tuổi thọ trung bình của người Việt đã tăng từ 60 tuổi vào năm 1970 lên hơn 76,6 tuổi như hiện nay. Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác phải kể đến nữa đó là tỷ lệ sinh giảm.

Ảnh minh họa: Người thợ hớt tóc cao tuổi vẫn còn làm việc tại Hà Nội. AFP.

Lương hưu có cũng như không?

Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011, tính đến nay đã hơn 10 năm, trên thực tế hiện nay, người cao tuổi về hưu ở Việt Nam có được hỗ trợ gì từ chính phủ hay không? RFA hôm 16/4 liên lạc một người dân ở Sài Gòn và được ông cho biết qua thực tế tại gia đình mình. Ông chia sẻ:

“Trợ cấp của chính phủ như tiền già trên 80 tuổi thì được ba trăm mấy chục ngàn một tháng, ngoài ra còn có bảo hiểm y tế miễm phí, không phải trả gì hết. Tất nhiên những yêu cầu riêng thì mình phải trả, còn tiền thuốc bình dân hay nằm viện bình dân theo kiểu chung phòng, chung giường thì miễn phí. Những thuốc mạnh thì mình phải tự mua.”

Một ý kiến khác cũng được chúng tôi cập nhật trong nội dung này đó là thông tin thực tế từ một cán bộ đã nghỉ hưu ở Hà Nội, ông cho biết:

“Có chăm sóc gì đâu, nếu là về hưu thì được 100% bảo hiểm y tế, nhưng bảo hiểm y tế Việt Nam thì chỉ phát đơn thuốc theo bảo hiểm thôi. Nhưng bị các bệnh hiểm nghèo thì hầu như phải mua thuốc ở ngoài hết, chả có gì ưu tiên cả. Ngoài ra ở Hà Nội thì người trên 60 tuổi được đi xe buýt miễn phí trong 5 năm… nhưng già rồi đi đâu mà miễn phí…”

Có chăm sóc gì đâu, nếu là về hưu thì được 100% bảo hiểm y tế, nhưng bảo hiểm y tế Việt Nam thì chỉ phát đơn thuốc theo bảo hiểm thôi. Nhưng bị các bệnh hiểm nghèo thì hầu như phải mua thuốc ở ngoài hết, chả có gì ưu tiên cả.
-Một cán bộ đã nghỉ hưu

Mới đây, khi đề cập đến vấn đề này, Phó Giáo sư Nguyễn Tuấn Anh - Phó khoa Xã hội học - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội nêu rằng, vấn đề đáng lo ngại nhất với tình trạng già hóa dân số ở Việt Nam là hiện phần lớn người cao tuổi đang phải làm việc để tạo thu nhập. Con số ông đưa ra cụ thể là gần 46% người từ 60 đến 64 tuổi, gần 30% người từ 70 đến 79 tuổi và 10% người hơn 80 tuổi vẫn phải lao động để kiếm sống.

Trong khi đó, theo số liệu của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội năm 2019, trong số 13,4 triệu người cao tuổi thì chỉ có 23,5% được hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng từ nhà nước. Và, 64,4% người cao tuổi không có lương hưu và trợ cấp, phải sống dựa vào con cháu hoặc phải tiếp tục lao động để mưu sinh.

Nhắc đến những số liệu vừa thống kê trên, Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương, đưa ra kỳ vọng:

“Hiện nay các chuyên gia cũng đã dự đoán được mức độ tăng tuổi thọ của người già, cũng như những dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của người già thì cũng tăng. Cũng đã có nhiều nghiên cứu chi tiết, tôi hy vọng trong tương lai những chính sách của Việt Nam để hỗ trợ người già sẽ được cải thiện đáng kể. Tất nhiên không thể so với các nước phát triển, nhưng điều kiện cho người già, đặc biệt những người thu nhập trung bình thấp, thì tôi tin sẽ được cải thiện ở một mức độ nào đấy tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế.”

Cũng theo Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương, để chuẩn bị đối phó những thách thức và hệ lụy liên quan dân số già, Việt Nam cần học kinh nghiệm của các nước đi trước. Trong đó phải đặc biệt quan tâm đến các quỹ như bảo trợ xã hội, quỹ lương hưu cho người già, quỹ chăm sóc người già, nhà dưỡng lão…

Tin, bài liên quan

Đầu trang

16/04/2021 - baotiengdan

Đọc bài “Tụng Lỗ Tấn” của Phan Khôi, lại nghĩ đến cái xấu và tội ác ở Việt Nam hiện nay

Nguyễn Văn Nghệ
16-4-2021

Ông Phan Khôi (1887-1959). Nguồn: Báo Thanh Hóa

Ông Phan Khôi (1887-1959) khi mới lớn lên đã theo đòi nghiệp bút nghiên, thuộc làu Tứ thư, Ngũ kinh, cùng sách của Bách gia Chư tử. Ông đã khăn gói lều chõng đi thi Hương và đỗ Tú tài Hán học năm 1906.

Ông và một số nhà Nho nhận thấy: “Nào có ra gì cái chữ Nho/ Ông nghè, ông cống cũng nằm co/ Chi bằng đi học làm thầy phán/ Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” (Chữ Nho Trần Tế Xương), do đó ông đã “Vứt bút lông đi, giắt bút chì!” và theo đuổi nền Tây học. Ông đã tham gia làng báo và sau năm 1945, tham gia phong trào Việt Minh.

Tháng 10/1956 trước khi báo Nhân văn do ông Phan Khôi làm Chủ nhiệm bị cộng sản cho đình bản ít lâu. Hội Văn nghệ Việt Nam cử ông Phan Khôi sang Bắc Kinh dự Đại hội Kỷ niệm 20 năm, ngày Lỗ Tấn từ trần. Cùng đi có Tế Hanh.

Tại lễ Kỷ niệm, ông Phan Khôi đã có bài phát biểu mang tên “Tụng Lỗ Tấn”: “Phản Khổng tử ‘bất vi dĩ thậm’[1]/ ‘Đả lạc thủy cẩu’[2], ‘bất khoan thứ thùy’[3]/ Phản Da tô ‘ái địch như hữu’[4]/ Nguy nguy hồ Lỗ Tấn ‘vô sản đích thánh nhân’[5]/ Ngã thâm tín thử ngôn bất mậu/ Ngã độc công thư tạp niên/Hận bất tương kiến công tử tiền/ Thiên hạnh năng cập ngã tử tiền/ Đắc kiến công tử hậu tân Trung Quốc đích thiên!”

Dịch nghĩa bài “Ca tụng Lỗ Tấn”: Bác lời Khổng tử “không nên làm điều thái quá!”/ Ông chủ trương “đánh chó phải đánh cả khi nó đã rơi xuống nước”, “không dung tha kẻ thù nào”/Chống lại lời dạy của Chúa Da tô “phải yêu kẻ thù như bạn”/ Vòi vọi như núi cao, Lỗ Tấn là ông thánh của giai cấp vô sản/ Tôi tin lời xưng tụng ấy không hề sai lầm/ Đã ba mươi năm nay tôi đọc sách của ông/ Giận mình chẳng được một lần gặp ông trước lúc ông mất/ may mà trước lúc tôi xuôi tay nhắm mắt/ Còn được thấy bầu trời nước Trung Hoa mới của ông.

Dịch thơ lục bát: “Bác lời Khổng tử khuyên can/ Làm chi thái quá để mang tiếng đời/ Đánh chó chớ đánh nửa vời/ Phải dìm cho chết dẫu rơi ao tù/ Không khoan dung lũ nghịch thù/ Đừng như Đức Chúa Giê su dạy đời/ Non cao chất ngất lưng trời/ Thánh nhân vô sản như lời tụng ca/ Tin người xưng tụng chẳng ngoa/ Ba mươi năm ấy tôi đà đọc ông/ Gặp ông mong được thành không/ Vãn niên may thấy cờ hồng Trung Hoa”. [6]

Ông Phan Khôi từ một nhà Nho chân chính, đã khước từ học thuyết nhân bản nhã nhặn của Khổng tử để quảng bá cho một học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây: “Đả lạc thủy cẩu”, “bất khoan thứ thùy”.

Cụ Trần Trọng Kim cũng xuất thân từ gia đình Nho học nhưng cụ lại nhận ra bản chất của học thuyết duy lý hung hăng: “Về đường thực tế, cái đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thường đạo lý, không biết có nhân nghĩa đạo đức như người ta vẫn tin tưởng. Người Cộng sản cho cái điều đó là hủ tục của xã hội phong kiến thời xưa, đặt ra để lừa dối dân chúng, nên họ tìm cách xóa bỏ hết. Ai tin chỗ ấy là người sáng suốt, là người giác ngộ, ai không tin là người mờ tối, là người mê muội. Vì có tư tưởng như thế, cho nên cha, con, anh em bè bạn không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa của Cộng sản và phục tòng những người cầm quyền của đảng, ngoại giả, giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau: hễ ai làm những việc mà lợi cho đảng là người giỏi, người tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ đều bỏ hết, bỏ đến tận cội rễ, để thành lập một xã hội mới theo chủ nghĩa cộng sản” [7].

Với chủ trương “cha, con, anh em bè bạn không có tình nghĩa gì cả” cho nên mới có chính sách “đấu tố”. Qua ký ức của nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã kể lại việc đấu tố : “Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị nhốt chuồng trâu, chờ ngày đấu tố (…). Cùng với các ông đội, bà đội trên cử xuống, hai ông Chi và Bính (hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ: rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, Phật tử nữ phải đấu tố nhà sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư…

Bọn thiếu nhi, thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi, Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc…Tin vào hai ông thần đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp nhận đấu tố bố mình trước đội thiếu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai tốt đẹp theo ý của ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình tối hôm trước…” [8].

Cái ác ở Việt Nam hiện nay tràn đầy, khiến ông Lê Kiên Thành (con của Lê Duẩn) trăn trở: “Có thể con người Việt Nam hôm nay dường như đang gặp phải một sai lầm nào đó trong tổ chức cuộc sống, khiến cho tình cảm, lòng thương người, sự vị tha đã biến dạng một cách ghê gớm. Đó là điều quá lạ lùng với xã hội này”.

Ông Lê Kiên Thành phỏng đoán (vì không dám quả quyết) rằng: “Có lẽ chưa từng có một giai đoạn nào trong quá khứ mà người Việt Nam phải trải qua tình cảnh như ngày hôm nay. Người Việt từng sống dưới ách nô lệ cả nghìn năm của các triều đại phương Bắc, từng bị đế quốc, thực dân đô hộ, chịu đựng đủ sự tàn ác bóc lột từ ngoại bang. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe được về chuyện người Việt tàn ác với chính đồng bào của mình. Chưa bao giờ người Việt đối xử với nhau hằn học đến thế, man rợ đến thế. Chúng ta không nghèo như ngày xưa, không đói như ngày xưa, tại sao chúng ta ác hơn ngày xưa?” [9].

Thời phong kiến con cháu mà “đấu tố” ông bà, cha mẹ là phạm vào tội bất hiếu. Bộ luật Hồng Đức quy định con cháu có nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà cha mẹ (điều 511), có nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà cha mẹ (điều 9 và 504) ngoại trừ trường hợp ông bà cha mẹ phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch… thì con cháu được phép tố cáo.

Trong Luận ngữ có mẩu đối thoại giữa Diệp công và Khổng tử: Diệp công ngữ Khổng tử viết: “Ngô đảng hữu trực cung giả: kỳ phụ nhương dương, nhi tử chứng chi”. Khổng tử viết: “Ngô đảng chi trực giả, dị ư thị: phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn, trực tại kỳ trung hỹ” (Ông Diệp công nói với Khổng tử rằng: “Ở xóm tôi, có người giữ phép thẳng rất mực, như cha ăn trộm dê, thì con đứng ra làm chứng khai thật”. Khổng tử nói rằng: “Ở xóm ta người ngay thẳng cư xử có khác: Cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha; tình ngay thẳng vẫn ngụ trong đó vậy” (Luận ngữ Tử Lộ XIII, 18).

Học thuyết Nho giáo đề cao chữ “Nhân”, bởi “Nhân” là đầu các điều thiện. Nếu Phan Khôi hoặc những người lãnh đạo thời ấy hết lòng quảng bá đức “Nhân” trong học thuyết Nho giáo, đừng chạy theo học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây thì tôi tin chắc cái ác sẽ không xảy ra như hiện nay: “Giết nhau vì tiền, giết nhau vì tình, giết nhau vì đất đai, giết nhau vì chút quyền lợi nhỏ, và cả giết nhau chẳng do duyên cớ nào cả. Thậm chí, một cái nhìn bị cho là ‘nhìn đểu’ cũng dễ dàng rước lấy cái chết thảm cho người nhì đằng sau cái hả hê của ‘người bị nhìn’ đã ‘dứt điểm’ được ‘kẻ nhìn đểu’.” [10].

Tại sao hiện nay xã hội Việt Nam lại ác hơn ngày xưa? Từ ngàn xưa Kinh Dịch đã có câu giải đáp: “Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu, nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hỹ, do biện chi bất tảo biện dã” (Tôi giết vua, con giết cha, không ở trong một sớm một chiều, nguyên do dần dần mà đến, bởi những kẻ lo liệu phòng bị những việc ấy không biết lo liệu phòng bị sớm).

Trong tác phẩm “Lịch sử văn minh Trung Hoa” nhà nghiên cứu Will Durant nuối tiếc cho dân tộc Trung Hoa là đã từ bỏ một học thuyết nhân bản nhã nhặn của ông cha để chạy theo một học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây.

Nguyễn Văn Nghệ, Diên Khánh Khánh Hòa

_____

Chú thích:

[1] Bất dĩ vi thậm: Lời Khổng tử dạy môn sinh “chớ làm điều gì thái quá”.

[2] Đả cẩu lạc thủy: Chủ trương rất nổi tiếng của Lỗ Tấn: “Đánh con chó đã rơi xuống nước rồi, còn phải theo mà đánh nữa”.

[3] Bất khoan thứ thùy: Với kẻ thù, chẳng dung tha cho một kẻ nào.

[4] Ái địch như hữu: Yêu kẻ thù như chính bản thân.

[5] Lỗ Tấn “vô sản đích thánh nhân”: Lỗ Tấn là ông thánh của giai cấp vô sản. Đây là lời Mao Trạch Đông xưng tụng Lỗ Tấn.

[6] Bài viết “Tìm được bài phát biểu của Phan Khôi tại Đại hội Kỷ niệm 20 năm ngày Lỗ Tấn từ trần”, của tác giả Phan Nam Sinh đăng trên Kiến thức Ngày nay số 1094 ra ngày 1/1/2021, trang 3-5& 109. Năm chú thích bên trên cũng của Phan Nam Sinh.

[7] Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi (Kiến văn tiểu lục), Việt Books- 2010, tr. 114-115

[8] https://daohieu.wordpress.com/tag/tran-manh-hao-cai-cach-ruong-dat/

[9][10] Bài viết “Vì sao tại Việt Nam hôm nay cái ác trỗi dậy?” của tác giả Lê Thiên. https://baotiengdan.com/2021/04/13/vi-sao-tai-viet-nam-hom-nay-cai-ac-troi-day/

Đầu trang

13/04/2021 - baotiengdan

Vì sao tại Việt Nam hôm nay cái ác trỗi dậy?

Lê Thiên
13-4-2021

Gần đây, truyền thông xã hội bỗng sôi nổi về một bài báo của Lê Kiên Thành, con trai nguyên Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn. Bài viết của Lê Kiên Thành có tựa đề là “Tôi cầu mong chúng ta sẽ thức tỉnh”.

Lê Kiên Thành viết: “Điều rõ nhất tôi cảm nhận được là chưa bao giờ cái xấu và tội ác đến với chúng ta bình thản như thế này. Người ta nhìn nó thản nhiên, như là điều tất yếu”.

Thành vạch rõ: “Đó là buổi sáng, khi tôi đọc tin về một cậu thanh niên cứa cổ đứa bé 8 tháng tuổi; đó là khi tôi đọc tin về những người dân cùng xông vào đánh chết một kẻ trộm chó…”

Thành phê phán: “Có những người trong chúng ta hôm nay dùng cái ác và cái xấu để sinh tồn. Việc một tên cướp bị tuyên án tử hình vì chém đứt tay một người và trước đó đã chém 14 người, nhưng bà mẹ đẻ ra thằng bé đó không hề mảy may ân hận. Đó là hình ảnh đáng sợ nhất: một người mẹ biết quý con mà không còn coi sự sống của người khác ra gì”.

Quý tử của Lê Duẩn còn nêu ra hàng loạt những “hành động gian ác” của người Việt Nam trong cái xã hội “xã hội chủ nghĩa” Việt Nam mà Thành cho làcó thể con người VN hôm nay dường như đang gặp phải một sai lầm nào đó trong tổ chức cuộc sống, khiến cho tình cảm, lòng thương người, sự vị tha đang bị biến dạng một cách ghê gớm. Đó là điều quá lạ lùng với xã hội này”.

Lê Kiên Thành còn phỏng đoán (vì không dám quả quyết) rằng: “Có lẽ chưa từng có một giai đoạn nào trong quá khứ mà người VN phải trải qua tình cảnh như ngày hôm nay. Người Việt từng sống dưới ách nô lệ cả nghìn năm của các triều đại phương Bắc, từng bị đế quốc, thực dân đô hộ, chịu đựng đủ sự tàn ác, bóc lột từ ngoại bang. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe được về chuyện người Việt tàn ác với chính đồng bào của mình. Chưa bao giờ người Việt đối xử với nhau hằn học đến thế, man rợ đến thế. Chúng ta không nghèo như ngày xưa, không đói như ngày xưa, tại sao chúng ta lại ác hơn ngày xưa?”

Không ít thức giả, học giả trong nước lên tiếng trực tiếp hay gián tiếp phản bác luận điệu của Lê Kiên Thành, như Dương Quốc Chính với “Tại sao dân Việt Nam lại tàn bạo với đồng loại như vậy (Báo Tiếng Dân ngày 4/4/2021); Lưu Trọng Văn Hãy đọc lời cầu mong ấy và thức tỉnh (Báo Tiếng Dân ngày 4/4/2021); Thái Hạo Về Lý lịch bần nông (Báo Tiếng Dân ngày 6/4/2021); Song Chi, “Tháng Tư-giữa thời khắc tuyệt vọng, nhìn về phía mặt trời(Blog RFA & Báo Tiếng Dân ngày 8/4/2021); Phạm Đình Trọng Hội chứng đám đông (Báo Tiếng Dân ngày 10/4/2021).

Nhưng dường như chưa bài phản biện nào chỉ rõ cái gốc của cái ác trong xã hội cả nước lẫn trong nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay.

***

Phần chúng tôi, hồi năm 2019 đã có bài chứng minh nguồn gốc di chứng bạo lực và sự tàn ác của người Việt Nam sau tháng 4/1975 đến nay, qua bài viết sau đây (đã từng được Báo Tiếng Dân và Dân Làm Báo giới thiệu ngày 19/9/2019) nay xin đưa lên lại:

Di sản vĩ đại của chủ tịch vĩ đại

Năm nay, CSVN ồn ào kỷ niệm 50 năm (1969-2019) di chúc Hồ Chí Minh (HCM). Truyền thông CSVN dồn nỗ lực, khuếch đại âm lượng tán tụng những bịa đặt trơ trẽn nâng lên hàng di sản với tên gọi “di sản Hồ Chí Minh”.

Người viết mạo muội chia sẻ đôi điều về di sản Hồ Chí Minh mà truyền thông CSVN tuyệt đối không dám ú ớ. Đó là cái di sản nổi trội nhất trong các di sản của Hồ Chí Minh: Cổ võ bạo lực và gieo mầm hung hãn trong dân, đặc biệt trong đầu óc tuổi thơ Việt Nam.

Giết! Giết! Giết!

Người Việt Nam có lẽ không ai quên khẩu hiệu: “Trí, phú, địa, hào – Đào tận gốc, tróc tận rễ”. Nó không đơn thuần là một khẩu hiệu, mà là một mệnh lệnh mang tính cưỡng bách tuyệt đối, đặc biệt ttrong Chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất năm 1956-1958, đến nỗi XUÂN DIỆU đã phải nhanh chóng rao truyền cổ võ, diễn đạt lệnh ấy thành thơ thấm sâu vào lòng người, nhất là giới trẻ:

Anh em ơi, quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lừng chừng phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng hôm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đầy chết thôi.

Chẳng phải chỉ mỗi Xuân Diệu mà cả Tố Hữu (Văn công tuyên huấn đảng, về sau leo lên tới đỉnh Ủy viên Bô Chính trị Đảng CSVN) cũng dùng thơ rao truyền bá đạo, hò hét sắt máu:

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”

Ôi chao! Giết “cho đảng bền lâu” chưa đủ! Mà giết “để thờ hai tên đồ tể khát máu của nhân loại! Ghê gớm thật! Khốn nạn thật!

Chính vì cái mệnh lệnh “giết, giết nữa, bàn tay không phú nghỉ” mà hàng vạn sinh linh dân Việt Nam ở miền Bắc máu đổ đầu rơi hoặc trở thành những bóng ma tàn phế thất thểu suốt đời!

Người ta không quên vị đại ân nhân của cả Hồ Chí Minh lẫn cái đám đồng chí cấp cao quanh ông Hồ là bà Nguyễn Thị Năm – Cát Hanh Long, đã bị xử tử oan nghiệt bởi phát súng mở đầu Chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc thời 1956-1958.

Đê hèn và nham hiểm hơn nữa, theo Trần Đĩnh qua bộ sách Đèn Cù, hôm xử án bà Nguyễn Thị Năm, Hồ Chí Minh và Trường Chinh đã hèn hạ hóa trang cải dạng, rình rập theo dõi cuộc xử sau khi Hồ ký tên “C.B.” tung lên báo Nhân Dân bài viết “Địa chủ ác ghê” gán cho bà Nguyễn Thị Năm những tội ác tày trời, “đất không dung, người không tha!” song lại chẳng một lời về nghĩa cử cao đẹp của bà Cát Hanh Long dâng cho Hồ và đảng CSVN hàng trăm lượng vàng, và hiến cả hai con trai mình phục vụ “Cách mạng” trong bộ đội bác.

Tuyên dương dũng sĩ hay cổ súy hung hăng bạo lực?

Chuyện về hành tung của Hồ Chí Minh cổ súy bạo lực và gieo mầm hung hãn vào bộ não của tuổi thơ VN thì nhiều lắm, dẫy đầy, kể mãi không hết. Ở đây, chỉ xin nêu một hai bằng chứng điển hình về những con nít đã hành động bạo lực kiểu người lớn được tuyên dương là “dũng sĩ” và được Hồ Chí Minh đón tiếp, cổ võ… như hình ảnh dưới đây:

Nữ dũng sĩ diệt Mỹ Hồ Thị Thu (áo trắng) đang kể về chiến công của mình với bác Hồ và bác Tôn. Xem hình này, mấy ai tin rằng Hồ Thị Thu ở tuổi 13 hay dưới 13? (Nguồn: Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 19/5/2010 – “Dũng sĩ diệt Mỹ tuổi 13 và 3 lần gặp Bác Hồ”, của tác giả Hà Minh).

Một mẩu đối thoại ngắn giữa “bác” và cháu bé Hồ Thị Thu được báo SGGP thuật lại như sau:

– Cháu có phải là Hồ Thị Thu không?
– Thưa Bác, phải ạ!
– Cháu học lớp mấy rồi?
– Dạ thưa Bác, cháu chưa biết chữ, ba cháu mất sớm, nhà cháu nghèo quá, lại đông anh chị em nên cháu không được đi học ạ!….

Sau đó lần lượt các dũng sĩ kể chuyện cho Bác nghe. Riêng chị kể chuyện phá 13 khẩu súng bằng cát, sỏi… Nghe xong, Bác hỏi:

Thằng Mỹ to thế, cháu lại nhỏ thế này, đánh Mỹ có sợ không?
– Thưa Bác, mấy trận đầu cháu có sợ, nhưng về sau, cháu quen dần vì bên cạnh cháu có các cô, các chú và các bạn nên cháu hết sợ.

Tối đó, bên bàn ăn cơm, Bác vừa ân cần hỏi thăm, căn dặn từng người trong đoàn “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình…”

Đoàn Văn Luyện, thôn Trung An, xã Bình Thạnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, cũng là một trong những “dũng sĩ diệt Mỹ” có nhiều chiến công được “Bác” tiếp. (Báo Quảng Ngãi 28/12/2017 – Ký ức của “Dũng sĩ diệt Mỹ. Trong hình trên, Đào Văn Luyện ngồi ngoài cùng bên phải).

Hồ Chí Minh còn lấy làm hãnh diện lôi những đứa con nít “dũng sĩ diệt Mỹ” đi khoe với bầu bạn quốc tế vô sản Cu Ba như hình dưới đây:

Hồ Chí Minh và các “Dũng sĩ diệt Mỹ” tiếp Phái đoàn Cuba qua thăm Việt Nam năm 1969. Nguồn: Báo Quảng Ngãi

Báo chí CSVN huênh hoang: “Tháng 2.1969, có phái đoàn Cuba sang thăm Việt Nam. Bác cho gọi tất cả dũng sĩ ‘tí hon’ đã từng diệt Mỹ đến giới thiệu với lãnh đạo nước bạn. Bác cho từng người kể về những chiến công của mình….”

Mầm mống bạo lực hung hăng

Phải chăng chính nhờ tuyên dương bạo lực bằng những hành động tung hô “dũng sĩ” hung bạo giết người mà đến tận ngày nay, tinh thần “dũng sĩ” cứ được nhân lên khắp cả nước: Dũng sĩ diệt cha, dũng sĩ diệt mẹ, dũng sĩ diệt anh chị em, dũng sĩ diệt thân nhân, diệt họ hàng, diệt bè bạn, diệt hết những ai đụng chạm đến mình, đụng chạm đến quyền lợi mình, dù là thứ quyền lợi giá trị ba xu.

Giết nhau vì tiền, giết nhau vì tình, giết nhau vì đất đai, giết nhau vì chút quyền lợi nhỏ, và cả giết nhau chẳng do duyên cớ nào cả. Thậm chí, một cái nhìn bị cho là “nhìn đểu” cũng dễ dàng rước lấy cái chết thảm cho người nhìn đằng sau cái hả hệ của “người bị nhìn” đã “dứt điểm” được “kẻ nhìn đểu”!

Bạo lực xã hội, bạo lực hè phố, bạo lực học đường, bạo lực gia đình… tràn lan.

Bạo lực ở mọi nơi với mọi giới, mọi cấp, mọi giai tầng xã hội Việt Nam!

Bạo lực len lỏi bành trướng vào cả những vùng thôn quê hẻo lánh trước đây nổi tiếng hiền hòa… Cả trong các bệnh viện, bệnh xá cũng xảy ra chém giết nhau… chỉ vì những chuyện không đâu, bé xé to!

Đâu đâu cũng nổi cộm những trò đâm chém giết hại nhau một cách dã man mà kẻ gây ác ung dung bộ mặt và tư thái máu lạnh, xem hành động của mình là chuyện… thường ngày ở huyện.

Trong một môi trường nhiễm độc từ thế hệ này sang thế hệ khác đã không được tẩy rửa mà còn được tán dương ca tụng, thì đừng ai thắc mắc nữa vì sao tuổi trẻ Việt Nam băng hoại đến thê thảm, vì sao giáo dục Việt Nam hiện nay tiếp tục chôn vùi mục tiêu ĐỨC DỤC!

Lẽ nào, chúng ta, những người Việt Nam còn quan tâm tới tiền đồ quốc gia dân tộc, lại cứ mãi cam chịu cái tài “trồng người” của “Bác” ấy với những trò tuyên dương dũng sĩ, hồ đồ kích động bạo lực (kể cả dựng chuyện láo khoét như chuyện dũng sĩ Lê Văn Tám, tẩm xăng làm đuốc sống diệt giặc…), mặc kệ nó tung hoành “tỏa sáng” thói hung hăng tàn bạo khắp đất nước VN, tiếp tục biến con người thành ác thú?

Trò úp mở “vì sao cái ác trỗi dậy”

Vừa viết xong bài này, chúng tôi bất ngờ đọc thấy bài Báo động bạo lực gia đình bùng phát: Vì sao cái ác trỗi dậy? của hai tác giả Dương Lê – Thanh Hà trên báo Tiền Phong của CSVN, ngày 19/9/2019.

Bài báo nêu rõ: “Một phần nguyên nhân dẫn đến các vụ bạo lực gia đình, thậm chí án mạng là do đạo đức suy đồi, phần khác bắt nguồn từ sự thờ ơ của các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội.”

Tác giả bài báo đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể như: Xuất phát từ mâu thuẫn đất đai không được giải quyết triệt để, sáng 1/9/2019, ông Nguyễn Văn Đông (SN 1966, trú xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội) vác dao bầu sang truy sát cả gia đình người em ruột là Nguyễn Văn Hải (SN 1969, ở sát nhà Đông). Hậu quả, ông Hải cùng vợ và 2 người khác tử vong, trong đó có cháu bé 14 tháng tuổi….

Lại chiều tối 14/9/2019, ông Bùi Xuân Hồng (TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) tới nhà em gái là Bùi Thị Hà (cũng tại TP Thái Nguyên) để đòi món nợ 3,6 tỷ đồng… Không đòi được tiền do cô em lại hẹn, ông Hồng rút dao đâm Nguyễn Thành Vương (SN 1981, con rể bà Hà) gục tại chỗ. Thấy con rể bị tấn công, bà Hà cùng chồng là Nguyễn Văn Thành (SN 1954) lao vào ngăn cản và bị ông Hồng dùng dao đâm. Vợ chồng bà Hà tử vong, anh Vương nhập viện.

Bài báo quả quyết: “Ngoài tranh chấp tài sản, người trong gia đình còn có thể lấy mạng nhau chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt…” mà nguyên nhân chính là do “Ðạo đức xuống cấp”. Trong khi Thượng tá CA CSVN Nguyễn Xuân Hùng, nguyên Đội trưởng Đội Thanh tra Pháp luật, PC01 – Công an Hà Nội, thì lại cho rằng, nguyên nhân còn là sự thờ ơ của các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội.

Ông Hùng nói: “Thậm chí là do sự thiếu chủ động và kém hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan chức năng nên khi con người rơi vào hoàn cảnh bế tắc trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn về tiền bạc, tài sản… thì dẫn đến những hành động mất nhân tính”.

Ông Hùng quả quyết: Sự thiếu nghiêm khắc, xuê xoa, hời hợt trong xử lý các hành vi vi phạm… cũng là mầm mống dẫn đến những mâu thuẫn, hành vi vi phạm pháp luật”.

Tiếc thay! Tờ Tiền Phong cũng như tác giả bài “Vì sao cái ác trỗi dậy” không dám nhìn thẳng, nhìn sâu vào nguyên nhân cốt lỏi “vì sao cái ác trỗi dậy” như chúng tôi đã chỉ ra ở trên.

Một vài di sản đình đám khác của Hồ Chí Minh, xin hẹn sẽ tiếp tục phơi bày.

Báo động bạo lực gia đình bùng phát: Vì sao cái ác trỗi dậy?

19/09/2019 - tienphong

Đối tượng Nguyễn Văn Đông (trái) và Bùi Xuân Hồng

TP - Theo nhiều chuyên gia, một phần nguyên nhân dẫn đến các vụ bạo lực gia đình, thậm chí án mạng là do đạo đức  suy đồi, phần khác bắt nguồn từ sự thờ ơ của các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội.

Xuất phát từ mâu thuẫn đất đai không được giải quyết triệt để, sáng 1/9, ông Nguyễn Văn Đông (SN 1966, trú xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội) vác dao bầu sang truy sát cả gia đình người em ruột là Nguyễn Văn Hải (SN 1969, ở sát nhà Đông). Hậu quả, ông Hải cùng vợ và 2 người khác tử vong, trong đó có cháu bé 14 tháng tuổi. Theo lời khai ban đầu, Đông định chỉ chém em dâu và cháu ruột là Doãn Thị Việt (SN 1971) và Nguyễn Văn Hiệp (SN 1993) nhưng do không kiềm chế được bản thân nên đã gây ra vụ thảm án. Đông định tự tử nhưng không thành.

Chiều tối 14/9, ông Bùi Xuân Hồng (SN 1958, trú tại phường Thịnh Đán, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) đi xe đạp tới nhà em gái là Bùi Thị Hà (SN 1959, ở phường Chùa Hang, TP Thái Nguyên) để đòi món nợ 3,6 tỷ đồng. Khi rời nhà, ông này mang theo dao nhọn trong túi quần, dao bầu, súng có 3 viên đạn và chai xăng cất trong bao đựng vợt cầu lông. Trong lúc nói chuyện, ông Hồng bất ngờ rút dao đâm Nguyễn Thành Vương (SN 1981, con rể bà Hà) gục tại chỗ. Thấy con rể bị tấn công, bà Hà cùng chồng là Nguyễn Văn Thành (SN 1954) lao vào ngăn cản và bị ông Hồng dùng dao đâm. Hậu quả, vợ chồng bà Hà tử vong, anh Vương nhập viện.

Ngoài tranh chấp tài sản, người trong gia đình còn có thể  lấy mạng nhau chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt. Chỉ vì bất đồng quan điểm trong việc mang điếu cày lên chùa cúng 49 ngày cho bố, hai anh em Nghiêm Văn Thắng (27 tuổi ở Thái Bình) và Nghiêm Văn Thành (20 tuổi) xảy ra cãi vã, đánh nhau. Trong lúc nóng giận, Thành lấy dao đâm chết anh mình.

Chỉ vì vợ di chuyển tivi trong phòng khách sang phòng ngủ mà Nguyễn Xuân Vinh (SN 1987, ở Hà Nội từng là người dạy võ) đã thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với vợ, trong khi cô này đang bế con nhỏ hai tháng tuổi. Chưa dừng lại đó, Vinh liên tục nhắn tin đe dọa, đòi đốt cả gia đình vợ. Theo lời nạn nhân, đây không phải lần đầu tiên hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn.

Ðạo đức xuống cấp…

Trung tá - TS Hà Thị Hồng Lan - PGĐ Trung tâm Nghiên cứu tội phạm học và Điều tra tội phạm trực thuộc Viện Khoa học Cảnh sát - Học viện Cảnh sát nhân dân, nhận định nhiều vụ án xảy ra không hẳn do bộc phát mà do mâu thuẫn âm ỉ từ lâu, khi tới đỉnh điểm mà không được giải quyết thì biến thành hành động dã man, bất chấp luân thường đạo lý, quy định của pháp luật.

“Những vụ việc trên phản ánh thực tế hiện nay đạo đức xã hội đang bị xuống cấp ở một bộ phận nhất định. Sự xuống cấp này bắt nguồn từ nhận thức còn hạn chế, không có kiến thức, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống. Thêm vào đó, một phần tác động của cuộc sống thực dụng, đạo đức tình cảm bị lu mờ, nhường chỗ cho lối sống thực dụng, vì vật chất, tiền bạc, sẵn sàng phủ nhận đạo đức, tình cảm gia đình cũng như lề lối phong tục tập quán, tình nghĩa yêu thương của gia đình từ trước đến nay”, TS Lan nói.

Theo TS Lan có vụ án xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân - những người có lối hành xử không đúng, hoặc có kỹ năng ứng xử trong gia đình rất yếu dẫn đến nhận thức lệch lạc về pháp luật, cuộc sống...

Thượng tá Nguyễn Xuân Hùng, nguyên Đội trưởng Đội Thanh tra Pháp luật, PC01 - Công an Hà Nội, cho rằng,  nguyên nhân còn là sự thờ ơ của các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội. Như trong vụ án xảy tại Đan Phượng, mâu thuẫn giữa hung thủ và gia đình em trai đã âm ỉ từ lâu, họ từng đưa nhau lên chính quyền giải quyết, nếu những thành viên trong gia đình và chính quyền địa phương quan tâm, tìm cách hoà giải hiệu quả hơn thì liệu có xảy ra vụ án thương tâm đến vậy?

“Thậm chí là do sự thiếu chủ động và kém hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan chức năng nên khi con người rơi vào hoàn cảnh bế tắc trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn về tiền bạc, tài sản… mà dẫn đến những hành động mất nhân tính”, ông Hùng nói.

Trong vụ việc người chồng đánh vợ dã man trước mặt con tại Long Biên (Hà Nội) vừa qua, TS Lan cho rằng, hành vi của người cha cho thấy nhận thức của họ rất hạn chế, thể hiện lối sống  ích kỉ, không nghĩ đến con trẻ.

Bố mẹ chính là tấm gương để trẻ soi vào và môi trường gia đình là nơi đầu tiên đứa trẻ tiếp cận, hằn sâu vào trong tâm trí trẻ suốt đời. Nếu những vụ việc như vậy cứ tiếp diễn trong thời gian dài rất dễ hình thành những phẩm chất, suy nghĩ tiêu cực của trẻ vì môi trường tác động đến tâm lý, tình cảm đầu tiên đến trẻ là gia đình.

“Sự thiếu nghiêm khắc, xuê xoa, hời hợt trong xử lý các hành vi vi phạm như vụ võ sư đánh vợ cũng là mầm mống dẫn đến những mâu thuẫn, hành vi vi phạm pháp luật” , ông Hùng nhận định.

Đầu trang

10/04/2021 - baotiengdan

Hội chứng đám đông

Phạm Đình Trọng
10-4-2021

MỘT. Loài người đã bước vào nền văn minh tin học huy hoàng, tức là đã đi qua nền văn minh công nghiệp sáng lạn.

Vai trò lịch sử của văn minh công nghiệp không phải là những phát minh khoa học vĩ đại, cũng không phải là những kĩ thuật công nghệ kì diệu. Vai trò lịch sử của văn minh công nghiệp là tách con người ra khỏi bầy đàn thành những cá nhân, là khẳng định sự có mặt của những cá nhân trong cuộc đời. Và vai trò lịch sử của văn minh tin học là nâng những cá nhân đó lên tầm vũ trụ.

Xã hội trước tư bản công nghiệp, con người hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, sống nhờ vào thiên nhiên. Mỗi con người riêng lẻ quá nhỏ bé trước sức mạnh thần linh bí hiểm của thiên nhiên. Sấm sét. Giông tố. Bão bùng. Lũ lụt. Những con người bé nhỏ phải tìm sức mạnh, tìm sự tồn tại trong bầy đàn, trong số đông.

Chỉ có số rất ít tách ra khỏi bầy đàn, có vị thế cao hơn bầy đàn, có vai trò dẫn dắt bầy đàn. Đó là những tù trưởng, chủ nô, vua chúa. Chỉ tù trưởng, chủ nô, vua chúa mới có cá nhân. Tù trưởng, chủ nô, vua chúa được thể hiện quyền uy, được thể hiện cái Tôi của mình bằng qui định, luật lệ, phép tắc sai khiến đám đông, thâu tóm xã hội, được đòi hỏi bề tôi phải răm rắp phục tùng. Khổng Tử, con đẻ của xã hội phong kiến Trung Hoa chia giống người ra làm hai loại là quân tử và tiểu nhân. Quân tử là người biết chữ thánh hiền, biết phép tắc xã hội, biết đạo lí làm người, răn dạy số đông, răn dạy tiểu nhân. Quân tử là những cá nhân có tên tuổi đã tách ra khỏi bầy đàn. Tiểu nhân là những con người chưa có khuôn mặt riêng, còn lẫn lộn trong bầy đàn vô danh.

Không có cá nhân nên trong xã hội không có quan hệ cá nhân với cá nhân, không có quan hệ bình đẳng con người với con người. Chỉ có quan hệ trên và dưới. Trên ban phát và dưới hàm ơn. Đám đông hàm ơn luôn cần được chỉ bảo, dẫn dắt, noi theo. Vì vậy đám đông luôn cần có minh quân cai trị và cần có thần tượng tôn thờ. Đó là xã hội thần dân. Thần phục người cai trị, hàm ơn người ban phát, sùng bái người có danh là tâm lí tự nhiên, là nhu cầu văn hoá, tinh thần của đám đông vô danh.

Thời bầy đàn, văn học chỉ có anh hùng ca, ca ngợi những người hùng dẫn dắt bầy đàn chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng các bầy đàn khác. Nhân vật anh hùng ca không có cá tính, không có tính cách tầm thường, dung tục của những con người bình thường mà chỉ có những phẩm chất cao thượng, những đức tính phi thường tiêu biểu cho phẩm chất, đức tính tốt đẹp của cộng đồng mà nhân vật anh hùng ca đại diện. Không gian trong anh hùng ca là không gian linh thiêng tôn giáo. Mối quan hệ trong anh hùng ca là mối quan hệ thần thánh, không có mối quan hệ suồng sã của những con người thường, của cuộc đời thực.

HAI. Triết học khai sáng thế kỉ 18 giúp con người mở bừng mắt nhìn vào thế giới tự nhiên và nhìn vào xã hội loài người. Nhìn vào tự nhiên, khám phá tự nhiên, con người tạo ra liên tiếp những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mang lại sức sống mạnh mẽ cho loài người và mang lại sức mạnh phi thường cho từng con người. Nhìn vào xã hội, con người có sức mạnh, có ánh sáng của trí tuệ bừng bừng nộ khí trước bất công xã hội, trước bất bình đẳng giữa con người, giữa vài cá nhân cai trị với bầy đàn bị trị. Cách mạng tư sản dân quyền là sự nổi dậy của những cá nhân trong bầy đàn đòi cá nhân phải được nhìn nhận, đòi con người có mặt trong cuộc đời là những cá nhân, những cái Tôi riêng biệt chứ không phải là bầy đàn, không phải là số không.

Xã hội công nghiệp ra đời từ cách mạng khoa học kĩ thuật xác nhận vị trí của cá nhân trong xã hội. Nhà nước dân chủ tư sản ra đời từ cách mạng dân chủ dân quyền xác nhận vị trí cá nhân trong luật pháp nhà nước tư sản công nghiệp. Chỉ đến xã hội công nghiệp con người mới có mặt trong cuộc đời với tư cách cá nhân, tư cách công dân. Trước đó, con người chỉ là đám đông, là bầy đàn, là thần dân.

Văn học ghi nhận sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, viết về số phận những cá nhân với cuộc sống, tính cách của những con người bình thường là tiểu thuyết hiện đại với đủ độ dài ngắn. Trường thiên tiểu thuyết như truyện dài Bỉ Vỏ của nhà văn Nguyên Hồng, truyện dài Eugénie Grandet của nhà văn Pháp Honoré de Balzac, truyện dài Bố Già của nhà văn Mỹ Mario Puzo. Đoản thiên tiểu thuyết như truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Không còn mối quan hệ thần thánh giữa cá nhân cai trị ban phát và bầy đàn bị trị hàm ơn. Chỉ còn mối quan hệ bình đẳng, suồng sã giữa cá nhân với cá nhân, con người với con người. Không viết về chiến công, không viết về cái cao cả anh hùng, tiểu thuyết quan tâm khai thác góc khuất số phận những con người bình dị, quan tâm đến nỗi đau và niềm vui, yêu thương và căm ghét, cao thượng và hèn hạ của những cái Tôi. Không có cái Tôi trong cuộc đời thì không có tiểu thuyết hiện đại.

Cuối thế kỉ 18, cách mạng tư sản dân quyền mới nổ ra ở một số nước châu Âu, mở đầu sự kết thúc chế độ phong kiến trung cổ châu Âu. Đi trước thời đại hơn thế kỉ, từ đầu thế kỉ 17, nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Carvantes đã viết tiểu thuyết Don Quijote kể câu chuyện loài người giã từ xã hội phong kiến trung cổ bước sang xã hội mới dù đổ vỡ, mất mát nhưng đầy háo hức và hài hước.

Để rồi đến thế kỉ 19 cụ Mác mới nhận ra rằng loài người giã từ chế độ xã hội cũ đều với nụ cười châm biếm, hài hước.

Phát hiện của cụ Mác đúng cả với xã hội Việt Nam. Tiểu thuyết Số Đỏ của tài năng văn chương kiệt xuất Vũ Trọng Phụng đã phát hiện, ghi nhận nét hài hước, châm biếm, chất humour của xã hội Việt Nam từ văn minh làng xã ngưng đọng, trì trệ bước vào văn minh đô thị đầy biến động, đầy may rủi bất ngờ và cũng đầy bi hài.

Không phải chỉ ghi nhận cái Tôi trong xã hội công nghiệp. Xã hội công nghiệp đầy biến động bất ngờ. Với mẫn cảm nghệ sĩ của nhà văn, tiểu thuyết hiện đại còn là dự báo xã hội.

BA. Theo phân chia tiến trình lịch sử loài người của cụ Mác, xã hội loài người đi từ hang động cộng sản nguyên thuỷ, qua vật vã lam lũ nông nô, đến giấc ngủ ngàn năm trong đêm tối phong kiến âm thầm trung cổ, rồi mới vươn vai thức dây bước vào xã hội công nghiệp để hình thành giai cấp công nhân và giai cấp công nhân vĩ đại của cụ Mác sẽ đưa loài người bước lên đỉnh cao chói lọi là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản. Như vậy văn minh xã hội chủ nghĩa còn rực rỡ, còn cao hơn văn minh công nghiệp.

Nhưng thực tế nhà nước xã hội chủ nghĩa của đảng cộng sản cai trị người dân đã đưa quan hệ con người với con người thời công nghiệp trở về thời phong kiến trung cổ, chỉ người có quyền lực mới có cá nhân. Còn dân chúng chỉ là đám đông vô danh, chỉ là bầy đàn công cụ phải chịu sự chăn dắt, sử dụng của quyền lực.

Thời văn minh công nghiệp nhưng trong thể chế cộng sản không còn cá nhân, không còn mối quan hệ bình đẳng con người với con người. Chỉ còn bề trên và phận dưới. Chỉ còn ban phát và hàm ơn. Người có quyền hiện nguyên hình là chủ nô, là lãnh chúa được thần thánh hoá thành những con người siêu phàm, cao cả. Một kẻ vô danh lọt được vào hệ thống quyền lực, vừa ngồi lên ghế lãnh đạo nhà nước liền được báo chí thêu dệt thành bậc chí thánh, tuổi thơ nghèo khổ phải ngồi học dưới ánh sáng lập loè đom đóm mà thành tài! Những bần cố nông, cùng đinh dưới đáy xã hội trở thành lãnh đạo nhà nước cộng sản đều có tài xuất chúng, khác người như Thánh Gióng!

Quyền lực được thần thánh hoá để ngu dân, để tạo ra khoảng cách thần thánh giữa cá nhân có quyền và bầy đàn dân ngu. Quyền lực càng được thần thánh hoá, xã hội càng tăm tối ngu dân thì người dân càng an phận cam chịu. Dân cứ an phận cam chịu sự chăn dắt của bất kì quyền lực nào, dù là kẻ dẫn đắt mù quáng, dốt nát nhưng đã được thần thánh hoá cũng thành tài giỏi. Dù dân phải chịu những mất mát đau đớn, phải tham gia vào những tội ác man rợ nhưng vẫn phải biết ơn. Ơn đảng, ơn bác trở thành xiềng xích trong tiềm thức, trong tư duy, trở thành công cụ cai trị của nhà nước cộng sản.

Mọi lãnh đạo cộng sản đều trở thành những bậc thánh, thánh chết và cả thánh sống là vậy. Từ thánh Hồ Chí Minh, thánh Võ Nguyên Giáp, thánh Trần Đại Quang đã chễm chệ chiếm chỗ ngang hàng tượng Phật trong các chùa chiền, đến Bồ tát Đỗ Mười. Rồi thánh đầu bạc hiên ngang Nguyễn Phú Trọng. Các công thần dựng đảng Trần Phú, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh… không hiển thánh trong các chùa chiền thì cũng hiển thánh trong bảo tàng, nhà lưu niệm, lăng mộ bề thế, nguy nga hơn cả những cung điện, lăng tẩm vua nhà Nguyễn.

Giữa kỉ nguyên văn minh công nghiệp, Hiến pháp nhà nước cộng sản phải ghi đủ mọi quyền con người của người dân như Hiến pháp mọi nước dân chủ văn minh trên thế giới. Nhưng Quốc hội làm ra Hiến pháp cho người dân mọi quyền con người rồi Quốc hội lại hối hả nặn ra đủ các thứ luật vi Hiến tước đoạt hết mọi quyền của người dân ghi trong hiến pháp. Luật đất đai tước quyền tư hữu mảnh đất sống. Luật bầu cử tước quyền bầu cử, ứng cử. Luật báo chí, luật an ninh mạng, luật tố tụng hình sự… tước đoạt sạch sành sanh các quyền khác.

Hiến pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân nhưng người dân bộc lộ chính kiến trên mạng xã hội không cùng chính kiến với chính thống liền bị khép vào điều 117 luật tố tụng hình sự: làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước! Còn gì quái gở hơn khi nhà nước làm ra luật mẹ cho người dân quyền, lại làm ra luật con buộc tội người dân thực thi quyền đó là phạm pháp!

Người dân không còn cá nhân thì đương nhiên lại trở về bầy đàn. Con người không có quyền công dân làm chủ đất nước thì lại trở về thân phận thần dân, làm công cụ của quyền lực. Với tư cách công dân làm chủ đất nước, người dân biểu tình bày tỏ chính kiến trước những vấn đề hệ trọng của đất nước thì hệ thống truyền thông ra rả “Mọi việc đã có đảng và nhà nước lo”, phủ nhận trắng trợn con người công dân của người dân. Còn công an thì thẳng tay quật dùi cui, dí roi điện, tung chân đá, thoi nắm đấm vào mặt người dân biểu tình. Ra đòn đánh nhừ tử thân xác người dân, công an nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng đánh tơi tả, đánh rách nát Hiến pháp ghi nhận quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, biến Hiến pháp thành mớ giấy lộn.

BỐN. Xã hội không còn cá nhân. Quyền lực trở thành thần thánh. Người dân dù là nhà khoa học, trí thức, nghệ sĩ cũng chỉ là những thân phận nhỏ bé, hèn kém, vô nghĩa trong bầy đàn. Và cuộc sống hàng ngày đầy rẫy hội chứng đám đông.

Thời đau đớn giống nòi, dân bị dìm trong biển máu và nước mắt, trong chất ngất oan khiên. Nhưng ông nhà thơ không nguyện nói nỗi đau của một thời lịch sử, không nói nỗi khắc khoải của dân mà ông chỉ nguyện làm con chim hót quanh lăng mộ một ông thánh cộng sản: Mai về miền Nam thương trào nước mắt/Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác!

Ông giáo sư, tiến sĩ, viện trưởng một viện y học danh giá đứng giữa hội trường Diên Hồng toà nhà Quốc hội nỉ non hót ca ngợi ông thánh cộng sản đầu bạc hiên ngang Nguyễn Phú Trọng. Không có cá nhân, tâm thế bầy đàn, tâm thế tôi tớ, ông giáo sư tiến sĩ dù đã được phong anh hùng vẫn chưa thoát khỏi đám đông bầy đàn, vẫn chỉ là thần dân, thần thánh hoá quyền lực. Lời nhục nhã tâng bốc quyền lực, ngợi ca quyền lực của ông giáo sư nghị sĩ đã làm ô uế lâu đài mang tên Diên Hồng, làm nhục nhã dân tộc đã từng lừng lững khí phách Diên Hồng viết lên những trang vàng son lịch sử.

Xã hội Việt bước vào văn minh đô thị, cá nhân đươc nhìn nhận. Cái Tôi của cuộc đời đi vào văn chương đã tạo nên thành tưu rực rỡ của văn học Việt Nam với những tên sách, tên người mãi mãi sáng chói trong văn học sử Việt Nam. Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết Số Đỏ. Nguyên Hồng với tiểu thuyết Bỉ Vỏ, Nguyễn Tuân với những trang bút kí lấp lánh cái Tôi cá nhân lịch lãm, sang trọng. Khái Hưng, Nhất Linh với những truyện tình phố huyện ghi nhận, phản ánh đúng cái Tôi lớp thị dân tiểu tư sản vừa hình thành. Vì vậy Khái Hưng, Nhất Linh không chỉ viết văn mà các ông còn viết lịch sử xã hội Việt Nam. Với tổ chức Tự Lực Văn Đoàn của Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Trần Tiêu… lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, văn chương của người dân được tổ chức thành đội ngũ, thành lực lượng, tham gia vào đời sống văn hoá đất nước, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử.

Trên đường đi đến văn minh công nghiệp, văn minh đô thị, xã hội Việt Nam vừa đến phố huyện thì bão táp cách mạng vô sản nổi lên. Những người cộng sản nắm chính quyền nhà nước ở nửa nước rồi cả nước, xoá bỏ cá nhân, đưa xã hội về bầy đàn, về phong kiến trung cổ.

Trong khi Bắc Việt Nam cộng sản, văn học lại là ngôi đền vàng son thờ những vị thánh cộng sản từ lớn đến nhỏ, lại là anh hùng ca, ca ngợi cuộc nội chiến đẫm máu người Việt giết người Việt: Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Ca ngợi người lính náo nức đi vào cái chết vì lí tưởng thống trị cả nước của đảng cộng sản. Ca ngợi người mẹ ham chiến vì lí tưởng thâu tóm cả giang sơn của những người cộng sản đến bỏ cả bầy con lít nhít tự trông nhau, mẹ ôm súng xông trận. Ca ngợi người Việt giết người Việt đến mức, đàn bà cũng máu lửa chỉ còn cái lai quần cũng đánh!

Những tập sách Hòn Đất của Anh Đức, Dấu Chân Người Lính của Nguyễn Minh Châu, Mặt Trận Trên Cao của Nguyễn Đình Thi, cả đến Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi của Nguyễn Tuân đều là anh hùng ca, thần thánh hoá con người thời cộng sản của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Văn học là phát hiện tính Người, đề cao tính Người. Tính Người cao nhất là yêu thương. Ca ngợi máu đổ, ca ngợi chiến tranh bắn giết con người thì không thể là văn học đích thực của thời văn minh công nghiệp, thời cá nhân với khát vọng sống, khát vọng thể hiện mình đã có mặt trong cuộc đời. Đó chỉ là anh hùng ca của thời trung cổ, thời những người hùng phi thường như thần thánh dẫn dắt bầy đàn vào những cuộc chiến tranh liên miên thể hiện quyền uy và tham vọng của những thủ lĩnh đám đông.

Trong khi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa mê mải lạc lõng viết anh hùng ca thời bầy đàn thì Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với những truyện ngắn viết về cái Tôi tầm thường. Không có anh hùng. Không có thần thánh. Chỉ có những con người bình thường đến tầm thương với những góc khuất cá nhân, có khi hèn hạ, có khi tội lỗi. Đó là con người thực của cuộc đời. Cả những danh nhân, nhân vật lịch sử như Nguyễn Du, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh có khát vọng cao cả nhưng cũng có cả dục vọng tầm thường. Có sự nghiệp anh hùng nhưng cũng có cái Tôi của đời thường. Lịch sử viết về con người anh hùng. Văn chương phải viết về con người đời thường của những anh hùng, danh nhân đó. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chính là văn chương đích thực của văn minh công nghiệp, văn minh của cái Tôi cá nhân.

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã làm cả giới nhà văn Việt Nam giật mình ngỡ ngàng, sửng sốt nhìn lại mình. Công lớn nhất của Nguyễn Huy Thiệp là đánh thức cả nền văn học đang mộng mị, lạc lõng, mê mải viết anh hùng ca biết dừng lại và trở về thời của mình, trở về chức phận đích thực của nhà văn. Chỉ vậy thôi.

Nhưng khi Nguyễn Huy Thiệp mất, giới văn học nghệ thuật cả nước lại thành đám đông lảo đảo lên đồng, lảm nhảm tụng niệm, không tiếc lời thần thánh hoá Nguyễn Huy Thiệp. Đánh giá về một tên tuổi là trung thực chỉ ra đúng mức đóng góp của tên tuổi đó. Đưa giá trị lên quá mức, thần thánh hoá giá trị là không nhìn ra giá trị thật và làm hại giá trị đó. Năm 1956 – 1957 hội chứng đám đông xúm lại đấm đá, bóp cổ, đạp xuống bùn đen các nhà văn bị vu tội Nhân Văn Giai Phẩm. Nửa thế kỉ sau, năm 2021, hội chứng đám đông lại gọi nhau tụng ca Nguyễn Huy Thiệp, làm hại Nguyễn Huy Thiệp. Chưa có cái Tôi thật chững chạc, chưa có ý thức cá nhân thật mạnh mẽ thì hội chứng đám đông còn diễn ra.

Một bài viết gượng gạo về bạo lực xã hội, không có gì mới và lí giải về nguyên cớ bạo lực cũng không đúng, lí giải chỉ nhằm làm lạc hướng nhìn nhận, đánh giá của người đọc, che giấu, lấp liếm, bảo vệ nguồn gốc thực sự của bạo lực. Gượng gạo về lí lẽ, đánh lạc hướng người đọc về cội nguồn bạo lực, nếu bài viết của hạng thứ dân sẽ chìm nghỉm vô tăm tích. Hội chứng đám đông ở đây là người viết là con trai của một vị thánh cộng sản liền được một người thường la cà với giới quyền lực hú lên, thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Thế là lại lao xao, ồn ào bình loạn.

Bên cạnh nhà nước khổng lồ liên tục mang sức mạnh binh đao của đội quân thiện chiến thôn tính lân bang, dân tộc Việt Nam bé nhỏ tồn tại được chỉ nhờ biết thương yêu, đùm bọc dân tộc. Ca dao dân ca về lòng yêu thương chiếm phần lớn trong kho tàng đồ sộ ca dao dân ca Việt Nam. Bản chất người dân Việt Nam rất xa lạ với bạo lực. Bạo lực trong xã hội Việt Nam chỉ có trong thời cộng sản. Bạo lực tràn lan trong xã hội ngày nay đâu phải từ dân mà bảo dân phải thức tỉnh.

Nhà nước cộng sản thâu tóm quyền lực bằng bạo lực. Nòng súng đẻ ra chính quyền. Nhà nước cộng sản càng mở rộng không gian thống trị, càng kéo dài thời gian cai trị càng phải thi thố bạo lực, càng phải lạm phát bạo lực. Lạm phát bạo lực từ Xô Việt Nghệ Tĩnh 1930, Trí Phú Địa Hào đào tận gốc, trốc tận rễ. Đến lạm phát bạo lực trong trận ba ngàn cảnh sát cơ động đánh úp thôn Hoành làng Đồng Tâm nhỏ bé, bình yên, xả súng vào buồng ngủ nhà dân đêm 9.1.2020. Những đợt sóng bạo lực nhà nước cộng sản trút xuống đầu dân lành khủng khiếp nhất , man rợ nhất là cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét lại hiện đại và đẫm máu nhất là phát động bạo lực chiến tranh người Việt giết người Việt để cộng sản hoá cả dải đất Việt Nam.

Bạo lực Nhân Văn Giai Phẩm, Xét lại hiện đại diễn ra dưới thời ai là Bí thư thứ nhất đảng cộng sản? Ai là người thảo Nghị quyết 15 sử dụng bạo lực xoá sổ nhà nước Việt Nam Cộng Hoà. Ai quyết liệt thực hiện bằng được cuộc bạo lực đẫm máu tết Mậu Thân 1968, đưa chiến tranh vào thành phố, vào tận giường ngủ nhà dân. Hàng ngàn dân Sài Gòn chết giữa hai làn đạn. Hàng ngàn dân Huế bị những người từ rừng về thủ tiêu.

Không phải chỉ bạo lực bằng sức mạnh vật thể. Người dân còn chịu muôn vàn bạo lực tinh thần từ nhà nước cộng sản. Toà án xử oan sai diễn ra tràn lan. Dân bị chính quyền đỏ và tư bản đen cướp đất diễn ra khắp mọi làng quê. Bạo lực vật thể và bạo lực tinh thần nhà nước cộng sản trút xuống người dân. Người dân dồn nén uất ức, căng thẳng stress nhưng không thể trút trả bạo lực lại với nhà nước đành dồn nén trong lòng. Nỗi oan ức dồn nén làm cho con người mất bình tĩnh, mất tỉnh táo và trở thành hung bạo. Một sự cố nhỏ chợt đến. Sự dồn nén bật tung. Hung bạo xổ ra. Cả nước là dân oan. Cả nước dồn nén chịu đựng. Bạo lực diễn ra hàng ngày trên cả nước là tất yếu.

Nhà nước nào cũng là khuôn mẫu của xã hội. Nhà nước ứng xử với dân bằng bạo lực làm sao xã hội không bạo lực. Vì vậy nhà nước phải thức tỉnh. Đừng coi dân là thế lực thù địch rồi quyết thắng dân bằng bạo lực. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Lời Nguyễn Trãi, lời cha ông, lời lịch sử, lời chân lí muôn đời đó.

Đầu trang